Năm 1992, trước khi rời Sài Gòn về sống hẳn ở Bến
Tre, nhà văn Trang Thế Hy viết một bài báo có tên Đề cương cho một bài giã từ,
hoài nhớ về những năm tháng gắn bó với Sài Gòn - TP. HCM.
Nhà văn Trang Thế Hy
bên bàn viết - Ảnh: L.Điền
Theo lời kể của ông, tính từ lần đầu tiên năm 13 tuổi theo
cha lên thăm hai người bà con ở xóm nghèo gần chợ Nancy và vùng ngã ba Cây Quéo
cho đến ngày “đi chỗ khác chơi”, ông đã có bốn lần hội ngộ với thành phố này.
Bỏ học dở dang ở Mỹ Tho, ông lên Sài Gòn làm nhân viên kiểm
vé xe điện trên tuyến đường Sài Gòn - Chợ Lớn, rồi tìm đến vùng đất đỏ miền
Đông làm kế toán cho đồn điền cao su ở Bến Củi (Tây Ninh), trải qua những ngày
“ăn ớt hiểm và uống ký ninh để chống đỡ với sốt rét”, trước khi trở về quê tham
gia kháng chiến chống Pháp.
Cuối năm 1956, bị truy lùng gắt gao, ông lại lên sống ở Sài
Gòn sáu năm, trong đó có hai năm bị bắt giam trong khám. Tiếp theo là 12 năm
gian khổ ở bưng biền chờ ngày tái ngộ với Sài Gòn sau năm 1975.
Trang Thế Hy nhẩm tính vậy là cuộc đời ông có một phần tư thế
kỷ gắn bó với thành phố này. Thật ra nếu tính gộp vào đó những năm tháng ông trải
qua trên đất thép Củ Chi, thì hơn một phần ba cuộc đời ông đã hiến dâng cho mảnh
đất nơi đây.
Và điều quan trọng hơn nữa, hầu hết tác phẩm đặc sắc nhất của
Trang Thế Hy - từ những truyện ngắn đầu tiên trên báo Nhân Loại, sau được
tập hợp trong Nắng đẹp miền quê ngoại, đến những tác phẩm được Nhà xuất bản
Trẻ in lại gần đây - đều đã được thai nghén và hình thành ở Sài Gòn - TP.HCM.
Nhưng Trang Thế Hy đâu phải là nhà văn của một vùng đất.
Trang văn của ông đã chạm đến những gì sâu kín nhất của cõi người và tìm được sự
đồng cảm nơi những độc giả khác nhau về khuynh hướng tư tưởng và thị hiếu nghệ
thuật.
Một nhà phê bình kỹ tính ở miền Bắc như Vương Trí Nhàn, khi
đưa ra những dẫn chứng về chất nghệ thuật và tính hiện đại trong văn xuôi, đã
không ngần ngại trích dẫn Trang Thế Hy. Một giáo sư văn học hàn lâm như Phùng
Văn Tửu, trong công trình Tiểu thuyết trên đường đổi mới nghệ thuật, đã
phân tích nghệ thuật kể chuyện độc đáo của Trang Thế Hy và in chân dung ông bên
những nhà văn nổi tiếng khác.
Những người yêu văn Trang Thế Hy đôi lúc không khỏi tiếc rẻ:
giá như sức khỏe và cuộc sống lận đận không cản trở để ông viết nhiều hơn nữa.
Nhưng biết làm sao được, mỗi nhà văn giải bài toán số lượng và chất lượng theo
cách của riêng mình. Với Trang Thế Hy, “cái gì mình không yêu mến hay chưa kịp
yêu mến thì đừng giả bộ yêu mến nó”.
Mặc dù có lúc băn khoăn về sứ mệnh “bào chế thuốc giảm đau” của
văn chương, tác phẩm của ông vẫn là một nguồn an ủi tinh thần quý giá dành cho
bạn đọc. Hơn 20 năm trước, gửi tặng tôi cuốn Tiếng khóc và tiếng hát, ông
viết: “Cái tập truyện của tôi là một thứ ớt cay dầm trong bữa ăn, nhà phê bình
đừng dầm cho nó cay thêm nữa”.
Tôi hiểu ông: đắng cay là vị của cuộc đời; nhưng người ta chỉ
có một cuộc đời để sống, đâu có thể sống mãi với vị đắng cay. Tập thơ song ngữ
của ông có nhan đề Đắng và ngọt là những chiêm nghiệm cuối đời của một
nhà văn lịch lãm.
Không có gì nghi ngờ rằng tác phẩm của Trang Thế Hy sẽ chịu
được thử thách của thời gian và độc giả sẽ còn đọc lại những dòng văn giàu cảm
xúc và suy tưởng của ông.
Những năm tháng cuối đời, trong căn nhà bên một con lộ nhỏ ở
ngõ vào thành phố Bến Tre, đêm đêm Trang Thế Hy nghe tiếng thời gian qua những
chiếc lá dừa khô rụng ngoài vườn.
Chắc có lúc ông nhớ đến tiếng rền u u độc điệu gây buồn ngủ của
nhà đèn Chợ Quán, tiếng chuông xe điện leng keng trên đại lộ Galliéni, tiếng cười
nói ồn ào trước chung cư Nam Kỳ Khởi Nghĩa nơi cái thành phố đã mở cánh cửa văn
chương cho ông nhìn ra thế giới.
Nhưng thế giới của ông bây giờ thu lại trong những suy tưởng
miên man về phận người và đời văn: Đêm nay mực chảy thành thơ/ Giữa tiếng
cười man dại/ Tôi ngồi một mình trong bóng tối/ Thách tất cả gông cùm trên thế
giới/ Làm sao xiềng đôi cánh của tình thương.
Đêm qua Trang Thế Hy ra đi trong tiếng lá dừa rơi…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét