Hàn Mặc Tử - Sống đầy lên bằng những câu thơ
Mối
duyên nào của núi sông đã đưa Hàn Mặc Tử cùng Bích Khê, Chế Lan Viên đến với
mảnh đất Quy Nhơn - Bình Định để cùng cùng Quách Tấn, Yến Lan... tạo nên ánh
hào quang rạng rỡ của trường thơ Bình Định. Giờ đây, những đôi cánh “ phi cầm”
ấy đã giã từ những tháp đồng, tháp bạc bay vút vào cõi thiên thu, tiêu dao nơi
xứ sở của mùa “Xuân như ý”. Bầu trời Đồ Bàn đón những cánh chim, trái tim người
Bình Định vui buồn với những câu thơ, và lòng đất Qui Nhơn ấp ủ một nấm mồ. Một
con chiên mang tên thánh Phêroo Phanxicô, chắc có nhiều người không biết. Một
chàng trai tên Trần Trọng Trí, cũng khônh ít kẻ lãng quên. Nhưng cái tên Hàn
Mặc Tử thì đã từ lâu gắn với Ghềnh Ráng, Qui Nhơn, Bình Định, gắn với bão táp
của một thời Thơ mới ...
Ba mươi
tám tuổi đời, những ngày tháng vất vả với chứng bệnh nan y, những giấc mơ,
những cuộc tình ... và một “tài năng lạ kỳ” (chữ dùng của nhà thơ Tế Hanh). Hàn
Mặc Tử là đấy! Xin đừng đến bên ông khi trái tim mình lạnh lẽo, cũng đừng ngợi
ca ông vì những phút bốc đồng. Ở con người nầy, thơ là tiếng kêu trung thực
vọng tự đáy lòng, giữa niềm hoan lạc, giữa cơn đau, bởi vậy, từng lời thơ, từng
câu thơ tự nó đã thay ông tha thiết gọi mối đồng cảm của đồng loại, của thế
nhân.
Đời có
định mệnh chăng? Thơ có định mệnh chăng? Cái gì đã khiến Hàn Mặc Tử thốt lên:
“Người thơ phong vận như thơ ấy”. Lệ Thanh thi tập, từ trong khuôn khổ của
những bài thơ đường luật, đã bật ra cái “tạng” của một người thơ nặng tình cùng
mây nước và xa xót nỗi niềm riêng.
Trường
Xuyên ơi! Trường Xuyên ơi!
Viết
chẳng nên câu, nói nghẹn lời
Mây
nước bao la tình lẳng lặng
Gió
sương mờ mịt nhớ chơi vơi
(Nhớ
Trường Xuyên)
Nhưng
Lệ Thanh thi tập và cả “nhịp cầu” Gái quê vẫn chưa phải là Hàn Mặc Tử, hay nói
đúng hơn đó mới chỉ là phần đời dẫu sao cũng còn bình dị, yên lành, tuy đâu đấy
vụt lên ánh chớp từ đáy sâu của vùng ánh sáng mà sau này sẽ “phát tiết” chói
ngời, rạng rỡ cùng những cơn vật vã triền miên giữa bệnh tật, cái chết, nỗi
thất vọng tình yêu và lòng ham sống, niềm tin, giấc mơ hạnh phúc. Lê Thanh thi
tập vương mang nỗi sầu đời nhưng vẫn là cái sầu của một đấng trượng phu “Nam
nhi chi chí”, dẫu không còn ngông ngênh ngang tàng kiểu thi nhân – lãng tử như
Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Tản Đà ... Gái quê đã nếm mùi chua chát của “tình
si”, nhưng đó chỉ là nỗi chua chát, thất tình của một tình nhân như bao nhiêu
tình nhân đa tình và lãng mạn thuở ấy; thậm chí, chưa có cái buồn thương bi
thiết của Huy Cận, cái chán nản cùng cực của Chế Lan Viên và cả lòng ham sống
vội vã, cuống cuồng của Xuân Diệu. Đến Thơ Điên, rồi Xuân như ý, Thượng thanh
khí... câu thơ sẽ “hộc” ra từ miệng thi nhân cùng máu tươi, ánh trăng, người
đẹp, linh hồn; còn lúc này, ở Gái quê, những thứ ấy mới chỉ được “nuốt” vào
thôi:
Uống đi
cho đỡ khô hầu
Uống đi
cho bớt cái sầu miên man
Có ai
nuốt ánh trăng ngàn
Có ai
nuốt cả bóng nàng tiên nga
(Uống
trăng)
Từ khi
Hàn Mặc Tử biết mình lâm bệnh, thấy ngày giã từ cõi thế đã sừng sững hiện ra
trước mắt, thì cái ngọt ngào mà bình dị, rạo rực mà mơ màng của nhịp sống “bình
yên” ở Gái quê lại trở thành niềm khát khao cháy bỏng. Và, chính niềm khát khao
ấy, sức chống trả để vượt qua “cơn lâm lụy” ấy, đã giúp nhà thơ dắt hồn mình
đến xứ sở của ánh trăng Phượng trì, ngọn suối Quần tiên, ánh sáng Phương phi
nơi nước Chúa. Đôi khi “cái ngày xưa ấy” cũng hiện về, thấp thoáng nhưng đó chỉ
là những phút giây ngắn ngủi, nhanh chóng biến tan trước thực tại phủ phàng:
Mơ
khách đường xa, khách đường xa
Áo em
trắng quá nhìn không ra
Ở đây
sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết
tình ai có đậm đà?...
(Đây
thôn Vĩ Dạ)
Vị ác
thần có bộ xương khủng khiếp và lưỡi hái oan nghiệt trên tay, chờ chực chính
trong thân thể, từng ngày, từng giờ cố làm tiêu hao nhựa sống, cố kéo nhà thơ
đi khỏi cuộc đời; nhưng ông không chịu xuôi tay chấp nhận, ông “hổn hển” sống
trọn vẹn những ngày còn lại, hơn thế nữa, đã tạo ra nhiều nguồn sống khác,
trong huyễn tưởng, trong niềm tin tôn giáo, trong mơ, trong tiếng gọi tình yêu
từ xa vọng lại. Mặc cho ai đó gọi là “cười hão khóc vờ”; còn ông, ông tin đó là
sự thực, vì ông đang sống với nó kia mà:
... Gió
rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan
thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm
trong vũng trăng đêm ấy
Sáng
dậy điên cuồng mửa máu ra ...
Trong
đời và trong thơ Hàn Mặc Tử, một thứ thời-gian-sống-chồng-chất đã hiện ra như
thế!
Chế Lan
Viên có lý khi cho rằng Hàn Mặc Tử không phải là nhà thơ siêu thực: Cái khác
của ông với nhiều nhà thơ Việt Nam lãng mạn đương thời và những nhà thơ siêu
thực phương Tây là bằng chính trái tim, bằng chính nỗi lòng, ông đã đẩy cái
“tràn bờ” kia vào miền đất của tượng trưng, siêu thực và cả thần bí nữa:
Phượng
trì! Phượng trì! Phượng trì!
Thơ tôi
bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi
bay đến bao giờ mới đậu
Trên
triều thiên ngời chói rạng hào quang?
(Thánh
nữ Đồng trinh Maria- Xuân như ý)
Vangogh
(danh họa thiên tài Hà Lan, tác giả Hoa diên vĩ) giật lấy khoảng thời gian ít
ỏi giữa hai cơn điên để vẽ, để đem màu sắc, đường nét, ánh sáng, khối hình hòa
vào cái thống thiết, dữ dội, cuồng nộ của lòng mình. Còn với Hàn Mặc Tử, câu
thơ, bài thơ hình như được viết cả trong giấc mơ, trong cơn đau, trong lúc “dắt
hồn đi ròng rã một đêm nay”. Ông làm thơ để giành giật sự sống và ông sống đầy
lên trong những câu thơ. Chính cái thời-gian-sống-chồng-chất kia đã chuyên chở
cái không-gian-sống-chồng-chất giàu có, tràn đầy nầy:
Khói
nhạt nhạt xen vô màu xanh biếc
Tiếng
huyền địch gò theo tia yến nguyệt
Đẩy đưa
dài hơi ngào ngạt trầm mơ
Thinh
không tan như bào ảnh hư vô
Giải
Ngân hà biến theo cầu Ô thước
Và ước
ao và nhớ nhung lần lượt
Đắm im
lìm trong mường tượng buồn thiu!
(Đừng
cho lòng bay xa – thương thanh khí)
Nếu ta
“chịu sống” cùng nhà thơ, nếu ta cùng nhà thơ thể nhập thì những câu thơ này sẽ
dẫn vào một thế giới mà thời gian, không gian, hồn người cùng đồng hiện, biến
dịch, đảo lộn, va vào nhau, trườn lên nhau rồi lại đắm chìm “trong mường tượng
buồn thiu” khi chính thi nhân đã dừng lại (hay đi quá?) để đắm chìm... Và còn
bao nhiêu câu thơ, bao nhiêu bài thơ như thế trong Thơ Điên, Xuân như ý, Thượng
thanh khí, Cẩm châu duyên, Quần tiên hội? Chính cái chồng chất ấy của nguồn
sống, cái tràn đầy ấy của linh hồn đã khiến trong thơ Hàn Mặc Tử có được sự gặp
gỡ, dung hợp (một sự gặp gỡ dung hợp làm khá nhiều người rối trí) giữa sự trần
tục, thân xác kiểu Wittmall, Bích Khê với cái siêu thoát, tiêu diêu của Thánh
thi, Lạc âm thiều giữa sự kinh dị ma quái kiểu Bồ Tùng Linh, Edgard Poes và cái
bình dị, ngọt ngào của ca dao. của hát vè chàng Lía ...
Chủ
nghĩa hiện sinh nhìn nhận cái tôi tồn tại như một hữu thể hiện sinh – phi lý và
chấp nhận hành động như là sự dấn thân, một sự dấn thân không đòi ý nghĩa xã
hội mà chỉ để “khai phóng hiện sinh”. Hàn Mặc Tử, khác hẳn, ông lăn cả thân xác
và tâm hồn vào “hiện sinh” là để cướp thời gian, giành giật sự sống, chiến đấu
với định mệnh nghiệt ngã, chống lại bệnh tật, chống lại cô đơn. Ông hiểu sâu
sắc và yêu tha thiết cuộc sống trần thế này. Bởi vậy, dù có dẫn hồn mình đi vào
trăng sao, “Trong mây kinh, trong gió nguyện cầu” ông vẫn quay về, vẫn giữ lấy,
gắn bó với “nhục thể” cho đến giọt sống cuối cùng, vì ông biết rằng, một khi
giọt sống cuối cùng kia không còn nữa như vào cái ngày 11 tháng 11 cách đây nửa
thế kỷ, thì cái còn lại chỉ là sự chết, im lặng, hoang vu, không có “vẻ phấn
hương nào kề cận với tài hoa”, cũng chẳng có “nàng tiên mô đến khóc”
Anh chỉ
ngó say em trong chốc lát,
Để hồn
thơ rào rạt với mây bay
Gần em
luôn để hưởng bao khoái lạc
Thưa
em, không, anh đâu dám mê say
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao
sương anh nằm chết như trăng
Không
tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn
anh và rửa vết thương tâm
(Duyên
kỳ ngộ)
Giá băng, đông lạnh của một thời đã ruồng rẫy Hàn Mặc Tử cũng như đã ruồng rẫy Bích Khê, người bạn thơ tri kỷ và cùng cảnh ngộ của ông. Không, không hẳn là như thế. Người ta đối xử với ông không giống như với Bích Khê. Đâu đấy vẫn còn trích, còn tuyển Đây thôn vĩ dạ, Mùa xuân chín, Tình quê. Thế nhưng lối “sửa lưng cho vừa áo” ấy có khác chi ruồng rẫy, lạnh lùng. Hàn Mặc Tử đã sống như một CON NGƯỜI, còn người ta thì biến ông thành những - mảnh - người. Nếu Hàn Mặc Tử chỉ còn là những-mảnh- người thì vườn thơ đất nước này sẽ vắng đi “muôn ngàn hoa phẩm tiết”, muôn ngàn quả chín thơm lành phước lộc.
Giá băng, đông lạnh của một thời đã ruồng rẫy Hàn Mặc Tử cũng như đã ruồng rẫy Bích Khê, người bạn thơ tri kỷ và cùng cảnh ngộ của ông. Không, không hẳn là như thế. Người ta đối xử với ông không giống như với Bích Khê. Đâu đấy vẫn còn trích, còn tuyển Đây thôn vĩ dạ, Mùa xuân chín, Tình quê. Thế nhưng lối “sửa lưng cho vừa áo” ấy có khác chi ruồng rẫy, lạnh lùng. Hàn Mặc Tử đã sống như một CON NGƯỜI, còn người ta thì biến ông thành những - mảnh - người. Nếu Hàn Mặc Tử chỉ còn là những-mảnh- người thì vườn thơ đất nước này sẽ vắng đi “muôn ngàn hoa phẩm tiết”, muôn ngàn quả chín thơm lành phước lộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét