Thứ Bảy, 20 tháng 2, 2016

Không gian xứ Huế

Không gian xứ Huế
Con người từ khi cảm nhận thế giới xung quanh là lúc cảm được sự xa vắng, ly biệt... Nhớ hồi thơ dại, đứng trên bến sông trước nhà nhìn sang Cồn Hến thấy sông rộng lắm cứ nghĩ khó mà bơi sang sông được. Mỗi lần đi bộ từ nhà lên cầu Gia Hội dù chỉ vài trăm mét nhưng lại cảm thấy rất xa. Càng lớn khôn cảm nhận về khoảng cách được rút ngắn. Nhưng lạ thay khoa học ngày càng khám phá không gian, vũ trụ thì chạm đến cõi vô cùng.
Sông Hương - Phu Văn Lâu, 
nơi thường diễn ra các cuộc thả thơ thuở trước
Thời gian đến với nhận thức của con người muộn hơn so với không gian. Và người ta thường nói thời gian là chiều thứ tư trong không gian chúng ta đang sống. Khi ta nhìn vào dòng lịch sử hào hùng của dân tộc, nhìn vào những thời đại xa xăm trên thế giới trong mỗi chúng ta lại dấy lên nỗi niềm vời vợi của kiếp phù sinh. Phải chăng điều đó làm nên cấu trúc tư duy của loài người chúng ta, để rồi từ lối mòn tư duy đó mà thế giới chúng ta đã xuất hiện các triết gia, những nhà khoa học, các đạo sĩ, nghệ sĩ, những tay khủng bố, những người bình thường, cũng từ vết tư duy đó đã gợi lên cơn xao xuyến, hãi hùng, niềm vui hạnh phúc và nỗi khổ đau mà mọi người đang trải nghiệm. Không gian của một xứ sở không chỉ là vùng trời mây, sông núi... mà còn có cả những nền văn hóa đang tiềm ẩn, hiện lên trên xứ sở đó.
Xứ Huế, một vùng miền thơ mộng đã đi vào trong thi ca, hội họa... một xứ sở được mệnh danh là “bài thơ đô thị”, quê xứ của “thanh sắc thi ca” đã được cả thế giới công nhận là di sản văn hóa thế giới bởi quần thể di tích gồm hệ thống kinh thành, lăng tẩm, miếu chùa, đền đài... và cả một nền âm nhạc cung đình vừa được ấn chứng là di sản văn hóa phi vật thể. Nhưng không vì thế mà không gian Huế chỉ hiển hiện nơi những di sản đó. Ngoài những màu thông thường thì sắc màu của không gian Huế thay đổi theo bốn mùa. Mùa Xuân, không gian Huế nở rộ những gam màu của các loài hoa, nhưng đặc biệt nhất là sắc vàng rực rỡ của hoa Hoàng Mai, biểu tượng của mùa xuân, đã khiến thi nhân Cao Bá Quát phải đảnh lễ (Nhất sinh đê thủ bái hoa mai). Mùa Hạ, dưới nền trời trong xanh bạt ngàn mây trắng chợt điểm xuyết những mảng màu đỏ thắm của những cánh Phượng đang khẽ lay theo những ngọn nến lung linh. Mùa Thu đất trời xứ Huế chuyển sang gam vàng mơ phơn phớt của màu lá đang rơi pha lẫn chút sắc mờ trắng của màn sương ảo diệu và chút tim tím mơ hồ. Mùa Đông không gian xứ Huế như được phủ một màn mưa trắng đục lất phất buồn và tản mác đâu đó những điểm nhấn mang màu hoài cổ.
Một ngày đông những sợi mưa trắng buồn níu trời gần đất, gây nên cảm giác cô quạnh, lúc này không gian Huế như bức tranh thủy mặc u hoài, gợi cảm. Buổi sáng mù sương những làn da bỗng mát lạnh khi va chạm vào những hạt nước li ti đang lờ lững khắp phố thị tạo nên không gian ảo huyền, thực thực hư hư.
Những lúc ngồi bên hiên phố nhìn chiều buông mà thấy lòng yên ắng lạ thường, phía Tây xa xôi những ánh tà dương cuối cùng sót lại, lất phất những lớp bụi mỏng ửng hồng mơ hồ như đời người và phía sâu thẳm của dòng Hương văng vẳng điệu Nam Ai, Nam Bình sao mà thê thiết, bi ai, bùi ngùi cái chất thôn làng ngay giữa phố thị và trên dòng Hương Giang mờ ảo ẩn hiện bóng hình của con đò lênh đênh về phía trời chiều bất tận. Không gian Huế là không gian của hoài niệm, khung trời xưa sẽ hiện về khi đâu đó trong không gian ngân vọng một điệu hò, phải chăng trong thăm thẳm cõi không gian xứ Huế đang tàng ẩn những cung bậc của “Hò”, một thể loại đặc trưng của làng quê Việt Nam. Và thi thoảng ta lại thấy ngay giữa phố hội yêu kiều nhộn nhịp lại tái hiện những lễ hội tế làng truyền thống nơi những ngôi đình làng đang ẩn dật một cách khiêm cung trong nội thành và những miền ngoại ô phố thị.
Sau những ngày lang thang miền núi đồi xứ Huế trở về, bất giác ngước nhìn lên dãy Trường Sơn cảm nhận được sự hùng vĩ của một vùng trời và thấy con người quá nhỏ bé trước thiên nhiên bí ẩn. Một chiều tà chớm thu ngồi bên sông Như Ý trong xanh như ngọc, hướng ánh mắt phía trước cầu Trường Tiền lịch sử đã tồn tại hơn trăm năm mà lòng bỗng ngậm ngùi theo những nhịp cầu. Ô hay! nhịp cầu và nhịp đời hay nhịp bước chân đi uyển chuyển với đôi quang gánh trên vai những mệ, những o... trông thật nhẹ nhàng nhưng đã khiến cho cõi lòng tôi nằng nặng một nỗi xót xa, bởi bên dưới những đôi quang gánh là vệt thâm tím ám ảnh cả một đời người. Rồi cái âm thanh của gióng, gánh níu nhau hòa vào tiếng bước chân khô khốc cứ gợi lên trong tâm tưởng tôi những tiếng ray nghiến oan nghiệt của phận người đang cam lòng chịu đựng nỗi khốn khó nghiệt đầy uy lực hứa hẹn những tương lai xán lạn của xứ sở thân yêu. Dưới bầu trời trong xanh là những áng mây trắng trôi bềnh bồng như đang khảm vào phía núi tạo nên cảnh sơn thủy hữu tình. Có những dịp đi đây đó, khi bạn đến Huế thì cảm nhận đầu tiên có lẽ thời gian nơi con phố này chậm hơn những nơi khác? Và không gian ở Huế thật êm đềm. Đúng vậy, nếu ban mai khi bạn vừa tỉnh giấc và nghe một tiếng gà gáy vừa ngưng, bạn sẽ cảm nhận được một sự yên ả đến lạ thường. Tiếng gà không những báo hiệu cho ngày mới bắt đầu mà tàng ẩn trong âm hưởng đó là cả một vùng trời thơ mộng, một khung cảnh yên bình.
Có thể nhìn không gian của Cố Đô Huế như những cặp không gian đối ngẫu nhưng luôn bổ khuyết cho nhau. Ví như Huế không có dòng sông Hương mơ màng thì không ai nhắc đến núi Ngự Bình và sẽ không bao giờ xuất hiện hai câu thi sấm của Bùi Giáng thi sĩ:
“Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”
Phía Bắc sông Hương là kinh thành cổ kính, cùng những dãy phố cổ Chi Lăng, Bạch Đằng, Bao Vinh trông thật tĩnh lặng thì ngược lại bờ Nam sông Hương là phố hội với những ngôi nhà chọc trời, những trung tâm vui chơi giải trí nhộn nhịp Ngự Bình, Thiên An... Nhìn ở góc độ triết học, ta có thể cảm nhận được tính lưỡng nghi của đất Cố Đô đã tàng ẩn trong không gian Huế và điều đó còn được thể hiện qua những bức tranh của họa sĩ Bửu Chỉ với bóng hình nhật nguyệt và chiếc đồng hồ khuyết tật được bao trùm bởi không gian ảm đạm, thăm thẳm đè nặng lên phận người gầy guộc... hay trong một số ca khúc của Trịnh Công Sơn như “Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt”, “Trời xanh trong mắt em sâu”..., trong nhiều câu thơ của Ngô Kha như “nhìn nếp nhăn bao la trên vầng trán mẹ", "khoảng hư vô như cánh tay gối đầu”...
Phải chăng không gian của đất thần kinh là không gian của thanh, sắc, thi, ca? Không gian của nỗi niềm tri âm, hoài vọng... được hòa trộn bởi quá khứ, hiện tại và vị lai. Không gian mà khi trời chuyển mưa thì đông về, chớm nắng thì hạ lên. Một vùng không gian rất nhạy cảm đã tác động đến tâm thức của con người xứ Huế.
Huế là xứ sở chịu nhiều sự khắc nghiệt của thiên nhiên như lụt bão và hạn hán hàng năm. Đã có không ít những cơn bão, trận lụt lịch sử đã gây bao tang thương và hằn sâu trong dân gian như: cơn bão năm Thìn (1904) và người dân Huế có câu vè: “Bão năm Thìn xô cầu Trường Tiền gãy bốn, cột cờ gãy ba”, trận lụt năm 53 (1953), lụt năm 1975, bão năm 1985 và gần đây nhất là trận lụt thế kỷ năm 1999 đã khiến cho cả thế giới phải hướng vào xứ sở lạ lùng này. Nhưng lạ thay dù phải chịu sự khắc nghiệt đến vậy mà xứ Huế vẫn được mệnh danh là một thành phố xanh. Khi nói đến thành phố xanh, người ta thường nghĩ ngay đến màu xanh của cây cối. Điều này cũng được thi nhân Hàn Mặc Tử nói đến trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” qua câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.
Nhưng không hẳn như vậy, Huế, ngoài những mảng xanh của cây cối, vườn tược... còn có cả màu xanh của bầu trời và dải lụa biêng biếc của dòng Hương Giang danh tiếng. Để có những mảng xanh như vậy một phần do người Huế rất yêu quang cảnh thiên nhiên, phần do sự sắp đặt huyền diệu của tạo hóa. Hầu như không có thành phố nào có nhiều nhà vườn như ở Huế. Mặc dù trước đây đã có nhiều trận lụt lớn nhưng người Huế hầu như rất ít xây nhà cao tầng. Cũng từ những ngôi nhà vườn tưởng rằng đơn sơ nhưng nó đã trở thành một trong những nét văn hóa của người dân Huế. Có thể nói “Vườn Huế”, một xứ sở của văn hóa tâm linh là cõi để mỗi người đối diện với không gian nội tâm của chính mình. Khi nói đến không gian người ta thường nghĩ đến cái khoảng trống vật lý. Thật ra, không gian là những gì đang hiển hiện trước mắt chúng ta như cảnh đẹp của thiên nhiên, khoảng trống của trời mây sông nước và nét đẹp văn hóa được người dân bản xứ tạo dựng nên. Và để có những không gian vật lý đẹp phục vụ cho các giác quan của chúng ta thì chắc chắn rằng bên trong mỗi con người của quê xứ đó phải có một cấu trúc không gian tâm lý độc đáo, thắm đượm bản sắc dân tộc. Đó chính là văn hóa, cái nôi của sự tồn tại và phát triển.
Phú Xuân, 9/2002
Lê Hoàng Hải 
Nguồn Tạp chí Sông Hương
Theo http://www.hue.vnn.vn/
Những nhà học Huế và Huế học
Sau gần 20 năm xa Huế tôi mới nghe được những phương danh, danh xưng mới hơi lạ tai: Nhà Huế Học. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi về một danh xưng như thế quả là duyên may cho Huế, bởi vì Huế hay bất cứ nơi nào, người nào mà đi theo cái “học” đều hay ho hơn là “Huế... đói, Huế đau, Huế sầu, Huế khổ...”.
Trong khái niệm về “học” đã hàm chứa ý niệm nhân văn. Nếu đã có những nhà “chuyên học mang tính nhân văn”, nghĩa là chuyên nghiên cứu, khảo luận về một lĩnh vực chuyên biệt nào đó thì sẽ trở thành một nhân vật có thẩm quyền về bộ môn đó. Như một người chuyên môn nghiên cứu về lịch sử thì sẽ thành nhà Sử Học; về ngôn ngữ thì thành nhà Ngữ Học... và cứ thế, nhân loại đã và sẽ có những nhà Tâm Lý Học, Triết Học, Toán Học, Tâm Linh Học, Bệnh Lý Học, Ai Cập Học, Pari Học... Huế Học là chuyện tất nhiên.
Thế nhưng vị trí của chữ “Học” (hiểu ở đây với ý nghĩa là sự sở đắc hoàn chỉnh và cao nhất về mặt kiến thức, lý giải và phương pháp luận) đặt ở trước Huế hay là sau Huế mang một ý nghĩa khác biệt: Người học Huế và nhà Huế Học. Cũng như người học Toán và nhà Toán Học, người học Tâm lý và nhà Tâm lý Học...
Cần phải có những công trình nào để một người học Huế hay quan tâm nghiên cứu, sưu khảo về Huế trở thành nhà Huế Học?
Có lẽ công trình Huế học quy mô đầu tiên là những công trình biên khảo củaHội Những Người Bạn Cố Đô Huế (Association des Amis du Vieux Hué). Hội này được thành lập năm 1913 do đề xuất của linh mục Léopold Cadière. Hội xuất bản một tạp chí định kỳ lấy tên là Tạp Chí Những Người Bạn Cố Đô Huế (Bulletin des Amis du Vieux Hué. Viết tắt: BAVH.) Ra đời năm 1914 và đình bản năm 1944 với 31 tập và 15 nghìn trang ấn bản, tạp chí BAVH đã trở thành một nguồn tư liệu rất phong phú nghiên cứu về Huế và có khi đi xa hơn trong phạm vi cả nước về các mặt địa lý, lịch sử, nghệ thuật, ngôn ngữ, dân tộc học... hay nói một cách tổng quát là văn hoá cung đình, văn hóa học sĩ và văn hóa dân gian.
Những tác giả thường xuyên đóng góp các bài vở nghiên cứu trong suốt 30 năm cả ta lẫn Tây phần đông là những người học Huế và nhà Huế học tương đối có thẩm quyền khi viết về Huế.
Từ sau thế chiến thứ hai (1945), những công trình nghiên cứu về Huế hầu hết tập trung trên nỗ lực cá nhân. Mãi đến năm 1992 mới có một công trình tập thể khác của Hội Sử Học Thừa Thiên - Huế qua tạp chí nghiên cứu có tên là“Huế, Xưa & Nay” ra đời năm 1992 tại Huế.
Tiêu chuẩn phân định giữa người học Huế và nhà Huế học là ở chỗ công trình sưu khảo chứ không phải là đã viết được bao nhiêu trang sách. Nếu chỉ tìm tòi những điều đã có sẵn trong BAVH hay trong mớ tài liệu cổ nằm trong các tàng thư các hay thư viện để gom góp lại cho một đề tài nào đó, theo kiểu “tập đại thành; thuật nhi bất tác” (gom góp tài liệu, rồi kể lại chứ không tìm tòi hay sáng tạo được cái gì mới) – theo kiểu đức Khổng Tử thường khiêm tốn nói về mình – thì vẫn còn ở mức độ của một người học Huế. Chỉ khi nào chính người đó tìm ra, nghiên cứu, đào sâu, phân tích được cái mới hoàn toàn hay tìm đươcchất mới mới từ trong kho cũ mới là một nhà Huế học đích thực.
Cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, chúng ta phải vui mừng đón nhận số lượng những người học Huế và những nhà Huế học ngày một khởi sắc. Đã có rất nhiều tác giả, nhà sưu tầm, nghiên cứu trong và ngoài nước thành danh vì có những bước đi rõ ràng và mạnh dạn từ vị thế của người học Huế sang nhà Huế học.
Tại vùng Bắc California nước Mỹ nầy, chỉ riêng năm 2006, tôi đã hân hoan nhận được khoảng 12 cuốn sách viết về Huế từ Nguyễn Lý Tưởng, Hoàng Long Hải đến Hồ Đăng Định, Lê Chí Kham và khá nhiều tạp chí, đặc san Nhớ Huế, Thương Huế, Yêu Huế, Tình Huế, Bạn Huế... Mỗi tác giả và tác phẩm đều có một vị trí riêng; một cảm quan nghệ thuật và cách nhìn riêng khi nhìn về Huế Xưa, Huế Nay.
Bên cạnh những tâm hồn máy động cùng tần số với Huế, thì cũng có những tâm hồn tha thiết với Huế một thời, nay bỗng thành dửng dưng với Huế. Đi trên cầu Trường Tiền mà nhớ đến quặn mình một chiếc cầu Trường Tiền Áo Trắng thuở xa xưa. Chèo đò trên dòng sông Hương mà cứ ngỡ như đang đi trên dòng sông Seine, trên American River và nhớ về một Sông Hương ngày cũ với bến đò Thừa Phủ lưu luyến. Miên man... một tâm trạng Nguyễn Bính ngày xưa chăng:
Khách du buồn mối buồn sông núi
Núi lở sông bồi cảnh biến thiên
Ngự Viên ngày trước không còn nữa
Giờ chỉ còn tên xóm Ngự Viên
... Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
Trong cảnh biến thiên “bạch vân thiên tải không du du” – nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay – đó, có một người như đang đứng lại: - Thầy tôi!
Thầy Võ Văn Dật, bút hiệu Võ Hương An, dạy tôi môn công dân, sử địa năm đệ thất, đệ lục trường Hàm Nghi Huế 47 năm về trước. Thuở đó, thầy là mộtngười học Huế. Qua những bài giảng của thầy trong lớp học, tôi hiểu được điều đó. Thầy học Huế, thầy học trường luật, thầy ra làm thẩm phán, thầy đi cải tạo, rồi sau đó qua Mỹ làm chuyên viên kỹ thuật, rồi viết lách, viết về Huế. Tôi tin là phải qua những chặng đường gian nan như thế thầy mới hiểu được mình trong tận cùng chiều sâu của Huế. Thầy viết về Huế thật tình. Những bài viết về Huế có nội kiến (insight) như Chuyện Cung Đình Nghe Kể Lại, Những Sai Lầm Đáng Tiếc, Vua Bảo Đại Con Ai... là những khám phá và phát kiến mới lạ, độc đáo mang tính lịch sử và thâm cung bí sử của tác giả Võ Hương An.
Hai tác phẩm ra đời trong năm 2006 của tác giả Võ Hương An đều viết về Huế: Huế Của Một Thời và Vua Khải Định... Với lối nhìn độc sáng trong Huế Của Một Thời và những dữ kiện lịch sử gồm cả lời minh giải thiết thực và hình ảnh phong phú rõ ràng trong tác phẩm Vua Khải Định, nhà văn, nhà biên khảo Võ Hương An đã định hình cho mình một tinh thần Huế học rất nghiêm túc.
Từ Huế Của Một Thời sang Vua Khải Định, tác giả Võ Hương An đã xác định một bước đi lên tất yếu của người cầm bút có tài năng và bản lĩnh. Riêng với Huế, đấy là con đường tiệm tiến nhưng rạch ròi từ người học Huế sang nhà Huế Học.
Trần Kiêm Đoàn
Theo http://www.hue.vnn.vn/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mái tóc người vợ

Mái tóc người vợ HỘI LÀNG MẤT VUI Thuở ấy, giặc Minh đang xâm chiếm nước ta. Ở một vùng khuất nẻo, hội vật làng Liễu đang vào ngày cuố...