Đêm 30/3/2011, khoa Viết Văn đã tổ chức đêm nhạc tưởng
nhớ 10 năm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trở về cát bụi (2001-2011) mang tên “Cho đời
chút ơn”.
Sân khấu
chương trình được bày biện giản dị nhưng ấm áp. Nến được thắp làm điểm nhấn ánh
sáng chính. Chân dung Trịnh Công Sơn, các bìa tập nhạc từng làm nên tên tuổi nhạc
sĩ như Ca khúc da vàng, Kinh Việt Nam, Như cánh vạc bay, Tự tình khúc, Khói trời
mênh mông, Phụ khúc Da vàng…được lồng vào các khung tranh tạo sự bất ngờ và liền
đó là nét hoài niệm về một quá vãng tưởng đã pha phôi. Một góc sân khấu dành để
đặt rượu và lạc rang, thức uống thức nhắm ấy làm bồng bềnh thêm những giai điệu.
Mười
năm Trịnh Công Sơn trở về cát bụi là mười năm người đời không ngừng hát nhạc của
ông. Đêm nhạc bắt đầu với lời tự sự như thế. Người ta hát nhạc ông ở khắp nơi,
từ Paris, London, Toronto hay ở những cánh rừng già Brasil,
bên bờ biển La Haye… Nhạc Trịnh đã luôn hiện hữu để cuộc đời nhiều người tự thấy
mình đã/đang cưu mang chút ơn trong từng lần lật thời gian. Cho đời chút ơn, có
lẽ, là cách nói nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về âm nhạc Trịnh Công Sơn.
Âm
nhạc Trịnh Công Sơn có chừng 40 năm hành trình. Khoa Viết Văn đã tái hiện lại
hành trình đó qua việc trình chiếu các slides. Đầu tiên là giai đoạn 1958 -1965
khi Trịnh viết, chủ yếu, là các tình khúc. Trùng với tuổi trẻ và tình yêu, mà rất
nhiều những cảm xúc nồng nàn tinh khiết ấy, đã liên tục xuất hiện trong các hồi
ức của Trịnh về sau, 1958-1965 là không – năm – tháng của những Ướt mi, Diễm
xưa, Phôi pha, Biển nhớ, Nắng thủy tinh, Hạ trắng, Còn tuổi nào cho em, Như
cánh vạc bay… Mỗi tình khúc một tích tình. Nhưng con chữ và giai điệu
của nó thì là gia hệ muôn lớp xuân thì. Nên những huyền thoại không ngừng được
sắp đặt, để thỏa mãn, ngay từ đầu, trí tò mò của kẻ đồng điệu. Giai đoạn thứ
hai, 1965-1975, là mười năm thăng hoa nhất trong cuộc đời Trịnh Công Sơn. Từ
năm 1965, bỏ hẳn vùng cao nguyên Lâm Đồng, ông về Saigon, một đô thị phồn hoa
nhưng đang rất nhiều biến động lúc bấy giờ, để cùng với Khánh Ly tạo nên một hiện
tượng âm nhạc vô tiền khoáng hậu – âm nhạc đường phố và ca khúc phản chiến. Phản
chiến, từ việc chỉ hành động xã hội, đã trở thành một thuật ngữ thể loại nghệ
thuật và với riêng Trịnh Công Sơn, nó bao hàm di sản âm nhạc được lan truyền và
có sức ảnh hưởng lớn lao nhất, không chỉ ở Saigon lúc đó, mà còn ở Nhật Bản,
Pháp, Anh… Vươn tới siêu thực nhờ tính chất hiện thực được rọi chiếu bởi cảm
quan hiện sinh, nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn gần hơn bao giờ hết những tiếng
nói nghệ thuật phản chiến của nhân loại, từ P. Picasso đến Bob Dylan. Về sau,
khi tình thế đổi khác, những Người con gái Việt Nam, Gia tài của mẹ, Người
già em bé, Đại bác ru đêm, Tình ca của người mất trí…dù không được biểu diễn
công khai, thì trong những trường hợp cần thiết, khi nói về sự bi đát và đau khổ
do chiến tranh gây ra, vào năm 2006, Hát trên những xác người vẫn
khiến người Hàn Quốc khóc sụt sùi. Giai đoạn thứ ba, thập niên ’80 và ’90, nhạc
Trịnh nghiêng về thái cực Lặng lẽ nơi này và Tiến thoái lưỡng
nan. Kể từ Em còn nhớ hay em đã quên có đôi lúc đẩy ông vào tình thế
phải phân trần khó khăn, thậm chí Nhớ mùa thu Hà Nội đã chịu hệ lụy,
thì chỉ Huyền thoại mẹ, Hai mươi mùa nắng lạ là giúp ông Tôi
ơi đừng tuyệt vọng.
Cuộc gặp gỡ với giọng ca Hồng Nhung thâp niên ’90 đã cho
ông nhiều cảm xúc tươi mới khiến Thuở bống là người có duyên thêm với Đồng
dao 2000. Có lẽ, cũng như những ai từng dũng cảm nhận món quà số phận vốn dè sẻn
với đám đông, ông đã trở về với cội nguồn dân tộc mình, từ cái bống cái bang đến
đồng dao. Nên ông mới bình thản và hồn nhiên đến thế, trong Tình khúc Ơ
bai, Ru tình, Hoa xuân ca…
Nhà văn DiLi hóa thân vào Phôi pha
Chủ
động tạo một không gian tương tự Quán Văn những năm ’60, đêm nhạc không có khoảng
cách giữa người hát và người nghe. Vừa nghe vừa hát và hát như bấy lâu vẫn từng
hát. Đấy là cách duy nhất để biểu thị tình yêu và cách hiểu về nhạc Trịnh Công
Sơn. Người hát là các bạn sinh viên, thầy cô giáo, những người yêu thích nhạc
Trịnh. Người nghe cũng chừng ấy. Có khác chăng là trong cách thể hiện. Một Hồng
Tú gây ấn tượng với Diễm xưa bằng tiếng Nhật, một Hạ trắng được
“phiêu” bởi saxophone hay Em là hoa hồng nhỏ rộn ràng trong tiếng
harmonica, Huyền thoại mẹ trầm lắng khi phối bằng đàn bầu… Nhà thơ
Quang Hưng tự kể Tình xa, nhà văn DiLi thì Phôi phachầm chậm. Thầy
Văn Giá vừa Như cánh vạc bay vừa Hoa vàng mấy độ. Một bạn sinh
viên hát Sóng về đâu thì cô Phi Nga Biển nhớ ; bạn Sĩ
Nguyên Ru đời đi nhé thì cô Hồng Liễu Mỗi ngày tôi chọn một
niềm vui… 16 nhạc phẩm Trịnh Công Sơn đã cất lên trong đêm nhạc để cuối cùng ai
cũng hát Để gió cuốn đi. Guitar, piano, violon khi độc tấu khi song/ tam tấu.
Chân chất, mộc mạc và sang trọng có thể đã cùng chung lời tình tự.
Một
điểm nhấn của đêm nhạc là đoạn clip ngắn về Quán Văn thời ‘65- ‘68. Sắc màu đen
trắng của những tấm hình chụp không gian Quán Văn và đặc biệt là chất giọng Trịnh
Công Sơn, Khánh Ly đích thực rút từ các băng cassettes đã giúp người xem lí giải
phần nào hiện tượng Trịnh Công Sơn lúc đó. Rõ ràng du ca và băng cassette là
hai phương tiện chính yếu để nhạc Trịnh đến với đông đảo quần chúng, áp đảo tuyệt
đối các hình thức âm nhạc salon. Khởi thủy là guitar mộc và du ca, băng
cassette, nên bây giờ, hễ ‘salon hóa’ nhạc Trịnh, người ta sẽ thấy có gì đó thật
xa lạ. Điều này, thêm một lần nữa, được củng cố, nếu nhìn vào mối quan hệ giữa
nhạc Trịnh và văn hóa đại chúng ngày nay.
Thật
khó để nói hết lòng yêu nhạc Trịnh của sinh viên Viết Văn. Khi đêm nhạc kết
thúc, vẫn còn rất đông các bạn Viết Văn ngồi lại, cùng với nghệ sĩ violon đường
phố Tạ Trí Hải, nhóm Trịnh ca, hát tiếp nhiều nhạc phẩm nổi tiếng khác của Trịnh
Công Sơn. Yêu nhạc Trịnh là yêu vốn liếng thi ca chữ nghĩa có trong từng ca khúc
của ông. Chả thế mà cố Gs Hoàng Ngọc Hiến, người thầy đáng kính của khoa Viết
Văn, đã từng tiến cử ca từ Đêm thấy ta là thác đổ là một trong những
bài thơ tình hay của thế kỉ. Nhiều sinh viên Viết Văn hôm nay, dù tuổi đời tuổi
viết còn rất trẻ, thì họ vẫn tìm thấy ở Trịnh Công Sơn một nguồn xúc cảm sâu lắng,
vừa cứu rỗi và nâng đỡ tâm hồn, vừa đẩy đưa, khơi gợi từng đường đi câu chữ. Một
khi như thế, có lẽ họ, sẽ là thành phần hiếm hoi lắng nghe người-ca-thơ trong đời
sống đang nguy cơ mòn cũ dần mọi châu ngọc, gấm thêu. Xét cho cùng, yêu nhạc Trịnh
là một thử thách.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét