Ngày xuân đọc trường ca
“Biển mặn” của Nguyễn Trọng Tạo
Giữa những ngày Biển Đông đang nóng lên thì nhà thơ Nguyễn Trọng
Tạo cho ra đời trường ca “Biển mặn”, viết về sự hy sinh cao cả của bao thế hệ
người Việt chúng ta trong sự nghiệp giữ gìn biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc
thân yêu.
“Biển mặn” vừa ra đời đã được sự đón nhận nồng nhiệt của bạn đọc cả nước. Đọc “Biển mặn”,
ta không chỉ thấy biển đảo đẹp như mơ, mà còn thấy cả phận người phận nước
thăng trầm cùng lịch sử. Ta không chỉ thấy biển xanh mênh mông mà còn thấy cả
máu của bao người dân, người lính đã hòa vào nước biển khi tác giả se lòng suy
ngẫm: “Nhặt lên hạt muối, thưa rằng: Một phần biển mặn, mấy phần máu xương”.
Khi ký tặng 2000 cuốn sách cho các chiến sĩ Hải quân, nhà thơ
Nguyễn Trọng Tạo tâm sự: “Sau nhiều chuyến đi đảo cùng bộ đội từ 1980 - 1981, đặc
biệt mấy năm gần đây tình hình biển đảo nóng bỏng, tôi có ý định viết trường ca
mang tên “Biển mặn”. Năm 2014 tôi đặt bút viết được nửa chương, nhưng thấy mạch
vào chưa ổn đành bỏ. Mãi đến cuối tháng 4/2015, sau khi đã tìm đọc nhiều tài liệu
về sử sách, về biển đảo của Việt Nam từ thư tịch xưa, những văn bản cổ về lịch
sử, và bức xúc trước tình hình Biển Đông căng thẳng
đã tạo cho tôi một cảm hứng rất mạnh, tôi ngồi vào bàn viết lại BIỂN MẶN. Trong
cấu trúc trường ca này, tôi quyết định đưa vào một số bài thơ đã viết từ các đợt
đi biển đảo trước đây, phù hợp với mạch cảm xúc chung. Những ngày này trời nắng
nóng 40 độ hoặc hơn. Tôi thường viết từ lúc gần sáng. Hôm nào ngồi vào bàn,
không lấy lại được cảm xúc, là tôi không viết. Chỉ khi nào nối được mạch cảm
xúc tôi mới viết tiếp, vì trường ca rất cần cảm xúc mạnh, liền mạch. Sau hơn một
tháng thì trường ca được hoàn thành.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo ký sách tặng độc giả.
Sáng hôm đó, tôi ngồi ở nhà sàn viết xong đoạn cuối trường ca
"Biển mặn" vào lúc 7 giờ ngày 24/5/2015 thì bỗng dưng rùng mình thấy
bàn viết và nhà sàn quay nghiêng ngả như động đất. Tôi phải nhắm mắt dùng nội
công định thần lại, và biết có một cơn chấn động máu lên não không bình thường.
Khoảng 5 phút sau, tôi mở mắt và thấy nhà cửa, bàn ghế trở lại bình thường,
nhưng rất mệt. Hoảng quá, tôi gọi điện cho bác sĩ Bản, Giám đốc
bệnh viện Việt Pháp. Bác sĩ Bản bảo "Anh ở đâu để em đến ngay". Bản
mang theo bác sĩ Huy cùng đến, và chở tôi đi. Chụp cộng hưởng từ ở Trần Bình Trọng,
đọc phim bảo rằng: Có lấm chấm trắng nhỏ ở vùng não. May quá, chưa có vấn đề gì
lớn, đo huyết áp máy Nhật do GS Trí, Giám đốc Viện Huyết học tặng: 120/80 (lạ
thế). Bác sĩ Bản bảo huyết áp tốt, chắc là vì trời nóng và làm việc căng thẳng
quá. Bản đưa thuốc cho tôi. Uống thuốc 2 tuần, nhưng thỉnh thoảng đứng lên còn
chóng mặt. Quả là cuộc viết "Biển mặn" đã áp lực nguy hiểm lên triệu
chứng thiểu năng tuần hoàn não của tôi.
Khi tôi đưa "Biển mặn" lên mạng, bất ngờ nhận được
chia sẻ và nhận xét “nóng” của bạn bè. Nhiều bạn thúc giục tôi nên cho xuất bản
sớm. 2 tháng sau tôi quyết định cho xuất bản với giấy phép của Nhà Xuất bản Hội
Nhà văn. “Biển mặn” được in 4000 bản, tôi quyết định tặng Bộ Tư lệnh Hải quân
2000 bản, vì sợ lính Hải quân không có điều kiện đến hiệu sách. Sách đã được Bộ
Tư lệnh Hải quân trân trọng tiếp nhận, và Tết này, “Biển mặn” được chuyển tới
các chiến sĩ tận đảo xa. Sau đó tôi tặng Việt kiều ở Nga, tặng Tập đoàn TSQ của
Đỗ Quân, tặng Nhịp cầu Hoàng Sa để gây quỹ xây nhà cho cựu chiến binh Gạc Ma. Tập
đoàn Thành Hưng đã “nổ phát súng đầu tiên” mua 300 cuốn đủ phát cho cán bộ và
nhân viên. Một số bạn cũng đã gửi tiền vào tài khoản để mua sách...“Xúc động lắm,
vì tôi không nghĩ là nó lại được đón nhận nồng nhiệt như thế. Có lẽ trường ca
này đã đi thẳng được vào trái tim của bạn đọc”.
Quả đúng như vậy, hàng trăm bạn đọc, các nhà văn, nhà thơ,
nhà nghiên cứu phê bình đã đến với cuộc ra mắt trường ca này tại Không gian Văn hóa Đông Tây để
có “Biển mặn” có chữ ký của tác giả, được chia sẻ cùng tác giả.
Nhà thơ, nhà báo Từ Ngọc Lang chia sẻ: Ấn tượng khắc vào tâm
khảm tôi sau khi đọc trường ca “Biển mặn” của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo là hình ảnh những người
con nước Việt đang ngày đêm kiên cường với biển đảo quê hương. Cuộc chiến
tranh chống Mỹ của dân tộc đã đưa dải Trường Sơn hùng vĩ thành biểu tượng rất đỗi
tự hào. Ngày 30/4/1975, nước nhà thống nhất, người dân Việt Nam khát khao được
sống trong hòa bình để dựng xây đất nước, nhưng không ai có thể hình dung dải đất
hình chữ S này đã có “Trường Sơn rừng” nay lại có thêm “Trường Sơn biển” đứng
trước nhiều bão tố phong ba: Cha đã lính, bây giờ con lại lính/ Những thế
hệ nối theo nhau đi giữ nước non nhà/Xưa
cha Trường Sơn rừng/ Nay con Trường Sơn biển/ Những hòn đảo dựng vòng cung
phòng tuyến/ Dựng tin yêu từ phía mặt trời lên…
“Trường Sơn biển” là sáng tạo bất ngờ, độc quyền của Nguyễn
Trọng Tạo. Trước anh, chưa một ai nghĩ ra. Tôi nghĩ đây không đơn thuần chỉ là
phép so sánh hay khái niệm đối ứng biển - rừng. “Trường Sơn biển”, trước hết là
biểu tượng thiêng liêng của tình yêu Tổ quốc,
là dự báo đầy trách nhiệm của nhà thơ trước vận mệnh Dân tộc, là lời tuyên thệ
của những người con Việt nguyện đem máu xương mình bảo vệ chủ quyền đất nước…
Cô giáo Tuệ Mỹ từ Quy Nhơn viết một bài tiểu luận dài đăng
trên FB có đoạn: "Không thể nào mất đảo", "phải giữ cho bằng
được" lá cờ Tổ quốc, đó là lời tuyên thệ của người lính biển đối với Tổ quốc,
nhân dân. Chính vì lời thề khắc cốt ghi xương đó mà các anh sẵn sàng hy sinh tất
cả. Không chỉ hy sinh xương máu bản thân mà còn hy sinh cả mái ấm gia đình. Có ai mà không có gia
đình cha mẹ, Vợ con, người yêu dấu… Nhưng đáp lời Tổ quốc gọi, người lính sẵn
sàng gác lại bên lòng những tình cảm riêng tư ấy để lên đường canh giữ biển đảo
quê hương. Đoạn thơ dài kể về chuyện trung tá Trần Đức Trung "chìm dần xuống
biển" mà vẫn còn nợ con gái lời nhắc nhở bố “Nhớ viết thư cho mẹ kẻo mẹ
mong", và "Anh không bao giờ nhận được lá thư con" để được đọc
"những dòng chữ nhớ nhung" cùng lời động viên chiến đấu của con anh
đã làm ta rơi
nước mắt. Thế mới biết người lính hy sinh rất lớn cho từng giọt nước biển
quê hương. Thế mới biết biển "mặn" không chỉ vì "máu" của
người lính mà còn bởi cả "nước mắt" của người thân...
Tiến sĩ khoa học Trịnh Quốc Dũng từ nước Đức cảm nhận: “Biển
mặn” là trường ca thứ ba, sau “Con đường của những vì sao” viết về 10 cô gái
thanh niên xung phong anh dũng hy sinh ở ngã ba Đồng Lộc lịch sử và “Tình ca
người lính” viết về thời kỳ chiến tranh biên giới phía Bắc của nhà thơ Nguyễn
Trọng Tạo. “Biển mặn”, ngay ở câu thơ mở đầu “Nhặt lên hạt muối, thưa rằng:/Một
phần biển mặn. Mấy phần máu xương…” đã gợi cho tôi cái mặn mòi của biển và
cái đắng chát của những hy sinh gian khổ mà cha ông ta đã phải trải qua để giữ
biển, giữ lấy cái không gian sinh tồn của nước Việt. Với mạch cảm xúc này, “Biển
mặn” khéo léo dẫn dắt người đọc đi sâu vào lòng biển cả, với những câu chuyện của
tiền nhân đã đặt mốc chủ quyền, những mưu sinh nhọc nhằn của ngư dân nơi đầu
sóng ngọn gió, những cuộc hải chiến chống lại lũ giặc xâm lăng. Để rồi khúc vĩ
thanh của tác phẩm là những hình ảnh thanh bình nơi đảo xa, là tiếng đồng dao của
bầy trẻ đến trường: “Và em biết biển nơi này mặn lắm/ Những cuộc đời máu thắm
đã thành hoa”.
Kể từ bài thơ “Tản mạn thời tôi sống” cách đây 35 năm, và hôm
nay là trường ca “Biển mặn” tôi thấy thơ anh vẫn mãnh liệt, nồng nàn và da diết
như thuở ban đầu. Vẫn “ngọt và cay và thơm như rượu gạo” như câu thơ anh từng
viết. Đúng là: “Gừng càng già càng cay, thế mới hay!”
Nhà phê bình văn học Vũ Nho nhận định: “Tôi muốn nói tới những
tìm tòi của tác giả Nguyễn Trọng Tạo trong bản trường ca này. Các chương được
liên hệ với nhau chặt chẽ theo chiều rộng không gian biển Việt Nam. Và theo chiều
dài lịch sử từ khi Chúa Nguyễn lập Hải đội Hoàng Sa, cho đến những trận hải chiến
gần đây nhất. Tác giả đã sử dụng những thần thoại, truyền thuyết về con Rồng
cháu Tiên, về Đảo là con trai đất liền, Biển là tiên nữ; về việc ném đá thành
các đảo, và cả những tục lệ “Tế lễ sân đình/ Tế lễ khao quân/ Tế sống lính lên
đường” trong nghi lễ dân gian. Nhân vật xưng tôi trong bản trường ca khi là một
ngư dân “ra khơi vào lộng”, nhưng khi lại hóa thành một nạn nhân trên thuyền bị
hải tặc ráp vây, hoặc thành “Con thuyền bị đâm trên biển của mình/ Những
xương sườn gãy nát”, khi khác thì như là trong thần thoại “Tôi mảnh ván tả
tơi lại mọc thành cây/ Thành rừng xanh/ Thành cổ thụ/ Lại xẻ ván đóng thuyền”.
Tôi chính là người lính hải quân, có người cha đã viết bài
thơ “Những người lính đi qua thành phố”… Nhân vật tôi vì thế mà đa dạng, đa
thanh. Sử dụng “điệp khúc tiếng sáo”, sử dụng những ghi chép trong sách vở,
trong bản tin. Sử dụng cả đồng dao mới. Sử dụng bài thơ hay của mình đã viết về
người lính. Tất cả đều được huy động có chọn lọc, được sắp xếp cài đan chặt chẽ.
Đó chính là độ chín trong cảm xúc và nghề nghiệp của người viết. Và điều cuối
cùng là có nhiều câu thơ hay có thể đứng độc lập.
Một bản trường ca hay là bản trường ca có giá trị tư tưởng
cao và có giá trị văn chương tương ứng. Thiếu một trong hai thứ là không trọn vẹn.
Rất đáng ghi nhận là giá trị tư tưởng của bản trường ca này nằm trong văn mạch
yêu nước, một truyền thống quý báu của dân tộc. Và về nghệ thuật, ngoài bố cục
chặt chẽ liền mạch, hợp lí, còn có rất nhiều câu thơ được viết bởi một tài hoa
đang vào độ chín. Những câu thơ có thể neo vào tâm trí mọi người, như mỏ neo của
Hải quân neo vào lòng biển cả.
Nhà báo Mặc Lâm ở hải ngoại tâm đắc: “Máu hòa tan với biển là
chất xúc tác mạnh mẽ cho “Trường ca biển mặn” và chỉ riêng cái tựa sách, Nguyễn
Trọng Tạo đã giới thiệu tới người đọc hồn cốt của tác phẩm. “Biển mặn” thoát ra
được chiếc vỏ hoành tráng giả tạo của thể loại, bởi nó xây dựng lên từ mùi máu
của đồng đội, vị mặn của nước mắt người thân và anh linh của hồn thiêng sông
núi. Nguyễn Trọng Tạo đã dựa vào bộ xương sử sách để tái tạo lại hình ảnh của
Biển Đông hôm nay mà trong đó những mảnh vỡ tản mác của nhận thức được gom góp
lại để chúng ta nhìn ra hình ảnh thật của những gì đã mất.
“Nếu những bài thơ riêng lẻ của Nguyễn Trọng Tạo được hình
thành từ khoảnh khắc của những cảm xúc bất chợt thì trường ca của ông là một tập
hợp của những tìm kiếm và kiểm chứng cảm xúc để xâu chuỗi chúng lại trong sợi
dây chuyện kể. Đôi lúc ông miêu tả, có khi ông phác thảo và nhiều lúc ông không
ngại đem sức tưởng tượng phong phú của một nhà thơ lồng vào câu chuyện để phả
thứ ánh sáng huyễn hoặc nhưng nóng bức vào nhân vật, sự thể, chà sát chúng làm
nóng lên tính nhân văn cuồn cuộn bên dưới mỗi khuôn mặt, cuộc đời. Ngôn ngữ thi
ca của Nguyễn Trọng Tạo gần như hơi thở và xa như bóng chim ngoài đảo vắng. Ông
tĩnh mịch và tài hoa trong chữ nghĩa và từ đó kéo người đọc theo dõi cả tập trường
ca vốn dài và khó đọc chỉ trong khoảnh khắc”...
Mỗi người đọc “Biển mặn” theo cách của mình, nhưng tựu trung
lại là sự xúc động mãnh liệt mà tự thân tác phẩm mang đến. Ta gặp hàng trăm comment dưới
statut “Trường ca Biển mặn” trên FB của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo như sự đón nhận
một món quà văn học nghệ thuật đặc sắc thật đáng trân trọng. Nhà văn Nguyễn
Quang Lập ngạc nhiên: “68 tuổi rượu vẫn đều, bạn vẫn lắm và vẫn đủ sức chơi được
cả trường ca. Và, trường ca này còn hay hơn hai trường ca trước của bác. Quá phục
bác Tạo”. Nhà thơ Tuyết Nga ví von: “Điệp khúc tiếng sáo” sau mỗi chương của
trường ca vừa như một sợi dây diều, vừa như một sợi dây neo. Mảnh, nhỏ nhưng lại
có sức nâng đỡ cả con tàu BM. Rất lạ. Anh ạ. Nó là đoạn gen duy nhất lưu giữ
ADN thơ Nguyễn Trọng Tạo”. Nhà thơ Hà Linh điềm tĩnh: “Người đọc cũng sẽ rất
thích các lớp thơ của Trường ca, kết hợp hài hòa các thể loại thơ, và thích “Điệp
khúc tiếng sáo” đầy nhân văn và tính nhạc, đau thương nhưng không hằn học, và vẫn
nuôi một niềm tin như tin vào lời ru ngàn đời sẽ còn sống. Người đọc cũng sẽ rất
thích hình ảnh “Trường Sơn Biển”, vì đó thực sự là một thành công cả về phép so
sánh và tư tưởng”. Nhà thơ Lê Văn Vỵ hy vọng: “Văn học nghệ thuật của mình bấy
lâu nay ngủ quên, hiếm có những tác phẩm thao thức với nhân dân, đau đáu về non
sông Tổ quốc, hiếm có một "Nam quốc sơn hà" hay một "Hịch tướng
sĩ văn". Với "Biển mặn" thắp lên trong tôi trong bạn niềm
yêu thương về những nhà văn chân chính, không bao giờ đứng ngoài cuộc sống của
nhân dân Tổ quốc và hy vọng sẽ có nhiều hơn những tác phẩm như BIỂN MẶN”. Còn
anh trung úy hải quân Hoàng Triệu thì nhắc lại câu chuyện một lần được gặp tác
giả “Biển mặn”: “Trò chuyện với nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo, chúng tôi đi
từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Từ thơ ông chuyển sang nhạc, rồi ông ngân lên câu hát: “Ngồi
dưới bóng phong ba/ Ríu ran chuyện cửa nhà / Đàn gà vừa ấp trứng/ Đàn lợn mới
sinh con..." mà ông đã phổ nhạc từ bài thơ “Trường Sa làng ta” của một
nhà thơ quen biết. Ông nói: Xây dựng văn hóa làng Việt trên các hòn đảo của Tổ
quốc chính là xây những “cột mốc tinh thần” của dân tộc ta. Tôi nghĩ, đó cũng
là một phần tinh thần mà ông đã gửi gắm trong trường ca “Biển mặn”...
Vâng, tôi đã đọc “Biển mặn”, và Tết này, những câu thơ như
sóng vẫn dạt dào trong tâm trí tôi vỗ hoài về phía biển.
“Biển mặn”
CHƯƠNG II. NHỮNG CỘT
MỐC SỐNG (trích).
3. Tôi trên con thuyền ngày sóng dữ
Súng ống
Dùi cui
Choang
Xoèng
Ực
Huỵch
Những con cá ngáp khan trong lưới
Mắt không mở được
Tiếng la
Tiếng thét
Tiếng bồm bộp dùi cui
Tiếng lạnh tanh qui-lát
Tiếng chân bước nặng nề
Từ thuyền này sang tàu kia
Từ tàu kia sang thuyền này
Từ thuyền này sang tàu kia
Oằn lưng răng rắc…
Không thể nào mở mắt
Loang loáng dao găm, lưỡi lê
Tôi nghe mình nói mê
Trên hoang đảo một miền nào xa lắm
Những con cá bị cướp
Hội họp căm thù
Những con tôm bị cướp
Duỗi thẳng lưng đứng lên
Rồi tất cả bị mũi giày đè bẹp
Tanh tởm ngoại ngữ quen nghìn năm
Nhai xác…
Tôi nghe sóng Hoàng Sa uất ức
Gầm vang
Tôi nghe hồn Hoàng Sa nghiêng bóng thuyền, che chở
Các bạn thuyền chụm vào nhau trên con thuyền rách nát
Tiếng rên thành bản nhạc chiêu hồn
Có người chết mà tôi không khóc được
Không nói được
Không làm gì được
Tôi chìm vào những bàn tay
Ngày ngày cầm nắm
Những bàn tay xoa dịu
Những bàn tay vuốt ve Sói Biển
Những bàn tay bảo tôi: Nhớ lấy!
4. Tôi con thuyền bị đâm trên biển của mình
Những xương sườn gãy nát
Ứa máu ngư dân
Ứa máu ngư trường
Bọn cướp biển là ai? Tôi đã nhìn rõ mặt
Chúng lén lút
Chúng ngang nhiên
Chúng hằm hằm
Chúng sằng sặc
Chúng trá hình dân đen
Chúng giả bạn giả anh em
Giả tình giả nghĩa
Chúng phản bội cả đàn cừu lột lông và xẻo thịt
Phản bội những con thuyền đánh đắm cả yêu thương
Tôi con thuyền gãy nát cột buồm
Tâm hồn làm phao biển
“Không thể dìm được phao”
Bọn cướp biển hiểu chăng điều đơn giản
Những chiếc phao tâm hồn trong bão tố lớn lên
Mang những chiếc thuyền về bến
Dù vỡ nát
Không thể nào chìm xuống….
5. Tôi mảnh ván tả tơi lại mọc thành cây
Thành rừng xanh
Thành cổ thụ
Lại xẻ ván đóng thuyền
Lại đợi ngày hạ thủy
Lại tế lễ sân đình
Lại đánh trống khao quân
Lại tuyên thệ sống còn vì biển đảo
Những con thuyền tung bay cờ đỏ
Lại rẽ sóng ra khơi…
Sừng sững giữa biển trời.
Những ngư dân trên đất nước tôi
Nguyện làm “cột mốc sống”
Ngàn vạn “cột mốc sống”
Cả triệu “cột mốc sống”
Trên biển sóng
Trên đá ngầm
Trên đảo chìm đảo nổi
Trên tự do lãnh hải Việt Nam tôi!
Điệp khúc tiếng sáo
Nhặt lên viên sỏi tuổi thơ
Ném ra biển cả nào ngờ sóng dâng
Mọc lên lớp lớp tầng tầng
Đảo chìm đảo nổi đá ngầm san hô
Những vùng biển đẹp như mơ
Trường Sa cát trắng Hoàng Sa cát vàng…
Nhặt lên hạt muối, thưa rằng:
Một phần biển mặn. Mấy phần máu xương…
Phóng viên/Lao động và Xã hội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét