Thứ Ba, 22 tháng 3, 2016

Nghìn lẻ một ngày 2

Nghìn lẻ một ngày 2
Chương 9: Chuyện hoàng tử Falala, con trai quốc vương Ben- Ortoc, xứ Muxen
Tôi là con trai của nhà vua xứ Muxen, đức Ben-Ortoc vĩ đại. Tôi vừa tròn hai mươi tuổi, phụ vươnng tôi đã muốn cưới vợ cho tôi. Người sai dẫn đến cho tôi xem mặt nhiều cung nữ trẻ, trong số ấy có lắm cô khá đẹp. Tôi dửng dưng nhìn tất cả một lọat, chẳng thấy cô nào gây ấn tượng gì. Các cô cũng nhận ra điều đó. Mọi người đều đỏ mặt và cùng ra về. Ai nấy đều không vui vì chẳng một ai trong bọn họ chinh phục được trái tim hoàng tử.
Phụ thân tôi cũng khá ngạc nhiên sao con trai mình dửng dưng trước gái đẹp như vậy. Trước đây người không hề hình dung điều đó. Ngược lại cha tôi vẫn tưởng, một khi trông thấy bấy nhiêu thiếu nữ xinh đẹp mỗi người một vẻ, chắc hẳn tôi sẽ gặp khó khăn trong sự lựa chọn. Tôi tâu với phụ vương, tôi chưa muốn lấy vợ. Nguyện nhân có lẽ tại tôi đang cực kỳ mơ ước được đi du ngọan đó đây. Tôi xin phép người cho tôi được một mình sang thành phố Batđa chơi, chắc sau chuyến đi ấy trở về, tôi sẽ đi đến quyết định lập gia thấy. Cha tôi không muốn trái ‎ con trai. Người cho phép tôi làm một chuyến du hành về thành phố vĩ đại ấy. Và để cho tôi có điều kiện đến thành phố ấy với tư cách một hòang tử con vua, phụ vương tôi truyền lệnh chuẩn bị cho một đòan tùy tùng thật sang trọng. Người sai mở kho tang lấy tiền vàng ra chất đầy lưng bốn con lạc đà. Người lại cắt cử nhiều gia nhân vốn quen hầu hạ trong  cung đi  theo phục dịch tôi, đồng thời cử một trăm binh sĩ lấy từ đội cấm vệ của người cho tháp tùng để bảo vệ tôi.
Vật là với đám tùy tùng đông đảo ấy tôi rời thành phố Muxen, lên đường đi về thành phố Batđa. Những ngày đầu dọc đường bình yên vô sự, chẳng có việc gì xảy ra. Nhưng một đêm, trong khi chúng tôi hạ trại nghĩ giữa một đồng cỏ, đột nhiên bị một tóan người Bêđuin rất đông đão xông vào tấn công. Phần lớn những người tùy tùng của tôi bị chúng giết hại ngay giờ phút đầu. Khi nhận ra mình đang lâm vào một thế hiểm nghèo ghê gớm, tôi vội tập hợp những binh sĩ cha tối đã phái theo để bảo vệ, dũng cảm đánh trả bọn cướp Bêđuin. Chúng tôi đánh hung dữ dội đến nỗi hơn ba trăm tên cướp ngã gục trước đường gươm mũi giáo của chúng tôi. Nhưng đến sáng, cậy vào thế đông, bọn cướp đông đảo vẫn bao vây được chúng tôi. Bực bội vào xấu hổ trướv sự đề kháng của một nhóm nhỏ người, chúng liền dốc tòan lực đánh mạnh hơn nữa. Cho dù chúng tôi cố gắng chống trả, cuối cùng vẫn bị chúng đánh bại. Chúng thu hết vũ khí và lột áo quần chúng tôi đang mặc trên người. Thông thường bọn giặc bắt sống nhưng người bị chúng chặn đường cướp của mang đi bán làm nô lệ, hoặc là để mặc tại chỗ cho chết đói chết khát bên đường. lần này chúng muốn trả thù cho đồng đội bị bỏ mạng, chúng đang tâm giết chết tất cả những người giờ đây không còn khả năng bảo vệ. Tất cả đòan tùy tùng của chúng tôi đều bỏ mạng trước lưởi gươm tàn bạo của bọn cướp. Tôi sắp chịu chung số phận với mọi người thì chợt nảy ra ‎ nên tự xưng mình là ai, tôi liền bảo chúng:
       _ Hãy dừng tay lại, hỡi những người bạo gan kia. Các ngươi phải biết tôn trọng dòng máu quân vương chứ. Ta chính là hòang tử Falala, con trai duy nhất của đức Ben-Ortoc, quốc vương xứ Muxem. Ta là người thừa kế ngai vàng xứ ấy.
Tên Bêđuin thủ lĩng bọn cướp đáp:
_ Ta thật hài lòng nghe anh nói rõ anh là ai. Bởi ta có mối thù không đội trời chùng với cha anh từ lâu. Cha anh đã cho treo cổ không ít bạn bè ta chẳng may sa cơ bị bắt. Giờ đây ta cũng sẽ đối xứ với anh theo cách cha anh đã đối xử với đồng bọn ta.
Nói xong, nó sai trói gô tôi lại. Bọn cướp đọat nốt đòan ngựa và lạc đà của chúng tôi, rồi dẫn tôi đi bộ đến chân một quả núi nằm giửa hai cánh rừng, ỏ đấy có vô số lều trại nhỏ dựng lên, tất cả một màu xám xịt. Đấy là hang ổ bọn cướp. Chúng dẫn tôi đến lều của tên đầu lĩnh. Cái lều này rộng lớn hôn tất cả các lều khác và nằm chính giữa. Chúng giam tôi suốt một ngày ở đó, sau đó lôi ra trói vào một gốc cây. Chúng định để tôi đấy cho chết dần, trong thời gian chúng mãi đi làm ăn những chuyến khác. Nhiều tên cướp trước khi bỏ đi còn vây quanh tôi, chửi bới, chế giễu; tóm lại chúng tùm đủ mọi cách làm nhục tôi.
Ngày thứ bốn mươi chín
Tôi bị trói vào gốc cây ấy đã lâu lắm rồi, vừa đói vừa khát chắc chẳng bao lâu nữa sẽ trút hơi thở cuối cùng, thì một tên cướp đi thám thính trở về báo với tên đầu lĩnh Bêđuin biết có thể sắp có một chuyến làm ăn to: Cách đây chừng bảy dặm có một đòan lữ hành lớn tối mai sẽ hạ trại tại một nơi nào đó. Viên đầu lĩnh bọn cướp lập tức ra lệnh chuẩn bị khởi hành. Tất cả bọn lên ngựa, để tôi lại một mình trong hang ổ của chúng. Chúng chắc mẫm khi quay trở lại thì tôi đã chết ngỏm từ đời nào rồi. Tuy nhiên, dường như mệnh trời chưa muốn bắt tôi phải chêt. Vợ tên đầu llĩnh đem lòng thương hại tình cảnh của tôi. Ngay tối hôm bọn cướp lên đường, người đàn bà ấy đến bên gốc cây và nói với tôi:
       _Chàng trai kia, ta thương hại nỗi bất hạnh của anh. Ta muốn cướp giúp anh. Nhưng nếu ta cởi trói và cho anh được phép tự do, liệu anh còn có sức để trốn chạy?
       _ Tôi có đủ sức – tôi đáp- Thượng đế đã xui khiến bà thương hại đến tôi, thì thượng đế sẽ cho tôi đủ sức để chạy trốn.
       Người vợ tên đầu lĩnh cởi trói, còn ném cho tôi một chiếc áo dài cũ của chồng với hai ba chiếc bánh mì, rồi trỏ cho tôi thấy một con đường: “Hãy cứ theo lối kia mà đi, cứ đi theo con đường ấy, chớ rẽ đi đâu khác, anh sẽ đến được một nơi có người ở.”
       Tôi cảm ơn người phụ nữ đã cứu sống, rồi suốt đêm hôm ấy cứ lần theo mỗi con đường ấy mà đi, không đi ngang rẽ tắt sang bất kì một lối nào khác.
       Sáng hôm sau tôi gặp một người đi bộ đang dắt hai con ngựa chở hai kiện hàng lớn trên lưng. Tôi đến gấn, xưng mình là một người nước ngòai không may đi lạc vì chưa quen đường đất xứ này, rồi hỏi ông đang đi về đầu. Người  ấy đáp:
       _ Tôi mang hàng hóa về thành phố Batđa bán. Nội trong hai ngày nữa tôi sẽ đến thành phố ấy.
       Tôi liền đi theo ông ta, cho mãi khi vào đến bên trong thành phố, mới từ giã. Người đàn ông ấy đi lo công việc của mình, còn tôi, tôi vào một thánh đường, nghĩ ở đấy hai ngày hai đêm cho lại sức. tôi cũng không muốn ra khỏi thánh đường, sợ nhỡ gặp người thành phố Muxen họ sẽ nhận ra tôi chăng. Tôi xấu hổ thấy mình lâm vào tình cảnh này. Đã không tính chuyện nói cho mọi người rõ mình là ai, tôi còn muốn giấu diếm gốc tích. Tuy nhiên, đói thì đầu gối phải bò. Tôi không thể không lần ra khỏi nơi ẩn náu. Tôi quyết định đành phải đi xin ăn như một kẻ khốn cùng, torng khi chờ đợi nghĩ ra kế nào hay hơn.
       Tôi đến bên cửa sổ tầng trệt một ngôi nhà to và lớn tiếng ngỏ lời xin được bố thí. Một bà giúp việc già mở cửa sổ, tay bà cầm một cái bánh định đưa cho người hành khất. khi tôi bước tới để đón chiếc bánh, tình cờ một ngọn gió nâng cái rèm che cửa sổ. Nhìn vào phòng, tôi thấy một thiếu nữ xinh tươi lạ lùng. Sắc đẹp lộng lẫy của nàng chói vào mắt tôi giống như một tia chớp, làm tôi gần như chóang váng. Tôi đón chiếc bánh mà chẳng rõ mình đang làm gì. Tôi đứng như phỗng trước mặt bà già giúp việc, quên cả nói lời cảm ơn. Tôi tỏ ra vừa ngạc nhêin vừa bối rối vừa bang hòang, đến nỗi bà tưỡng tôi là một con người ngớ ngẩn. Bà quay và nhà, để tôi một mình trên đường phố, cứ đứng đấy mà nhìn vào cửa sổ một cách vô vọng, bởi chờ mãi không có ngọn gió nâng bức rèm lên nữa.
       Tôi cứ đứng đấy suốt ngày hôm ấy, chờ may ra còn đó một ngọn gió nữa thuận lợi cho mình chăng. Đến khi trơi sắp tối, đành tính chuyện ra về. Trước khi rời xangôi nhà ấy, gặp một cụ già tình cờ đi ngang qua, tôi hỏi ngôi nhà này của ai vậy. Cụ già đáp: đây là dinh cơ ngài Muaphac, con ytai ngài Atban. Đất là một vị quan to cao qu‎, vừa giàu vừa sang. Ngài vừa đựoc cử làm thống đốc thành phố này chưa bao lâu, thế mà không hiểu sao đã phát sinh bất hòa với quan chánh án. Ông nay đã tìm cách gièm pha với hòang đế, hy vọng ngài sẽ truất chức thống đốc của ông Muaphac, thế mà rốt cuộc ông chánh án thành công trong mưu đồ của ông ấy.
       Sau chuyện tình cờ trông thấy vừa rồi, người tôi đâm mê mẩn. Tôi ra khỏi thành phố lúc nào không để ‎. Đêm đến, đành vào một nghãi trang lớn, định ngủ tạm qua đêm trong ấy. Tôi nuốt miếng bánh chẳng mấy ngon lành cho dù lúc này bụng đang đói như cào. Ăn xong, tôi  nằm xuống cạnh một ngôi mộ, đầu gối lên mấy viên gạch. Định ngủ song chẳng thể nào ngủ yên. Hình ảnh cô tiểu thư con ngài Muzaphac làm tim tôi rung động. Hình ảnh khả ái của nàng kích thích trí tưởng tượng, mặt khác bữa ăn vừa rồi quá ư đạm ạc, cũng khó làm cho giấc ngủ đến nhanh. Tuy nhiên trăn trở mãi rồi cũng thiếp đi. Chưa được bao lâu chợt có tiếng động mạnh cùng tiếng ồn ào bên trong ngôi một làm tôi giật mình thức giấc.
Ngày thứ năm mươi
       Khiếp đảm vì tiếng động không rõ nguyên nhân, tôi vội ngỏm dậy định chạy khỏi nghĩa trang. Hai người đang đứng ở lối vào ngôi mộ, nhìn thấy tôi từ trong đi ra chặn lại hỏi tôi là ai, đang làm gì trong nghĩa trang này. Tôi đáp:
       _ Tôi là một người nuớc ngòai bất hạnh, vì gặp cảnh không may, đi đến chỗ phải ăn xin để kiếm sống. Tôi đến đây định ngủ nhớ qua đêm, bởi không có một nơi nghỉ nào khác trong thành phố.
       Một người liền nói:
       _ Anh là một kẻ ăn mày? Vậy hãy tạ ơn trời đất đã cho anh gặp chúng ta. Bọn ta sẽ cho anh chén một bữa linh đình.
       Vừa nói hai người ấy vừa kéo tôi vào tuột trong ngôi mộ. Ở đấy đã có bốn người khác đang quây quần quanh một phiến đá dài dung làm bàn, ngồi ăn củ cải đường cùng quả chà là, và thi nhau nốc nhiều bình rượu lớn. Họ bảo tôi ngồi xuống bên cạnh. Tôi buộc phải ăn phải uống vì sợ họ. Thọat tiên tôi đã nghĩ ngay đây là bọn trộm cướp. Nghe chúng nói chuyện với nhau tôi hiểu ra là mình đóan đúng. Chúng đang nói về một vụ trộm lớn chúng vừa làm trot lọt. Chúng nghĩ hẳn tôi sẽ rất thú vị được nhập bọn, liền ngỏ Ý ấy ra, khiến tôi vô cùng bối rối. Các vị có thể hiểu làm sao tôi có thể bạn bè với lọai người như vậy. Nhưng tôi sợ nếu không chịu nhận lời, sẽ làm chúng nổi giận. Tôi bối rối do vậy. Tôi đang lung túng chưa biết nên đối đáp thế nào, thì bỗng nhiên một việc xảy ra giúp tôi thóat khỏi khó khăn. Đích thân viên phó của quan chánh án thành phố, theo sau có chừng hai, ba chục người mang vũ khí xộc vào ngôi mộ, túm lấy bọn trộm cướp và cả tôi nữa, mang tống tất cả vào trại giam khóa trái cửa lại để cả bọn đất suốt đêm hôm ấy.
       Ngày hôm sau quan chánh án than hành hỏi cung những người vừa bị bắt. Bọn trộm thú nhận tội ngay, bởi chúng biết có chối cũng vồ ích. Về phần mình, tôi thuật lại cho quan chánh án nghe tôi gặp bọn chúng trong hòan cảnh như thế nào. Bọn trộm cũng xác nhận đúng như vậy, người ta liền cho tôi ra riêng một nơi. Hình như quan chánh án muốn thảm vấn riêng tôi trước khi tha cho về. Quả vậy, ông gọi tôi vào phòng, hỏi tôi làm gì trong nghải trang để đến nỗi bị bắt, và tôi đã làm gì những ngày sống ở Batđa vừa qua. Tóm lại, ông hỏi tôi đủ mọi thứ. Tôi một mực trả lời rất thành khẩn, trừ mỗi một việc không nói rõ xuất thân mình là ai. Tôi thuật lại đầy đủ tất cả những việc tôi đã làm thời gian qua, kể cả chuyện ngày hôm trước đến ăn xin bên cửa sổ tầng một nhà ngài Muaphac, tình cờ có nhìn thấy một tiểu thư rất đẹp ngồi trong nhà.
       Tôi để Ý thấy, nghe nhắc đến tên Muaphac, đôi mắt quan chánh án long lên. Ông ta ngồi yên một lúc, có vẻ trầm ngâm, sau đấy lấy bộ vui vẻ nói với tôi:
       _ Chàng trai à, chỉ còn tùy thuộc ở anh thôi, nếu anh muốn được thành hôn với cô tiểu thư anh thấy ngày hôm qua. Chắc hẳn đấy là con gái của ngài Muaphac, bởi ta nghe nói ông ta có một cô tiểu thư xinh đẹp tuyệt trần. Cho dù lúc này anh đang là con người cùng khổ nhất thế gian, ta vẫn có thể làm cho anh đạt đến đỉnh cao mong ước. Muốn được vậy, anh chỉ có việc để yên cho ta hành động. Ta có cách làm cho anh bỗng chốc trở nên phú quÝ vinh hoa.
       Tôi cảm tạ quan án, cũng chẳng buồn tìm rõ Ý đồ ông định thế để làm gì. Theo lệnh ông, tôi cứ theo sau viên chỉ huy tốp cảnh sát vốn phục dịch hầu hạ trong dinh quan chánh án. Ông truyền thả cho tôi ra khỏi nhà tù, và sai dẫn tôi đến luôn nhà tắm công cộng.
       Trong khi tôi đang tắm rửa thì vị quan tòa ấy sai hai viên cánh sát khác đến nhà quan nguyên thống đốc Muaphac, bẩm quan chánh án muốn bàn với ông một công việc cực kỳ hệ trọng. Ông Muaphac liền đi theo hai viên cảnh sát đến gặp quan án. Viên chánh án vừa trông thấy ông Muaphac, đã vội vàng bước ra đón, lễ phép cúi chào và ôm hôn nhiều lần rất nồng nhiệt. Ông Muaphac khá ngạc nhiên về sự đón tiếp ấy. Ông tự hỏi: “Quái, tại sao viên chánh án này, kẻ thù không đội trời chung với ta bây giờ, lại đối xử với ta trọng thị như vậy? Chắc lạo có mưu đồ gì đằng sau đây.” Viên chánh án nói:
       _ Kính thưa ngài Muaphac, trời không muốn chúng ta kình địch với nhau lâu hơn nữa. Hôm nay tôi dân ngày một cơ hội để dập tắt mối thù hằn đã chia rẽ nhiều năm hai gia đình chúng ta. Tối qua, hòang tử con vua xứ Basra vừa đến thành phố Batđa. Hiện hòang tử đang nghĩ trong nhà tôi. Chàng rời khỏi kinh đô Basra mà không xin phép vua cha. Bởi chàng nghe đồn đại về sắc đẹp tiễu thư con gái ngài. Ai cũng nói cô là người nhan sắc khác thường, hòang tử đâm long yêu mến, và chàng quyết định đến đây mong tìm cách cưới cô làm vợ. Hòang tử định thong qua sự mai mối của tôi, sao cho cuộc hôn nhân ấy có thể trở thành thực tế ngay tối hôm nay. Yêu cầu của hòang tử làm tôi rất vui lòng, bởi tôi nghĩ đây là một cơ hội tốt đẹp cho phép tôi xóa sự bất hòa xưa nay với ngài.
       Thống đốc Muaphac đáp:
       _ Tôi rất ngạc nhiên sao hòang tử xứ Basra nghĩ tới chuyện cho tôi vinh dự được gả tiện nữa Zemrut cho chàng, và chính ngài chánh án lại là người báo cho tôi hay tin ấy, ngài là người xưa nay lúc nào tìm cách gây chuyện có hại cho tôi.
       _ Thôi chúng ta chớ nên nói về quá khứ nữa, ngài Muaphac ạ - viên chánh án ngắt lời.- Xin ngài làm ơn, chúng ta hãy cùng quên đi tất cả những điều chúng ta đã làm phiền long nhau. Vì cuộc hôn nhân cao quÝ sắp diễn ra giữa tiểu thư của ngài với hòang tử xứ Basra, chúng ta hãy sống những ngày sắp tới trong sự hòan tòan thong cảm với nhau.
       Nguyên thống đốc Muaphac là một người bản tính rất tốt, cũng như viên chánh án là một người cực kỳ xấu xa. Ông bị mắc lừa ngay những biểu hiện bạn bè than ái của kẻ thù không đội trời chung. Ông quên đi ngay mối hận và tin tưởng mọi lời đường mật viên chánh án tuôn ra. Hai người lại ôm hôn nhau và cùng nhau thề thốt sẽ kiến tạo một tình bạn không có gì phá vỡ nổi.
       Vừa lúc này tôi được viên trưởng cảnh sát dẫn vào phòng. Anh này đã chờ tôi tắm rửa xong, để đưa cho một chiếc áo chòang rất đẹp bảo mặc vào, cùng một chiếc khăn đội đầu bằng lụa Án Độ đắt tiền, có cái dải vàng rũ xuống bên tai. Thọat nhìn thấy tôi bước vào phòng, viên chánh án nói:
       _ Thưa hòang tử cao quÝ, xin hoan nghên ngài có nhã Ý đến thăm thành phố Batđa, đặc biệt ngài đã hạ cố lưu lại ở nhà tôi. Tôi không có cách sao bày tỏ hết long cảm kích và sự biết ơn của mình trước vinh dự lớn lao. Xin được giới thiệu đây là ngài nguyện thống đốc Muaphac. Tôi đã có dịp thưa với ngài về mục đích chuyện tới đây của hòang tử. Ngài thống đốc đã chấp thuận cho tiểu thư con gái ngài – một cô gái đẹp tựa tiên nữ- thành thân cùng hòang tử, làm vợ chính thức của ngài.

Ông Muaphac liền cúi chào rất thấp và nói với tôi:
_ Thưa hòang tử con trai nhà vua vĩ đại! tôi rất bối rối trước vinh dự hòang tử định ban cho con gái tôi. Tôi nghĩ cháu hẳn đã thấy mình đã quá hạnh phúc lắm rồi nếu chỉ được làm một nô tỳ cho một bà hoàng nào trong tư cung của ngài.
Nghe hai người nói qua nói lại như vậy, tôi ngạc nhêin không sao tả xiết, không bếit mình nên nói năng thế nào. Tôi đành lặng im cúi chào ông Muaphac. Viên chánh án nhìn thấy sự bối rối của tôi, e tôi sẽ thốt ra một lời đối đáp nào có thể làm đảo lộn mưu đồ của ông ta chăng, liền vội vã nói luôn:
       _ Bản hôn ước cần được kÝ kết ngay bây giờ trước sự chứng giám của các vị nhân chứng đầy đủ tư cách.
       Nói xong ông truyền cho viên trưởng cảnh sát đi mời các người làm chứng. Trong thời gian chờ đợi, đích thân ông làm bản giá thú.
Ngày thứ năm mươi mốt
       Khi viên trưởng cảnh sát mời các người làm chứng tề tựu đông đủ, bản hôn ước thảo xong được đọc lên trước mặt mọi người và tôi kÝ tên vào. Thống đốc Muaphac kÝ tiếp, rồi sau đó người cuối cùng đặt bút kÝ là quan chánh án. Nghi thức vậy là xong. Chán hán mời các ng7ời làm chứng ra về, rồi nói với ông Muaphac:
       _ Ngài biết rồi đấy, việc hôn nhân của các vị cao sang không diễn ra như những người bình thường, cần phải bí mật và nhanh chóng. Xin ngài hạy rước vị hòang tử đây về dinh ngài, bây giờ hòang tử đã là con rể của ngài. Xin ngài hãy nhanh chóng truyền lệnh tổ chức lễ cưới tại tư dinh. Mong ngài để mắt cho để mọi việc diễn ra tốt đẹp.
       Tôi theo nguyên thống đốc Muaphac bước ra khỏi nhà viên chánh án. Đến cổng đã thấy có hai con lừa rất đẹp thắng yên cương sang trọng đang chờ. Viên chánh án mời hai chúng tôi cưỡi lên một cách rất trọng vọng. Thống đốc Muaphac dẫn tôi về nhà. Vừa vào tới sân, ông vội xuống lừa trước. Với thái độ rất kính cẩn, ông tiến lên giữ bàn đạp cho tôi bước xuống, làm tôi hết sức băn khoăn. Tiếp đó ông ta cầm tay dẫn tôi lên phòng riêng của con gái. Sauk hi nói tóm tắt cho con gái hay những việc vừa diễn ra ở nhà quan chánh án, ông để tôi ở lại đấy một mình cùng với nàng.
       Tiểu thư Zemrut tin cha vừa gả mình làm vợ hòang tử Basra thật. Nàng đón tiếp tôi như đón tiếp một người chồng rồi đây sẽ tấn phong nàng làm hòang hậu cả xứ Basra. Về phần mình, tôi hết sức hài long vì được làm bạn với người mình đang yêu thương tha thiết, suốt ngày hôm ấy tôi trò chuyện mặn nồng với tiểu thư. Tôi cố gắng bằng mọi cách, qua thái độ trang nhả và cử chỉ dịu dàng âu yếm, gây được cảm tình của nàng. Chả mấy chốc tôi nhận ra tuổi trẻ và tình yêu của tôi nhanh chóng gây ấn tượng cho cô gái. Rõ rang, về phần nàng, cũng không phải không có cử chỉ bày tỏ lòng thật sự yêu quÝ tôi.
       Để mừng cuộc hôn nhân của con gái, thống đốc Muaphac sai bày một bữa tiệc lớn,, có đông đủ mọi người trong gia đình cùng dự. Cô dâu xuất hiện xinh tươi rực rỡ như một tiên nữ giáng trần; tình yêu chớm nở đối với tôi càng làm cho nàng them lộng lẫy. Sau bữa ăn là cuộc vui nhảy múa và đàn ca. Nhiều nô tỳ khá xinh đẹp vừa múa hát vừa biểu diễn các thứ nhạc cụ. Trong khi mọi người tiếp tục nghe đàn hát thì bà mẹ đưa cô dâu ra ngòai.
        Lát sau, thống đốc Muaphac đích thân đến cầm tay dẫn tôi đến một căn nhà khá đẹp. Chúng tôi cùng bước vào một căn phòng bày biện đồ đạc khá sang trọng. Giữa phòng có một chiếc giường lớn nhiều cây nến cắm trên những chân đèn bằng bạc chiếu sáng và tỏa mùi thơm ngát. Tiếu thư Zemrut đã được đích thân bà mẹ và hai cô giúp việc cởi bỏ trang phục cho, đã nằm chờ sẵn trên giường. Thống đốc Muaphac, vợ và hai nữ tỳ lui ra. Để lại tôi trong căn phòng ấy sau khi cảm tạ và cầu trời đất hảy ban hạnh phúc cho chúng tôi. Tôi cởi bỏ áo ngòai, lên giường nằm cạnh con người mà tôi yêu quÝ nhất trần đời.
       Hôm sau, rất sớm, đã nghe có tiếng gọi ở cửa phòng. Ra mở cửa, tôi thấy viên trưởng cảnh sát hôm qua mang đến một mớ áo quần rách rưới trong cái gói. Thọat nhìn cái gói, tôi ngỡ viên chánh án sai mang đến biếu vợ tôi và tôi mỗi người một bộ lễ phục. Nhưng tôi đã nhầm. Viên cảnh sát da đen nói với vẻ giễu cợt:
       _ Thưa nhà phiêu lãng giang hồ, quan chánh án gửi lời chào ngài. Quan xin ngài hãy làm ơn trả lại bộ áo quần mà qua cho ngài mượn tối hôm qua để sắm vai hòang tử xứ Basra. Tôi mang đến đây chiếc áo dài cũ và cách đồ dung rách nát của ngài. Giờ ngài có thể mặc lại bộ trang phục hàng ngày của mình.
        Thọat tiên tôi cũng hơi ngạc nhiên, nhưng sau đó tôi hểiu ra ngay tất cả sự xỏ lá của viên chánh án. Tôi trả viên trưởng cảnh sát chiếc khăn đội đầu cũng như tấm áo dài để mang về cho chủ nó, và mặc lại chiếc áo dài cũ kỹ đã thủng rách nhiều chỗ.
       Tiểu thư Zamrut cũng đã nghe được một phần những lời viên trưởng cảnh sát da đen nói. Nhìn thấy tôi mặc rách rưới, nàng kêu lên:
       _ Trời đất! Sự thay đổi này là thế nào? Anh kia đến nói với chàng điều gì đấy?
       Tôi đáp:
       _ Thưa bà hòang của tôi, viên chánh án là một tên đểu cáng nhất trên đời này. Nhưng chính nó lại là nạn nhân của sự đểu cáng của nó muốn lừa gạt người khác. Nó cứ tưởng lừa nàng lấy một kẻ khốn nạn, sinh ra từ lớp người hạ đẳng làm chồng, nhưng thật ra nàng đang làm vợ một hòang tử. Địa vị của tôi chẳng hề thua kém người chồn gmà tối hôm qua người ta giới thiệu để nàng kết hôn. Địa vị của hòang tử Basra thì có hơn gì địa vị của tôi đây, con trai duy nhất của nhà vua đang trị vì xứ Muxen.Tôi là người sẽ kế vị ngai vàng của đức  Ben-Ortoc vĩ đại. Tên tôi là Falala.
       Nói xong tôi thuật lại đầu đuôi mọi câu chuyện đã xảy ra với tôi, không bỏ bớt một chi tiết nào. Chờ tôi kể xong, tiểu thư nói:
       _ Thưa hòang tử của em, cho dù chàng không phải là con trai của một nhà vua vĩ đại đi nữa, thì em vẫn yêu chàng không kém. Em xin quả quyết với chàng, nếu em có tỏ ra vui mừng được biết dòng dõi cao sang của chàng, ấy là để làm vui lòng thân phụ em là chính, người lúc nào cũng quan tâm đến các lễ nghi và sự môn đăng hộ đối. Mong ước lớn nhất của đời em là được một người chồng chi yêu duy nhất mình em thôi, một người chồng chẳng bao giờ để cho em phải ghen tuông những người phụ nữ khác.
       Tôi vội nói với nàng tôi sẽ yêu nàng trọn đời. Tiểu thư Zemrut có vẻ hài long về lời quả quyết ấy. Tiểu thư gọi một người giúp việc, dặn riêng với người ấy hãy nhanh chóng đến một hiệu buôn, mua một bộ trang phục đàn ông đã may sẵn và vào lọai sang trọng nhất. Cô nô tỳ nhanh nhảy chạy đi, và lát sau trở lại mang theo một chiếc áo dài và một bộ áo ngắn rất đẹp, cùng một cái khăn đội đầu may bằng lụa Ấn Độ giống hệt như cái đội tối hôm qua, thành thử bây giờ trông tôi ăn mặc có vẻ còn sang trọng hơn hôm trước. Lúc này nàng Zemrut mới nói với tôi:
       _ Thưa chàng, chàng không phải lo viên chánh án sẽ có cớ để mừng vui câu chuyện lão bày ra định làm hại chúng ta. Lão muốn làm nhục gia đình em, ngược lại lão đã tạo nên cho gia đình em một vinh dự đời đời. Lúc này hẳn lão tưởng tượng gia đình em đang hết sức buồn phiền. Chính lão sẽ phải buồn phiền hơn nữa nếu rồi đây lão biết đã phục dịch tốt đến vậy các kẻ thù của lão. Nhưng trước khi cho lão biết chàng là ai, tao phải trừng trị mưu đồ xấu xa của lão. Em sẽ lo việc ấy. Em biết trong thàng phố này có một người thợ nhuộm có một cô con gái xấu khủng khiếp. Nhưng giờ đây em chưa muốn nói nhềiu hơn nữa, để cho chàng rồi sẽ tha hồ ngạc nhiên. Lúc này chảng chỉ cần bếit em đang suy tính một kế họach trả thù, nó sẽ làm cho viên chánh án kia đi đến chỗ tuyệt vọng, khiến cho nó trở thành trò hề trước triều đình và cả trong thành phố này.
Ngày thứ năm mươi hai
       Tôi nghĩ là chỉ cần nói cho viên chán án rõ đích thực tôi là ai, cũng đủ làm cho y buồn rầu khốn khổ rồi. Nhưng nàng Zemrut có vẻ cực kỳ mong muốn trả thù. Các vị hiểu tính đàn bà rồi, tôi chẳng việc gì phải trái Ý, tôi cứ để yên nàng muốn làm gì thì làm. Nàng mặc vội một bộ áo quần dân thường nhưng khá sạch sẽ, sau khi lấy một tấm mạng khá dày trùm lên mặt. nàng xin phép tôi được ra phố. Tôi đồng Ý.
       Nàng ra khỏi nhà một mình, đi thẳng đến dinh cơ viên chánh án. Đến nơi, nàng tìm một chỗ đứng ở góc phòng, nơi viên chánh án thường tiếp dân chúng hằng ngày. Vừa trông thấy nàng, viên chánh án chú ‎ ngay dáng vẻ đường bệ của người phụ nữ, liền sai một viên cảnh sát đến hỏi bà là ai và bà cần gì. Nàng đáp mình là con gái một thợ thủ công trong thành phố, nàng có nguyện vọng được nói chuyện riêng với quan chánh án về một câu chuyện bí mật. Nghe viên cảnh sát trình lại, viên chánh án vốn là người háo sắc, ra hiệu cho Zemrut tiến đến gần và cho vào một căn phòng khác, ngay bên phòng xử án. Nàng nghiêng mình tuân lệnh ngồi xuống ghế, và đưa tay lật tấm mạng che mặt. Viên chánh án đi sau nàng ngồi xuống bên cạnh. Lão hết sức ngạc nhiên trước sắc đẹp của nàng. Lão nói:
       _ Này em bé, em có việc gì cần ta giúp đỡ?
       _ Bẩm quan chánh án,- nàng đáp- ngài là người nắm quyền sinh sát trong tay, ngài có phép bắt dân chúng tuân thủ luật lệ, ngài mang lại công bằng cho người giàu cũng như kẻ nghèo. Em van ngài, xin lắng nghe và quan tâm đến những lời khiếu nại của em đây. Xin ngài đóai thương hại tình cảnh khốn khổ của em lúc này.
-         Em hảy nói ta nghe có việc gì. Ta thề sẽ vì em làm tất cả mọi việc.
Lúc này nàng Zemrut bỏ hẳn tấm mạng ra, để lộ ra trước mắt viên quan tòa mái tóc huyền rất đẹp xõa xuống đôi vai trắng ngần và nói:
_ Thưa ngài xin hãy nhìn xem mái tóc này có xấu xa lắm không. Xin ngài hãy nhìn kỹ khuôn mặc của em, rồi ngài nói thẳng thắn cho em biết ngài nghĩ thế nào.
Viên chánh án háo sắc nghe người con gái nói vậy, nghĩ bụng việc này là một cơ hội tốt cho mình đâym lão vội nói:
_ Nói có trời đất chứng giám, ta thấy em chẳng có một khiếm khuyết nào. Vầng trán em giống như một vầng trăng bạc, đôi long mày em giống hai cánh cung, đôi má em như hai nụ hoa hồng, đôi mắt em như hai viên ngọc tỏa sánh lung linh, và miệng của em thì khác nào một cái hộp bằng hồng ngọc che hàm răng của em đều và đẹp như chuỗi ngọc trai.
Tiểu thư con gái thống đốc Muaphac không dừng lại ở đây. Nàng đứng lên ưỡn ẹo bước mấy bước trong phòng, vừa đi vừa làm dáng:
_ Xin ngài hãy nhìn tấm thân của em đây, hãy nhìn cho thật kỹ vào, ngài xem người em có chỗ nào bất bình thường. Người em có đượn nõn nà kh6ong, cử chỉ em có ngập ngừng bối rối, dáng đi em có gì khó nhìn không.
Viên chánh án bảo:
_ Ta hết sức say mê khi ngắm nghía em, ta thật chưa bao giờ thấy có người xinh đẹp như em.
Tiểu thư lại vạch hai cánh tay ra và hỏi:
_Vậy ngài thấy đôi tay của em thế nào, có trắng không, còn tròn không?
Đến đây viên chánh án cảm thấy người bừng bừng, liền sốt ruột thốt lên:
_ Thôi đi cô nàng độc ác kia, cô làm ta đến chết mất. Em cần gì ở ta, hãy nói nhanh lên, ta không thể nhìn em lâu hơn nữa mà không cảm thấy mình ngây ngất bang hoàng, không sao chịu nổi.
-Vậy xin ngài biết cho, thưa quan chánh án,-tiểu thư Zemrut lại nói- mặc dù trời phú cho em hình dáng nhan sắc thế này, vậy mà em vẫn phải sống tối tăm đơn chiếc trong một căn nhà cấm. Không chỉ cấm tất cả đàn ông được đặt chân vào mà còn cấm cả phụ nữ được bén mảng, ít ra chị em vào họ còn có thế nói với em đôi lời an ủi. Không phải chẳng có một đám nào muốn đến hỏi em về làm vợ. Dễ thường em đã kiếm được một tấm chồng từ đời nảo đời nao rồi, nếu cha em không độc ác tới mức khước từ tất cả mọi người muốn đến cầu hôn. Với những người này cha em bảo em khô như một cây củi, với người khác cha em bảo em béo phì, với người nọ ra em vừa thọt chân vừa cụt tay, với người kia em là một con bé không có trí khôn, em bị ung thư sau lưng, cái ngực thì lép xẹp; em là người kỵ nước cho nên người ghẻ lở tòan thân… Tóm lại cha em mô tả em như một con quái vậy không đáng được làm bạn với đàn ông. Lâu ngày trước mắt mọi người em trở thành một điều sỉ nhục của nhân lọai. Chẳng còn ma nào muốn đến tìm gặp em nữa, thế là em đành phải sống cô đơn cho hết đời.
Nói đến đây nàng giả vờ khóc lóc và làm trò khéo léo đến mức viên chánh án cũng tin là thật:
_ Ôi sao lại có người cha dã man đến vậy! Sao cha em lại muốn đối xử một cách khắt khe như vậy với một cô con gái dễ thương dường này. Làm sao ngăn không cho một cây đẹp thế ấy được đâm hoa kết quả. Đó là điều ta không thể nào chấp nhận. Vậy Ý đồ thật của cha em là gì, hãy nói đi, cô tiên của ta, tại sao cha em không muốn cho em lấy chồng?
_ Nào em có biết, kính thưa ngài – nàng Zemrut vừa đáp vừa giả vờ khóc già hơn.- Em không rõ thật lòng cha em muốn gì, nhưng em thú thật với ngài là em mất hết kiên nhẫn rồi, em không thể nào sống được nữa trong tình cảnh hiện nay. Vì vậy em tìm được cách trốn khỏi nhà cha em. Em đến đây để sà vào đôi tay hào hiệp của ngài, mong ngài cứu giúp em. Thưa quan chánh án mong ngài rộng long thương, dùng quyền uy của ngài để lại công bằng cho em. Nếu không em chẳng thiết sống nữa, em sẽ cầm con dao găm thủ sẵn trong người đây và tự tay đâm vào trái tim, để chấm dứt mọi nỗi khổ đau.
Ngày thứ năm mươi ba
Câu nói cuối cùng của nàng Zemrut làm điên đảo đầu óc viên chánh án. Lão nói:
_ Không, không thể đâu. Em không thể nào chết, không ai để cả tuổi thanh xuân của em chỉ có khóc lóc và thở than. Ta không những muốn đưa em ra khỏi nơi tối tăm cô độc, ta còn muốn ngay từ bây giờ làm cho em trở thành phu nhân quan chánh án tòan thành phố Batđa. Em là một tiên nữ giáng trần, ta sẵn sàng cưới em làm vợ, nếu em vui lòng chấp nhận.
       Tiểu thư vội nắm lấy cơ hội:
       _ Thưa ngài, cho dù ngài không phải là một nhân vật quan trọng nhất trong thành phố này thì em vẫn sẵn sàng giao phó thân em cho ngài, vì em thấy ngài rất khả ái. Nhưng em sợ rằng ngài chẳng thể làm cho cha em nhận lời, cho dù ngài mang lại cho gia đình em một vinh dự vô cùng to lớn nếu có được cuộc hôn phối này.
- Về chuyện này em chớ có lo âu,-viên chánh án đáp- ta lo hết mọi sự. Em chỉ cần nói cho ta biết nhà cha em ở phố nào, tên ông là gì và nghề nghiệp của ông.
- Cha em tên là Usta Oma,- tiểu thư đáp- cha em làm nghề thợ nhuộm, nhà cha em ở bờ phía đông sông Đêghêla (sông Tigris). Trước nhà em có một cây chà là rất nhiều quả.
- Thế là đủ,- viên chánh án nói,- giờ đây em có thể trở về nhà. Ta hứa chẳng bao lâu nữa em sẽ nghe nói đến ta.
Vậy là tiểu thư sau khi liếc mắt đưa tình mấy lần nữa, cầm tấm mạng che mặt và ra khỏi phòng viên chánh án. Nàng trở về gặp tôi, thuật lại cho tôi nghe màn kịch vừa diễn ra giữa nàng và viên chánh án. Nàng tỏ ra thích thú tới mức không kiềm chế được nữa. Nàng cười rũ rượi, nói với tôi:
- Chúng ta sẽ được báo thù. Kẻ thù của chúng ta muốn biến chúng ta thành trò cười của dân chúng rồi chính lão ta chính là trò cười của bàn dân thiên hạ.
Quả như nàng tiên đoán, tiểu thư Zemrut vừa đi khỏi, lão chánh án đã vội vàng phái một viên cảnh sát đến tận nhà ông Usta Oma, bảo:
- Mời ông đến gặp ngay quan chánh án, quan có việc muốn nói chuyện với ông. Quan ra lệnh cho tôi đến đây dẫn ông đến ra mắt quan.
Người thợ nhuộm tái mặt, ông nghĩ chắc có người nào đó tố cáo ông việc gì với quan chánh án đây, cho nên người ta mới đòi ông đến hầu toà. Ông đi theo viên cảnh sát, lòng đầy lo âu.
Vừa tới nơi, viên quan đã mời ông vào đúng căn phòng lão vừa trò chuyện với nàng Zemrut lúc nãy, mời ông ngồi lên cùng chiếc ghế ấy. Người thợ nhuộm quá bối rối trước vinh dự này, mặt biến sắc nhiều lần. Viên chánh án từ tốn bảo ông:
-Thưa thầy Oma, tôi rất hài lòng được gặp thầy, đã lâu lắm tôi nghe mọi người nói đến thầy một cách trọng thị. Người ta bảo thầy là một người ngoan đạo. Rằng hàng ngày thầy cầu kinh đều đặn năm lần, rằng không có ngày thứ sáu nào thâ không đến chịu lễ ở đại thánh đường. Ngoài ra thầy không bao giờ ăn thịt lợn, thầy không uống rượu vang, cũng không uống cả rươụ chà là. Người ta còn bảo, trong khi thầy làm việc, thầy sai một chú bé đọc kinh Coran cho thầy nghe.
- Quả đúng như vậy, trình ngài,- ông thợ nhuộm đáp. Tôi còn thuộc lòng hơn bốn nghìn vần thơ của đấng tiên tri Môhamêt, và tôi đang chuẩn bị để sắp tới đây hành hương về thánh địa Mêcca.
- Tôi xin quả quyết với thầy, tất cả những chuyện ấy khiến tôi vui lòng,-lão chánh án lại nịnh.- Bởi tôi rất quý trọng các tín đồ Hồi giáo ngoan đạo. Người ta còn bảo với tôi rằng, thầy có sau phòng the một cô gái đến tuổi lấy chồng, có đúng vậy không?
Người thợ nhuộm Usta Oma vội đáp:
- Kính thưa ngài chánh án cao minh, là người từng giúp đỡ những kẻ khốn cùng có được sự công bằng, người ta nói đúng đấy. Tôi có một đứa con gái đã quá tuổi lấy chồng, bởi cháu cũng đã ngoài ba mươi rồi. Nhưng khốn nạn con bé ấy không đáng để được ra mắt bất kỳ người đàn ông nào. Nó xấu lắm, xấu đến khủng khiếp, vừa thọt chân vừa ghẻ lở lại ngu ngốc, tóm lại đấy là một con quỷ cái mà tôi không biết giấu vào đâu cho khuất mắt.
Viên chánh án mỉm cười:
- Tốt, tôi chỉ chờ có thế, thưa thầy Oma. Tôi hiểu thầy khiêm tốn, không muốn ca ngợi con gái mình. Nhưng ông bạn của tôi ơi, ông hãy biết cho là cô con gái ghẻ lở, cô con gái ngu ngốc, cô con gái thọt chân, cô con gái xấu khủng khiếp, con quỷ cái với tất cả khiếm khuyết của nó, đang được một người đàn ông thương yêu và rất muốn lấy làm vợ. Người đàn ông ấy chính là tôi đây.
Nghe vậy người thợ nhuộm nhìn thẳng vào viên quan toà và nói:
- Nếu quan lớn chánh án muốn đùa, đó là quyền của ngài, vì ngài là ông chủ. Ngài có quyền muốn giễu cợt con gái tôi bao nhiêu, tôi đâu dám có ý kiến.
- Không, không phải thế đâu-quan chánh án đáp.- Tôi không đùa một chút nào. Tôi yêu con gái thầy thật sự và ngỏ lời với thầy hãy gả cô ấy cho tôi.
Viên thợ thủ công phá ra cười:
- Xin Đấng tiên tri phù hộ ngài chớ nên làm chuyện ấy. Tôi xin báo trước để ngài rõ, con gái tôi cháu cụt tay, thọt chân, gù lưng, kỵ nước…
- Đúng thế, -viên quan toà ngắt lời.- Tôi biết rõ lắm, tôi yêu những tạng con gái như vậy, đấy là sở thích của tôi.
- Một lần nữa xin thưa với ngài, cháu không phù hợp với ngài đâu,-người thợ nhuộm lại đáp.- Tên cháu là Quỷ dạ xoa, và tôi xin quả quyết là nó xứng với cái tên ấy lắm ạ.
- Thôi! Thế là đủ- viên quan chánh án nghiêm giọng nói.- Ta mệt mỏi vì mọi lý lẽ của thầy lắm rồi. Thầy Oma à, ta muốn thầy gả con Quỷ dạ xoa ấy cho ta làm vợ. Người cô ấy ra thế nào cũng được, thầy chớ có cãi ta nhiều hơn nữa.
Thấy viên chánh án nhất quyết đòi lấy con gái mình, người thợ nhuộm nghĩ chắc có một người nào đấy muốn đùa dai, đã mô tả cho lão chánh án con gái mình dưới dạng khác đẹp như tiên, khiến cho lão đâm si mê. Ông liền tự bảo, đã thế thì ta phải đòi cho ta một khoản tiền cược (đây là khoản tiền mặt chàng rể phải đưa cho bố vợ khi cưới, hoặc trả cho người vợ nếu muốn ly hôn) thật lớn. Đòi khoản tiền to quá sẽ khiến cho lão bủn xỉn đâm chán, thôi không đòi ta gả con quỷ ấy cho nữa:
- Trình ngài, tôi sẵn sàng tuân theo lệnh ngài. Nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ gả cháu Quỷ dạ xoa cho bất kỳ ai, trừ phi người ấy chịu đưa cho tôi trước một khoản tiền cược một nghìn đồng xơcanh vàng.
- Khoản tiền ông đòi hơi lớn quá đấy, viên chánh án nói.- Tuy nhiên ta sẽ giao ngay cho ông đầy đủ.
Nói xong, viên quan toà sai mang đến một túi lớn đầy tiền xơcanh vàng, sai người đếm lấy một nghìn, mang cân xem có nặng đúng không, và giao tận tay người thợ nhuộm. Viên chánh án truyền lệnh lập hôn ước ngay. Nhưng đến lúc cần phải ký tên vào, thì người thợ nhuộm nói mình chỉ có thể ký trước mắt đủ một trăm người làm chứng theo đúng luật. Viên chánh án nói:
- Ông quả là người cả lo. Nhưng không sao, ta sẽ thoả mãn ý ông bởi ta không muốn để cho cô con gái của ông thoát khỏi tay ta.
Ngay lập tức chánh án sai đi tìm người làm chứng, nào là các thầy thuốc, các vị tu hành, các người giúp việc trong thánh đường và cả những người ở toà án. Lát sau người làm chứng đến đông hơn cả số mà người thợ nhuộm đòi hỏi.
NGÀY THỨ NĂM MƯƠI TƯ
Khi mọi người làm chứng đã có mặt đông đủ trong phòng viên chánh án, người thợ nhuộm Usta Oma cất lời:
- Thưa ngài chánh án, tôi đồng ý gả con gái tôi làm vợ chính thức của ngài, bởi tại ngài cứ một mực đòi tôi phải gả nó cho ngài. Nhưng tôi tuyên bố trước tất cả các vị có mặt ở đây, là tôi chỉ đồng ý với điều kiện một khi ngài nhìn thấy mặt cháu và không hài lòng, và ngài có muốn từ bỏ cháu, thì ngài phải cho cháu một nghìn đồng xơcanh vàng, bằng đúng số tiền ngài vừa đưa cho tôi.
- Ông đã muốn thế thì, viên chánh án nói- ta thề với ông như vậy, thề trước tất cả các vị có mặt ở đây, ông bằng lòng rồi chứ?
Người thợ nhuộm đáp vâng, rồi ký tên xong ra về ngay, nói ông sẽ cho người đưa cô dâu đến đây ngay tức khắc.
Tất cả những người làm chứng giải tán ai về việc nấy. Chỉ còn lại viên chánh án một mình ở nhà. Hai năm trước, lão đã cưới con gái một thương gia thành phố Batđa, cho đến lúc này hai người vẫn sống hoà thuận với nhau. Người vợ hay tin chồng muốn lấy cô vợ mới, nổi giận bảo chồng:
- Thế nào, ông muốn hai cái đầu cùng đội một cái mũ ư! Hai bàn tay đeo một chiếc găng ư! Hai lưỡi kiếm đút trong một cái vỏ hả! Hai người đàn bà cùng chung một ngôi nhà sao? Ôi, đồ bạc tình! Tôi yêu thương ông đến thế, mà gái này vẫn còn trẻ chán chứ. Ông đã muốn thế thì tôi nhường chỗ luôn cho con mụ ấy, tôi sẽ về ở với cha mẹ tôi. Ông hãy tuyên bố khước từ tôi đi, và trả tôi đủ món hồi môn, sau đấy chúng ta chẳng còn nhìn mặt nhau nữa.
- Tự bà nói ra trước như thế là tốt- viên chánh án đáp.- Đỡ cho tôi phải làm cái việc không vui là báo tin bà biết tôi lấy vợ mới.
Nói xong, lão mở hòm lấy ra một túi tiền đựng năm trăm đồng xơcanh vàng trao tận tay người vợ: Bà hãy cầm lấy, trong cái túi này là khoản tiền hồi môn của bà. Bà hãy cầm lấy và mang theo tất cả tư trang quần áo của bà. Ta đuổi bà ra khỏi nhà. Một lời, hai lời, ba lời, ta đuổi bà ra khỏi nhà. (Câu phải bắt buộc đọc, như luật định). Và để cho song thân bà không nghi ngờ gì về chuyện ta chối bỏ vợ, ta sẽ trao cho bà một tờ giấy viết tay có chữ ký của ta, kèm theo chữ ký của quan phó chánh án, theo đúng như luật định.
Lão nói sao làm vậy. Người vợ cầm số tiền và mảnh giấy trở về nhà bố mẹ đẻ.
Bà vợ chính thức vừa ra khỏi nhà, lão chánh án sai bày biện thật sang trọng một căn phòng để tiếp đón người vợ mới. Người nhà mang vào trải một tấm thảm bằng nhung, nhiều chiếc ghế có đệm gấm thêu kim tuyến, ngân tuyến. Lại có cả những chiếc lư trầm toả mùi thơm ngát phòng tân hôn. Mọi việc đâu vào đấy mà chưa thấy cô dâu. Viên chánh án sốt ruột, liền gọi viên cảnh sát trưởng vốn trung thành với mình, bảo y: „Đáng ra người ta yêu quý phải có mặt ở đây rồi. Cái gì làm cho nàng còn nấn ná lâu như vậy ở nhà bố mẹ? Sao ta cảm thấy thời gian chờ đợi dài dằng dặc thế này!“.
Sốt ruột muốn được nhìn ngay người vợ mới, viên chánh án sắp sai người nhà đến tận nhà người thợ thuộm Usta Oma thúc giục, chợt nhìn thấy có người công nhân khuân vác mang một cái hòm bằng gỗ thông đến, trên hòm phủ tấm vải xanh. Chánh án hỏi:
- Anh bạn mang gì đến cho ta đấy?
- Trình ngài,- người mang hàng đặt cái hòm xuống đất và nói.- Đây là cô dâu. Ngài chỉ có việc lật chiếc khăn phủ bên trên ra, và ngài sẽ thấy cô dâu xinh đẹp như thế nào.
Viên chánh án cất chiếc khăn phủ và nhìn thấy trong hòm một cô gái người thấp loắt choắt, khuôn mặt dài ngoằng và đầy ghẻ lở, đôi mắt sâu hóm đỏ hơn lửa. Cô nàng dường như không có mũi, bên trên miệng chỉ có một cái hốc giống như mõm cá sấu có hai cái lỗ trông rất khủng khiếp. Lão không thể nhìn lâu cái vật ấy mà không kinh tởm, vội lấy tấm khăn phủ lại như cũ rồi hỏi người mang hàng:
- Anh muốn ta làm gì với con vật khủng khiếp này?
- Thưa ngài, đấy là con gái của thầy Usta Oma làm nghề thợ nhuộm. Ông ta có nói với tôi, ngài rất yêu cô này cho nên xin hỏi cô ta về làm vợ.
- Trời đất! -viên quan chánh án kêu lên.- Lẽ nào một người đàn ông lại có thể cưới một con quỷ thế kia về làm vợ?
Vừa lúc ấy, người thợ nhuộm đoán thế nào viên chánh án cũng ngạc nhiên liền thân hành tới nơi. Viên chánh án bảo:
- Đồ khốn nạn, anh cho ta là người như thế nào? Anh cả gan chơi cho ta một trò nhục nhã đến vậy sao. Anh dám chơi ta như vậy, hẳn anh đã biết ta là người xưa nay chẳng bao giờ không biết cách lấy hận trả hận chứ? Ta là người có đủ quyền tống những kẻ như anh vào ngục tối nếu ta muốn. Anh không sợ ta nổi cơn thịnh nộ sao, hỡi anh chàng khốn kiếp kia? Anh hãy mang cái vật khốn kiếp kia về nhà ngay, và hãy gả cô con gái kia của anh cho ta, cô con gái xinh đẹp tuyệt trần ấy. Nếu không, anh sẽ biết ngay, làm cho quan chánh án phải nổi giận là tội to như thế nào.
- Bẩm quan lớn,- Usta Oma đáp- xin ngài chớ doạ nạt tôi, tôi van ngài đấy, xin ngài chớ nổi giận. Tôi xin thề trước Đấng tạo hoá đã ban ánh sáng cho tất cả chúng ta, rằng tôi không có đứa con nào khác ngoài con bé này. Tôi đã chẳng trăm nghìn lần thưa với ngài nó chẳng xứng với ngài đâu. Ngài đã nhất quyết không muốn tin lời tôi, vậy bây giờ ngài còn trách ai nữa.
NGÀY THỨ NĂM MƯƠI LĂM
Câu nói của người thợ nhuộm làm viên chánh án hiểu ra. Lão nén giận nói với ông:
- Thầy Usta Oma à, sáng nay có một cô con gái xinh đẹp tuyệt trần đến đây tìm ta, bảo nàng là con gái của thầy. Thầy cứ rêu rao với mọi người con gái của mình là một con quỷ, để chẳng có ai muốn đến hỏi nàng làm vợ, chứ thật ra con gái thầy rất đẹp.
- Bẩm quan lớn- người thợ nhuộm nói- con bé xinh đẹp đó ấy chắc chắn là một con lừa bịp. Chắc hẳn ngài có một kẻ thù nào đã giương cái bẫy này để hại ngài đó.
Viên chánh án cúi gục đầu, trầm ngâm một lát rồi ngẩng lên nói:
- Đúng là ta vừa gặp chuyện không may. Thôi đừng nói tới chuyện ấy nữa. Ta nhờ ông đưa con gái ông trở về nhà, ông giữ lấy nghìn đồng xơcanh vàng mà ta đã biếu ông. Nhưng ông chớ nên đòi hỏi gì thêm nữa, nếu ông muốn chúng ta còn là bạn bè.
Cho dù trước đây viên quan toà này từng thề trước những người làm chứng theo như luật định rằng ông sẽ còn phải trả thêm một nghìn xơcanh nữa, trong trường hợp người con gái của Oma không làm vừa lòng mình. Ông thợ nhuộm biết điều, không dám buộc quan chánh án phải giữ lời. Ông biết vị quan toà này là người rất hay thù hằn, nếu làm mất lòng ông ta, rồi ông ta sẽ dễ dàng tìm ra cơ hội làm hại mình. Ông nghĩ với số tiền nhận được như thế đã là quá đủ, liền đáp:
- Kính thưa ngài, tôi vâng lời ngài. Nhưng muốn cho cháu được về nhà, trước hết xin ngài hãy vui lòng tuyên bố khước từ người vợ này hẵng.
- Quả vậy, ta không có ý quên chuyện đó đâu. Ông hãy tin chắc đâu vào đấy ngay.
Quả nhiên, lão chánh án sai người tìm viên phó của mình đến, và việc đuổi người vợ ra khỏi nhà được tiến hành theo thủ tục. Xong xuôi mọi việc, người thợ nhuộm Usta Oma xin cáo từ. Ông lại nhờ người khuân vác chuyển cái hòm đưa con gái Quỷ dạ xoa trở về nhà như cũ.
Câu chuyện ấy chẳng bao lâu mọi người dân trong thành phố đều hay biết. Mọi người ai cũng cười chê, ai ai cũng cho rằng quan chánh án bị một vố như vậy là đáng đời.
Tuy nhiên, chúng tôi vẫn chưa cho thế là đủ. Chúng tôi còn muốn đi xa hơn nữa. Nhờ có ngài Muaphac giúp đỡ, tôi tìm cách yết kiến được Đấng thống lĩnh các tín đồ. Tôi nói rõ mình là ai và kể lại toàn bộ câu chuyện. Đương nhiên, như các vị thừa rõ, tôi không bỏ qua chi tiết nào có thể làm bật rõ hơn tính xảo trá của viên quan chánh án. Hoàng đế chăm chú lắng nghe tôi rồi nhẹ nhàng trách tôi:

- Chàng hoàng tử, tại sao ngay từ đầu chàng không nghĩ đến chuyện nhờ ta? Có thể chàng lấy làm xấu hổ về sự bất hạnh của mình chăng. Nhưng chẳng có gì phải hổ thẹn cả, nếu chàng đến ra mắt ta trong bộ áo quần của một con người khốn cùng. Chẳng phải là người trên trần thế ai muốn giàu khắc được giàu, ai muốn nghèo sẽ chịu nghèo mãi hay sao? Chỉ có Thượng đế mới có thể quyết định số phận chúng ta. Có gì mà hoàng tử phải e ngại, e mình ăn mặc rách rưới cho nên không được hoàng đế đón tiếp phải chăng. Không đâu, chàng hãy biết rằng ta yêu mến và quý trọng quốc vương Ben-Ortoc phụ thân của chàng lắm. Giá như chàng ngỏ lời nhờ ta trước, thì triều đình này đã là một nơi tạm trú an toàn cho hoàng tử ngay từ đầu.
Hoàng đế còn vỗ về tôi nhiều điều khác. Người ban cho tôi một chiếc áo chầu. Đồng thời người tháo luôn chiếc nhẫn nạm kim cương đẹp đang đeo ở tay ban cho tôi. Tiếp đó, vua sai người mang đến mời tôi uống một thứ nước trái cây ướp lạnh tuyệt vời.
Tôi lạy cảm tạ vua và xin cáo từ. Trở về đến nhà nhạc phụ, tôi đã thấy để sẵn ở đấy sáu cái túi lớn bằng gấm Ba Tư đựng đầy vàng và bạc, hai tấm vải thêu nổi, một con tuấn mã thuần nòi Ba Tư rất đẹp đã thắng yên cương sang trọng.
Ngoài những thứ đó ra, hoàng đế lại cho nhạc phụ Muaphac tôi trở lại làm thống đốc thành Batđa như cũ. Để trừng phạt viên chánh án đã mưu đồ lừa dối nàng Zermut và phụ thân của nàng, vua cách chức viên quan toà ấy, kết tội tù chung thân, bắt sống suốt đời trong ngục tối. Đã thế, ngài còn truyền lệnh bắt lão phải chung sống với cô con gái Quỷ dạ xoa của ông thợ nhuộm Usta Oma.
Mấy ngày sau cuộc hôn lễ của chúng tôi, tôi phái một người về Muxen tâu trình phụ vương tôi biết tất cả những việc đã xảy ra từ ngày tôi rời khỏi triều đình của ngài, đồng thời xin phép được trở về ngay cùng với người mà tôi vừa cưới làm vợ. Tôi nôn nóng chờ đợi người phái đi quay trở lại.
Nhưng than ôi! Người ấy chỉ mang lại cho tôi những tin tức vô cùng buồn bã. Anh báo cho tôi rõ, đức quốc vương Ben-Ortoc, sau khi hay tin bốn nghìn tên cướp Bêđuin tấn công và đánh tan tác đoàn tuỳ tùng bảo vệ tôi, người tin hẳn tôi không thể nào còn sống sót. Vì quá đau buồn, phụ vương tôi lâm bệnh và qua đời. Hoàng thân Amađêtdin Zenghi một người anh em họ của tôi hiện đang trị vì xứ Muxen. Hoàng thân là một người công minh và có tài trị nước, được nhân dân tin phục. Tuy vậy khi dân chúng hay tin tôi hãy còn sống, mọi người hết sức mừng vui. Đích thân hoàng thân Amađêtdin viết một bức thư sai phái viên mang về cho tôi, khẳng định lòng trung thành của hoàng thân, và bày tỏ ông rất nôn nóng muốn được nhìn tôi trở về kinh đô để trao lại chiếc vương miện. Ông nguyện làm một người phò tá hàng đầu của triều đình.
Tin tức nhận được khiến tôi quyết định phải mau mau trở về Muxen. Tôi vào triều xin phép cáo biệt Đấng thống lĩnh các tín đồ. Người ban cho tôi ba nghìn người ngựa rút từ đội quân cấm vệ, tháp tùng tôi về tận nước nhà.
Vậy là sau khi ôm hôn ngài Muaphac và bà nhạc mẫu, tôi rời thành phố Batđa cùng với nàng Zemrut quý yêu. Nàng vô cùng buồn bã và có lẽ không sống nổi khi phải xa cha mẹ, nhưng nhờ có tình yêu đối với tôi, nàng cũng cảm thấy khuây khoả được phần nào.
NGÀY THỨ NĂM MƯƠI SÁU
Đường trở về Muxen, mới đi được chừng một nửa, thì những người của đội tuỳ tùng được phái đi lên trước thám thính phát hiện ra một đạo binh đang hành quân về phía chúng tôi. Lúc đầu tôi tưởng đây lại là bọn cướp người Bêđuin. Ngay tức khắc tôi ra lệnh dàn quân sẵn sàng chiến đấu, thì lại được báo cho biết đạo binh ấy không phải là quân trộm cướp, không phải là kẻ thù, mà chính là quân đội của quốc vương Muxen, do Amađêtdin Zenghi đích thân dẫn đầu đi nghênh đón chúng tôi. Về phía hoàng thân, khi được biết trước mặt mình là những ai, ông vội tách ra một đội binh nhỏ cùng các quan chức chính của triều đình Muxen, vội đi lên trước ra mắt tôi. Hoàng thân nói với tôi những lời y như trong bức thư đã gửi trước, nghĩa là rất kính cẩn, rất thần phục. Tất cả những đại thần đi theo đều bày tỏ sự trung thành với tôi và thề sẽ phục vụ hết lòng.
Cho dù tôi vẫn có lý do để nghi ngờ, để nghĩ người anh em họ của mình có thể mượn cớ tôn vinh tôi, để rồi bày mưu tính kế sát hại, và tiếp tục làm vua xứ Muxen, tôi vẫn không tỏ ra mình thiếu tin cậy, cho dù trong lòng có thoáng chút lo âu. Tôi cho đội tuỳ tùng mà hoàng đế đã cử đi bảo vệ tôi quay trở về, và phó thác số phận mình vào tay hoàng thân Amađêtdin.
Nhưng chẳng bao lâu tôi hối hận ngay về sự nghi kỵ của mình. Hoàng thân không có chút mưu đồ đen tối nào, mà chỉ nghĩ làm sao tôn vinh và bày tỏ lòng trung thành đối với tôi. Chúng tôi vừa đến Muxen, toàn thể nhân dân nhìn thấy tôi đều vui mừng khôn xiết. Hội hè vui chơi diễn ra suốt ba ngày liền. Ban đêm các phố xá trang hoàng cờ đèn rực rỡ, thành phố tưng bừng thâu đêm suốt sáng.
Không chỉ có trang hoàng làm đẹp thành phố, người ta còn bày ra trước các cửa hiệu lớn những chiếc mâm đầy cơm rang thập cẩm đủ màu sắc, cùng những cái vò đựng đầy nước hoa quả ép. Người qua đường tha hồ ăn uống thoả thích. Ở các ngã tư, các quảng trường, nhân dân nhảy múa theo nhịp trống cơm và trống cái. Đầy đường các khất sĩ đi lại nườm nượp để nhận thức ăn người dân dâng hiến. Nhân dân theo tiếng đàn ca, tiếng xập xoã, tiếng kèn đồng diễu qua trước cửa cung điện của tôi. Mọi người ngước lên nhìn tôi ngồi cùng nàng Zemrut trên ban công, và cùng cất tiếng tung hô: Cầu xin Thượng đế ban phước lành cho nhà vua! Cầu xin Thượng đế cho nhà vua luôn luôn được chiến thắng!
Ngoài những vinh dự ấy, tôi còn nghĩ cách làm sao cho người vợ yêu của tôi, nàng Zemrut vui thích hơn nữa. Tôi sai mang vào phòng riêng của nàng những vật quý hiếm và đẹp đẽ nhất. Tôi chọn trong đám cung nữ của phụ thân tôi để lại hai mươi lăm phụ nữ người nước ngoài xinh tươi đến hầu hạ nàng. Những cô gái ấy thành thạo trong việc đàn ca xướng hát. Họ biết chơi nhiều loại nhạc cụ. Họ nhảy múa nhẹ nhàng và xinh đẹp như những nàng tiên. Tôi còn ban cho nàng một toán hoạn nô mười hai người do một viên trưởng người da đen dẫn đầu, những người này nổi tiếng có nhiều tài nghệ mua vui cho người khác.
NGÀY THỨ NĂM MƯƠI BẢY
Vậy là tôi trị vì đất nước. Tôi sống hạnh phúc với nàng Zemrut và nàng cũng rất yêu chồng. Giữa những ngày hạnh phúc ấy, một hôm có một tu sĩ trẻ tuổi đến ra mắt triều đình tôi. Do trí thông minh và tính hài hước, tu sĩ nói năng rất khéo léo và đầy trí tuệ làm cho các quan đại thần trong triều ai cũng mến yêu. Tu sĩ theo họ dự các cuộc đi săn, cùng uống rượu với họ. Không có cuộc vui chơi nào của họ vắng mặt tu sĩ.
Nhiều người nói với tôi, đây là một chàng trai biết cách trò chuyện rất thú vị. Mọi người đều tâng bốc đến mức tôi cũng nảy ra ý muốn gặp và chuyện trò cùng người tu sĩ ấy xem sao. Khi gặp tu sĩ, tôi thấy người ta không phải quá lời; thậm chí chàng có vẻ thông minh hơn nhiều so với tôi hình dung. Chuyện trò với chàng hết sức thú vị. Tu sĩ ấy cũng giúp tôi bỏ một định kiến sai lầm. Một hôm, tôi ngỏ ý muốn trao cho tu sĩ một chức vụ quan trọng ngang các đại thần bậc nhất trong triều đình. Chàng từ tạ, nói mình đã nguyện sẽ không bao giờ nhận một công vụ có quyền lực nào, suốt đời sẽ sống một cuộc sống tự do, thoải mái chẳng phụ thuộc vào ai. Chàng nói mình coi thường mọi vinh hoa phú qúy, luôn luôn hài lòng với những gì Thượng đế ban cho. Bởi Thượng đế lúc nào cũng quan tâm đến mọi sinh linh, Người ban cho ai những gì thì ta phải hài lòng với chừng ấy, không nên mong ước được hơn.
Tôi khâm phục con người coi thường mọi vinh danh tài lộc trên đời, càng thêm quý trọng chàng ta. Mỗi lần tu sĩ vào triều, tôi luôn cho tìm gọi đến để cùng nhau đàm đạo. Dần dà tôi thấy giữa mình và tu sĩ có một mối tình cảm bạn bè đặc biệt thân thiết, tu sĩ ấy gần như trở thành người được tôi sủng ái nhất.
Một hôm trong một chuyến đi săn trong rừng, tôi đi tách đoàn săn ra, ngồi nghỉ riêng một nơi. Ở gần tôi lúc ấy chỉ có chàng tu sĩ. Chàng kể cho tôi nghe về các chuyến đi của mình trước đây. Hoá ra mặc dù còn trẻ tu sĩ này cũng đã du ngoạn khá nhiều nơi. Chàng nói cho tôi nghe nhiều điều kỳ thú mà chàng đã từng chứng kiến trong một lần đi sang Ấn Độ. Lần ấy, chàng có quen một bậc tu sĩ Balamôn rất cao niên. Chàng nói:
- Đấy là một con người vĩ đại, ngài biết rất nhiều bí ẩn của trời đất. Đối với vị tu hành ấy, hình như thiên nhiên không còn có gì là không hiểu thấu. Tôi rất quý trọng ngài. Khi cụ qua đời, có tôi bên cạnh. Vị tu hành già cũng rất yêu tôi. Vì vậy trước khi trút hơi thở cuối cùng, cụ bảo: „Ta muốn truyền cho con một bí quyết để sau này con mãi nhớ đến ta, với điều kiện con không được truyền lại cho bất kỳ ai khác“. Tôi hứa với vị tu sĩ Balamôn lão thành và ngài đã dạy cho tôi bí quyết.
Tôi hỏi:
- Loại bí quyết gì vậy, hở tu sĩ? Phải chăng đó là bí quyết có thể làm ra vàng?
- Không, tâu bệ hạ,- tu sĩ đáp.- Bí quyết này còn quý hơn rất nhiều: Đấy là cách làm cho một thi thể đã chết rồi hồi sinh trở lại. Không phải kẻ này có quyền năng trao trả lại cho một người vừa qua đời linh hồn người ấy vừa trút bỏ, chỉ có Thượng đế mới làm nên chuyện thần kỳ ấy. Nhưng tôi có pháp cho linh hồn mình nhập vào một thi thể không còn hơi sống nữa. Khi nào hoàng thượng thích, tôi sẽ làm việc ấy để ngài tự mắt xem.
- Ta rất hài lòng. Vậy nếu ông đồng ý, hãy làm điều ấy ngay bây giờ.
Ngẫu nhiên xui khiến thế nào, vừa lúc ấy có một con hươu cái chạy ngang qua. Tôi bắn một mũi tên, nó gục ngã. Tôi nói với tu sĩ:
- Bây giờ chúng ta hãy xem ông có thể làm con vật này hồi sinh trở lại.
Hoàng thượng sẽ được hài lòng ngay. Xin ngài hãy chú ý nhìn điều sắp xảy ra.
Tu sĩ vừa dứt lời, tôi nhìn thấy thân xác chàng ta ngã xuống, nằm im không động đậy, trong lúc ấy con hươu cái nhẹ nhàng đứng lên. Các vị hẳn hiểu tôi ngạc nhiên biết chừng nào. Chuyện xảy ra trước mắt như vậy, mà tôi vẫn như chưa muốn tin vào mắt mình. Lúc ấy con hươu cái đến cạnh tôi, đưa mõm liếm bàn tay tôi, sau khi nhún nhảy đùa chơi mấy bước, nó lại gục ngã xuống chết như cũ. Vừa lúc ấy thân thể tu sĩ đang nằm dài trên đất, hồi tỉnh trở lại. Rất thú vị về bí quyết kỳ lạ ấy, tôi yêu cầu tu sĩ hãy truyền cho tôi. Chàng đáp:
- Tâu bệ hạ, tôi rất tiếc không thể nào đáp ứng mong muốn của bệ hạ. Bởi tôi đã hứa với vị cao tăng Balamôn là sẽ không truyền bí quyết ấy cho bất kỳ ai hay biết, giờ đây tôi không thể không giữ lời hứa với cụ.
Tu sĩ càng từ chối, càng kích thích tôi hiếu kỳ muốn nắm lấy bí quyết. Tôi nài nỉ:
- Anh chớ nên từ chối lời ta yêu cầu. Ta hứa sẽ không để lộ bí quyết ấy cho với bất kỳ ai khác rõ. Ta xin thề có trời đất chứng giám, chẳng bao giờ ta dùng bí quyết ấy nhằm mục đích xấu xa.
Tu sĩ suy nghĩ một lát rồi đáp như sau:
- Tôi không dám không đáp ứng yêu cầu của một đấng quân vương mà tôi vô cùng kính trọng như bệ hạ. Tôi đành khuất phục trước lời khẩn khoản của ngài. Hơn nữa, ngày trước tôi chỉ hứa với tu sĩ Bàlamôn thôi, chứ không phải bị ràng buộc vào một lời thề thiêng liêng không được phép vi phạm. Vậy tôi sẽ nói để hoàng thượng rõ bí quyết của tôi. Ngài chỉ cần nhớ kỹ trong lòng hai tiếng, khi cần thiết, ngài thầm đọc hai tiếng ấy thôi, đọc thầm thôi, không thốt ra lời, ngài có thể làm cho một xác chết hồi sinh.
Tu sĩ bảo thầm cho tôi biết hai tiếng thần kỳ ấy. Vừa nắm được bí quyết, tôi muốn thử nghiệm xem sao. Tôi thầm nhẩm hai tiếng diệu kỳ ấy để chuyển linh hồn tôi vào trong thi thể con hươu cái. Và thế là ngay tức khắc, tôi mang hình dạng con vật ấy. Nhưng niềm vui thích của tôi chuyển ngay sang thành nỗi đau kinh dị. Bởi khi linh hồn tôi vừa chuyển sang hình dạng con hươu cái thì tên tu sĩ khốn kiếp kia chuyển linh hồn của nó vào thi thể của tôi. Nhanh chóng chụp lấy chiếc cung của tôi bên cạnh, y chuẩn bị phóng một mũi tên định hạ sát tôi, may sao hiểu ra ý đồ đen tối của y, tôi vội vàng co chân chạy trốn. Tu sĩ vẫn bắn theo mũi tên, may không trúng đích.
NGÀY THỨ NĂM MƯƠI TÁM
Thế là bỗng nhiên tôi phải chung sống với các dã thú trên núi, trong rừng. Hạnh phúc xiết bao, giá khi phải mang lốt một con vật, tôi không chỉ mất hình dạng con người mà còn mất luôn cả trí khôn thì tôi đã đỡ phải đau khổ vì không sao dứt nổi khỏi đầu óc bấy nhiêu chuyện đau buồn.
Trong khi tôi mang theo nỗi bất hạnh ghê gớm của mình lang thang trong rừng rậm, thì tu sĩ chiếm đoạt ngai vàng xứ Muxen. Điều làm cho tôi còn đau khổ hơn nữa là y mặc nhiên trở thành chồng của nàng Zemrut. Y để lại cái thân xác tu sĩ của y trong rừng. Hài lòng đã mang được hình hài của tôi, y hưởng mọi hạnh phúc của một nhà vua đang trị vì.
Tuy nhiên, y vẫn sợ tôi nắm được bí quyết, rồi một ngày nào đó sẽ tìm cách trở lại kinh thành, y ra lệnh giết chết tất cả những con hươu cái trong vương quốc. Để khuyến khích người dân làm việc ấy, y ban chiếu chỉ công bố bất kỳ ai mang đến nộp xác một con hươu cái, sẽ được thưởng ba mươi đồng xơcanh vàng. Nhân dân cả xứ Muxen hy vọng kiếm được tiền, thi nhau mang cung tên xục xạo khắp rừng rậm đồng hoang, hễ trông thấy con hươu cái nào là bắn hạ ngay tức khắc.
May mắn cho tôi không phải lo gặp tai nạn ấy vì một hôm, nhìn thấy xác một con hoạ mi vừa mới chết ở một gốc cây. Tôi dùng bí quyết làm con chim hồi tỉnh. Dưới hình dạng mới này, tôi bay về hoàng cung, nơi kẻ thù của tôi đang ngự trị. Tôi lẫn vào vầng lá um tùm một cây to trong vườn ngự uyển. Cây ấy mọc không xa cung riêng của hoàng hậu. Đỗ trên cành cây, buồn đau cho số phận của mình, tôi cất tiếng hót khổ đau. Cứ sáng sáng, khi mặt trời vừa mọc, tất cả chim chóc trong vườn mừng vui nhìn thấy ánh sáng thái dương trở lại, con nào con nấy cất tiếng hót líu lo chào mừng ngày mới. Riêng phần mình, chẳng chút quan tâm đến ánh sáng rực rỡ một ngày vừa rạng, tôi vẫn chìm đắm trong nỗi buồn. Đôi mắt hướng về phòng riêng hoàng hậu Zemrut, tôi cất tiếng hót não nề, những tiếng sầu thương tới mức làm hoàng hậu chú ý và đến gần bên cửa sổ. Tôi tiếp tục cất tiếng hót, càng xúc động càng đau đớn hơn, như thể nàng có thể hiểu ra tâm trạng của tôi lúc này. Nhưng hỡi ôi! Hoàng hậu lại tỏ ra thích thú nghe chim hót. Không những không chút buồn phiền vì lời than ai oán của
tôi, bà lại còn cười gọi một cung nữ, cô này vội đến bên cửa sổ cùng hoàng hậu nghe chim hoạ mi hót.
Tôi không bay ra khỏi vườn ngự uyển cả ngày hôm ấy cũng như những ngày hôm sau. Và sáng nào tôi cũng đến cất tiếng hót ở cùng một nơi ấy. Hoàng hậu Zemrut cũng không quên theo thói quen đến bên cửa sổ, và hình như trời đất xui khiến hay sao, nàng nảy ra ý kiến muốn bắt tôi. Hoàng hậu bảo một người hầu:
- Ta muốn các người bắt con chim hoạ mi kia cho ta. Các người hãy đi tìm những người chuyên bẫy chim, bảo họ cố làm sao bắt sống nó mang về đây cho ta. Ta thích con chim này lắm, ta yêu quý nó đến phát điên lên.
Lệnh hoàng hậu tức khắc được tuân theo. Nhiều người chuyên nghề bẫy chim thành thạo được mời đến hoàng cung. Họ chăng những tấm lưới của họ lên cạnh vành lá cây tôi thường đỗ. Và vì chính bản thân tôi không muốn thoát khỏi lưới của họ, tôi hiểu người ta muốn bắt tôi, không cho tôi còn được tự do trên cành cây, là để tôi được trở thành nô lệ của hoàng hậu mình, tôi tự sa vào bẫy.
Vừa bắt được tôi, ôm tôi trong đôi bàn tay nàng, hoàng hậu tỏ ra vui mừng. Nàng vuốt lông tôi và nói:
- Con hoạ mi xinh xắn, con hoạ mi đáng yêu, ta muốn ta là đoá hoa hồng của mày. Ta đã bắt đầu cảm thấy yêu thương mày vô hạn.
Nói đến đây nàng hôn tôi, và tôi nhẹ nhàng đặt cái mỏ của mình lướt trên đôi môi nàng. Nàng cười phá lên:
- Con chim tinh quái này, hình như nó nghe được lời ta nói hay sao.
Sau khi vuốt ve tôi một hồi, tự tay hoàng hậu bỏ tôi vào một cái lồng chim đan bằng những sợi vàng mà một viên hoạn nô vừa ra phố mua về.

Mỗi ngày, hễ hoàng hậu thức giấc là tôi bắt đầu cất tiếng hót. Mỗi lần nàng đến gần lồng, muốn cho tôi ăn một thứ gì đấy hoặc muốn vuốt ve bộ lông chim, tôi không những không tỏ ra sợ hãi mà còn giương đôi cánh tỏ ý mừng vui và chìm cái mỏ nhỏ xíu của mình ra ngoài lồng. Hoàng hậu ngạc nhiên thấy tôi sao chóng quen người đến vậy. Đôi khi nàng cho tôi ra khỏi lồng, thả cho bay tự do trong phòng. Lần nào tôi cũng bay đến bên nàng, để được nàng vuốt ve. Nhưng hễ có một nàng cung nữ nào muốn dơ tay bắt tôi thì tôi mổ thật dữ dội vào tay cô ấy. Cách thức ấy làm cho hoàng hậu ngày càng thêm thú vị, nàng thường nói chẳng may tôi chết đi thì nàng sẽ rất buồn bã, vì nàng cảm thấy rất quý rất yêu con chim nhỏ này.
Điều đau khổ lớn nhất của tôi là khi tu sĩ đến thăm hoàng hậu. Thật là một cực hình cho tôi! Cho đến bây giờ tôi vẫn không làm sao hết căm phẫn khi nghĩ lại cảnh tượng ấy. Mỗi lần tu sĩ đến âu yếm hoàng hậu, bộ lông tôi xù lên, tôi quay cuồng như điên dại trong chiếc lồng. Đôi khi hoàng hậu cùng với tên tu sĩ ấy đến cạnh lồng chim, và y bắt chước nàng đưa tay vuốt ve tôi, tôi mổ vào tay y thật mạnh. Nhưng nỗi căm hờn của tôi chỉ làm cho cả hai người cảm thấy thú vị hơn và phá ra cười với nhau.
Hoàng hậu có nuôi trong phòng một con chó cái nhỏ mà nàng cũng rất thích. Một hôm, con vật ấy chết trong khi đang sinh nở. Lúc ấy chỉ có mình tôi và con chó cái trong phòng. Tôi nảy ra ý muốn thử nghiệm một lần thứ ba nữa bí quyết của mình. Tôi tự nhủ: “Giờ đây ta nên chuyển linh hồn vào thân thể con chó kia. Ta muốn xem hoàng hậu sẽ buồn rầu như thế nào khi thấy con hoạ mi của nàng đã chết.”
Tôi chẳng hiểu sao tôi nảy ra cái ý tinh nghịch ấy. Tôi cũng không dự đoán sự thay hình đổi dạng này rồi sẽ dẫn đến việc gì. Nhưng bởi bí quyết ấy là một bí ẩn của trời đất, tôi cứ thực hành một cách ngẫu nhiên.
NGÀY THỨ NĂM MƯƠI CHÍN
Khi hoàng hậu quay trở về phòng, việc đầu tiên là nàng đi đến cạnh lồng chim. Nhìn thấy con hoạ mi đã chết, nàng hét lên một tiếng làm tất cả các cung nữ hoảng hốt chạy xúm lại:
- Có việc gì vậy, tâu hoàng hậu? Có điều gì không hay vừa xảy ra với bà?
Hoàng hậu nước mắt như mưa:
- Các ngươi không thấy ta đang tuyệt vọng đây sao. Con chim hoạ mi của ta chết rồi! Con chim yêu quý của ta, người chồng bé bỏng của ta! Tại sao chim vội ra đi? Thế là ta không còn được thưởng thức tiếng hót của mi, ta không còn được nhìn thấy mi. Ta đã làm gì khiến trời trừng phạt ta khắt khe đến thế này.
Hoàng hậu tỏ ra buồn phiền, những nàng hầu cố gắng hết sức vẫn không sao khuyên giải được, lại còn làm cho nàng có vẻ như buồn bã thêm lên. Một cung nữ vội vàng chạy đến báo cho tu sĩ biết, hoàng hậu đang có việc không vui. Y vội vàng đến ngay và nói với nàng rằng, một con chim chết thì có gì phải buồn phiền đến vậy. Cái chết của một con chim con thì có gì chẳng bù đắp được. Bởi hoàng hậu đã thích hoạ mi như vậy, thì ta sẽ sai người chăng bẫy, bắt về cho nàng muốn bao nhiêu có bấy nhiêu con. Nhưng mặc cho tu sĩ nói gì thì nói, chẳng làm sao khuyên giải được nàng Zemrut. Nàng than thở:
- Thôi, tâu hoàng thượng, xin ngài chớ khuyên giải em nữa, ngài chẳng làm được việc ấy đâu. Em hiểu là em qúa yếu đuối, sao đi buồn bã như vậy trước cái chết của một con chim con. Tự em cũng nghĩ giống như ngài, thế mà không hiểu sao em cứ buồn phiền không sao tả xiết. Em quý con chim nhỏ này lắm, hình như nó hiểu mọi thái độ cử chỉ của em, hình như nó biết đáp lại tình cảm của em đối với nó. Mỗi lần những người hầu của em đến gần thì nó tỏ ra hung dữ lắm; trong khi em vừa đến chìa tay ra thì nó đã nhảy ra cho em bắt. Hình như nó cũng có tình cảm đối với em, nó thường nhìn em vẻ buồn bã và trìu mến. Đôi khi hình như nó rất khổ vì không thể thốt ra được ra lời để biểu đạt tình cảm của nó với em. Em nhìn rõ điều ấy qua đôi mắt nó. Ôi, em không thể nghĩ đến chuyện ấy mà không buồn, con chim bé nhỏ đáng yêu của ta ơi, ta mất mi mãi mãi rồi.
Nói đến đấy hoàng hậu lại tuôn nước mắt, tưởng như không có gì làm cho nàng khuây khoả được. Lúc ấy tôi đang nằm trong một góc, cho mấy con chó con bú tí. Tôi nghe rõ rất cả những lời nàng nói. Tôi quan sát mọi người mà không ai để ý đến tôi. Tôi linh cảm một điều gì đấy thuận lợi cho mình đây trong nỗi đau của bà. Tôi linh cảm tên tu sĩ, để an ủi hoàng hậu, sẽ sử dụng bí quyết của nó, và linh cảm của tôi quả không sai. Tu sĩ thấy hoàng hậu không sao nghe lời khuyên giải, mà hẳn y cũng yêu thương nàng lắm nên cảm động trước những giọt nước mắt của nàng. Thế là không cần khuyên bảo thêm nữa, y lệnh cho những người giúp việc hoàng hậu ra hết khỏi phòng, để lại riêng mình y cùng với nàng. Lúc này nó mới nói hoàng hậu, ngỡ ngoài hai người không có ai nghe:
- Thưa bà, cái chết của con chim hoạ mi khiến bà buồn bã đến vậy thì ta sẽ làm cho nó hồi sinh trở lại, bà chớ nên buồn phiền nữa. Rồi bà sẽ trông thấy nó tỉnh lại ngay cho mà xem. Ta hứa sẽ trả lại cho bà con chim. Và mỗi sáng thức dậy bà sẽ lại nghe tiếng nó hót, bà sẽ có niềm vui được vuốt ve nó.
Hoàng hậu nói:
- Tâu bệ hạ, hình như ngài cho em là một con ngớ ngẩn hay sao. Ngài cố làm cho em hy vọng sáng mai sẽ nhìn thấy con hoạ mi của mình sống trở lại. Đến mai, ngài sẽ nói chuyện thần kỳ ấy sẽ diễn ra sang mai kia, và cứ lần lữa ngày này qua ngày khác như vậy, ngài nghĩ rồi em sẽ dần quên con chim nhỏ của em. Hay là ngày có ý định sai người tìm cho em một con chim khác, bỏ vào lồng thay chỗ con hoạ mi kia để em đỡ buồn phiền?
- Không, không phải vậy đâu, hoàng hậu của ta ạ,- tu sĩ đáp.- Không phải một con chim khác mà chính con hoạ mi đang nằm bất tỉnh trong lồng kia, nó chết đi khiến bà buồn rầu đến vậy, thì chính nó sẽ trở lại hót cho bà nghe. Ta sẽ cho nó một cuộc sống mới, và rồi bà sẽ tha hồ yêu thương nó, rồi bà sẽ thấy nó vẫn rất tha thiết muốn làm vừa lòng bà. Bởi chính ta sẽ nhập hồn vào xác con chim ấy, để rồi sáng sáng ta cho nó sống lại và làm vui lòng hoàng hậu. Ta có khả năng làm nên điều thần diệu ấy, -tu sĩ nói tiếp, -đấy là một bí quyết ta nắm được. Nếu bà vẫn chưa tin, nếu bà quá sốt ruột muốn được nhìn thấy con hoạ mi của bà sống lại ngay lúc này, thì ta có thể cho nó hồi sinh tức khắc.
Hoàng hậu không đáp. Qua sự lặng im ấy, tên tu sĩ ngỡ là nàng không tin. Y liền ngồi xuống chiếc trường kỷ và thầm niệm hai tiếng thần chú, chuyển linh hồn nó vào xác con chim. Tấm thân của nó, hay đúng hơn hình hài của tôi, ngả dài trên ghế. Cùng lúc, con chim hoạ mi bắt đầu cất tiếng hót trong lồng trước sự vô cùng kinh ngạc của hoàng hậu. Nhưng nó cất tiếng hót chẳng được bao lâu. Bởi nghe nó vừa cất tiếng, tôi vội từ bỏ thân xác con chó cái, nhập ngay vào hình hài của chính mình. Việc đầu tiên của tôi là chạy vội đến chiếc lồng chim, lôi cổ con chim ra bóp chết luôn. Hoàng hậu hỏi:
- Ngài làm gì vậy, tâu hoàng thượng? Sao ngài đối xử với con hoạ mi của em tàn tệ như vậy? Nếu ngài đã không muốn nó sống thì cần gì phải cho nó hồi sinh.
Tôi chẳng mấy quan tâm lời hoàng hậu nói. Tôi thốt lên:
- Tạ ơn trời đất, thế là xong! Thế là ta trừng trị được tên khốn nạn đã phản trắc ta.
Lúc nãy hoàng hậu rất đỗi ngạc nhiên thấy con hoạ mi sống trở lại thì giờ đây nàng còn kinh ngạc hơn khi nghe tôi thốt những lời vừa rồi. Nàng hỏi:
- Tâu hoàng thượng, có chuyện chi khiến ngài xúc động đến vậy? Những lời ngài vừa nói có nghĩa gì, em thật không hiểu.
Tôi thuật lại cho nàng nghe tất cả những việc đã xảy ra thời gian qua. Tôi để ý thấy trong khi nghe chuyện, thỉnh thoảng nàng lại biến sắc rùng mình. Khi thì nàng lại đỏ mặt lên hổ thẹn sao mình đã không chung thuỷ với chồng cho dù vô tình, khi thì nàng tái mặt như xác chết vì đớn đau tức giận. Hoàng hậu không chút nghi ngờ tôi đích thực là hoàng tử Falala, bởi trước đó nàng đã biết người ta đã tìm thấy xác tên tu sĩ trong rừng, và mọi người đều rõ lệnh độc ác của y cho giết chết tất cả những con hươu cái trên đất nước này.
NGÀY THỨ SÁU MƯƠI
Sau khi kể cho nàng Zemrut nghe đầu đuôi câu chuyện lạ lùng đến vậy, chẳng bao lâu tôi hối tiếc ngay. Đáng ra tôi chỉ nên nói với nàng có một đạo sĩ phép thuật cao cường nào đấy đã dạy cho tôi bí quyết làm cho một sinh vật chết có thể hồi sinh, chứ không nên kể lại cái trò đểu cáng tên tu sĩ gây ra cho tôi và cho cả hoàng hậu. Giá nàng không biết câu chuyện ấy thì tốt biết chừng nào, giá được vậy thì hẳn nàng còn sống đến nay. Nhưng điều tôi vừa nhỡ nói ra với các vị chứng tỏ tôi lại nhầm lẫn nữa rồi. Chẳng lẽ chúng ta không biết tất cả hoạ phúc xảy ra cho mọi người trần thế đều đã được định trước trên thiên đình hay sao.
- Thưa các vị, hoàng tử Falala nói tiếp với vua Timuatat, hoàng hậu Enma và hoàng tử Calap,- hoàng hậu của tôi tức là tiểu thư con gái ngài Muaphac ngày trước, rất buồn phiền vì nàng đã mang lại hạnh phúc cho một tên khốn nạn, nàng đã thật lòng âu yếm nó, và chuyện ấy khiến nàng băn khoăn sầu thảm đến mức không ai có cách gì làm cho nàng khuây nguôi. Tôi cố gắng biện bạch cho nàng nghe, sở dĩ nàng có lần không chung thủy với tôi, chẳng qua do không biết rõ mà thôi. Tội ấy là tội tên tu sĩ và nó đã chịu đền tội, nó đã bỏ mạng rồi.
Song mặc cho tôi nói gì thì nói, mặc cho tôi bày tỏ yêu đương nàng hết mực, chẳng có cách gì làm cho nàng quên nguôi sự việc đáng ghê tởm ấy. Nàng ngã bệnh, và chẳng bao lâu qua đời trong vòng tay tôi. Trước khi lâm chung nàng còn một lần nữa xin tôi tha thứ cho về một lỗi lầm mà thật ra đâu phải do nàng gây nên.
Sau khi hoàng hậu của tôi qua đời, và tôi đã làm mọi lễ nghi cần thiết mai táng nàng thật trọng thể, tôi cho mời hoàng thân Amađêtdin Zenghi đến và bảo:
- Em trai của anh ơi, anh không có con. Vì vậy anh muốn nhường ngôi vua xứ Muxen này cho em. Anh truyền ngôi báu cho em, anh khước từ không trị vì nữa, anh muốn sống những ngày còn lại trong cảnh ẩn dật.
Hoàng thân Amađêtdin vốn yêu quý tôi thật lòng, cố tìm mọi cách khiến tôi thay đổi ý định. Nhưng tôi bảo trước chàng mọi việc đều vô ích thôi:
- Hoàng thân ạ, ta đã quyết rồi, ta truyền ngôi vua cho hoàng thân. Hãy ngồi lên ngôi báu của vua Falala. Ta hy vọng rồi hoàng thân sẽ may mắn, hạnh phúc hơn ta. Nhân dân cả nước từ trước đến nay đều hiểu rõ tài thao lược của hoàng thân, nhân dân đã từng có dịp hưởng niềm vui được hoàng thân ngự trị. Về phần ta, ta đã chán mọi vinh hoa phú quý. Ta sẽ tìm đến một xứ sở xa xôi hẻo lánh sống như một con người bình thường. Ở nơi ấy ta không phải chăm lo việc triều chính hàng ngày. Ta sẽ có thời gian khóc than nàng Zemrut, ta tha hồ hồi tưởng những ngày hạnh phúc từng chung sống với nàng. Nuôi dưỡng kỷ niệm về những ngày hạnh phúc ấy sẽ là công việc chính trong cuộc sống thường nhật của ta sau này.
Vậy là tôi giao cho Amađêtdin Zenghi chiếc vương miện xứ Muxen, rồi lên đường hướng về thành phố Batđa. Tôi chỉ cho mấy người giúp việc theo hầu. May mắn tôi đến được thành phố ấy có mang theo nhiều vàng bạc châu báu. Tôi tìm đến nhà ngài Muaphac. Ngài cũng như bà nhạc mẫu tôi vô cùng ngạc nhiên thấy tôi đột ngột đến thăm. Hai người càng ngỡ ngàng hơn nữa khi biết tin con gái mình đã qua đời, đứa con họ vô cùng yêu quý. Tôi vừa kể lại tất cả câu chuyện đã xảy ra thời gian qua vừa tuôn nước mắt, khiến hai ông bà nhạc của tôi cũng không cầm được nước mắt.
Tôi chẳng nấn ná lâu ở thành phố Batđa. Gặp một đoàn người rất đông đảo hành hương về thánh địa Mêcca, tôi tháp tùng họ. Sau khi làm xong nghĩa vụ tín đồ của tôi ở chốn thiêng liêng ấy, tình cờ tôi gặp một đoàn người Tarta vừa từ xứ ấy về đây hành hương tại Mêcca. Tôi lại tháp tùng họ, định cùng họ về xứ Tartari. Đi ngang qua thành phố này, tôi thấy phong cảnh ở đây dễ chịu, tôi dừng chân và định cư luôn ở đây.
Tôi sống ở nơi này tính đến nay gần được bốn mươi năm. Trước mắt mọi người dân, tôi là một khách ngoại quốc xưa kia từng làm nghề thương mại. Tại đây tôi sống cuộc đời thật sự ẩn dật. Hầu như tôi không tiếp khách bao giờ. Nàng Zemrut luôn luôn hiện diện trong trí óc tôi, và tôi cảm thấy lạc thú khi thường xuyên hồi tưởng đến nàng.
Chương 10: Chuyện hoàng tử Calap và công chúa nước Trung Hoa (tiếp theo)
Kể xong câu chuyện về cuộc đời mình, hoàng tử Falala nói thêm với các vị khách:
- Đấy là tất cả câu chuyện của tôi. Qua những nỗi bất hạnh của tôi và của các vị đây, hẳn các vị có thể nhận ra, cuộc sống con người là một cây sậy bị lay động không ngừng trước cơn gió lạnh phương bắc. Dù sao tôi có thể thưa với các vị, tôi sống hạnh phúc và thanh thản kể từ ngày tôi định cư ở xứ Giaich này. Tôi không bao giờ hối tiếc đã từ bỏ ngai vàng xứ Muxen. Tôi tìm thấy yên vui trong cuộc sống với số phận một con người bình thường không mấy ai biết đến.
Hãn Timuatat, hoàng hậu Enma và hoàng tử Calap hết sức ca ngợi người con của Hãn Ben-Ortoc xưa. Timuatat khâm phục quyết định của chàng đã tự mình khước từ cả một quốc gia để đến sống như một người dân bình thường tại một xứ sở xa lạ, ở đấy chẳng hề ai hay biết chàng có ngày từng giữ địa vị cao sang. Hoàng hậu Enma thì ngợi ca lòng chung thuỷ của chàng Falala đối với nàng Zemrut, cũng như sự hối tiếc mà chàng luôn cảm thấy sau cái chết cuả người yêu. Hoàng tử Calap nói:
- Thưa ngài, mong sao tất cả mọi người đang sống trong hoàn cảnh khó khăn đều có thể tìm được thái độ trong sáng mà ngài luôn có được trước những trớ trêu của số phận.
Bốn người tiếp tục chuyện trò cho đến giờ đi nghỉ. Falala gọi những người hầu. Họ mang đến nhiều cây nến cắm trên những chân đèn bằng gỗ lô hội, rồi mời vị vua, bà hoàng hậu và chàng hoàng tử sang một căn nhà khác, ở đây mọi vật cũng đều giản dị khiêm nhường như tất cả mọi nơi khác trong toàn bộ ngôi nhà. Hoàng hậu Enma cùng chồng nghỉ trong một phòng, hoàng tử Calap chúc cha mẹ ngủ ngon rồi sang nghỉ ở phòng bên cạnh. Sáng sớm hôm sau, họ vừa thức dậy cụ già đã bước vào cho biết:
- Không phải chỉ có các vị là những người bất hạnh. Tôi vừa được tin nhà vua nước Carim phái sứ thần đến thành phố này tối hôm qua. Sứ thần có nhiệm vụ trình với Hãn Ilen là người đang trị vì xứ này, yêu cầu Hãn không những không cho phép nhà vua người Nogai vốn là tử thù của vua Carim được cư trú tại xứ mình, thậm chí vua Carim còn đòi ông phải bắt giữ ngay trong trường hợp vua Nogai đi ngang qua lãnh thổ Giaich. Quả là- Falala nói tiếp- trước đây đã có tin đồn rằng nhà vua bất hạnh người Nogai đã sa vào tay của vua xứ Carim, thật ra ông đã cùng gia đình trốn chạy thoát khỏi kinh đô mình trước khi quân Carim đến.
Nghe cụ già nói vậy, vua Timuatat và hoàng tử Calap biến sắc, còn hoàng hậu thì ngã xuống bất tỉnh.
NGÀY THỨ SÁU MƯƠI MỐT
Thấy bà hoàng hậu ngất đi, cũng như vẻ bối rối của hai cha con, Falala hiểu ngay những vị khách của mình không phải là những thương nhân như lời họ nói. Chờ bà hoàng hậu tỉnh lại rồi, cụ già nói với họ:
- Tôi thấy hình như các vị vô cùng thông cảm nỗi bất hạnh của đức Hãn người Nogai, hay là, tôi xin được nói thẳng điều tôi suy nghĩ, tôi nghĩ ba vị chính là những người đang bị vua nước Carim hận thù và truy đuổi.
Timuatat nói:
- Đúng vậy, thưa ngài. Chúng tôi chính là những nạn nhân ông ta đang tìm cách sát hại. Tôi chính là quốc vương xứ Nogai, đây là hoàng hậu vợ tôi và hoàng tử con trai tôi. Tôi xin lỗi, chúng tôi đã không nói rõ mình là ai sau khi được ngài đón tiếp trọng hậu và tin cậy tâm tình tối hôm qua. Giờ đây tôi hy vọng ngài sẽ cho chúng tôi lời khuyên bảo, bằng cách nào thoát khỏi cơn khốn đốn này.
- Tình hình cũng khá tế nhị đấy,-vị cựu vương xứ Muxen đáp.-Tôi biết Hãn Ilen xứ này. Ông ta rất sợ vua nước Carim. Và có thể tin chắc, để làm hài lòng vua Carim ông ta sẽ hạ lệnh lùng bắt các vị khắp nơi. Các vị không an toàn ở nhà tôi đâu, cũng như ở bất cứ nơi nào trong thành phố này. Các vị chẳng có con đường nào khác là nhanh chóng ra ngay khỏi lãnh thổ xứ Giaich này. Hãy vượt sang sông Irtic và cố gắng sao đến được càng nhanh càng tốt lãnh địa của người bộ tộc Belala.
Vua Timuatat, hoàng hậu và hoàng tử Calap đều cho rằng ý kiến cụ già là đúng. Falala liền sai chuẩn bị ngay ba con ngựa cùng thức ăn đầy đủ, rồi đưa cho họ một túi đựng đầy tiền vàng và bảo:
- Xin các vị lên đường ngay, chớ nên để mất thời gian. Có thể ngay từ ngày mai Hãn Ilen đã sai người săn lùng tìm bắt các vị.
Ba vị khách cảm tạ vị cựu vương và vội vàng lên ngựa rời khỏi xứ Giaich. Họ vượt qua sông Irtic, và sau nhiều ngày đường họ tới được xứ sở của bộ tộc người Belala. Gặp điểm dân cư đầu tiên họ dừng lại, bán ba con ngựa lấy tiền sống tạm ở đấy. Nhưng rồi số tiền nhỏ nhoi mỗi ngày một cạn, vua Timuatat lại cảm thấy buồn rầu. Vua than thở:
- Tại sao ta còn sống làm chi trên đời này. Nhẽ ra ta phải ở lại trong nước, chờ kẻ thù hung dữ của ta đến, rồi bỏ mình trong một trận sống mái bảo vệ kinh thành, còn hơn là được sống trong cảnh hết nỗi bất hạnh này đến nỗi bất hạnh khác. Chúng ta đã kiên nhẫn chịu đựng tai hoạ, nhưng có lẽ chẳng bao giờ trời đoái nhìn lại chúng ta, mặc dù chúng ta chịu tuân phục số mệnh, trời vẫn bắt ta sống mãi trong cảnh khốn cùng.
- Thưa cha, -chàng Calap nói-chúng ta chớ vội tuyệt vọng khi tai nạn chưa qua khỏi. Biết đâu trời đang chuẩn bị cho ta những ngày sáng sủa hơn, mà ta không biết đấy thôi. Chúng ta hãy tìm đến điểm dân cư lớn nhất của bộ tộc này. Con linh cảm đến đấy số phận chúng ta có thể có sự đổi thay.
Vậy là ba người tiếp tục lên đường, tìm đến điểm dân cư nơi vị thủ lãnh người Belala đang đóng kinh đô. Nhà vua, hoàng hậu và hoàng tử Calap cùng vào một ngôi nhà lớn vốn là nhà thương làm phúc cho những người xa lạ khốn cùng không nơi nương tựa. Họ tìm một góc nằm nghỉ, rất buồn rầu không biết rồi đây sẽ làm gì để kiếm được miếng sống qua ngày. Calap để cha mẹ nghỉ ở đấy, một mình ra khỏi nhà làm thương làm phúc. Chàng vào khu dân cư, hỏi xin những người qua đường bố thí cho ít nhiều. Hết ngày chàng cũng kiếm được một món tiền nhỏ nhoi đủ mua một ít thực phẩm, mang về cho cha mẹ dùng tạm.
Hai vợ chồng nhà vua không ngăn được nước mắt khi biết con trai mình vừa đi ăn xin. Chàng Calap cũng mủi lòng trước nước mắt cha mẹ, nhưng chàng nói:
- Con thú thật chẳng có gì buồn khổ hơn lâm vào cảnh ăn mày. Tuy nhiên không còn có cách nào khác để nuôi sống cha mẹ. Vì vậy cho dù có xấu hổ đến bao nhiêu, con vẫn tiếp tục đi ăn xin. Hay là cha mẹ hãy bán con đi làm nô lệ, với số tiền thu được, cha mẹ có thể sống thêm nhiều ngày.
- Con nói gì vậy, con trai của ta? Timuatat thốt lên- Con bảo vợ chồng ta tiếp tục sống trong khi con mất hết tự do hay sao. Nếu một người nào đó cần phải bán đi để cứu sống hai người kia thì người đó chính là ta. Ta sẵn sàng bán thân đi làm nô lệ lấy tiền giúp đỡ hai mẹ con.
- Thưa cha, -chàng Calap lại nói- con vừa nảy ra một ý. Sáng sớm mai con sẽ đến chỗ những người phu làm nghề mang vác hàng đang chờ việc. May có ai đó thuê con thì chúng ta có thể sống nhờ vào sức lao động của con.
Ba người cùng nhất trí. Ngày hôm sau, hoàng tử đến trà trộn vào số người chuyên mang vác thuê trong khu dân cư, ở đấy chờ may ra có người nào đến thuê, nhưng chờ mãi chẳng thấy có ai. Đã nửa ngày qua, chưa kiếm được đồng nào. Chàng rất buồn. Nếu công việc này không kiếm ra được tiền thì làm sao nuôi sống được cả nhà đây.
Chờ mãi vô vọng, Calap đâm chán. Chàng liền bỏ khu dân cư, ra một cánh đồng để dễ suy nghĩ hơn làm cách nào kiếm sống đây. Chàng ngồi nghỉ dưới một gốc cây. Sau khi khẩn cầu trời đất hãy thương xót cho tình cảnh của mình, chàng ngủ thiếp đi. Khi thức giấc, hoàng tử nhìn thấy bên cạnh mình có một con chim cắt cực kỳ đẹp. Đầu con chim có một cái mào màu sắc rực rỡ, ở cổ nó lại đeo một chuỗi kết bằng lá vàng khảm kim cương và ngọc trắng, ngọc đỏ. Chàng Calap từng nghe chuyện người ta nuôi chim cắt để săn bắn, chàng chìa cánh tay ra; con chim bay đến đỗ luôn xuống cổ tay chàng. Chàng hoàng tử Nogai vui mừng khôn tả, chàng tự nhủ: “Thử xem việc này sẽ đưa ta đến đâu? Dường như con chim cắt này là vật nuôi thuộc vị chúa tể bộ tộc này”.
Chàng đã không lầm. Đấy chính là con chim cắt của vị Hãn người Belala tên là Alingơ. Hôm qua, trong một buổi đi săn ông để lạc mất con chim. Ông đã sai quân sục sạo khắp cánh đồng. Mọi người cố sức tìm kiếm khắp mọi nơi mọi chốn, bởi vị chúa tể đã doạ, nếu họ quay trở lại triều đình mà không có con chim thì sẽ bị nhục hình.
NGÀY THỨ SÁU MƯƠI HAI
Hoàng tử Calap quay trở về khu dân cư cùng với con chim cắt. Dân chúng nhìn thấy đều kêu lên:
- Kìa! Kia là con chim cắt của đức Hãn, đã tìm thấy kia rồi. Khá khen cho chàng trai trẻ, rồi chàng sẽ được trọng thưởng khi mang con chim này trả lại Hãn của chúng ta.
Quả nhiên, khi Calap vừa đến ngôi nhà lớn dùng làm hoàng cung, trên cổ tay có con chim cắt đậu, vị Hãn trông thấy rất đỗi vua mừng. Ông vội chạy đến vuốt ve con chim. Tiếp đó ông quay hỏi chàng trai đã tìm đâu được con chim cắt này. Calap thuật lại đúng như sự việc đã xảy ra. Nghe xong vị Hãn nói:
- Trông anh có vẻ người nước ngoài. Anh từ nước nào đến? Nghề nghiệp anh là gì?
Người con trai vua Timuatat quỳ xuống thưa:
- Tâu ngài, tôi là con trai một thương nhân ở nước Bungari. Gia đình chúng tôi trước đây giàu có lắm. Tôi cùng với bố mẹ đang đi qua nước Giaich, chẳng may gặp bọn cướp, chúng chiếm đoạt hết tài sản của chúng tôi, may chúng còn để cho chúng tôi được sống. Chúng tôi đành đến đây xin miếng ăn sống qua ngày.
Vị Hãn nói:
- Chàng trai trẻ à, ta rất hài lòng chính anh là người đã tìm được con chim cắt của ta. Ta đã thề với trời đất sẽ ban thưởng cho người nào tìm bắt được nó và mang trả lại cho ta, ba điều mà người ấy ngỏ lời ước. Vậy anh chỉ cần nói lên anh ước mong được ta ban thưởng cho anh những gì, chắc chắn anh sẽ toại nguyện.
Chàng Calap đáp:
- Bởi ngài đã cho phép tôi được ngỏ ba điều ước, trước hết, tôi cầu xin ngài cho cha mẹ tôi hiện nay đang tạm trú tại nhà thương làm phúc được có một ngôi nhà riêng ngay trong khu dân cư của ngài, được ngài cho nuôi dưỡng những ngày còn lại của họ và được phục dịch bởi những người từng hầu hạ trong hoàng cung. Điều ước thứ hai, tôi xin được ngài cấp cho một con ngựa tốt trong đàn ngựa chiến của triều đình với đầy đủ yên cương. Và điều ước cuối cùng, xin ngài hãy ban cho tôi một bộ áo quần sang trọng, một thanh gươm tốt kèm với một túi tiền vàng để tôi có thể thực hiện một chuyến đi xa mà tôi suy ngẫm từ lâu.
- Ba điều ước của anh sẽ được đáp ứng- Hãn Alingơ nói.- Anh hãy đưa bố mẹ anh đến đây. Ngay từ hôm nay ta sẽ cho người đối xử với ông bà đúng như anh mong ước. Và sáng sớm mai, anh sẽ được mặc bộ áo quần sang trọng, cưỡi lên lưng một con ngựa đẹp nhất trong đàn ngựa của ta, rồi anh muốn đi đâu tuỳ ý.
Một lần nữa Calap quỳ lạy và cảm tạ đức Hãn, sau đó chàng quay trở lại ngôi nhà thương nơi hoàng hậu Enma và quốc vương Timuatat đang nôn nóng chờ đợi. Chàng nói:
- Con mang về cho cha mẹ tin vua. Số phận của chúng ta đã thay đổi.
Nói xong chàng thuật lại cho bố mẹ nghe những điều vừa xảy ra. Hai người rất vui mừng, thấy ở đây một điềm lành, hy vọng thân phận của họ từ nay sẽ bớt khó khăn. Nhà vua và hoàng hậu vui lòng theo chàng Calap đến ra mắt đức Hãn. Nhà vua đón tiếp họ khá lịch sự, nói sẽ thực hiện đúng như lời đã hứa với chàng trai.
Ngay hôm ấy vua và hoàng hậu được nhận một ngôi nhà riêng có người hầu hạ. Hãn Alingơ còn ra lệnh mọi người phải đối xử với họ trọng thị như đối với chính ông.
Ngày hôm sau chàng Calap mặc bộ quần áo sang trọng vào người, nhận từ tay đích thân nhà vua trao cho một thanh gươm, đốc gươm khảm kim cương, cùng một túi đựng đầy đồng xơcanh vàng. Tiếp đó một con ngựa tốt nòi Thổ Nhĩ Kỳ được dẫn đến. Trước mặt toàn thể triều đình, chàng trai nhảy lên yên, và để tỏ ra mình có tài cưỡi ngựa, chàng trai cho ngựa biểu diễn đủ các nước đi, làm nhà vua và các triều thần đều ca ngợi. Sau khi cảm tạ đức Hãn về bấy nhiêu điều giúp đỡ, chàng cáo biệt vua, trở về thưa với vua Timuatat và hoàng hậu Enma như sau:
- Con vô cùng mong muốn được đến đất nước Trung Hoa vĩ đại, xin cha mẹ cho phép. Con có linh cảm, đến đấy con sẽ làm cho mọi người chú ý bằng một chiến công phi thường nào đó, con sẽ giành được tình cảm của đấng quân vương đang trị vì một quốc gia vô cùng rộng lớn. Xin cha mẹ vui lòng nghỉ lại đây. Cha mẹ chẳng phải lo thiếu thốn thứ gì. Cho phép con đi cho thoả chí tang bồng của mình. Hay đúng hơn, cha mẹ hãy cho con có cơ hội phó thác mình vào số phận, trời dẫn dắt con đến đâu, con sẽ tới nơi ấy.
Vua Timuatat nói:
- Con trai của ta, con cứ lên đường. Con hãy đưa chân theo định mệnh đang chờ con. Chắc chắn tai qua nạn khỏi, những ngày may mắn đang chờ đợi con. Cha mẹ sẽ đợi tin con tại bộ tộc này. Số phận cha mẹ tuỳ thuộc vào số phận con.
Chàng hoàng tử trẻ xứ Nogai lần lượt ôm hôn cha mẹ rồi lên đường đến nước Trung Hoa. Các tác giả thời xưa không thuật lại chàng đã gặp những chuyện trắc trở dọc đường hay không, các vị chỉ cho biết, cuối cùng chàng đặt chân đến thành phố vĩ đại Canđalec, tức Bắc Kinh ngày nay.
Vào thành phố, chàng xuống ngựa ngay trước một ngôi nhà đầu tiên trông thấy. Đấy là nhà một bà cụ goá chồng. Calap chào bà già và thưa:
- Thưa mẹ, xin hỏi mẹ có đồng ý cho một người nước ngoài được ở nhờ nhà mẹ hay không? Nếu mẹ vui lòng cho con trọ, con có thể quả quyết rồi mẹ không có gì phải hối tiếc.
Bà già nhìn thẳng vào chàng trai trẻ, dáng vẻ chàng cũng như bộ trang phục trên người đều cho thấy đây là một vị khách không thể coi thường, liền nghiêng mình đáp lễ và trả lời:
- Thưa chàng ngoại quốc cao qúy, chàng có thể sử dụng ngôi nhà của già với tất cả đồ đạc trong ấy.
- Mẹ có một nơi nào có thể buộc con ngựa của con không? Chàng trai lại hỏi:
- Có- bà đáp.- Vừa nói bà cụ già nắm cương ngựa dẫn vào một cái chuồng nhỏ đằng sau nhà. Khi bà quay trở lại, Calap lúc này đang đói lại hỏi, trong nhà liệu còn có ai khác có thể giúp chàng ra chợ mua thức gì về ăn. Bà cụ bảo, có một đứa cháu trai mười hai tuổi vẫn chung sống cùng bà, cháu có thể làm tốt công việc ấy. Hoàng tử lấy một đồng xơcanh vàng đặt vào tay chú bé bảo ra chợ mua thức ăn.
Trong thời gian ấy, bà cụ chủ nhà trả lời vô vàn câu hỏi của hoàng tử Calap muốn tìm hiểu. Chàng hỏi bà đủ thứ chuyện. Phong tục nhân dân thành phố này ra sao. Kinh thành Bắc Kinh có bao nhiêu hộ. Cuối cùng hỏi đến hoàng đế nước Trung Hoa:
- Xin mẹ vui lòng cho con biết, tính danh hoàng đế như thế nào. Đức vua có phải người đại lượng? Mẹ có nghĩ rằng vua có hạ cố quan tâm đến một chàng trai đến xin phục vụ dưới trướng của ngài hay không. Tóm lại, con có nên đến xin yết kiến hoàng thượng hay không?
Cụ già đáp:
- Đức hoàng đế là một đấng quân vương rất anh minh. Vua thương yêu trăm họ, dân chúng ai nấy đều quí trọng ngài. Tôi khá ngạc nhiên sao anh chưa bao giờ nghe uy danh vị minh quân hoàng đế Anh Tông của chúng tôi, bởi vì tiếng tăm về sự hào hiệp của ngài truyền lan khắp nơi trên thế giới.
Nghe bà cụ nói vậy, chàng trai lại hỏi:
- Con nghĩ, chắc đấng quân vương ấy là người hạnh phúc và hài lòng nhất thế gian.
- Chẳng hẳn vậy đâu,-bà cụ già đáp.-Thậm chí có thể nói nhà vua là người khá bất hạnh. Trước hết, người không có con trai kế vị, cho dù đã cầu xin Thượng đế và ban phúc làm đủ mọi điều, vẫn không thể nào trời cho sinh hạ hoàng tử. Tuy nhiên, tôi có thể nói, nỗi buồn lớn nhất của nhà vua không hẳn ở chỗ không có con trai nỗi dõi. Điều khiến cho người ăn không ngon ngủ không yên chính là nàng công chúa Tuaranđoc, con gái độc nhất của người.
- Lạ nhỉ, tại sao công chúa lại gây cho nhà vua lắm điều phiền não?
- Tôi sẽ kể cho anh nghe,-bà già đáp,-tôi hiểu rất cặn kẽ câu chuyện ấy, bởi vì chính miệng con gái tôi thuật lại cho tôi nghe, cháu nó được vinh dự vào hầu hạ trong cung công chúa.
NGÀY THỨ SÁU MƯƠI BA
Bà cụ già kể tiếp:
- Công chúa Tuaranđoc, năm nay mười chín tuổi. Nàng xinh đẹp tuyệt trần. Đẹp đến nỗi các hoạ sĩ nổi tiếng nhất phương Đông vẽ chân dung của nàng đều phải thú thật, tự mình lấy làm xấu hổ bởi không có nét hoạ nào có thể mô tả đầy đủ vẻ đẹp vô song của nàng công chúa nước Trung Hoa. Ấy thế mà một số bức hoạ ấy, cho dù còn quá xa với nguyên mẫu, vẫn gây nên những hệ quả ghê gớm cho những ai nhìn thấy công chúa. Công chúa Tuaranđoc không chỉ có nhan sắc chim sa cá lặn mà nàng còn rất thông minh, học vấn uyên thâm. Không chỉ nàng thông làu mọi điều các nàng công chúa con vua cháu chúa buộc phải biết, nàng còn giỏi cả những môn khoa học xưa nay chỉ phù hợp với nam giới. Thư pháp của nàng rất điêu luyện, nàng viết được nhiều kiểu chữ khác nhau,. Nàng thông thạo số học, địa lý học, triết học, toán học, luật học và nhất là thần học. Nàng không chỉ thông làu Tứ thư ngũ kinh cũng như mọi trước tác của đức Khổng phu tử và của bách gia chư tử. Tóm lại công chúa uyên bác hơn cả những vị học giả uyên bác nhất. Có điều những đức tính ấy lại của một con người có tâm hồn cứng hơn sắt đá. Tính độc ác làm khuất lấp mọi tài năng, kiến thức của nàng.
Cách đây hai năm, nhà vua xứ Tây tạng cho người đến cầu hôn công chúa cho con trai của mình. Chàng hoàng tử này vốn si mê nàng chỉ vì được một lần nhìn thấy chân dung một hoạ sĩ vẽ nàng. Hoàng thượng của chúng tôi, đức hoàng đế Anh Tông rất hài lòng về sự cầu hôn ấy. Vua báo cho con gái biết. Công chúa xưa nay vốn là người rất kiêu ngạo, nàng cho rằng tất cả đám đàn ông đều chẳng là gì dưới con mắt nàng. Bởi quá xinh đẹp và thông thái đâm ra kiêu căng, nàng khinh bỉ khước từ lời cầu hôn. Nhà vua nổi giận bảo công chúa phải tuân lệnh. Nhưng, đáng ra nên vui lòng tuân phục ý muốn của vua cha, đằng này công chúa lại tỏ ra bực bội vì mình bị ép buộc. Nàng sinh ra buồn bã như thể có ai muốn gây hại lớn cho mình. Cuối cùng quá trầm uất, nàng lâm bệnh nặng. Các vị ngự y hiểu rõ nguyên nhân, tâu với hoàng đế thuốc thang chẳng ích lợi gì trong trường hợp này, chắc chắn công chúa rồi sẽ qua đời nếu nhà vua cứ một mực ép nàng kết duyên với hoàng tử xứ Tây tạng. Đức vua vốn rất yêu thương con gái, hoảng hốt sợ chết mất con, liền thân hành đến gặp công chúa và khẳng định với nàng, vua sẽ khước từ lời cầu hôn và cho sứ thần Tây Tạng về nước.
- Thưa phụ vương, như vậy vẫn chưa đủ,-công chúa nói-con sẽ chết thôi trừ phi cha chấp thuận cho con điều con van xin người như sau. Nếu cha muốn con còn sống được, xin cha hãy thề đừng làm trái ý con. Cha cần phải ban chiếu chỉ công bố cho mọi người biết, tất cả các vị hoàng tử muốn cầu hôn con sẽ không ai được cưới con làm vợ trước khi trả lời đúng các câu hỏi con đặt ra cho họ, trước sự chứng kiến của các bậc đại thần, học sĩ. Ai trả lời đúng, con sẽ chấp nhận người ấy làm chồng. Ngược lại, ai trả lời sai sẽ bị chặt đầu ngay đêm hôm ấy tại hoàng cung.
Nàng nói thêm:

- Qua chiếu chỉ ấy, các vị hoàng tử nước ngoài rồi đây sẽ đến Bắc Kinh không còn có ý mong muốn cầu hôn nữa. Đấy là chính điều con mơ ước, bởi con rất kỵ đàn ông, con không muốn lấy chồng.
Nhà vua hỏi:
- Nhưng con gái của ta, nếu có một vị hoàng tử nào đã hiểu rõ nội dung chiếu chỉ mà vẫn cứ cầu hôn và sẽ trả lời đúng các câu hỏi của con thì sao?
- Thưa cha, con chẳng sợ điều ấy xảy ra. Con sẽ đặt ra những câu hỏi khó tới mức các bậc thông thái nhất cũng phải bối rối, con xin chấp nhận chuyện đánh cược ấy.
Đức vua suy nghĩ hồi lâu về điều nàng công chúa đòi hỏi. Vua tự nhủ: „Ta thấy rõ con gái ta không muốn lấy chồng. Những điều công chúa đòi hỏi chắc chắn sẽ làm kinh hãi những chàng trai si mê; vậy ta chẳng mất gì nếu ta cứ làm cho con gái ta vui lòng; chẳng xảy ra việc gì đâu, bởi có vị hoàng tử điên rồ nào đến nỗi chịu đương đầu một hiểm nguy khủng khiếp như vậy chỉ vì một cô gái“.
Tin chắc, cho dù chiếu chỉ ấy có ban ra cũng chẳng gây nên hậu quả đáng tiếc nào, mà ngược lại có thể làm cho con gái mình phục hồi khỏi căn bệnh tai quái, hoàng đế liền ban bố chiếu chỉ, đồng thời long trọng thề trước trời đất tự mình sẽ không làm trái chiếu chỉ đã ban. Công chúa Tuaranđoc yên tâm nhờ lời thề thiêng liêng của vua cha. Nàng biết phụ vương mình lúc nào đã nói là giữ lời, nhờ vậy yên tâm phục hồi sức khoẻ, và chẳng bao lâu trở lại hồng hào xinh đẹp như trước.
Trong thời gian ấy tiếng đồn đại về sắc đẹp của nàng công chúa thu hút nhiều hoàng tử trẻ từ nước ngoài đến kinh đô Bắc Kinh. Mặc dù mọi người đã biết trước nội dung bức chiếu chỉ, nhưng các chàng trai trẻ lúc nào chẳng tự cho mình hiểu rộng biết nhiều. Họ tự tin có thể giải đáp mọi câu hỏi của công chúa. Thế là hết chàng này đến chàng khác tất cả đều phải bỏ mình. Nhà vua nói với công chúa rằng thâm tâm rất xúc động trước số phận của các hoàng tử ấy. Vua hối hận sao mình lại có một lời thề trói buộc đến như vậy. Cho dù quý yêu con gái thật đấy, thà để công chúa chết đi còn hơn giữ cho được mạng sống với cái giá ấy. Vua tìm đủ mọi cách trong phạm vi quyền lực của mình, ngăn ngừa những điều bất hạnh xảy ra thêm. Mỗi lần có một chàng trai không thể cầm lòng trước sắc đẹp đồn đại của công chúa, vẫn coi thường cái chết đến xin cầu hôn, vua cố sức ngăn cản, chỉ lúc nào không đừng được mới chấp thuận. Ít có trường hợp vua thuyết phục được các chàng trai si mê nàng Tuaranđoc. Chàng nào cũng hy vọng mình đủ thông thái để vượt qua khó khăn và chiếm đoạt được nàng.
Nếu nhà vua tỏ ra rất thông cảm trước sự qua đời của những hoàng tử bất hạnh thì cô con gái dã man lại không như vậy. Nàng còn tỏ vẻ vui thích trước cảnh tượng đẫm máu gây nên do chính sắc đẹp của mình. Nàng quá kiêu ngạo, trước những hoàng tử đáng yêu nhất, nàng không chỉ cho rằng các chàng trai ấy chưa xứng đáng, thậm chí còn trách họ sao dám hỗn láo nghĩ tới việc có thể chinh phục được mình. Vì vậy, công chúa nghĩ các chàng trai ấy có bỏ mạng cũng đáng tội bạo gan của họ mà thôi.
Có điều đáng phàn nàn hơn nữa, là không hiểu sao trời lại để cho đông hoàng tử tới đây chết vì nàng công chúa bất nhân đến thế. Mới mấy ngày trước đây thôi, có một chàng trai tự cho mình giỏi giang thông thái đã bỏ mình, và ngay tối hôm nay một chàng trai khác lại phải trả món nợ khi bước chân đến triều đình nước Trung Hoa chỉ vì chàng nuôi cùng niềm hy vọng với các chàng trai bất hạnh qua đời trước mình.
NGÀY THỨ SÁU MƯƠI TƯ
Chàng Calap rất chăm chú lắng nghe bà cụ già kể chuyện. Chờ bà kể xong, chàng nói:
- Tôi thật không hiểu làm sao lại có nhiều hoàng tử thiếu suy nghĩ để đến đây cầu hôn với nàng công chúa nước Trung Hoa. Nhẽ ra, phải kinh sợ điều kiện cô ấy đưa ra chứ. Vả chăng các hoạ sĩ bao giờ chẳng vẽ vời thêm. Tôi tin họ đều cường điệu sắc đẹp của nàng. Người vẽ trong tranh bao giờ chẳng đẹp hơn người ngoài đời thật, cho nên mới tạo nên ấn tượng mạnh mẽ dường ấy. Tóm lại, tôi không nghĩ là công chúa Tuaranđoc xinh đẹp tới mức như bà nói.
- Thưa ngài,-bà già đáp- công chúa đẹp lắm, quả thật nàng đẹp hơn những gì tôi kể nhiều. Ngài có thể tin ở lời tôi, tự mắt tôi đã có dịp nhiều lần nhìn thấy công chúa khi có dịp vào cung thăm cháu. Ngài cứ tưởng tượng đi, tha hồ mà tượng tưởng nên một giai nhân xinh đẹp hơn cả tiên nữ giáng trần, tôi vẫn nghĩ ngài không sao hình dung nên một cô gái đẹp tương đương nàng công chúa.
Hoàng tử người Nogai nghĩ bà cụ già nói quá lời, ai làm sao tin được lời bà khoa trương thế. Thế nhưng không hiểu sao trong lòng chàng lại nảy sinh niềm thích thú thầm kín. Chàng hỏi:
- Nhưng, mẹ ơi, các câu hỏi của công chúa đặt ra khó khăn đến mức ấy ư, đến nỗi các câu trả lời không làm hài lòng những người chứng kiến. Tôi nghĩ rằng các hoàng tử không hiểu biết ý nghĩa sâu xa các câu đố, chắc hẳn đấy là những người chưa được học hành đến nơi đến chốn, thậm chí đầu óc tối tăm.
- Không, không phải thế đâu-bà cụ ngắt lời.-Quả thật những câu đố của nàng công chúa đề ra vô cùng bí hiểm và khúc mắc, hầu như chẳng có lời giải đáp nào cho vừa ý.
Trong thời gian hai người trò chuyện, chú bé đi chợ mua thức ăn đã trở về. Hoàng tử Calap ngồi vào bàn ăn ngon lành như một người đói khát lâu ngày. Lúc ấy trời vừa tối. Khắp thành phố vang lên những tiếng chiêng ảo não, ngân nga. Hoàng tử hỏi tiếng chiêng ấy có ý nghĩa gì. Tiếng chiêng gióng lên báo tin cho dân chúng biết sắp có cuộc hành quyết. Hôm nay chắc hẳn chàng hoàng tử đáng thương kia phải trả giá bằng tính mạng của mình, bởi đã không giải đáp đúng câu hỏi của nàng công chúa nên lên. Thông thường các cuộc hành quyết bọn tội đồ thường diễn ra ban ngày, nhưng lần này là trường hợp đặc biệt. Thâm tâm hoàng đế rất ghét hình phạt mà những người vì trót quý yêu cô con gái của mình phải chịu, vua không muốn mặt trời chứng giám một hành động độc ác như vậy.
Chàng trai con của vua Timuatat nảy ra ý muốn đi xem cuộc hành hình, mà nguyên nhân dẫn tới thật quá lạ lùng. Chàng ra khỏi nhà trọ. Vừa ra đến phố đã nhìn thấy đông đảo người Trung Hoa cũng hiếu kỳ như chàng. Chàng đi lẫn vào đám đông, đến tận cái sân rộng trước hoàng cung, nơi sẽ diễn ra cảnh bi thảm. Ở giữa sân chàng thấy đã dựng sẵn một đoạn đầu đài, tức là một cái tháp cao bằng gỗ. Chung quanh ngọn tháp ấy có những cành tùng cành bách, trên cành cây cắm những ngọn nến chiếu sáng rực cái sân rộng. Dưới chân đoạn đầu đài cao chừng mười lăm thước được phủ toàn vải trắng. Vòng ngoài cắm rất nhiều chiếc lọng cũng toàn màu trắng. Hai nghìn quân sĩ trong đội cấm vệ của vua Anh Tông tay cầm vũ khí tuốt trần, lập thành một hàng rào dày hai lớp người, ngăn không cho dân chúng lấn vào. Hoàng tử Calap mải mê nhìn ngắm những vật chưa từng thấy bao giờ, chợt nghe tiếng chiêng tiếng trống cùng nổi lên. Cùng lúc ấy, chàng nhìn thấy hai mươi viên đại thần cùng với hai mươi quan hình pháp, tất cả đều mặc áo thụng trắng từ hoàng cung bước ra, tiến đến đoạn đầu đài.
Sau khi đi diễu ba vòng quanh cái tháp, họ đến ngồi dưới những cây lọng trắng. Tiếp đó, người sắp bị hành quyết bước ra, quanh vầng trán có những vòng hoa tết với lá bách lá tùng. Đầu chàng chít một cái khăn xanh, chứ không phải chiếc khăn đỏ thông thường mà các tội đồ phải bịt lên đầu khi bị dẫn đến nơi hành quyết. Chang hoàng tử này còn trẻ lắm, chừng mười tám tuổi là cùng. Một đại thần dắt tay chàng tiến ra, sát ngay theo họ là tên đao phủ. Cả ba người bước lên đoạn đầu đài. Ngay lập tức tiếng trống, tiếng chiêng cũng im phăng phắc. Viên quan cất lời nói với hoàng tử, giọng khá lớn, chắc để cho hầu hết dân chúng đứng quanh đó có thể nghe thấy rõ:
- Thưa hoàng tử, có phải là khi ngài vừa bước chân đến kinh đô để ngỏ lời cầu hôn với công chúa, người ta đã nói cho ngài rõ đầy đủ nội dung bức chiếu chỉ của hoàng đế? Có phải đích thân hoàng đế từng cố gắng hết sức mình để ngài từ bỏ một quyết định quá ư là táo bạo?
Hoàng tử đáp:
- Đúng như vậy.
- Vậy thì ngài công nhận,-viên đại thần nói tiếp,-ngài phải bỏ mình hôm nay chính là do lỗi của chính ngài, hoàng thượng và công chúa không chịu trách nghiệm về cái chết của ngài?
Hoàng tử nói:
- Tôi tha thứ cho tất cả mọi người. Hình phạt này do tự tôi gây nên. Tôi cầu xin trời đất chớ nên trách cứ bất kỳ ai khác, tại sao có cuộc đổ máu tối hôm nay.
Chàng vừa dứt lời, viên đao phủ vung thanh mã tấu chém lìa đầu ngay tức khắc. Cùng lúc ấy, không gian vang rền tiếng chiêng, tiếng trống. Mười hai quan đại thần bước tới đưa tay đỡ thi thể hoàng tử đặt vào một chiếc quan tài đóng bằng ngà và gỗ mun, đặt cỗ quan tài lên một chiếc kiệu. Rồi sáu người ghé vai gánh kiệu đi vào trong vườn của hoàng cung. Ở đấy hoàng đế Anh Tông đã cho xây một cái lăng bằng cẩm thạch trắng. Cái lăng chung ấy là nơi yên nghỉ của tất cả các hoàng tử bất hạnh từng chịu chung số phận với hoàng tử này. Thỉnh thoảng nhà vua lại đến bên lăng tuôn rơi nước mắt cầu nguyện. Hoàng đế cầu xin những người quá cố hãy tha tội phần nào cho cô con gái dã man.
NGÀY THỨ SÁU MƯƠI LĂM
Khi thi thể hoàng tử được các vị đại thần mang đi khỏi nơi hành quyết, đội quân bảo vệ lui ra, dân chúng lần lượt ai về nhà nấy. Ai ai cũng chê trách nhà vua sao lại thiếu thận trọng, đi thề thốt nặng lời tới mức bây giờ không dám vi phạm lời thề thiêng liêng. Chàng Calap vẫn còn nấn ná trong sân hoàng cung, đầu óc rối bời. Chàng chợt nhìn thấy không xa, có một người đàn ông đang khóc lóc thảm thiết. Chàng nghĩ ông này chắc có góp phần chi đây vào cuộc hành quyết vừa xảy ra, liền đến gần cất lời hỏi như sau:
- Tôi rất xúc động trước nỗi đau đớn sâu sắc của ngài. Tôi xin có lời chia sẻ với ngài nỗi buồn. Tôi nghĩ ngài chắc có quen biết đặc biệt vị hoàng tử vừa bỏ mình.
Người kia buồn bã đáp, vừa nói vừa tuôn nước mắt nhiều hơn:
- Ngài ơi, sao tôi không biết chàng, tôi chính là thầy giáo phụ đạo của hoàng tử ấy. Hỡi quốc vương Samacan bất hạnh, ngài sẽ đau đớn biết bao khi ngài được tin cái chết kỳ quặc của hoàng tử con trai ngài! Và ai là người dám mang tin buồn ấy về tâu ngài rõ đây.
Calap hỏi bằng cách nào hoàng tử đất nước Samacan xa xôi lại có thể đắm say nàng công chúa Trung Hoa. Người kia đáp:
- Tôi xin kể hầu ngài, hẳn ngài sẽ ngạc nhiên về câu chuyện. Hoàng tử Samacan đang sống hạnh phúc trong triều đình phụ vương. Các đại thần trong triều ai ai cũng đều biết rồi đây chàng sẽ lên nối ngôi vua, nên ai cũng quý trọng và tuân phục chàng như quý trọng và tuân phục chính đức vua vậy. Hàng ngày chàng đi săn bắn hoặc tập luyện võ nghệ, đêm đêm cho mời một cô tiểu thư xuất sắc nhất trong triều đến cùng chàng thưởng thức các cuộc đàn ca múa hát do các cung nhân trong triều đình trình diễn. Nói tóm lại, cuộc đời chàng là chuỗi ngày đầy lạc thú. Giữa lúc ấy, có một hoạ sĩ người nước ngoài trứ danh đến kinh đô Samacan. Hoạ sĩ này đã qua rất nhiều triều đình để hoạ truyền thần chân dung các nàng công chúa. Ông mang những bức hoạ ấy đến cho hoàng tử của tôi xem. Chàng xem lướt qua nhiều bức rồi bảo:
- Ông vẽ người nào cũng đẹp. Tôi tin rằng những nàng được ông truyền thần giúp chân dung kia hẳn biết ơn ông lắm.
- Thưa ngài,-hoạ sĩ đáp-quả những bức tranh này tôi vẽ cũng có đẹp hơn người thật ngoài đời một ít. Tuy nhiên, tôi có thể thưa ngài rõ tôi có một bức chân dung đẹp hơn những cái kia nhiều, ấy thế mà tranh không làm sao sánh bằng nguyên mẫu.
Vừa nói hoạ sĩ vừa rút từ đáy cái hòm đựng các bức hoạ ra tấm chân dung vẽ nàng công chúa Trung Hoa.
Hoàng tử đón lấy ngắm nghía. Chàng không sao tưởng tượng có thể có một người trần nhan sắc xinh tươi dường này. Chàng nói:
- Không thể nào trên đời có một người con gái lại đẹp hơn tiên. Chắc hẳn hoạ sĩ đã quá tô vẽ thêm thắt cho nàng công chúa Trung Hoa.
Hoạ sĩ quả quyết hoàn toàn không phải vậy. Ông nói không riêng ông mà tất cả hoạ sĩ tài ba khác trên thế giới chẳng ai lột tả đúng sắc đẹp của nàng công chúa Tuaranđoc nước Trung Hoa. Nghe lời khẳng định ấy, hoàng tử tôi mua luôn tấm chân dung. Và bức tranh ấy gây ấn tượng sâu sắc đến nỗi một hôm, chàng quyết định rời bỏ kinh thành Samacan, đi ra một mình chỉ cho phép riêng tôi được đi theo. Chàng không nói trước cho tôi rõ ý đồ mà cứ lên đường xăm xăm đến thẳng kinh đô Trung Quốc.
Hoàng tử có ý định phục vụ dưới trướng vua Anh Tông một thời gian trong cuộc chinh phạt kẻ thù của vua ở biên cương, cho mọi người thấy rõ tài năng xuất chúng của mình, rồi sau đó mới ngỏ lời cầu hôn công chúa. Đến tận kinh thành Bắc Kinh, chúng tôi mới biết rõ nội dung chiếu chỉ của hoàng đế nước này. Điều kỳ lạ là hoàng tử của tôi không lấy thế làm phiền lòng, ngược lại tỏ ra vui mừng khôn xiết. Chàng nói:
- Vậy thì chẳng cần chờ đợi lâu la hơn nữa, đấy là cơ hội cho ta ra mắt công chúa Tuaranđoc. Ta không phải là người kém thông minh, chắc chắn ta sẽ trả lời đúng và chinh phục được nàng công chúa này.
Viên quan phụ đạo nức nở kể tiếp:
- Thưa ngài, tôi chẳng cần nói thêm nữa, qua cảnh tượng đáng buồn vừa rồi ngài đã hiểu kết cục ra sao. Hoàng tử bất hạnh từ kinh thành Samacan đến đã không sao giải đáp được những câu đố cắc cớ của nàng công chúa dã man. Khi biết mình không thoát khỏi cái chết, chàng nói với tôi: „Tôi xin gửi lại ông bức tranh quí giá này. Ông hãy giữ lấy nó coi như di vật của tôi để làm chứng. Rồi khi nào có dịp, ông sẽ đưa cho phụ vương tôi xem để người rõ số phận của tôi. Tôi tin, khi nhìn thấy hình ảnh một nàng công chúa đẹp dường này, phụ vương tôi sẽ tha thứ cho tôi tại sao phải chết“. Viên phụ đạo nói tiếp:
- Nhưng ai muốn đến báo tin buồn này cho phụ vương của hoàng tử Samacan thì cứ đến. Riêng tôi, bởi quá ưu phiền, tôi sẽ đi đến một nơi rất xa thành phố Bắc Kinh này cũng như xa thành phố Samacan của chúng tôi để khóc than cho chàng trai xiết bao thân thiết. Thưa ngài, đấy là tất cả những điều ngài muốn biết, và đây là bức chân dung nguy hại ấy. –Ông vừa nói vừa rút trong ống tay áo ra bức chân dung ném xuống đất.- Đây, nó chính là nguyên nhân gây nên nỗi bất hạnh cho hoàng tử của tôi. Ôi bức tranh đáng kinh hãi kia! Tại sao mi lại rơi vào tay hoàng tử ta, mà không để ta nhìn thấy trước. Ôi hỡi cô công chúa bất nhân kia! Cầu mong sao tất cả mọi hoàng tử trên đời này đều có ấn tượng y như tôi: Nhìn bức chân dung này ta chỉ thấy ghê tởm, hoàn toàn không thấy chút yêu thương.
Nói đến đây viên quan phụ đạo cố hoàng tử Samacan giận dữ bỏ đi, sau khi căm hờn ngoái nhìn lại hoàng cung, không nói thêm một lời nào nữa với chàng trai con vua Timuatat. Hoàng tử Calap vội nhặt tấm chân dung, muốn quay trở về ngôi nhà mình trọ. Nhưng trời tối quá, chàng đi lạc ra ngoài thành phố. Chàng nôn nóng chờ đợi trời sáng lên để nhìn bức chân dung nàng công chúa Trung Hoa thực hư thế nào.
Trời vừa rạng sáng, không nén nổi tò mò hoàng tử định mở bức tranh ra xem.
Thoạt đầu chàng cũng có chút do dự. Chàng tự hỏi: „Ta sắp làm chi đây? Có nên chăng xem một vật nguy hại thế này? Calap à, anh nên nghĩ tới những hậu quả chết người nó từng gây ra. Anh đã quên rồi sao, những lời quan phụ đạo hoàng tử Samacan nói cho nghe tối hôm qua? Chớ nên nhìn vào bức chân dung chết chóc này. Hãy cưỡng lại sự hiếu kỳ của mình trước khi quá muộn. Nếu anh còn giữ được ý chí, anh có thể phòng ngừa được cái chết của chính mình“. Nhưng rồi anh chàng lại tự bảo “Sao ta lại nhút nhát vậy? Nếu ta có đâm ra yêu đương nàng công chúa, thì mối tình ấy chẳng phải do tiền định hay sao? Vả chăng ta nghĩ, làm sao có thể xúc động chỉ vì một bức chân dung, phải là người yếu đuối lắm mới hoang mang bối rối trước mớ màu sắc bôi đỏ bôi xanh của người hoạ sĩ. Chẳng có gì phải sợ. Ta hãy bình tĩnh nhìn những nét vẽ này. Biết đâu ta có thể tìm ra những nét khiếm khuyết trong sắc đẹp của nàng công chúa nổi tiếng vô song ấy. Ta mong làm sao cho cô gái ấy bớt kiêu căng, một khi đã biết có người nhắm nhìn hình ảnh của cô mà lòng chẳng chút xúc động“.
NGÀY THỨ SÁU MƯƠI SÁU
Chàng con trai của vua Timuatat tự hứa sẽ nhìn bức chân dung của công chúa Tuaranđoc với con mắt dửng dưng. Chàng ngắm bức tranh, nhìn thật kỹ khuôn mặt xinh xắn với đường nét cân đối dịu dàng, đôi mắt tinh anh, cái mũi cái miệng hoàn hảo. Chàng ngạc nhiên sao một con người lại hội đủ vẻ đẹp của nhân loại như thế này. Và cho dù cố tự ngăn mình, chàng không khỏi cảm thấy bồi hồi. Mặc dù không muốn, trong lòng chàng vẫn dâng lên một niềm xúc động. Chàng tự hỏi: „Tại sao ta lại đâm ra bàng hoàng thế này nhỉ? Tại sao bức chân dung lại làm cho tâm hồn ta xáo động? Trời đất! Phải chăng là số phận của những ai nhìn thấy bức chân dung này đều đâm ra phải lòng nàng công chúa bất nhân? Hỡi ôi! Ta chẳng hiểu tại sao bức tranh lại gây cho ta cùng một cảm giác như từng gây cho hoàng tử bất hạnh đến từ Samacan. Ta đến phải qui hàng trước sắc đẹp đã giết chết chàng trai kia ư? Lạ quá, đã không kinh hãi số phận đáng thương của chàng, thiếu chút nữa thì ta đâm ra ganh tị với chàng ta. Trời đất! Sao có sự thay đổi trong ta thế này. Vừa nãy ta thấy thật vô nghĩa những anh chàng nào coi thường nội dung chiếu chỉ của nhà vua và đâm đầu vào cái chết, thì bây giờ ta lại chẳng thấy có gì làm mình kinh hãi; mọi hiểm nguy đã tan biến mất rồi.“
Chàng trai nhìn tiếp bức chân dung một cách trìu mến và nói:
- Hỡi nàng công chúa tuyệt thế giai nhân ơi, chẳng có trở lực nào ngăn cản ta được, ta vẫn cứ yêu nàng mặc cho sự dã man của nàng. Bởi vì vẫn có khả năng trông mong mình sẽ chiếm đoạt trái tim nàng, ta muốn ngay từ hôm nay thử việc ấy xem sao. Nếu qua việc thực hiện ý đồ cao quý này, ta phải bỏ mình, thì khi ta phải chết, ta chỉ nghĩ tới nỗi đau tại sao không chinh phục được nàng chứ chẳng hề oán trách ai.
Sau khi quyết định sẽ cầu hôn nàng công chúa, Calap tìm đường trở về nhà bà cụ già. Cũng chẳng khó khăn gì lắm vì hôm qua chàng đi lạc đâu có xa. Bà già nói:
- Ồ, chàng trai, ta rất mừng thấy anh trở về. Hôm qua ta rất lo lắng. Ta sợ xảy ra việc gì không may với anh chăng. Tại sao anh không về sớm hơn.
- Mẹ ơi,-chàng trai đáp- Tôi rất tự trách mình đã làm cho mẹ lo âu, quả là đêm tối quá nên tôi lạc mất đường về.
Tiếp đó chàng kể lại cho bà già nghe đã gặp viên quan phụ đạo của chàng hoàng tử Samacan vừa mới bỏ mạng hôm qua như thế nào. Chàng thuật lại tất cả những gì quan phụ đạo đã nói cho chàng biết rồi đưa cho bà già xem bức chân dung của công chúa Tuaranđoc:
- Mẹ xem có phải bức tranh này chưa diễn đạt đúng hình ảnh nàng công chúa Trung Hoa hay không. Riêng tôi, không thể hình dung nó không đẹp bằng nguyên mẫu.
Sau khi xem kỹ bức tranh, bà già thốt lên:
- Ta xin thề trước vong linh đức Khổng phu tử, nàng công chúa thật còn xinh đẹp hơn gấp nghìn lần, duyên dáng hơn nghìn lần những gì bức tranh này mô tả. Ta muốn con tự mắt nhìn thấy nàng, rồi con sẽ tin chắc cũng như ta, tất cả mọi hoạ sĩ trên thế gian này không thể thành công việc vẽ truyền thần chân dung nàng, kể cả nhà danh hoạ Maly thiên tài vô tiền khoáng hậu.
- Nghe mẹ nói tôi vui quá,-hoàng tử đáp- Bởi mẹ khẳng định một lần nữa sắc đẹp của nàng công chúa Tuaranđoc vượt trội trên tầm mọi tài năng hội họa. Những lời mẹ nói càng làm cho tôi thêm quyết tâm hơn trong ý đồ xin cầu hôn nàng công chúa. Tôi hết sức nôn nóng được thử sức xem mình có may mắn hơn chàng hoàng tử Samacan hay không.
- Anh vừa nói gì vậy, hỡi con trai-bà cụ bàng hoàng thốt lên-anh định làm việc gì vậy? Anh có nghĩ tới hậu quả của việc đó không?
- Có, mẹ ơi, -chàng trai nói- Tôi muốn ngay từ hôm nay được trả lời những câu hỏi hóc búa của công chúa. Trước đây tôi định đến Trung Hoa để phục vụ dưới trướng của hoàng đế Anh Tông vĩ đại, nhưng được làm phò mã cho nhà vua thì vinh quang hơn làm một võ quan trong quân đội của ngài.
Nghe chàng trai nói, bà cụ già bật ra khóc:
- Ôi, xin ngài chớ có khăng khăng một quyết định bạo gan đến vậy. Chắc chắn ngài sẽ bỏ mình nếu đến cầu hôn công chúa. Thôi, chớ nên say mê sắc đẹp của nàng, hãy căm ghét nàng thì hơn, bởi nàng công chúa ấy là nguyên nhân của bao nỗi bất hạnh. Con trai của ta ơi, anh hãy hình dung nỗi đau của cha mẹ anh sẽ dữ dội như thế nào khi được tin anh bỏ mạng bằng cung cách ấy. Anh hãy quan tâm đến những điều không vui dân chúng kinh thành này đã mắt thấy tai nghe.
Chàng trai ngắt lời:
- Con xin mẹ thôi đừng ngăn cản con. Con biết, nếu con phải qua đời, đó sẽ là nỗi đau không gì khuây khoả được của những vị đã sinh thành ra con. Mặc dù vậy, con vẫn không thể nào ngăn nổi lòng con. Con có thể nói với mẹ, chính nàng sẽ làm cho cha mẹ con vui mừng vì đem lại vinh quang cho con, cho nên con mới không ngại dấn thân trước hiểm nguy. Việc ấy coi như đã quyết. Mẹ chớ nên mất thì giờ thuyết phục con làm gì. Chẳng có gì lay chuyển con được nữa đâu.
Bà cụ già tốt bụng thấy chàng trai vẫn cứ khăng khăng không chịu nghe lời khuyên của mình, càng thêm buồn bã. Bà nói:
- Thế là hết, thưa ngài. Không có gì ngăn cản được ngài đi đến cái chết, vậy tại sao ngài lại đến trọ nhà tôi? Sao tôi lại đi nói với ngài về nàng công chúa Tuaranđoc độc ác? Khốn khổ thân tôi, chỉ tại vì tôi nói chuyện cho nên ngài mới biết và đâm đam mê nàng công chúa ấy. Chính tôi đã đưa ngài đến cái chết. Làm sao tôi không hối tiếc cơ chứ.
Một lần nữa hoàng tử Nogai lại ngắt lời bà:
- Không, mẹ của tôi ơi. Không phải thế đâu. Không phải vì mẹ mà tôi đem lòng yêu mến nàng công chúa ấy. Tôi yêu nàng vì duyên số của tôi với nàng. Hơn nữa, sao mẹ vội nghĩ tôi không trả lời được những câu hỏi của nàng? Tôi đâu phải là người vô học hay kém thông minh. Và biết đâu trời chẳng dành cho tôi vinh hạnh được giải thoát hoàng đế nước Trung Hoa khỏi nỗi buồn mà lời nguyền độc địa mang đến cho người.
Nói đến đây, chàng rút trong áo ra cái túi đựng tiền vàng mà vị Hãn người Belala đã cho hôm nào, trong túi cũng còn khá nhiều tiền, và thưa với bà già:
- Mẹ hãy cầm lấy túi tiền này. Tôi xin tặng mẹ để mẹ khuây khoả phần nào chẳng may tôi qua đời. Mẹ có thể bán con ngựa của tôi và giữ lấy số tiền bán được. Đằng nào thì tôi cũng chẳng cần đến những thứ ấy nữa. Hoặc là tôi lấy được nàng công chúa của hoàng đế Anh Tông, hoặc là tôi phải bỏ mình, thì những thứ nhỏ mọn này đều không cần thiết với tôi.
NGÀY THỨ SÁU MƯƠI BẢY
Bà già cầm túi tiền Calap trao và nói:
- Chàng trai ạ, anh sẽ nhầm nếu nghĩ rằng những đồng tiền vàng này có thể an ủi ta trước sự mất mát. Ta sẽ dùng nó vào việc làm phúc. Ta sẽ chia cho những người ốm đau nghèo khổ đang nằm trong những nhà làm thương làm phúc. Ta sẽ nhờ họ cầu nguyện trời đất. Ta sẽ đến khấn tại đền thờ đức Khổng tử, ta sẽ cầu xin các vị thần linh phù hộ cho anh từ bỏ ý định mang thân vào cái chết. Tất cả những gì ta yêu cầu anh lúc này là chớ vội xin gặp nàng công chúa nội nhật hôm nay. Hãy chờ đến sáng mai. Mong anh hãy giúp ta mỗi một việc ấy thôi để ta vui lòng. Nếu chẳng may anh mệnh hệ nà, thì đó sẽ là nỗi buồn không sao khuây khoả được với ta, vì không hiểu sao ta rất có cảm tình với anh.
Quả thật chàng Calap có vẻ mặt khôi ngô và dáng người cao ráo ai nhìn cũng mến. Chàng không chỉ là một trong những hoàng tử xinh trai nhất mà còn có phong thái đàng hoàng nhất thế giới. Cách sử xự của chàng thoải mái, dễ thương, không ai gặp chàng không đem lòng quý mến. Calap cũng xúc động trước nỗi lo âu và tình cảm của bà già tốt bụng đối với mình. Chàng nói:
- Mẹ ơi, vậy thì để tỏ lòng biết ơn mẹ, theo lời mẹ yêu cầu, trong hôm nay con chưa đến cầu hôn nàng công chúa. Nhưng mẹ cho phép con được nói lên điều con suy nghĩ, con
không nghĩ đức Khổng phu tử của mẹ có thể làm cho con thay đổi ý định.
Cả ngày hôm ấy chàng giữ lời, không ra khỏi nhà bà cụ già. Trong khi ấy bà đi khắp các nhà thương trong thành phố chia của làm phúc, và dùng đến đồng tiền cuối cùng nhờ các nhà sư cầu nguyện đức Phật tổ. Bà lại bỏ tiền riêng của mình đi mua gà mái và cá chép cúng các đền thờ thần; rồi lại khấn vái khắp các miếu mạo thờ cô hồn bất đắc kỳ tử. Bà mua xôi oản cùng hoa quả dâng những chỗ bà cho là linh thiêng. Nhưng tất cả những lời cầu nguyện của các nhà sư cũng như các ông từ trông nom các đền chùa miếu mạo, cho dù được bà trả công khá hậu hĩnh, cùng với lời khấn thành tâm của bà chủ nhà tốt bụng, vẫn không gây nên hiệu quả bà chờ đợi. Sáng sớm ngày hôm sau, chàng hoàng tử Calap càng tỏ ra quyết tâm hơn bao giờ trong việc cầu hôn công chúa Turanđoc. Chàng thưa với bà cụ già:
- Xin vĩnh biệt, bà mẹ quý của con ơi, con rất băn khoăn là hôm qua mẹ đã vất vả xiết bao vì con. Lẽ ra mẹ nên ở nhà nghỉ ngơi cho khoẻ, bởi con đã quả quyết trước với mẹ rằng chẳng có gì làm thay đổi ý nghĩ của con ngày hôm nay đâu.
Nói xong chàng từ biệt bà cụ. Bà cảm thấy trong lòng vô cùng đau đớn. Bà ngồi phệt xuống đất lấy khăn che mặt, đầu úp xuống hai đôi đầu gối, thái độ rầu rĩ không thể nào diễn tả nổi.
Chàng hoàng tử người Nôgai trang phục đàng hoàng, nước hoa thơm phức, đẹp hơn mọi ngày, tìm đến hoàng thành. Trước cổng hoàng cung, chàng nhìn thấy có năm thớt voi lớn buộc bằng xích sắt. Hai bên cổng, dàn hàng đôi hai nghìn quân sĩ, đầu đội mũ chiến, tay cầm khiên, trên người thì mặc nhung y có gắn những mảnh sắt phòng ngừa tên bắn hoặc lao bay. Một viên võ quan chỉ huy đội quân này, nhìn thấy hoàng tử Calap, biết ngay đây là một người nước ngoài, liền ngăn lại hỏi chàng vào hoàng cung có việc gì Chàng trai con vua Timuatat đáp:
- Tôi là một hoàng tử ngoại quốc, tôi đến xin yết kiến hoàng thượng, cầu xin phép người cho tôi được trả lời các câu đố của nàng công chúa.
Viên võ quan ngạc nhiên nhìn chàng chăm chăm rồi hỏi:
- Thưa hoàng tử, ngài có biết ngài đến đây để tìm cái chết hay không? Nhẽ ra tốt hơn là ngài nên ở tại đất nước ngài, đừng để nảy sinh ý nghĩ dẫn thân mình đến đây. Xin ngài hãy trở về quý quốc. Xin ngài chớ có ảo tường có thể chinh phục trái tim nàng công chúa Tuaranđoc dã man. Cho dù ngài có tài giỏi hơn các vị học quan(l}[Nguyên tác phiên âm là hioquan, và chú thích mỗi tỉnh Trung Quốc có hai vị hioquan chuyên lo việc khảo thí (PQ).], ngài cũng chẳng thể hiểu thấu ý nghĩa bí ẩn những câu hỏi mơ hồ của nàng.
Tôi xin cảm tạ lời khuyên của ngài,- hoàng tử Calap đáp- Nhưng tôi không đến tận đây để rồi lùi bước.
Viên võ quan vẻ mặt buồn bã, đáp:
- Vậy thì xin mời hoàng tử hãy tự dẫn thân đến cái chết, bởi tôi đã không có cách nào ngăn ngài chớ nên làm việc. Nói xong ông để cho chàng đi thẳng vào hoàng cung, rồi quay lại nói với các võ quan khác vừa nghe hai người nới chuyện:
- Chàng hoàng tử trẻ tuổi này mới khôi ngô tuấn tú làm sao! Thật tiếc, sao chàng phải chết trẻ vậy.
Trong thời gian ấy hoàng tử Calap đi ngang qua nhiều gian phòng rộng, cuối cùng tới được chính điện nơi nhà vua vẫn xuất hiện để tiếp kiến dân chúng. Chính giữa điện, đặt một chiếc ngai bằng thép Trung Hoa(Nguyên tác gọi là thép Catay- Catay hoặc Ca thay là từ người phương Tây ngày trước dùng đê chỉ nước Trung Hoa(PQ). ) hình rồng uốn lượn cao chừng ba thước(Thước Trung Quốc.). Chung quanh có che bốn chiếc tàn lớn, cán rất cao bằng thép, mái tàn may bằng gấm vàng có tua đính rất nhiều vàng ngọc châu báu. Hoàng đế Anh Tông, mặc một chiếc áo bào nền đỏ thêu rồng vàng, đang ngự trên ngai. Vẻ đạo mạo của nhà vua càng được tôn lên bởi bộ râu ba chòm khá dài mọc đều đặn dưới cắm và hai bên mép.
Vị quân vương ấy sau khi nghe mấy người dân tâu trình việc gì tình cờ đưa mắt nhìn thấy hoàng tử người Nôgai đang đứng lẫn trong đám đông. Vua thấy chàng trai có vẻ là một người nước ngoài; hơn nữa qua vẻ mặt cao sang cũng như trang phục lộng lẫy, vua biết đây không phải là một con người bình thường. Vua liền gọi một viên quan đến
gần, đưa tay trỏ cho ông thấy chàng Calap, rồi thầm truyền cho ông xuống hỏi xem chàng thuộc phẩm trật gì, và nguyên nhân nào đưa chàng đến triều đình của hoàng đế hôm nay.
Viên quan tuân lệnh bước xuống gần chàng trai con của vua Timuatat, bảo cho chàng biết hoàng thượng muốn rõ chàng lài ai, chàng có điều gì cần tâu đức vua. Hoàng tử
- Xin ngài giúp tôi tâu với hoàng thượng, tôi là con trai duy nhất của một đấng quân vương, tôi đến đây hy vọng có vinh dự được làm phò mã của đức hoàng đế.
NGÀY THỨ SÁU MƯƠI TÁM
 Hoàng đế Anh Tông vừa nghe tâu lại lời hoàng tử xứ Nôgai, liền biến sắc mặt. Diện mạo trang nghiêm của người chợt tái nhợt như một xác chết. Hoàng đế ra lệnh bãi triều, cho tất cả mọi người ra về. Rồi vua thân hành bước xuống, đến gần Calap nói với chàng:
- Chàng trai trẻ bạo gan kia, anh đã biết chiếu chỉ của ta khắt khe dường nào chứ? Anh có rõ số phận đáng thương của những người đã từng đến đây muốn đòi được lấy công chúa con gái ta làm vợ?
Tâu bệ hạ, tôi có biết rõ- chàng trai con của Timuatat đáp Tôi hiểu rất rõ tất cả hiểm nguy đang chờ đợi mình. Hơn nữa chính mắt tôi đã chứng kiến việc hành hình rất công bằng mà ngài vừa cho thực hiện đối với hoàng tứ xứ Samacan đêm hôm kia. Nhưng kết cục đáng thương của tất cả các hoàng tử táo bạo trước tôi đã không làm cho tôi bỏ đi ảo vọng được làm hôn phu nàng công chúa Tuaranđoc, hơn thế những điều vừa tai nghe mắt thấy chỉ thôi thúc tôi đạt cho được điều mà tôi tự nghĩ là xứng đáng.
- Thật điên rồ!- Nhà vua nói- Một hoàng tử vừa mới mất mạng thì đã có ngay một hoàng tử khác đến xin chịu cùng số phận. Dường như họ lấy làm thích thú được bỏ mình hay sao, thật mù quáng quá! Chàng hoàng tứ ạ, hãy suy nghĩ cho kỹ, chớ nên để lãng phí vô ích dòng máu của chàng. Chàng gợi trong ta lòng thương xót nhiều hơn tất cả những người đã đến đây trước chàng để tìm cái chết. Ta cảm thấy trong lòng dấy lên tình cảm quý mến chàng, ta muốn tìm mọi cách theo khả năng của ta ngăn cái chết của chàng. Hoàng tử hãy quay trở về đất nước phụ vương chàng. Chớ để cho ngài sẽ có điều không vui, là rồi sẽ được nghe đồn đại chẳng bao giờ ngài còn nhìn thấy lại cậu con trai duy nhất của mình.
Hoàng tử Calap đáp:
- Muôn tâu hoàng đế, tôi vô cùng cảm kích được nghe từ miệng hoàng thượng thốt ra lời, rằng tôi vinh hạnh được làm vui lòng ngài. Tôi cảm thấy đây là một điềm lành, có thể trời xúc động trước những bất hạnh mà sắc đẹp của nàng công chúa đã gây nên cho bao nhiêu người, cho nên trời xui khiến kẻ này đến để mong được kết thúc câu chuyện ấy, đồng thời qua đó để cuộc sống của hoàng thượng được thảnh thơi hơn, một khi ngài không còn phải băn khoăn về việc ngài buộc cho phép diễn ra những sự đáng buồn như thời gian qua.
Tôi xin phép mạo muội được hỏi hoàng thượng, sao ngài vội nghĩ tôi không có khả năng trả lời đúng đắn những câu đố công chúa sẽ đặt ta? Sao ngài sớm tin chắc tôi sẽ bỏ mình? Nếu những người khác không giải thích được ý nghĩa sâu xa những câu hỏi bí ẩn của công chúa Tuaranđoc, điều ấy đâu cắt nghĩa rằng tôi sẽ không thể có lời giải đáp đúng. Tâu bệ hạ, gương của những hoàng tử đã bỏ mình không đủ làm tôi khước từ vinh dự huy hoàng rồi đây được hoàng thượng ban cho vinh dự làm phò mã của ngài.

Hoàng đế Anh Tôn cảm động thốt lên:
- Ôi, hoàng tử bất hạnh, chàng không muốn sống nữa hay sao? Tất cả những chàng trai đắm say đã đến đây trước chàng với hy vọng giải đáp được các câu hỏi gây nên chết chóc của con gái ta, đều từng nói y như chàng. Họ đều hy vọng sẽ thấu hiểu ý nghĩa những câu đố ấy, nhưng một không ai làm được. Than ôi! Rồi chàng cũng sẽ bị niềm tự tin mù quáng đánh lừa mất thôi. Một lần nữa, chàng trai ạ, hãy nghe lời ta nói, ta thương con và muốn cứu sống con. Chớ có khăng khăng làm phụ lòng tốt của ta. Cho dù con suy nghĩ thế nào, chớ có quá tin vào ý nghĩ của mình. Con đang nhầm lẫn đấy. Con chớ có ảo tưởng sẽ trả lời đúng đắn và ngay tức khắc các câu hỏi công chúa đặt ra. Bởi mỗi lần con sẽ chỉ có chưa đầy nửa khắc đồng hồ để suy nghĩ, luật lệ đề ra như vậy. Nếu hết thời gian ấy con chưa nói lên câu trả lời đúng đắn, được tất cả các vị đại học sĩ thông thái đang làm giám khảo công nhận, ngay lập tức người ta tuyên bố con đáng tội chết, và ngay đêm hôm sau con sẽ bị dẫn đến nơi hành hình. Bởi vậy, chàng hoàng tử ơi, con hãy quay về. Con nên để cả ngày hôm nay để suy nghĩ thêm, rồi sẽ quyết định nên thế nào. Con hãy hỏi ý kiến những người thông thái khôn ngoan. Con hãy suy tư cho thật kỹ, rồi sáng mai con sẽ đến đây nói cho ta biết con quyết định như thế nào.
Nhà vua nói xong quay lưng trở vào điện. Hoàng tử ra khỏi hoàng cung lòng rầu rĩ vì lại phải chờ đến ngày hôm sau. Chàng không mảy may xúc động trước những lời nhà vua vừa nói. Chàng trở về nhà trọ của mình, không chút quan tâm nỗi nguy khủng khiếp đang chờ đợi. Vừa gặp lại bà cụ già, chàng kể cho bà nghe những gì vừa diễn ra trong hoàng cung. Bà già lại tiếp tục tìm cách thuyết phục, mong chàng thay đổi ý định. Nhưng cố gắng bao nhiêu cũng chẳng mang lại kết quả, mà dường như còn làm cho vị khách trọ trẻ tuổi của mình hăng hái thêm lên, quyết tâm hơn nữa.
Quả vậy, ngày hôm sau hoàng tử lại đến hoàng cung, nhờ người tâu nhà vua rõ. Vua tiếp chàng ngay trong thư phòng của mình, vì không muốn để có người nào khác nghe được câu chuyện giữa vua với chàng. Hoàng đế Anh Tông hỏi:
- Này chàng hoàng tử, hôm nay thấy chàng đến gặp ta, ta nên vui hay nên buồn đây? Hoàng tử quyết định như thế nào rồi?
Muôn tâu bệ hạ,- hoàng tử Calap đáp- trong đầu óc tôi vẫn giữ nguyên quyết định như ngày hôm qua, khi tôi có vinh dự được bái yết hoàng thượng ở chốn này. Tôi đã cân nhắc, suy nghĩ đầy đủ mọi bề. Tôi đã quyết tâm chịu cùng hình phạt với các hoàng tử trước tôi, nếu trời không cho tôi được có duyên số khác.
Nghe chàng trai trả lời, hoàng đế tự đấm vào ngực, xé rách tấm khăn quàng trước ngực, và bứt đứt cả mấy sợi râu cằm. Vua kêu lên:
- Ta mới khốn khổ làm sao! Bởi ta quá quý yêu chàng trai này. Cái chết của những người khác chưa làm ta buồn phiền đến mức ấy.
Vua nói tiếp, vừa ôm hôn chàng hoàng từ Nôgai với một vẻ trìu mến khiến cho chàng cũng xúc động:
- Con trai của ta ơi! Con hãy vì yêu quý tấm lòng đau đớn của ta mà bỏ cuộc, nếu mọi lý lẽ ta nói ra chưa đủ sức lay chuyển con. Ta cảm thấy rồi đây khi ta ra lệnh hành quyết con, trái tim ta sẽ không chịu đựng nổi sự đau buồn chết người. Ta van con hãy từ bỏ ý định chiếm đoạt trái tim đứa con gái độc ác của ta. Con sẽ tìm thấy trong trần thế này thiếu chi những nàng công chúa xinh đẹp để nâng khăn sửa túi cho con. Sao con cứ một mực theo đuổi một đứa con gái bất nhân mà con không thể nào chinh phục được! Nếu con muốn, con hãy ở lại đây trong triều đình ta, con sẽ được ta nâng lên địa vị hàng đầu các triều thần, chỉ kém có ta thôi. Con sẽ có nhiều cung nhân xinh đẹp. Con sẽ được vui lòng mọi bề và khắp nơi. Tóm lại ta sẽ coi con như chính hoàng tử con trai của ta. Vậy con chớ nên theo đuổi Tuaranđoc làm chi. ít nhất cũng làm cho ta hài lòng là bớt đi được một nạn nhân của một công chúa khát máu.
NGÀY THỨ SÁU MƯƠI CHÍN
Chàng con trai của vua Timuatat rất xúc động trước tình cảm hoàng đế Trung Hoa bày tỏ với mình. Nhưng chàng vẫn đáp:
- Muôn tâu bệ hạ, xin ngài hạ cố ban ơn cho kẻ này được dấn thân vào nỗi nguy mà ngài muốn cho tôi tránh trước. Hiểm nguy càng lớn tôi càng muốn vượt qua. Tôi xin thú thật với ngài sự độc ác của công chúa vẫn làm cho tôi yêu quý nàng. Tôi hết sức thú vị khi nghĩ, biết đâu mình có thể là con người hạnh phúc chiến thằng được nàng công chúa kiêu căng. Nhân danh Thượng đế, cúi xin hoàng thượng thôi, xin đừng ngăn cản tôi tìm đạt tới vinh quang. Cuộc đời của kẻ này mai đây chỉ có thể thanh thản nếu thực hiện được ý đồ của mình, bởi rốt cuộc tôi chẳng thể nào sống trên dời nếu không được kết hôn cùng nàng. Trước quyết tâm không gì lay chuyển nổi của Calap, hoàng đế Anh Tông hết sức buồn bã:
- Hỡi chàng trẻ tuổi táo gan, anh cầm chắc cái chết rồi đấy bởi anh cứ khăng khăng đòi kết hôn với con gái ta. Xin trời hãy chứng giám cho ta đã làm đủ hết cách trong khả năng của mình, mong làm cho anh có suy nghĩ biết điều hơn. Anh đã khước từ mọi lời khuyên báo chân tình của ta, anh muốn chết chứ không muốn nghe theo lời khuyên. Vậy chúng ta chẳng nên nói đến chuyện ấy nữa. Rồi anh sẽ mau chóng phải trả giá bởi sự kiên định điên cuồng của anh. Ta chấp thuận cho phép anh ra mắt trước triều đình và trả lời các câu hỏi của công chúa Tuaranđoc.
Nhưng trước đó, hãy để cho ta thực hiện các vinh dự lâu nay ta vẫn dành cho các hoàng tử đến cầu hôn công chúa con ta.
Nói đến đấy hoàng đế cho gọi viên đại thần cai quản các thái giám trong cung. Vua truyền cho ông hãy mời hoàng tử Calap đến một biệt điện (Trong hoàng cung Trung Hoa có xây sẵn nhiều cung điện, dành riêng cho các hoàng tử của vua.) và cắt cử hai trăm viên hoạn quan sang bên ấy để phục vụ chàng.
Hoàng tử xứ Nôgai vừa bước vào đến cung điện dành riêng cho mình, nhiều quan đại thần trong triều đã đến ngay để ra mắt chàng. Họ quỳ rạp xuống giập đầu sát đất, rồi hết người này đến người khác lần lượt thưa:
- Thưa hoàng tử, kẻ hạ thần đến xin được chúc mừng hoàng tử.
Lạy chào xong, mỗi người trao cho chàng một tặng phẩm rồi lui ra.
Trong khi ấy hoàng đế Trung Hoa vẫn cảm thấy rất tiếc nuối, sợ chết mất chàng trai mà vua rất có cảm tình và đem lòng thương hại, liền sai tìm vị đại học sĩ giỏi giang nhất, uyên bác nhất trong triều đến và phán bảo ông ta:
- Quan đại học sĩ à, vừa có một hoàng tử nữa mới đến ra mắt triều đình, xin được kết hôn với công chúa con ta. Ta đã chẳng từ nan bất kỳ việc gì để khuyên can chàng trai hãy nên từ bỏ ý định ấy, nhưng không sao cản được. Ta muốn nhờ đại học sĩ dùng tài hùng biện của mình giúp chàng trai may ra hiểu ra lẽ phải. Ta cho mời ông đến đây chính vì mỗi một việc ấy.
Vị đại học sĩ tuân lệnh vua, đến gặp ngay chàng Calap và chuyện trò với chàng rất lâu. Sau đó, ông quay trở lại gặp hoàng đế Anh Tông:
- Muôn tâu bệ hạ, tôi xin chịu, không thể thuyết phục được chàng hoàng tử trẻ tuổi ấy. Chàng cứ một mực đòi hoặc chinh phục được nàng công chúa hoặc bỏ mình. Khi tôi nhận ra, không có cách nào lay chuyển ý chí của chàng trai, tôi hiếu kỳ muốn rõ chàng hoàng tử cứng đầu này còn có cơ sở nào khác nữa hay không ngoài mối tình say đắm, mà đám quả quyết mình sẽ là người chiến thắng. Tôi đã đặt ra cho chàng nhiều câu hỏi khó về những vấn đề khác nhau, chàng đều tỏ ra thông thái đến nỗi tôi kinh ngạc. Hoàng tử ấy là người theo đạo Hồi, có vẻ như chàng hiểu biết hoàn hảo mọi vấn đề liên quan đến tôn giáo ấy. Tóm lại, xin phép được tâu hoàng thượng điều tôi suy nghĩ: nếu có một chàng hoàng tử nào may ra có khả năng giải đáp đúng các câu đố của công chúa, chính là chàng này.
Nhà vua thốt lên:
- Quan đại học sĩ! Lời ông vừa nói làm tôi vui thích quá chừng. Cầu trời cho chàng hoàng tử ấy có cơ may trở thành phò mã của ta. Thoạt gặp chàng, ta đã cảm thấy dâng lên trong lòng tình cảm thương yêu. Cầu trời cho chàng may mắn hơn hoàng tử đã từ các xứ đến bỏ mình tại kinh thành này.
Hoàng đế Anh Tông tốt bụng không chỉ khẩn cầu Thượng đế phù hộ Calap, vua còn sai dâng lễ cầu nguyện thần Mặt Trời và Thần Mặt trăng soi sáng đầu óc chàng trai. Vua ra lệnh tổ chức những buổi tế công cộng. Tại tất cả các đền thờ đều có cuộc khẩn cầu dâng hiến. Theo lệnh vua, người ta dâng lễ tam sinh: con bò dâng Thượng đế, một con dê cúng thần Mặt Trời, một con lợn cúng thần Mặt Trăng. Hơn nữa, vua còn sai ban bố khắp kinh thành Bắc Kinh để các phường hội hãy mở tiệc khẩn cầu các vị tổ sư giúp cho chàng hoàng tử có được hạnh phúc thành hôn với nàng công chúa.
Sau nhiều buổi tế lễ và nguyện cầu, hoàng đế Trung Hoa sai quan thái giám đến báo cho hoàng tử xứ Nôgai biết hãy sẵn sàng để sáng sớm mai giải đáp các câu đố của nàng công chúa. Vua cho chàng biết ngày mai vào giờ nọ sẽ có ngươi đến mời chàng đến điện thiết triều, lúc ấy đã có các vị thành viên hội đồng chứng giám được lệnh tề tựu sẵn ở đấy.
NGÀY THỨ BẢY MƯƠI
Cho dù quyết tâm vượt qua cuộc thử thách này đến bao nhiêu, đêm hôm ấy hoàng tử không phải không lo âu. Khi thì chàng tin tài năng sẵn có có thể đưa chàng đến thành công, khi thì ngả lòng hình dung cảnh mình không làm hài lòng hội đồng giám khảo ở điện thiết triều bởi không sao trá lời đúng các câu hỏi. Thỉnh thoảng chàng lại nghĩ đến hoàng hậu Enma và phụ vương Timuatat. Chàng tự bảo: "Hỡi ôi! Nếu ta bỏ mình ở đây, cha mẹ ta sẽ ra sao". Chàng băn khoăn trăn trớ gần suốt đêm. Vừa rạng sáng đã nghe tiếng chiêng tiếng trống khua vang. Chàng nghĩ đấy chính là hiệu lệnh mời các vị trong hội đồng đến điện thiết triều chứng giám buổi trả lời. Thế là chàng nguyện cầu Đức Mahomêt: "Hỡi đấng Tiên tri vĩ đại, ngài hiểu tâm trạng tôi lúc này. Xin ngài hãy gợi ý cho tôi, nên đi đến điện thiết triều hay nên cho người tâu với hoàng đế rằng tôi run sợ trước nổi nguy đang chờ đợi".
Vừa cầu nguyện xong chàng trai đã cảm thấy tan biến mọi nổi lo âu, và trở lại tự tin. Chàng dậy mặc chiếc áo dài và chiếc áo chầu bằng lụa đỏ có thêu hoa vàng mà hoàng đế Anh Tông đã sai người mang đến cùng với giày và tất đều bằng lụa xanh.
Chàng mặc trang phục xong, đã thấy sáu viên đại thần đi hia và mặc áo thụng rất rộng màu tía bước vào điện. Sau khi quỳ chào chàng theo cung cách như ngày hôm qua, họ thưa hoàng thượng sai họ đến mời chàng đến điện thiết triều. Hoàng tử đi theo. Họ đi ngang qua một sân rộng giữa hai hàng lính hầu, khi bước vào gian đầu tiên của chính điện, hoàng tử thấy đã chực sẵn ở đấy một nghìn ca sĩ và một nghìn nhạc công. Mọi người vừa hát vừa hòa tấu nghe rất ồn ã. Từ phòng hoà nhạc họ tiến vào chính điện nơi nhà vua thiết triều. Điện này có một lối đi thông với nội cung.
Tất cả những vị có nhiệm vụ tham gia hội đồng chứng giám đều đã ngồi yên vị dưới những cây lọng đủ màu sắc, cắm chung quanh phòng. Một phía là các vị đại thần quan trọng nhất trong triều cùng các thành viên của Viện cơ mật, và phía bên kia, các vị đại học sĩ mà ai cũng biết hết sức uyên thâm. Chính giữa điện kê hai cái ngai vàng, đặt trên hai cái bục hình tam giác. Hoàng tử Nôgai vừa xuất hiện, tất cả cử toạ cao sang và uyên bác ấy đều cúi đầu chào chàng một cách trọng thị nhưng chẳng ai thốt lên một lời, vì trong khi chờ đợi hoàng đế vào điện tuyệt đối phải giữ lặng yên.
Mặt trời sắp mọc. Khi những tia sáng đầu tiên của mặt trời vừa chiếu lên, thì hai viên thái giám kéo bức mành che ngăn cái lối vào nội cung. Và ngay lập tức hoàng đế bước ra, theo sau có công chúa Tuaranđoc. Nàng mặc một chiếc áo dài bằng lụa thêu kim tuyến, mang một tấm mạng lụa phủ ngoài khuôn mặt. Hoàng đế cùng công chúa theo năm bậc cấp bạc, bước lên ngai. Khi vua và công chúa đã yên vị, có hai tiểu thư xinh đẹp tuyệt trần bước tới. Một cô đứng hầu cạnh vua, một cô đứng hầu cạnh công chúa, đấy là hai cung nhân của hoàng đế Anh Tôn. Hai nàng để mặt trần, không đeo mạng, tai đính những hạt ngọc lớn. Mỗi nàng cầm một tập giấy và quản bút ở tay, sẵn sàng ghi những điều nhà vua ra lệnh. Tất cả cử toạ đều đã đứng lên khi hoàng đế Anh Tông bước vào và cứ trang trọng đứng yên như vậy, mắt không dám ngước nhìn lên. Chỉ có hoàng tử Calap mạnh dạn đưa mắt nhìn khắp bốn bên, đúng hơn chàng chỉ nhìn chăm chăm vào nàng công chúa, và thầm ngợi ca dáng điệu uy nghi của nàng.
Sau khi vị hoàng đế Trung Hoa hùng mạnh truyền lệnh cho phép các vị đại thần cùng các đại học sĩ an toạ, một trong sáu vị quan vừa dẫn hoàng tử Calap đến đây, quỳ xuống đọc một bản tấu. Nội dung tâu, chàng hoàng tử ngoại quốc này muốn ngỏ lời cầu hôn công chúa Tuaranđoc. Lúc ấy hoàng tử Calap đứng cách hai ngai vàng chừng mười  lăm thước. Sau khi đọc bản tấu, viên đại thần ấy đứng lên, bảo hoàng tử Calap vái đức vua ba vái. Chàng hoàng tứ xứ Nogai làm việc ấy một cách đàng hoàng và khéo léo, khiến hoàng đế Anh Tông không nén khỏi mỉm cười, chứng tỏ nhà vua thú vị được gặp lại chàng. Tiếp đó một vị đại thần đứng lên, cao giọng đọc chiếu chỉ của nhà vua, truyền cho bàn dân thiên hạ trong và ngoài nước biết, sẽ xử tội chết tất cả những chàng trai đam mê nào dám bạo gan ngỏ lời cầu hôn mà đã không trả lời đúng các câu hỏi công chúa Tuaranđoc sẽ nêu.
Tuyên đọc xong, ông quay sang hoàng tử Calap và hỏi chàng:
- Thưa hoàng tứ, ngài đã nghe rõ những điều kiện để  được kết hôn cùng công chúa? Nếu lúc này ngài cảm thấy có chút băn khoăn hay chưa yên tâm lắm, ngài vẫn được phép xin rút lui.
Hoàng tử xứ Nôgai đáp:
- Thưa không. Thành quả sẽ đạt được quá ư tuyệt vời, khước từ vinh hạnh ấy là hèn.
NGÀY THỨ BẢY MƯƠI MỐT
Hoàng đế thấy chàng Calap đã sẵn sàng trả lời các câu hỏi của nàng Tuaranđoc, liền quay về phía công chúa và phán:
-Con gái ta ạ, bây giờ đến lượt con cất lời. Con hãy đề xuất với chàng hoàng tử kia những câu đố con đã chuẩn bị. Ta cầu mong các vị thần linh hôm qua triều đình đã cử hành lễ tế, phù hộ cho chàng hiểu thấu ý nghĩa những câu đố của con.
Vua nói xong, công chúa Tuaranđoc cất lời:
- Tôi nói lên điều này, xin đức Khổng phu tử chứng giám cho, tôi rất tiếc thấy bao nhiêu hoàng tử đã phải bỏ mình vì chuyện này. Nhưng tại sao họ cứ khăng khăng một mực đòi chiếm hữu người tôi? Sao họ không để cho tôi sống bình yên trong cung riêng của mình? Sao họ không chịu để yên cho tôi được tự do không phải ràng buộc vào một người đàn ông? Hỡi chàng trai trẻ bạo gan kia,- nàng nói tiếp với hoàng tử Calap- vậy xin chàng chớ trách cứ ta, một khi chàng theo bước các hoàng tử trước mà chịu tội phải hành hình. Chính chàng đã tự gây nên cái chết của mình, bởi đâu có ai buộc ép chàng đến đây đòi kết hôn với tôi.
Hoàng tứ đáp:
- Kính thưa công chúa, tôi hiểu rất rõ tất cả những điều mọi người muốn cho tôi rõ. Xin công chúa hãy vui lòng đặt ra cho các câu đố, tôi sẽ cố gắng giải đáp.
- Vậy thì,- công chúa Tuaranđoc cất lời- xin ngài hãy nói cho biết vật gì có mặt ở khắpnơi mọi chốn, nó là bạn của tất cả mọi người nhưng lại không chịu được có ai giống mình.
- Thưa công chúa- hoàng tử Calap đáp- đấy là mặt trời.
- Chàng trả lời đúng!- Tất cả các vị đại học sĩ đồng thanh thốt lên.- Đấy là mặt trời.

Công chúa lại hỏi:
- Ai là người mẹ sau khi sinh hạ các con lại nuốt chửng hết chúng lúc các con đã lớnkhôn?
Đấy là biển,- hoàng tử xứ Nôgai đáp- bởi tất cả các con sông đều lấy nước từ nguồn, và tất cả các dòng sông đều tuôn vào biển cả.
Công chúa Tuaranđoc thấy chàng hoàng tử trẻ trả lời đúng hai câu đố của mình, lấy làm tự ái và nhất quyết sẽ tìm đủ mọi cách để chàng trai này phải mất mạng. Nàng hỏi tiếp:
- Cây gì mà tất cả các lá, mặt lá này thì trắng mặt lá kia thì đen?
Nàng công chúa không bằng lòng chỉ nêu câu đố, cô gái tinh ranh ấy muốn chàng trai nhìn thấy sắc đẹp của mình rồi đâm ra choáng váng mất bình tĩnh, liền giở luôn tấm mạng che mặt, để tất cả mọi người cùng nhìn thấy trọn vẹn vẻ đẹp vô song của khuôn mặt, ở đấy sự thẹn thùng và nỗi bực bội hiện lên, càng làm tăng sự hấp dẫn. Mái tóc công chúa đeo một vòng hoa tết bằng những bông hoa tươi với nghệ thuật hết sức tinh xảo. Đôi mắt nàng sáng trong hơn các vì sao. Mặt nàng đẹp tựa mặt trời khi vừa ló ra khỏi một đám mây dày che khuất, và xuất hiện trên bầu trời với tất cả ánh hào quang. Chàng trai con vua Timuatat vốn đang si tình, nhìn thấy sắc đẹp tuyệt thế giai nhân của nàng công chúa, trong lúc đáng lẽ phải cất tiếng giải đáp câu đố nàng đề ra, thì lại lặng câm và đứng yên như phỗng. Ngay lập tức tất cả mọi người có mặt trong điện thiết triều, vốn ai cũng quan tâm đến mạng sống của chàng, đều vô cùng lo sợ. Bản thân hoàng đế cũng tái mặt, vua nghĩ thế là thôi, chàng hoàng tử trẻ này đến bỏ mạng mất rồi.
Nhưng hoàng tử Calap kịp bình tĩnh trở lại sau cơn kinh ngạc do sắc đẹp của nàng Tuaranđoc gây nên. Chàng làm toàn cử toạ yên tâm ngay khi ngỏ lời nói như sau:
- Kính thưa nàng công chúa vô cùng xinh đẹp, xin nàng hãy tha thứ cho tôi đã ngẩn người trong chốc lát. Tôi ngỡ mình vừa nhìn thấy xuất hiện một tiên nữ đẹp nhất trong các tiên nữ trên thiên đường. Nhan sắc của công chúa làm tôi bối rối. Xin công chúa hãy rộng lòng nhắc lại câu đố công chúa vừa ra, bởi tôi qua hoang mang không sao nhớ được sắc đẹp công chúa làm tôi quên mất hết mọi sự trên đời.
Công chúa Tuarađoc nói:
- Tôi đã đặt với ngài câu đố như sau: cây gì mà tất cả các lá mặt lá nào thì trắng mặt lá kia thì đen?
Hoàng tứ Calap đáp:
- Cây ấy biểu hiện thời gian năm, mỗi năm gồm có ngày và có đêm.
Câu trả lời này lại được mọi người có mặt trong điện thiết triều hoan hô. Các đại thần cũng như các đại học sĩ đều cho câu trả lời chính xác và khen ngợi chàng hoàng tử. Lúc này hoàng đế Anh Tông nói với công chúa Tuaranđoc:
- Nào con gái của ta, con hãy thừa nhận con đã chiến bại, và hãy chấp thuận nhận người chiến thắng hôm nay làm chồng. Tất cả các hoàng tử từng đến đây trước không ai có thể giải nổi một câu đố của con, chàng hoàng tử này như con vừa thấy đã giải đúng tất cả ba câu.
- Chàng ấy chưa thể chiến thắng được con đâu- công chúa vừa nói vừa kéo tấm mạng che mặt để giấu vẻ bối rối và những dòng nước mắt tủi hổ không sao cầm được.- Con còn có nhiều câu đố khác sẽ đặt ra cho chàng. Nhưng con xin được lui đến ngày mai.
- Ồ, việc này không được đâu,- nhà vua nói.- Ta không thể cho phép con đặt ra vô vàn câu hỏi. Tất cả những gì ta có thể chấp thuận, ấy là cho phép con hãy đặt thêm một câu đố nữa ngay tức khắc.
Công chúa thưa, mình chỉ chuẩn bị có mấy câu đố vừa rồi, và xin phép vua cha cho nàng được đặt câu đố với hoàng tử vào ngày hôm sau.
Hoàng đế Trung Hoa nổi giận:
- Ta không thể nào cho phép con như vậy. Con chỉ nghĩ đến chuyện làm sao cho trí óc hoàng tử bối rối, trong khi ta lại lọ cách làm sao giải thoát cho mình khỏi lời thề khủng khiếp mà trước đây ta đã nhỡ thiếu cẩn trọng và trót ngỏ lời thề. Này, con gái độc ác kia, hình như con chỉ thích nhìn máu chảy, hình như cái chết của những chàng trai yêu thương con là một cảnh tượng khoái trá đối với con sao? Hoàng hậu sinh ra con, qua đau đớn buồn phiền vì bao nhiêu điều bất hạnh con gây nên cho những người khác, đã qua đời trong đau khổ, cho ràng mình đã trót sinh hạ một đứa con gái dã man như con. Còn ta, con chẳng nhìn thấy sao, ta buồn rầu không một lúc nguôi, mỗi lần ta chứng kiến những hậu quả chết người do ta quá chiều chuộng con mà gây nên. Hôm nay, nhờ các đấng thần linh ngư trị trên trời, nhờ có thần Mặt Trời và thần Mặt Trăng phù hộ, các vị cảm động trước thành tâm của ta, đã cho phép từ nay trong hoàng cung không còn diễn ra nữa những cuộc hành quyết làm Ô danh tên tuổi của con. Bởi vị hoàng tứ này đã giải đúng tất cả những câu đố con đề ra cho chàng, ta xin hỏi tất cả những vị đại thần và đại học sĩ trong hội đồng chứng giám hôm nay, có phải hoàng tử này trở thành hôn phu của công chúa là công bằng hay không?
Tất cả các đại thần và các đại học sĩ thì thầm trao đổi với nhau, sau đó viên thái giám trường đứng lên thay mặt tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, từ nay hoàng thượng không còn bị ràng buộc bởi lời thề khi ngài cho ban bố chiếu chỉ nêu những điều kiện khắt khe. Bây giờ, đến lượt công chúa phải làm trọn nghĩa vụ của mình. Công chúa đã hứa sẽ chấp thuận thành hôn với chàng trai nào giải được các câu đố bà đặt ra. Một hoàng tử đã giải đáp được tất cả như mọi người vừa thấy, làm hài lòng toàn thể triều thần có mặt hôm nay. Vậy công chúa phải giữ vẹn lời thề. Nếu không, các vị thần linh trông nom phán quyết việc thề thốt của người trần sẽ không thể dung tha sự bội ước.
NGÀY THỨ BẢY MƯƠI HAI
Trong thời gian ấy công chúa Tuaranđoc ngồi lặng đi, đầu gục xuống đầu gối, có vẻ như đang đắm chìm trong một nỗi buồn vô cùng sâu sắc. Chàng Calap nhận ra điều đó, chàng phủ phục trước hoàng đế Anh Tông và tâu:
- Muôn tâu hoàng đế vĩ đại, mà đức công minh và lòng hào hiệp đã làm rạng rỡ và thịnh vượng đế quốc Trung Hoa mênh mông, tôi cầu xin hoàng thượng ban cho một ân huệ. Tôi nhận thấy công chúa đang tuyệt vọng bởi tôi có diễm hạnh giải đáp đúng các câu đố của nàng. Chắc hẳn nàng muốn tôi đáng được chết hơn muốn cho tôi sống. Bởi công chúa đã có sự đố kỵ đàn ông đến mức ấy, mặc dù đã có lời hứa, nàng vẫn muốn khước từ không chịu kết hôn với tôi, vậy tôi xin được từ bỏ các quyền của tôi trong việc này, với điều kiện là xin công chúa nàng trả lời đúng đắn một câu hỏi mà tôi sẽ nêu ra với nàng.
Tất cả mọi người ai nấy đều khá ngạc nhiên khi nghe lời hoàng tử nói. Nhiều người thầm thì với nhau, chàng hoàng tử trẻ tuổi này điên rồ mất rồi, sao lại tự mình tạo ra cái cớ để người ta có thể phủ nhận thành quả chàng vừa đạt được với cái giá tính mạng của mình. Hẳn chàng ta nghĩ, có thể nêu ra một câu hỏi làm công chúa Tuaranđoc bối rối chăng? Nếu thế, hẳn chàng chưa hiểu hết thực tế. Bản thân hoàng đế Anh Tông cũng khá ngạc nhiên về điều chàng Calap ngỏ lời cầu xin. Vua bảo chàng:
- Này hoàng tử, chàng có suy nghĩ kỹ về những lời vừa buột miệng nói ra ấy hay không.
- Tâu bệ hạ tôi có suy nghĩ kỹ,- chàng hoàng tử người Nôgai đáp- và tôi kính cẩn khẩn cầu hoàng thượng ban cho ân huệ ấy.
Ta chấp thuận,- hoàng đế đáp.- Nhưng cho dù có việc gì xảy ra sau này, ta tuyên bố từ nay ta không còn bị ràng buộc bởi lời thề, từ nay ta không bắt bất kỳ một hoàng tử nào phải chịu tội chết nữa.
Được lời hoàng đế phán, chàng trai con của vua Timuatat hướng về phía nàng công chúa và nói:
- Trình nàng công chúa Tuaranđoc cao sang, hẳn nàng đã nghe rõ những điều tôi vừa thưa. Cho dù theo lời phán quyết của cử toạ uyên bác này, nàng phải chấp nhận tôi làm chồng. Cho dù nàng đã thuộc về sở hữu của tôi, tôi vẫn xin trả lại tự do cho nàng. Tôi khước từ quyền của mình, tôi vui lòng để mất đi một tài sản quý báu vô ngần, miễn là rồi đây nàng trả lời đúng đắn một câu hỏi mà tôi sẽ đặt ra với nàng. Nhưng về phía nàng, xin nàng thề nếu không thể trả lời đúng câu hỏi ấy, thì nàng hãy vui lòng và tự nguyện tạo nên hạnh phúc của đời tôi, để cho tình yêu tha thiết của tôi đạt tới thành đạt quang vinh.
Vâng, thưa hoàng tử,- nàng Tuaranđoc đáp- ta chấp nhận điều kiện. Ta xin thề trước tất cả những gì thiêng liêng nhất là ta chấp nhận điều kiện ấy, và xin nhờ các vị đại thần và đại học sĩ có mặt hôm nay làm chứng cho lời thề của ta.
Tất cả triều đình lúc ấy đều nóng lòng chờ nghe câu hỏi mà chàng Calap sẽ đặt ra với công chúa. Ai cũng thầm trách hoàng tử trẻ tuổi tại sao lại tạo ra một cơ hội không cần thiết, vì qua đó có nguy cơ bỏ mất khả năng lấy nàng công chúa con hoàng đế Anh Tông. Ai nấy đều cảm thấy sững sờ trước sự táo bạo của chàng trai. Hoàng từ Calap cất tiếng hỏi:
- Thưa nàng công chúa xinh đẹp, ai là chàng hoàng tử sau khi phải chịu đựng vô vàn khổ ải và có lúc ăn xin để hiếm sống, lúc này đang chói lọi vinh quang và hứng thú?
Công chúa lặng im suy nghĩ một chốc, rồi đáp:
- Lúc này đây ta chưa thể trả lời câu hỏi ấy, nhưng ta hứa ngày mai ta sẽ nói ra với mọi người danh tính chàng hoàng tứ ấy.
- Thưa công chúa,- chàng Calap thốt lên- khi nàng đặt ra câu đố tôi đâu có xin thêm thời hạn, bây giờ sẽ không công bằng nêu tôi chấp nhận gia thêm thời hạn cho nàng. Mặc dù vậy, tôi vẫn muốn một lần nữa làm vui lòng nàng; tôi hy vọng sau đấy nàng sẽ quá hài lòng, và không gây thêm khó khăn nào nữa để chấp thuận thành hôn với tôi.
Hoàng đế Anh Tông phán:
- Công chúa phải quyết định dứt khoát về việc này. Giả sử trong trường hợp rồi công chúa không trả lời đúng câu hỏi đặt ra, thì không được lấy cớ mình lâm bệnh, hoặc giả vờ đau yếu để khước từ không chịu kết hôn với người yêu của mình. Cho dù lời thề của ta trước đây không tính đến việc này, công chúa không bị buộc phải thi hành đúng như nội dung chiếu chỉ, song ta sẽ xử công chúa chịu tội chết, còn hơn là cho chàng hoàng tử trẻ tuổi này đi khỏi triều đình ta. Đời ta chưa bao giờ gặp một con người khả ái hơn chàng trai này.
Nói xong, hoàng đế đứng lên, truyền lệnh bãi triều. Vua cùng công chúa lui vào nội cung, từ đấy vua trở về phòng riêng của mình.
Sau khi hoàng đế ra khỏi điện thiết triều, tất cả các vị đại học sĩ và các quan đại thần đều xúm đến khen ngợi chàng Calap về trí tuệ thông minh của chàng. Một người nói: "Ta khâm phục chàng suy nghĩ rất nhanh và rất dễ dàng". Người khác bảo: "Tôi thì tôi cho không có vị tú tài, cừ nhân hay tiến sĩ nào có kiến thức sâu rộng như ngài. Chưa từng có một hoàng tứ nào đã đến đây cầu hôn công chúa trước ngài, có thể sánh một chút thôi tài hoa phong nhã và hiểu biết uyên thâm của ngài. Chúng tôi hết sức vui mừng ngài đã thành công trong việc cầu hôn Chàng hoàng tứ Nôgai trân trọng cảm tạ tất cả những vị ngợi khen chàng, không bỏ sót một ai.
Tiếp đó, sáu vị đại thần đã dẫn chàng đến nơi thiết triều, đưa chàng trở về biệt điện dành riêng cho chàng.
Trong khi mọi người, kể cả các đại học sĩ được triệu đến vì việc này, ai nấy trở về nhà riêng, lòng ai cũng không khỏi thoáng lo âu về câu trả lời của nàng công chúa con hoàng đế Anh Tông vào ngày mai .
NGÀY THỨ BẢY MƯƠI BA
Công chúa Tuaranđoc trở về cung, theo sau chỉ có hai cung nữ tâm phúc. Vừa vào đến phòng riêng, nàng cất tấm mạng che mặt, gieo mình xuống chiếc sập rồi buông mình theo những nổi bực bội đang xáo động tâm can. Mọi người nhìn thấy rõ trên khuôn mặt của nàng hiện lên sự xấu hổ cùng nỗi đớn đau. Đôi mắt nàng vốn đã đẫm lệ giờ lại tuôn rơi nước mắt ròng ròng. Nàng bứt những bông hoa cài trên đầu vứt đi, xoã mái tóc rối bù. Hai cung nữ tâm phúc muốn an ủi công chúa, nhưng nàng bảo họ:
- Hai em hãy để ta yên; đừng có quan tâm săn sóc ta, vô ích. Giờ đây ta không nghe không thấy gì hết ngoài nỗi tuyệt vọng của ta. Hãy để yên cho ta khóc, cho ta buồn. ôi! Ngày mai, ta sẽ bối rối đến đâu, khi trước mặt toàn thể triều đình, trước các vị đại học sĩ uyên bác nhất nước Trung Hoa, ta đành thú nhận ta không thể trả lời câu hỏi chàng đề ra cho ta! Mọi người sẽ nói, đấy nàng công chúa thông minh tuyệt vời lúc nào cũng tự cho mình hiểu biết tất cả, thế mà một điều bí ẩn chẳng có gì khó khăn lắm lại không thể nào đoán ra.
- Than ôi!- Nàng nói tiếp.- Tất cả mọi người đều chỉ quan tâm đến mỗi chàng hoàng tử trẻ tuổi ấy thôi. Ta nhận thấy mọi người tái mặt lo lắng khi chàng ta có vẻ hơi bối rối. Và ta lại thấy mọi người mừng vui hớn hở khi chàng ta hiểu thấu được ý nghĩa các câu hỏi của ta. Bởi vậy, ta càng thêm buồn bã thấy mọi người sẽ lại một lần nữa vui thích trước nỗi khổ của ta khi ta đành chịu nhận thua cuộc. Lời thú nhận đáng hổ thẹn của ta càng là niềm vui lớn đối với mọi người thì càng là cực hình lớn đối với ta.
Một cung nữ thưa:
- Tâu công chúa, đáng ra công chúa không nên buồn rầu sớm quá. Không nên mường tượng ra nỗi xấu hổ mà nàng phải chịu ngày mai. Tốt hơn là công chúa nên nghĩ chuyện làm sao chớ để xảy ra điều ấy. Câu hỏi của chàng hoàng tử có đến nỗi khó khăn tới mức nàng không thể nào giải đáp Với thiên tài bẩm sinh và học vấn uyên thâm của bà, công chúa sẽ có cách xử lý tốt.
- Không,- công chúa Tuaranđoc nói.- Đấy là một điều không thể, bởi chàng hỏi ta ai là hoàng tử sau khi đã chịu đựng vô vàn khổ ải và từng ăn mày để kiếm sống, lúc này đây đang chói lọi vinh quang và vui thích? Ta hiểu đấy chính là chàng hoàng tử ấy. Nhưng ta có quen biết chàng ta đâu, làm sao ta nói ra đúng tên họ của chàng.
- Tuy nhiên, thưa công chúa,- cung nữ ấy lại nói.- Bà từng hứa trước triều đình ngày mai sẽ nói ra tên chàng hoàng tử ấy. Khi bảy tỏ lời hứa, hẳn công chúa có hy vọng mình sẽ thực hiện được?
- Ta chẳng hy vọng gì sất,- công chúa đáp.- Ta chỉ xin có thêm thời gian để chết vì buồn phiền trước khi buộc phải thú nhận sự hổ thẹn của mình và phải kết hôn với chàng hoàng tử kia.
- Quyết định của công chúa hơi quá cứng nhắc đấy,- cung nữ tâm phúc kia lại nói.- Em biết không có người đàn ông nào trên đời có thể sánh ngang bà, thưa công chúa. Nhưng phải công nhận chàng hoàng tử này đặc biệt ưu việt, chàng rất khôi ngô tuấn tú, thông minh dĩnh ngộ, tất cả những cái đó hẳn khiến công chúa nên ưu ái chàng chút nào chứ.
Công chúa ngắt lời:
- Nói cho công bằng, nếu trên đời này có một hoàng tử nào đáng cho ta để mắt nhìn vào thì chính là hoàng tử này. Ta thừa nhận có lần, trước khi ra câu đố với chàng, ta sinh lòng thương hại; ta đã buột tiếng thở dài khi nhìn thấy chàng, ấy là điều cho đến bây giờ chưa từng xảy ra với ta. Suýt nữa ta đã mong chàng giải đáp đúng các câu đố.
Quả là lúc ấy ta có đỏ mặt lên hổ thẹn vì sự yếu đuối chốc lát của mình, nhưng rốt cuộc lòng kiêu ngạo đã chiến thắng tình cảm. Hơn thế, những lời giải đúng đắn của chàng làm cho ta càng thêm bất bình. Tất cả những lời hoan hô mà các vị đại học sĩ dành cho chàng làm ta rất đỗi buồn bã. Ta không tự chủ được nữa, ta chỉ còn thấy thù hận chàng nữa thôi. Ôi, hỡi Tuaranđoc khốn khổ! Hãy mau chóng chết đi vì hối tiếc và buồn phiền, sao mi phải gặp một chàng trai trẻ đủ sức mang lại hổ thẹn cho mi và buộc mi phải trở thành hôn thê của chàng ấy!
Nói đến đấy, nàng lại khóc lóc già hơn. Trong cơn bực bội, nàng bứt các lọn tóc, xé rách áo quần; thậm chí có lần nàng định đưa tay cào cấu đôi má xinh như hai nụ hoa hồng để mình không còn có nhan sắc nữa, bởi nàng cho chính sắc đẹp này là nguyên nhân gây nên nỗi bối rối lo buồn nàng đang phải chịu lúc này. May sao các cung nữ lúc nào cũng sẵn sàng ngừa trước mọi hành động của công chúa, đã kịp giữ tay nàng lại. Nhưng cho dù mọi người xúm lại giúp đỡ khuyên giải, không ai có cách làm cho công chúa bình tâm trở lại.
Trong khi nàng công chúa đang sống trong tình trạng khủng khiếp ấy, thì chàng hoàng tử xứ Ngoài thích thú vì kết quả đạt được trước triều đình, đang tràn ngập niềm vui. Chàng dạt dào hy vọng ngày hôm sau sẽ chiếm hữu trái tim nàng công chúa.
NGÀY THỨ BẢY MƯƠI TƯ

Hoàng đế từ điện thiết triều trở về đến phòng riêng, liền sai người đi tìm hoàng tử Calap đến ngay để đàm đạo riêng với chàng về những việc vừa xảy ra trước toàn thể triều đình. Được lệnh của hoàng đế, chàng hoàng tử người Nôgai vội vã đến ngay. Trông thấy chàng hoàng đế ôm hôn rất trìu mến:
- Chao, con trai của ta! Hãy đến đây giúp ta giải nỗi băn khoăn. Ta đang lo sáng mai con gái ta sẽ trả lời đúng câu hỏi con vừa đặt ra cho nó. Tại sao con lại tự mình bày ra nguy cơ có thể khiến con hụt mất người con yêu thương?
Tâu bệ hạ,- hoàng tử Calap đáp- xin hoàng thượng chớ lo âu Không thể nào công chúa nói đúng họ tên chàng hoàng tử mà tôi đã hỏi, bởi tôi chính là hoàng tử ấy, và từ khi tôi đặt chân đến quý quốc, chưa hề có ai hay biết kẻ này là ai.
Con nói làm ta yên lòng,- nhà vua vui vẻ thốt lên.- Ta thú thật hồi nãy ta hơi lo lắng, bởi Tuaranđoc là một cô gái học vấn rất uyên thâm, trí tuệ nó rất tinh tế, khiến ta e ngại thay cho con. Nhưng ơn trời, con làm cho ta trở lại yên tâm. Cho dù công chúa có thông minh đến đâu, đủ sức hiếu thấu mọi điều bí ẩn, vẫn chẳng thể nào đoán ra được tên con. Giờ ta không trách con quá bạo gan nữa. Ta đã nhận ra, điều ta những tưởng con thiếu thận trọng lại là một hành động rất tài tình của con nhằm buộc con gái ta không thể viện ra bất kỳ cớ nào nữa để khước từ mong ước cua con.
Sau khi hài lòng về câu hỏi chàng Calap đặt ra với nàng công chúa, hoàng đế Anh Tông muốn thư giãn sau mấy ngày căng thẳng bằng việc đi săn. vua mặc một chiếc áo choàng nhẹ và chẽn, sai cuộn bộ râu ba chòm vào trong một cái túi bằng xa tanh đen. Hoàng đế truyền cho các đại thần hãy sẵn sàng cùng mình tham dự cuộc giải trí, và sai người mang trang phục dã ngoại đến cho hoàng tử Nôgai mặc. Mọi người dùng vội bữa điểm tâm nhẹ rồi ra khỏi hoàng cung.
Mở đầu đoàn, các vị đại thần mỗi người ngồi trên một chiếc kiệu bằng ngà voi được trang trí vàng son, trên kiệu không có mái che. Mỗi chiếc kiệu sáu người khiêng. Đi trước kiệu có hai người tay cầm roi. Theo sau kiệu lại có hai người khác cầm những tấm biển ghi bằng đại tự mọi chức tước của mỗi vị đại thần. Hoàng đế và hoàng tử Calap ngồi riêng trên một chiếc kiệu đóng bằng gỗ trầm hương đỏ, cũng không có mui che, do hai mươi sĩ quan quân đội khiêng. Trên kiệu ghi rõ vương hiệu của hoàng đế, còn. được trang trí thêm hình thù nhiều linh thú khảm bạc. Kiệu của hoàng đế đi sau kiệu các vị đại thần. Hai bên kiệu của vua Anh Tông, có hai vị tướng quân theo hầu, tay cầm những chiếc quạt lớn che bớt ánh nắng mặt trời. Và cuối cùng ba nghìn quân cấm vệ đi sau cùng.
Khi đoàn đến nơi mà các vị quan chuyên lo việc săn bắn đã chờ sẵn với những con chim mồi, mọi người bắt đầu cuộc săn chim cút. Khi mặt trời sắp lặn, cuộc săn mới chấm dứt.
Hoàng đế và đoàn tuỳ tùng quay trở lại hoàng cung, đoàn xa giá vẫn theo trật tự như khi khởi hành.
Giữa một cái sân rộng trong hoàng thành, đã cắm sẵn nhiều cái lọng che bằng lụa đủ màu sắc, và bày nhiều chiếc bàn nhỏ. Các bàn ăn được phủ sơn mài, không trải khăn bàn, bên trên đặt các đĩa thịt đã thái thành những miếng nhỏ. Sau khi nhà vua ngồi xuống một bàn, hoàng tử Calap và các đại thần theo thứ tự mỗi người ngồi vào một cái bàn con riêng rẽ, cạnh cái bàn con này có một cái khác bày sẵn các loại thức ăn. Trước khi dùng các món ăn, mọi người cùng nâng ly, uống rượu cất bằng gạo nếp. Sau đó suốt bữa ăn không ai uống rượu thêm nữa.
Bữa tiệc tối kết thúc, hoàng đế Anh Tông dẫn hoàng tử xứ Nôgai đến một gian phòng sáng rực. Trong phòng đã xếp sẵn những hàng ghế cho người ngồi xem hát. Sau khi hoàng đế an toạ, các quan đại thần lần lượt ngồi vào chỗ dành cho mình. Đích thân hoàng đế kiểm tra thứ bậc các hàng quan. Vua cho hoàng tử Calap ngồi ngay bên cạnh mình, trên một chiếc ngai bằng gỗ mun có trang trí hoa văn thếp vàng.
Mọi người yên vị đâu vào đấy, các ca sĩ và nhạc công cầm nhạc cụ bước ra sân khấu, trình diễn một cuộc hoà tấu vừa đàn vừa hát. Hoàng đế Anh Tông tỏ ra thích thú lắm.
Hoàng đế dường như rất am hiểu âm nhạc Trung Hoa, thỉnh thoảng vua quay lại hỏi hoàng tử nghĩ thế nào về khúc hoà tấu. Để làm vui lòng hoàng đế, hoàng tử nói âm nhạc Trung Hoa hay nhất thế giới.
Buổi hoà nhạc kết thúc, các ca sĩ và nhạc công lui khỏi sân khấu, nhường chỗ cho một con voi nhân tạo bước vào. Con voi di chuyển nhờ những chiếc lò xo gắn dưới chân. Nó nhả từ trong miệng ra sáu tráng sĩ. Các nhà võ thuật này bắt đầu biểu diễn những trò nhảy múa rất tài tình và khá nguy hiểm. Sáu người gần như để mình trần, chân đeo những đôi hài nhẹ, quần cụt may bằng vải ấn Độ, đầu đội mũ gấm thêu. Sau khi biểu diễn nhiều trò kỹ xảo vô cùng kỳ lạ, tất cả sáu chàng trai lại chui tọt vào bụng con voi, và con vật nhân tạo lại đủng đỉnh bước ra khỏi sân khấu y như lúc nó vào. Tiếp đó, đến các nghệ nhân kinh kịch. Vua ra một đề tài. Mọi người ngay lập tức dựa theo đó diễn cương và ứng khẩu hát, tạo nên một vở ca kịch, ở triều đình Trung Hoa có lệ các buổi kịch không được dựa theo một kịch bản viết sẵn từ trước.
Khi cuộc vui chơi chấm dứt, đêm đã khá khuya. Hoàng đế Anh Tông cùng chàng Calap đứng lên, mỗi người trở về nghỉ trong biệt điện của mình. Tất cả các đại thần cũng lần lượt lui về nhà riêng.
NGÀY THỨ BẢY MƯƠI LĂM
Các hoạn quan cầm trên tay những chân đèn đúc bằng vàng, trên cắm nến làm bằng mỡ ráng (Người phương Đông đùng mở rắn làm nến thì ánh sáng tốt hơn và toả hương thơm khi cháy) đưa hoàng tử Nôgai vào phòng nghỉ. Chàng chuẩn bị lên giường, chợt nhìn thấy trong phòng có một thiếu phụ mặc một chiếc áo dài khá rộng bằng gấm đó thêu hoa vàng, bên ngoài lại mặc một chiếc áo chèn hơn bằng xa tanh thêu kim tuyến, có đính những viên hồng ngọc và lam ngọc. Trên đầu, nàng chít một chiếc khăn nhẹ bằng lụa hồng cũng có đính ngọc và thêu mấy nét hoa văn đơn giản. Chiếc khăn chỉ bịt mái tóc ở phần trên, để thoải mái rũ xuống những lọn tóc xinh xắn, cài mấy bông hoa chế tác tinh xảo. Nhìn hình dáng và khuôn mặt nàng, có thể thấy ngoại trừ công chúa Tuaranđoc nước Trung Hoa, chắc khó có người phụ nữ nào đẹp bằng.
Chàng trai con vua Timuatat rất ngạc nhiên thấy giữa đêm khuya lại có một thiếu phụ xinh đẹp dường ấy đến ngồi một mình trong phòng riêng của chàng. Dễ thường chàng đã không thể nhìn nàng mà không xúc động, nếu trước đó chưa được nhìn thấy dung nhan công chúa Tuaranđoc. Nhưng một chàng trai đã đam mê nàng công chúa ấy, còn có bụng dạ nào để mắt nhìn một người đẹp khác. Người thiếu phụ nhác thấy hoàng tử Calap vào phòng, vội đứng lên khỏi chiếc sập, bên cạnh chỗ nàng ngồi để tấm mạng che mặt chắc vừa bỏ ra khi nàng bước vào đây
Sau khi nghiêng đầu lịch sự chào chàng trai, nàng nói:
- Thưa hoàng tử em chắc chàng hẳn cực kỳ ngạc nhiên gặp ở đây một người đàn bà, bởi chàng còn lạ gì, tuyệt đối cấm đàn ông và phụ nữ ở trong cung này được tiếp xúc với nhau, ai vi phạm sẽ chịu những hình phạt cực kỳ nặng nề. Nhưng những điều em sắp trình bày với chàng đây quá quan trọng đến mức em coi khinh mọi hiểm nghèo. Em đã may mắn và khéo léo vượt qua được mọi trở ngại. Em đã thuyết phục các viên thái giám được cử đến đây hầu hạ chàng, và cuối cùng em vào được phòng riêng của chàng. Giờ đây, em chỉ còn có việc thưa chàng rõ nguyên nhân nào dẫn em đến. Xin chàng chú ý lắng nghe cho.
Câu mở đầu làm hoàng tử Calap chú ý. Chàng tin chắc người thiếu phụ này đã vượt qua bấy nhiêu hiểm nghèo để đến được nơi đây, hẳn có những điều đáng để chàng quan tâm. Chàng mời nàng ngồi xuống chiếc sập. Chàng cũng ngồi xuống sập. Sau đó thiếu phụ cất lời nói như sau:
- Thưa hoàng tử, em nghĩ cần bắt đầu thưa để chàng rõ em là con gái của nhà vua một nước chư hầu của hoàng đế Anh Tông. Cách đây mấy năm, phụ vương em cả gan khước từ không chịu cống nạp như lệ thường cho hoàng đế, bởi người hơi quá tin tưởng vào tài thao lược của mình cũng như đội quân tinh nhuệ của vương quốc. Phụ vương em tin mình đủ sức tự bảo vệ nếu bị tấn công. Và cuộc tấn công quả nhiên đã xảy ra. Hoàng đế Trung Hoa nổi cơn thịnh nộ về sự táo gan của phụ vương em, đã phái đi chinh phạt một đạo quân hùng hậu dưới sự chỉ huy của một vị tướng tài giỏi nhất của triều đình. Mặc dù quân lực mình không mạnh bằng, phụ vương em vẫn đưa quân tiến lên nghênh chiến. Sau một trận quyết chiến đẫm máu diễn ra bên bờ một con sông lớn, vị lão tướng Trung Hoa là người chiến thắng. Phụ vương em bị ngàn nhát tử thương, bỏ mình giữa trận tiền. Trước khi qua đời, người ra lệnh ném xuống dòng sông đang chảy xiết tất cả các hoàng hậu, phi tần cũng như con cái của mình, để tránh cho họ khỏi bị bắt làm nô lệ. Nhưng người được lệnh rất hào hiệp cho dù vô nhân đạo ấy đã thi hành nghiêm chỉnh. Họ ném xuống dòng sông hoàng hậu mẹ em, các chị gái của em, hai đứa em trai còn nhỏ tuổi cho nên phải theo sát chúng em. Vị tướng quân Trung Hoa được tin báo, ngay lập tức đến chỗ bờ sông nơi người ta vừa ném gia đình em xuống dòng nước cho chúng em kết liễu số phận đáng thương của mình. Cảnh tượng đáng buồn và ghê gớm khiến vị tướng quân đem lòng thương hại. ông vội truyền lệnh cho quân sĩ, hứa sẽ trọng thưởng cho những ai có thể cứu sống những người trong gia đình nhà vua bại trận. Mặc dù dòng nước chảy xiết, nhiều kỵ sĩ Trung Hoa đã thúc ngựa lao xuống giữa dòng, đến những nơi có những người sắp chết đuối. Họ vớt lên được một số, song chỉ cứu sống có mỗi mình em. Khi đưa được lên bờ, mọi người trong gia đình em đã tắt thở, trừ có em còn thoi thóp. Vị tướng quân hết sức quan tâm chăm sóc cho em sống còn, như thể vinh quang của ông cần có thêm sự việc ấy nữa, và sự bắt sống được em làm cho chiến thắng của ông càng thêm huy hoàng. Vị tướng ấy đưa em về kinh thành Bắc Kinh, đưa trình em với nhà vua và thuật lại tất cả những việc ông đã làm mong cứu sống gia đình em. Hoàng đế Anh Tông cho em vào hầu hạ nàng công chúa con gái người, nàng ít hơn em chừng hai ba tuổi.
Cho dù hồi ấy em vẫn còn là một đứa trẻ, em vẫn hiểu mình đã trở thành một kẻ nô tỳ, phải biết sống sao cho phù hợp với thân phận không may của mình. Vì vậy, em cố gắng tìm hiểu tính tình công chúa Tuaranđoc, cố gắng làm vui lòng nàng. Em cũng khéo xứ sự, nhờ vậy được công chúa yêu thương. Từ thời gian ấy, cùng với một nàng cung nữ trẻ khác, cũng là người thuộc dòng dõi trâm anh chẳng may gia đình sa sút nên lâm vào cảnh làm nô tỳ, em trở thành một trong hai người cung nữ tâm phúc của công chúa Tuaranđoc.
- Thưa hoàng tử, xin ngài tha thứ cho,- nàng nói tiếp- câu chuyện trên chẳng liên quan gì đến nguyên nhân dẫn em đến đây hôm nay. Em nghĩ cần phải thưa vậy để chàng rõ em vốn dòng dõi cao sang, nhờ đó chàng tin tưởng phần nào những lời em sắp thổ lộ. Bởi câu chuyện quan trọng em sắp trình với chàng đây nếu do một cung nữ bình thường nào khác nói ra, hẳn khó được chàng tin cậy. Em không biết, cho dù mình xuất thân là công chúa con vua, em có thuyết phục nổi chàng không. Chàng đã quá say mê công chúa Tuaranđoc, liệu chàng có thể tin những điều em giải bày về công chúa ấy?
- Thưa công nương(Nguyên bản ghi là canume và giải nghĩa: quận chúa),- hoàng tử Calap ngắt lời- xin đừng bắt tôi phải chờ đợi lâu hơn nữa. Xin nàng nói ngay cho tôi rõ nàng định có ý kiến gì về công chúa nước Trung Hoa?
- Thưa hoàng tử,- thiếu phụ nói tiếp- công chúa Tuaranđoc, cô Tuaranđoc dã man ấy có mưu đồ ám hại chàng.
Nghe mấy lời ấy, hoàng tử ngả ngửa trên chiếc sập vừa kinh ngạc vừa hãi hùng.
NGÀY THỨ BẢY MƯƠI SÁU
Nàng công chúa bị bắt làm cung nữ, chắc hẳn đã dự kiến sự ngạc nhiên của chàng hoàng tứ trẻ, liền nói tiếp với chàng:
- Em không chút ngạc nhiên về thái độ của chàng khi nghe cái tin khủng khiếp ấy. Em đã biết trước, em có lý do để ngờ chàng có thể chưa tin lời em.
Tỉnh trí lại sau phút bàng hoàng, hoàng tử Calap thốt lên:
- Trời cao đất dày ơi! Ta vừa nghe gì vậy? Nàng công chúa nước Trung Hoa lại có thể có mưu đồ đen tối đến mức ấy sao? Làm sao nàng có thể nghĩ ra điều đó?
- Thưa hoàng tử,- thiếu phụ lại nói- em xin nói thêm để chàng rõ công chúa đã đi đến quyết định ghê tởm ấy trong hoàn cảnh nào. Sáng nay, sau khi từ điện thiết triều trở về- suốt buổi sáng em trong vai người vẫn đứng hầu sau ngai công chúa- nàng vô cùng buồn bã trước những điều vừa diễn ra. Trở về đến cung riêng, nàng rất xúc động vì hận thù và điên giận. Nàng đã suy nghĩ hồi lâu về câu hỏi ngài đặt ra, song chẳng thể nào tìm ra cách trả lời. Tuyệt vọng, nàng đâm ra quẫn trí. Về phần em, cũng như nàng cung nữ tâm phúc kia, hai chúng em cố sức khuyên giải cho công chúa giảm bớt cơn điên giận. Chúng em đã cố hết sức gợi lên trong lòng công chúa tình cảm ưu ái nên có đối với chàng. Chúng em chẳng nề hà ngợi ca vẻ khôi ngô tuấn tú cũng như trí tuệ uyên thâm của chàng, chúng em đã bảo công chúa chớ nên buồn bã quá đáng như vậy, mà tốt hơn là nên quyết định đi, cần nhận lời kết hôn với chàng. Nhưng công chúa buộc chúng em câm miệng, và tuôn ra không biết bao nhiêu lời nguyền rủa chê bai nàng vẫn thường có đối với đàn ông. Với công chúa thì chàng trai xinh đẹp nhất cũng chẳng gây nên ấn tượng gì khác trong lòng nàng hơn một chú hề vừa xấu xa vừa vô học. Công chúa còn nói:" Tất cả cánh đàn ông đều là những sinh vật đáng khinh bỉ, ta luôn luôn thù ghét họ. Đối với anh chàng vừa đến trình diện ta hôm qua, ta còn hận thù hắn hơn tất cả những người đàn ông khác. Bởi hắn đặt ta vào tình thế chẳng còn có cách nào giải thoát khỏi bàn tay hắn. Vậy chỉ còn mỗi một cách là ám hại nó thôi. Ta muốn sai người giết chết hắn".
- Em đã cố gắng làm cho công chúa từ bỏ ý đồ đen tối,- nàng công chúa nô tỳ nói tiếp.- Em đã cố gợi cho Tuaranđoc thấy rõ những hậu quả ghê gớm của việc ấy. Em nói với công chúa làm như vậy là gây thiệt hại cho chính mình. Rồi đây hậu thế sẽ kinh tởm một cách chính đáng khi nhắc đến tên công chúa. Chị cung nữ tâm phúc bạn em cũng nói vun vào, thêm nhiều lý lẽ nữa, nhưng mọi lời giãi bày của chúng em đều vô ích, không có cách nào làm cho công chúa thay đổi mưu đồ. Công chúa đã giao phó cho mấy tên hoạn nô trung thành, sáng sớm mai sẽ hạ sát chàng, ngay khi chàng bước ra khỏi biệt điện này để đi đến điện thiết triều.
- Ôi, hỡi nàng công chúa bất nhân? Hỡi nàng Tuaranđoc nham hiểm,- hoàng tử xứ Nôgai thốt lên- vậy ra bằng cách ấy nàng chuẩn bị cho tình yêu của chàng trai con vua Timuatat đạt tới đỉnh cao hay sao? Vậy ra hoàng tử Calap này trước mắt nàng khủng khiếp đến vậy, bởi nàng cho thà giết chết hắn đi và gây nên một tội ác sẽ làm Ô danh nàng đến muôn đời, còn hơn là gắn bó duyên số nàng với duyên số hắn! Trời đất ơi! Sao cuộc đời ta lại trải qua nhiều sự kiện lạ lùng đến vậy? Khi ta ngỡ sắp hưởng được một hạnh phúc xứng đáng với mong muốn của mình, thì chính là lúc ta sắp bị ném xuống vực sâu đau khổ!
- Thưa hoàng tử,- công chúa nô tỳ lại nói- nếu trời bắt chàng phải trải qua nhiều bất hạnh, ít ra trời không muốn chàng phải gục ngã hôm nay, bởi trời đã xui khiến người đến báo cho chàng biết trước những nỗi nguy đang rình rập chàng: Vâng, đúng vậy, thưa hoàng tử, có lẽ trời đã run rủi em nảy ra ý nghĩ phải cứu sống chàng. Bởi em không chỉ đến báo cho chàng biết có một cạm bẫy giương ra để sát hại chàng, em còn đến đây trao cho chàng phương sách tránh khỏi cạm bẫy ấy. Nhờ sự trung gian của vài quan thái giám trung thành với em, em đã mua chuộc được một số binh sĩ trong đội cấm vệ, họ sẽ tiếp tay cho chàng dễ dàng thoát khỏi hoàng cung. Bởi sau khi chàng trốn thoát, người ta sẽ điều tra khám xét khắp nơi, và người ta khắc hiểu chính em đây là người đã bày ra việc cứu thoát chàng, cho nên em quyết định sẽ cùng đi với chàng. Em muốn cùng chàng đi khỏi triều đình định mệnh chết chóc này, ở đấy trước đây em chỉ có buồn phiền, thân phận em chỉ là con nô lệ, và từ nay, sau khi xảy ra việc chàng trốn thoát, thì em cũng không thể nào sống sót.
Cung nữ lại nói tiếp:

- Ở một nơi nọ trong kinh thành, đã sắp sẵn mấy con tuấn mã chờ chúng ta. Chúng ta hãy cùng lên đường, hãy tìm mọi cách đến cho được lãnh địa của bộ tộc người Berla.Em vốn có họ hàng với vị Hãn Alinhgơ, đang trị vì ở bộ tộc ấy Chắc hẳn ông sẽ vô cùng mừng vui thấy cô em họ của mình thoát khỏi nơi giam cầm trong cung cấm của hoàng đế Anh Tông, và vị hãn ấy nhất định sẽ đón tiếp chàng như người giải thoát cho em. Hai chúng ta sẽ cùng sống trong bộ tộc dưới quyền trị vì của Hãn Alinhgơ, bình thản hơn, hạnh phúc hơn sống ở nơi đây. Em sẽ thoát khỏi những ràng buộc thân phận một tù nhân, số phận của em nhờ vậy sẽ dễ chịu hơn. Còn chàng, thưa hoàng tử, chàng có thể tìm thấy ở đấy một nàng công chúa xinh đẹp nào đó xứng đáng để chàng yêu thương. Nàng công chúa ấy không tìm cách mưu hại mạng sống của chàng để khỏi trở thành người vợ, mà nàng sẽ luôn luôn quan tâm săn sóc làm hài lòng chồng- giả sứ công chúa ấy có được niềm hạnh phúc được một hoàng tứ như chàng hạ lòng yêu quý. Chúng ta chớ nên để mất thời giờ, chúng ta hãy đi ngay, làm sao sáng mai khi mặt trời vừa rạng, chúng ta đã đi khỏi kinh thành Bắc Kinh khá xa rồi.
Hoàng tử Calap đáp:
- Thưa công chúa xinh đẹp, tôi vô cùng cảm tạ nàng đã vui lòng đến đây tìm cách giải thoát cho tôi khỏi nỗi hiểm nguy đang chờ đợi. Giá mà tôi có thể, để bày tỏ lòng tri ân nàng, đưa nàng thoát ra khỏi cảnh nô tỳ và đưa nàng đến được lãnh địa của vị hãn bộ tộc Berla họ hàng của nàng! Giá mà tôi có được niềm vui giao nàng tận tay vị hãn ấy! Bằng cách ấy, tự tôi cũng đền đáp được phần nào bao nhiêu cái ơn sâu đã chịu đối với đức hãn Alingơ. Nhưng, thưa công nương, xin nàng hãy cho tôi biết, trong trường hợp tôi biến mất khỏi nơi này thì tôi sẽ còn ra gì dưới con mắt của hoàng đế Anh Tông? Nhà vua sẽ nghĩ thế nào về kẻ này? Chắc hẳn nhà vua sẽ ngỡ rằng tôi đến triều đình này chỉ nhằm mục đích bắt cóc và đưa nàng chạy trốn. Và trong thời gian tôi chi ra đi để tránh cho công chúa con gái hoàng đế khỏi phạm một tội ác tày trời, thì hoàng đế sẽ lên án tôi là kẻ không biết đền đáp tấm lòng hiếu khách của người khác. Vả chăng, không biết tôi có nên thú nhận điều này với nàng hay không, cho dù công chúa Trung Hoa Tuaranđoc dã man đến thế, trái tim hèn hạ của tôi vẫn không thể nào thù ghét được nàng. Sao tôi vừa buột miệng nói thù ghét nhỉ! Không đâu, tôi vẫn yêu quý nàng, tôi vẫn chung thuỷ tuân theo mọi ý muốn của nàng. Bởi nàng đã muốn kết liễu đời tôi, thì tôi sẵn sàng để chịu chết.
Nàng cung nữ thấy chàng hoàng tứ xứ Nôgai khăng khăng thà chịu chết hơn ra đi cùng nàng, bật ra khóc và nói:
- Có thể nào, thưa hoàng tử, chàng chuộng cái chết hơn là lòng biết ơn của một công chúa bị giam cầm mà chàng có khả năng giải thoát cho? Nếu công chúa Tuaranđoc xinh đẹp hơn em, ngược lại em có một trái tim khác trái tim cô ấy. Hỡi ôi, sáng nay khi chàng xuất hiện trước triều đình, em đã run lên lo sợ cho chàng, em chỉ e chàng không trả lời đúng các câu đố của công chúa vua Anh Tông. Khi chàng đã trả lời đúng tất cả, em lại cảm thấy nảy sinh một nỗi lo âu mới, có lẽ em linh cảm người ta sẽ tìm cách hãm hại chàng. Ôi, hỡi chàng hoàng tử quý yêu của em, em van chàng hãy suy nghĩ kỹ hơn, chớ nên để tình cảm nồng nhiệt vô lý lôi kéo mình đến một cái chết vô nghĩa. Tình yêu mù quáng không nên khiến chàng coi thường một nỗi nguy có thật làm em rất lo lắng. Hai ta không nên chần chừ nữa, chúng ta hãy chạy trốn ngay khỏi hoàng cung này, nơi em luôn luôn bị dày vò đau khổ.
- Thưa công chúa quý mến của tôi, - chàng trai con vua Timuatat lại nói - cho dù có hiểm họa nào xảy ra với mình chàng nữa, tôi vẫn không thể nào quyết định chạy trốn nhanh chóng như vậy. Tôi xin thú thật với nàng, nàng rất xứng đáng được người có khả năng giải thoát cho nàng đền đáp lại công ơn. Nàng sẽ mang lại cho người ấy một duyên phận đầy lạc thú. Nhưng tôi sinh ra không để được hưởng hạnh phúc ấy, duyên số của tôi là yêu thương công chúa Tuarandoc. Cho dù trước mắt nàng ấy, tôi là một người đáng kinh tởm, thì về phần mình, xa cách nàng tôi chỉ có thể kéo dài những ngày sống đầy ưu phiền...
- Vậy thì, hỡi con người bạc nghĩa, anh hãy ở lại đây! - Cô gái đột ngột đứng lên và ngắt lời chàng - Anh hãy chớ xa lánh một nơi mà anh cho là đầy lạc thú này! Đến chừng nào anh nhìn thấy máu của mình chày xuống ướt đẫm mảnh đất này, khi ấy ta chẳng còn thôi thúc anh ra đi làm chi nữa. Anh không muốn chạy trốn cùng với một con nô tỳ? Nếu anh nhỉn thấy tận đáy tâm can ta, thì ta cũng đã nhìn rõ tâm can anh. Cho dù bề ngoài anh tỏ ra say mê nàng công chúa Trung Hoa đến đâu, thật tâm anh ít yêu thương cô ấy hơn là ghét bỏ chính ta đây.
Nói xong nàng đeo lại tấm mạng che mặt và bước ra khỏi phòng hoàng tử Calap.
NGÀY THỨ BẢY MƯƠI BẢY
Sau khi người đàn bà đi khỏi, chàng hoàng tử trẻ ngồi lặng trên sáp, trong lòng rất đỗi phân vân. Chàng tự hỏi "Ta có nên tin hay không những lời vừa nghe? Có thể nào một con người dã man cùng cực đến vậy? Nhưng, hỡi ôi! Chẳng có gì phải nghi ngờ nữa. Nàng công chúa nô tỳ này kinh tởm mưu đồ của công chúa Tuaranđoc, cho nên đã vượt qua mọi hiểm nguy tìm cách đến báo trước cho ta bíêt. Những tình cảm nàng vừa để lộ ra là bảo đảm chắc chắn cho lòng chân thành của nàng. Ôi, hỡi người con gái độc ác của vị hoàng đế anh minh nhất? Sao nàng đang tâm lạm dụng những năng khiếu trời cho như vậy! Hỡi thượng đế! Sao người lại phú cho một công chúa bất nhân nhan sắc hoàn hảo đến vậy? Sao người lại ban cho một tâm hồn dã man bấy nhiêu nét đẹp mê hồn?".
Đáng nhẽ cần nghỉ ngơi vài tiếng đồng hồ, chàng lại thức trắng suốt đêm hôm ấy, buông mình vào những suy tư buồn bã. Cuối cùng, trời rạng sáng. Tiếng trống tiếng chiêng lại nổi lên như ngày hôm trước. Lát sau sáu vị dại thần lại vào y như ngày hôm trước mời chàng đến điện thiết triều. Chàng đi qua cái sân rộng, ở đấy đội quân cấm vệ của hoàng đế đã xếp hai hàng nghiêm chỉnh. Chàng ngỡ có lẽ mình sẽ bỏ mạng ở chốn này. Chắc người ta lựa chọn nơi này để ám hại chàng, khi chàng đi ngang qua lọt giữa hai hàng quân. Tuy vậy, không mảy may nghĩ bởi chuyện giữ thế thủ phòng thân hoặc tự bảo vệ, chàng cứ vững bước đi, như một con người quyết tâm đến cái chết, hình như còn trách những kẻ định ám hại mình sao chậm ra tay đến vậy.
Tuy nhiên, chàng đi qua hết cái sân rộng chẳng hề bị ai tấn công. Khi bước vào gian phòng đầu tiên để sang điện thiết triều, chàng tự bảo: "Chắc là nàng công chúa ra lệnh hành quyết tại nơi này". Đồng thời chàng d0ưa mắt nhìn quanh mọi phía. Nhìn thấy ai chàng cũng ngỡ đó có lẽ là hung thủ sát hại mình. Tuy nhiên, chàng vẫn đi tới, và bước vào gian phòng rộng của điện thiết triều, mà chẳng hề bị nhát dao nào đâm chết người như chàng chờ đợi.
Lúc này, các đại thần và các đại học sĩ đều đã ngồi yên vị dưới những chiếc lọng, chờ hoàng đế Anh Tông xúât hiện. Chàng Calap lại tự hỏi: "Vậy ý đồ của nàng công chúa là gì? Có phải nàng muốn tự mắt chứng kiến cái chết của ta? Hay là nàng định cho người ám hại ta ngay trước mắt phụ vương nàng? Nhà vua có đồng tình vụ mưu sát này chăng? Ta khôg biết nên nghĩ thế nào đây? Hay là nàng đã thay đổi ý định, để cho ta sống chứ không muốn kết liễu cuộc đời ta nữa?"
Trong khi chàng trai đang phân vân như vậy, thì cánh cửa thông với nội cung mở rộng. Đức hoàng đế, theo sau có công chúa Tuaranđoc, bước vào. Hai vị lại ngồi lên ngai. Hoàng tử Nôgai lại đứng trước mặt họ, cũng đúng với khỏang cách y như ngày hôm qua.
Chờ nhà vua an toạ, vị đại thần đứng lên, cất lời hỏi chàng hoàng tử trẻ, chàng có còn nhớ đã từng hứa sẽ khước từ không đòi được kết hôn với công chúa nữa, trong trường hợp hôm nay nàng trả lời đúng câu hỏi chàng đã đặt ra cho nàng. Hoàng tử Calap đáp đúng như vậy, và một lần nữa chàng khẳng định trongtrường hợp ấy, chàng xin khước từ, không còn dám mong chờ vinh dự được làm phò mã của hoàng đế. Viên đại thần lại quay sang ngỏ lời với công chúa Tuaranđoc:
- Thưa công chúa cao cả, hằn công chúa đã rõ có lời thề ràng buộc công chúa phải tuân theo, trong trường hợp bà không thể nói ra hôm nay, tên họ chàng hoàng tử được đặt ra trong câu hỏi hôm qua.
Hoàng đế nghĩ con gái mình không thể giải đáp câu hỏi của hoàng tử Calap nên bảo nàng:
- Con gái ta, con đã có đủ thời giờ để suy nghĩ về điều người ta yêu cầu con phải trả lời. Nhưng dù ta có cho con một năm ròng để suy ngẫm, ta vẫn nghĩ mặc dù con rất thông tuệ, cuối cùng con đành phải thú nhận đấy là đềiu con không thể nào biết rõ. Vậy, con đã không trả lời được câu hỏi, tốt hơn con nên đáp lại tình yêu của chàng hoàng tử trẻ. Con hãy làm cho cha vui lòng được nghe con đồng ý chọn hoàng tử ấy để se duyên. Chàng rất xứng đáng được cùng với con, trị vì muôn dân đất nước Trung Hoa chúng ta, sau khi ta băng hà.
- Muôn tâu bệ hạ,- nàng Tuaranđoc đáp - tại sao ngài vội nghĩ con không có khả năng trả lời câu hỏi của chàng hoàng ửt kia? Chẳng phải khó khăn lắm đâu, như phụ vương nghĩ. Nếu ngày hôm qua con tạm cam chịu cái nhục thất bại, thì ngày hôm nay con quyết đạt được quang vinh chiến thắng. Con sẽ làm cho chàng bạo gan trẻ tuổi kia bối rối. Chàng ta đã đánh giá quá thấp trí tuệ của con. Mời chàng hãy đặt câu hỏi đi, con sẵn sàng trả lời.
Hoàng tử xứ Nôgai liền cất lời hỏi:
- Thưa công chúa, tôi xin công chúa hãy nói đúng tên họ chàng hoàng tử sau khi đã chịu đựng muôn vàn khổ ải và có khi phải ăn mày để kiếm miếng ăn, lúc này đây đang tràn trề mừng vui và chói lọi quang vinh?
- Chàng hoàng tử ấy,- công chúa Tuaranđoc đáp- tên là Calap, chàng là con trai của vua Timuatat.
Chàng Calap vừa nghe nói đến tên mình, mặt liền biến sắc đôi mắt tối sầm. Chàng ngã xuống bất tỉnh nhân sự. Nhìn quang cảnh ấy, hoàng đế cũng như toàn cử toạ đều rõ công chúa quả đã nói đúng tên họ chàng hoàng tử đặt ra trong câu đố. Mọi người đều tái mặt và vô cùng bối rối.
NGÀY THỨ BẢY MƯƠI TÁM
Sau khi hoàng tử Calap hồi tỉnh nhờ sự săn sóc của mọi người có mặt trong điện thiết triều, bản thân nhà vua cũng bước xuống ngai để cứu giúp, chàng Calap ngỏ lời nói với nàng Tuaranđoc:
- Thưa công chúa xinh tươi, bà nhầm rồi, bà ngỡ trả lời đúng câu hỏi của tôi. Chẳng phải thế đâu. Chàng trai con vua Timuatat lúc này không tràn trề mừng vui và chói lọi quang vinh, mà ngược lại chàng đang ngập ngụa trong hổ thẹn và đứt ruột đớn đau.
Ta đồng ý,- công chúa nói,- lúc này chàng không được mừng vui và cảm thấy quang vinh; nhưng hôm qua chàng đã như vậy, hôm qua chàng ở trong trạng thái tinh thần ấy khi đặt câu hỏi cho ta. Bởi vậy, thưa hoàng tứ, chớ nên biện bạch những uẩn khúc ngôn từ, hãy thành thật thú nhận đi, chàng đã mất hết mọi quyền đáng được có về nàng Tuaranđoc này. Như vậy, có nghĩa ta có thể khước từ không phải trao duyên cho chàng, để mặc cho chàng tha hồ hối tiếc vì thất bại. Tuy nhiên, tôi muốn thưa để chàng rõ, và xin được công khai tuyên bố điều này trước triều đình: tôi có thái độ khác rồi. Do cảm tình của phụ vương tôi đối với chàng, và đặc biệt do các đức tính ưu việt của chàng, tôi quyết định chấp nhận chàng làm hôn phu chính thức của mình.
Lời công chúa làm cả điện thiết triều vang lên tiếng reo mừng rỡ. Các vị đại thần cũng như các đại học sĩ đều hoan hô lời của nàng công chúa. Hoàng đế tiến đến gần con gái, ôm hôn và nói :
- Con gái của ta, con không thể có một quyết định nào làm ta vui lòng hơn thế. Bằng quyết định ấy con có thể xoá ới mọi ấn tượng không hay mà con đã gây nên trong đầu óc trăm họ, con mang lại cho một người cha sự hài lòng mà ta chờ đợi ở con từ lâu lắm rồi, và ta đã ngỡ không bao giờ được thoả mãn. Đúng vậy, sự ghét bỏ của con đối với đàn ông, một sự ghét bỏ trái với tự nhiên, đã làm cho cha mất hết hy vọng rồi đây được nhìn thấy một đứa cháu sinh ra từ dòng máu của mình. Hạnh phúc xiết bao, nỗi căm ghét ấy hôm nay chấm dứt. Điều làm cha đạt đến tột đỉnh ước vọng, là nghe từ miệng con ngỏ lời đồng ý trao thân cho vị anh hùng trẻ tuổi rất thân thiết với cha đây.
- Nhưng, con hãy nói cho mọi người biết,- nhà vua nói tiếp- bằng cách nào con đoán ra được tên chàng hoàng tử chưa từng gặp bao giờ, và cả nước này chưa ai rõ tính danh? Phép thần nào giúp con phát hiện điều ấy?
- Tâu bệ hạ,- công chúa Tuaranđoc đáp- không phải nhờ phép thần mà con biết được, chỉ là việc khá bình thường thôi. Đêm hôm qua, một cung nhân của con đã đến tìm gặp hoàng tử Calap, và đã khéo léo khiến chàng tiết lộ điều bí mật. Mong chàng tha thứ cho con đã sứ dụng một phương sách không đẹp lắm, bởi con không dùng kết quả ấy để hôm nay dùng vào mục đích xấu.
- Ôi, hỡi nàng công chúa Tuaranđoc tuyệt vời!- chàng hoàng tử người Nôgai thốt lên.- Có thể nào nàng có với tôi những tình cảm ưu ái đến vậy? Nàng đã lôi tôi từ vực thẳm khủng khiếp, đặt lên chỗ cao sang nhất thế gian. Hỡi ôi! Thế mà có lúc tôi đã nghi ngờ bất công xiết bao! Trong khi nàng chuẩn bị cho tôi một duyên phận tốt lành như vậy, thì tôi lại nghĩ nàng đang nuôi dưỡng mưu đồ đen tối đối với tôi Do bị một câu chuyện bịa đặt đáng ghê tởm đánh lừa, tôi mất hết trí khôn, đi đến chỗ đền đáp lòng tốt của nàng bằng sự nghi ngờ đầy xúc phạm. Sự bất cẩn của tôi thật đáng tội chết.
Chàng trai si tình con của vua Timuatat định tiếp tục nói thêm nhiều lời say sưa nữa, thì đột nhiên phải ngừng lại để nhìn một cung nữ. Cung nhân này nãy giờ vẫn đứng hầu sau ngai nàng công chúa Trung Hoa. Nàng bước ra chính giữa điện thiết triều, và làm mọi người cực kỳ ngạc nhiên về hành động của mình: Nàng lật tấm mạng che mặt; hoàng tử Calap nhận ra ngay đấy chính là người thiếu phụ đêm hôm qua đến gặp chàng tại phòng riêng. Mặt nàng tái nhợt như sắp chết, đôi mắt nàng lạc đi, có vẻ như nàng đang suy tư một việc gì đó đầy chết chóc. Tất cả mọi người đều nhìn nàng kinh lạ. Hoàng đế Anh Tông cũng như những người khác đang im lặng chờ nghe nàng muốn nói gì, thì nàng hướng về công chúa Tuaranđoc và ngỏ lời như sau:
- Tâu công chúa, đã đến lúc bà nên thôi, chớ nhầm lẫn nữa. Hôm qua, em đã không đến tìm hoàng tử Calap để lừa chàng lộ cho biết rõ tính danh, em không làm việc ấy nhằm phục vụ công chúa. Em dám vượt qua hiểm nguy, dấn thân vào việc ấy chỉ vì lợi ích riêng của mình: em muốn tìm cách thoát khỏi cảnh nô tỳ và chiếm đoạt luôn người yêu của bà. Em đã sắp đặt đầy đủ mọi việc để có thể trốn chạy cùng một lúc với chàng. Chàng đã khước từ đề nghị của em. Hay đúng hơn, kẻ vô ơn bạc nghĩa kia đã coi thường tình yêu của em. Em đã tìm mọi cách cố tách chàng khỏi công chúa. Em đã mô tả sự kiêu căng của bà với những lời lẽ nặng nề nhất. Thậm chí em còn bày đặt ra, rằng công chúa sẽ cho ám hại chàng nội trong ngày hôm nay. Nhưng, cho dù em vu oan cho công chúa có mưu đồ xấu, em không sao lay chuyển được tình yêu kiên định của chàng đối với bà. Chàng đã tự mắt chứng kiến thái độ bực bội mà em không kìm chế được, khi rời chàng ra về. Đôi mắt chàng đã chứng kiến nỗi buồn đau và sự bối rối của em. Vì ghen tuông, vì thất vọng, trở về cung của công chúa, em giả vờ tâm tình để công chúa ngỡ em đã có công tìm cách làm giúp công chúa việc tốt, nhưng thật ra rất xấu xa.
Không phải đâu. Không phải để giúp công chúa đỡ phải bối rối nên em lộ cho công chúa rõ tên họ hoàng tử. Chàng đã vô tình buột miệng thốt ra trong một phút hoang mang. Em ngỡ công chúa vẫn đố kỵ đàn ông, để rồi hôm nay nhờ biết rõ lời giải đáp, công chúa được cuộc và nhờ vậy buộc hoàng tử Calap phải rời khỏi nơi này. Tóm lại, em tưởng bằng cách ấy chặt đứt mối dây ràng buộc công chúa với hoàng tử. Nhưng bây giờ mọi cố gắng của em đều vô ích cả rồi. Bây giờ công chúa đã quyết định kết hôn với chàng. Sự tình đến thế, em không còn cách xử tử nào khác với cách này.
Nói đến đấy, nàng cung nữ rút một lưỡi dao găm thủ sẵn từ dưới áo ra và tự đâm vào ngực mình.
NGÀY THỨ BẢY MƯƠI CHÍN

Toàn thể cử toạ rùng mình trước hành động ấy. Hoàng đế Anh Tông cũng cảm thấy kinh hoàng. Hoàng tử Calap mất hẳn niềm vui. Còn công chúa Tuaranđoc thì thét lên một tiếng, nàng vội vã bước xuống ngai mong cứu giúp nàng cung nữ, hy vọng có thể ngăn được cái chết. Người cung nữ tâm phúc kia cũng vội vàng chạy đến, đồng thời với hai cô gái đang cầm giấy bút và nghiên mực ở tay. Nhưng, các cô chưa kịp tới nơi thì cung nữ vốn nặng lòng yêu thương chàng trai con vua Timuatat, sợ nhát đâm vừa rồi chưa đủ cho mình từ giã cõi trần, lại rút lưỡi dao găm ra và đâm thêm vào ngực một nhát nữa. Các cô gái chạy đến chỉ còn kịp đỡ người cung nữ lảo đảo ngã vật xuống trong vòng tay họ. Công chúa Tuaranđoc lớn tiếng than:
- Ađenmuc, em Ađenmuc thân quý của chị, em làm gì vậy? Cần gì phải đi đến chỗ cùng cực này? Tại sao đêm hôm qua em không giãi bày hết tâm can với chị? Sao em không nói chị rõ, em sẽ bỏ mình nếu chị đồng ý kết hôn với hoàng tử Calap? Nếu biết trước thì chị đã có cách cứu em khỏi kết cục bi thảm này.
Nghe vậy nàng công chúa nô tỳ cố mở đôi mắt mà thần chết đã bắt đầu khép lại, buồn bã nhìn công chúa
Tuaranđoc và nói:
- Thế là hết, thưa công chúa, thế là em hết sống, em hết đau khổ. Xin đừng ai thương xót cho số phận của em. Mọi người hãy khen em đã có một quyết định hào hiệp. Em chết đi để tự giải thoát mình khỏi hai lần nô lệ: Nô lệ của triều đình và nô lệ của tình yêu- cả hai đều vô cùng nghiệt ngã như nhau. Em tin, theo đạo giáo của dòng họ em, con người sau khi chết đi không ai xuống địa ngục cũng không ai lên thiên đường. Không có gì đáng thưởng công, không có gì phải trả nợ. Em ra đi thanh thản. Vậy xin mọi người chớ ngạc nhiên sao em dám quyết tâm đến vậy.
Nói xong, cung nhân thở hắt hơi cuối, cùng.
Tất cả các vị đại thần và đại học sĩ có mặt trong triều đều xúc động trước kết cục bi đát của nàng Ađenmuc. Công chúa Tuaranđoc tiếp tục tuôn nước mắt như mưa. Hoàng tử Calap tự cho mình là người gây nên sự kiện bi thảm này, rất lấy làm đau đớn. Hoàng đế Trung Hoa vốn là người hào hiệp, tỏ ra buồn rầu. Vua nói:
- Ôi! Hỡi nàng công chúa bất hạnh! Người cuối cùng còn lại của một hoàng triều danh tiếng, đến cơ sự này thì có ích gì việc mọi người đã cố sức cứu nàng khỏi dòng nước đá Hỡi ôi! Có thể nàng đã sung sướng hơn nếu được bỏ mình cùng một lúc với phụ vương nàng, quốc vương Caycobat, Hãn của người Catalan. Ta hy vọng rằng, sau khi trải qua chín trùng địa ngục, trả xong nghiệp chướng, nàng sẽ đầu thai thành công chúa một gia đình quân vương khác.
Hoàng đế Anh Tông không chỉ bằng lòng thở than cho sự bất hạnh của công chúa Adenmuc, vua còn ra lệnh tổ chức lễ tang trọng thị cho nàng. Thi thể nàng được mang vào một biệt điện khác, ở đấy nàng được khâm liệm xiêm y toàn màu trắng. Trước khi khâm liệm cho nàng, nhà vua cùng tất cả các quan trong nội cung, đều đến vái và vẩy nước hoa vào người nàng. Tiếp đó thi thể nàng được đặt vào một chiếc quan tài làm bằng gỗ lô hội, và đặt lên một cái giống như ngai cao chính giữa một sân rộng. Nàng được quan ở đấy suốt một tuần. Hằng ngày phu nhân của các vị đại thần trong triều vận toàn đồ tang, lần lượt đến viếng, mỗi người vái nàng bơn vái để tỏ lòng thương tiếc.
Sau lễ nghi ấy, quan khâm thiên giám chọn một ngày lành, quan tài của nàng được đặt lên một chiếc chiến xa sơn bạc có chạm hình các linh vật, mang nàng đi mai táng. Đám tang đi ròng rã ba ngày, bởi thỉnh thoảng lại phải ngừng để làm lễ tế thổ thần từng nơi, mới đến được dãy núi nơi xây lăng mộ của các nhà vua nước Trung Hoa. Hoàng đế Anh Tông muốn di hài công chúa Ađenmuc được táng chung với các công chúa, hoàng từ của hoàng triều. Chính nàng công chúa Tuaranđoc vì quý yêu người cung nữ tâm phúc đã xin phụ vương cho nàng được vinh dự ấy.
Khi đoàn xe tang tới dãy núi, chiếc quan tài đặt trên chiến xa được khiêng xuống đạt vào một cái quách còn đẹp hơn, sau đấy người ta giết một con bò đực làm lễ tế, rưới nước hoa xuống mặt đất và làm lễ cúng thổ thần lần nửa, xin thổ thần hãy vui lòng chấp nhận di hài của nàng công
chúa nước ngoài.
NGÀY THỨ TÁM MƯƠI
Tang lễ công chúa Ađenmuc vừa kết thúc, quanh cảnh triều đình Trung Hoa thay đổi hắn. Mọi người cởi bỏ áo tang. Sau các lễ buồn là những ngày vui nối tiếp. Hoàng đế Anh Tông ra lệnh chuẩn bị hôn lễ giữa hoàng tử Calap và công chúa Tuaranđoc. Trong thời gian chuẩn bị, hoàng đế sai sứ thần đến bộ tộc người Beng báo cho nhà vua người Nôgai Tumuatat biết tất cả những gì vừa xảy ra ở nước Trung Hoa, và mời nhà vua cùng với hoàng hậu đến Trung Quốc.
Mọi việc chuẩn bi xong xuôi, hôn lễ được cử hành với lễ nghi huy hoàng tráng lệ xứng với cấp bậc đôi vợ chồng. Vua quyết định bỏ lệ thường là phải cử các quan phụ đạo giúp dạy phò mã biết cách xử sự ở triều đình cũng như hằng ngày trong nội cung. Thậm chí vua Anh Tông còn cho công bố, vì đặc biệt quý trọng hoàng tử phò mã của mình, vua cho phép chàng miễn vái lạy vợ như phong tục từ xưa tới nay. Suốt một tháng ròng, khắp triều đình chỉ có tiệc tùng, đàn ca, múa hát, kịch hội. Dân chúng thành phố Bắc Kinh cũng đua nhau mở hội vui chơi.
Cuộc hôn nhân càng làm thắt chặt tình yêu của Calap đối với Tuaranđoc thêm nồng thắm. Nàng công chúa ấy xưa nay vẫn nhìn đàn ông với đôi mắt khinh đời, nay không thể tự ngăn mình không yêu thương một hoàng tử hoàn hảo đến vậy. Một thời gian sau hôn lễ, các sứ thần vua Anh Tông cử đến bộ tộc Berla quay trở về, nhưng không chỉ về với những người họ được lệnh đi mời họ. Cùng đến kinh thành Bắc Kinh, ngoài phụ vương và hoàng hậu song thân chàng phò mã Calap, còn có đích thân Hãn Alingơ, ông cùng với nhiều triều thần quan trọng của mình tiễn chân vua Timuatat và hoàng hậu Enma đến tận Bắc Kinh.
Được tin, hoàng tử xứ Ngoài vội vàng ra cổng hoàng cung nghênh đón. Không thể nào tả nổi niềm vui tái ngộ với mẹ cha sau bấy nhiêu điều bất hạnh. Nhà vua, hoàng hậu và hoàng tử ôm hôn nhau nhiều lượt, cả ba người đều tuôn rơi nước mắt, khiến những người Trung Hoa và người Tarta chứng kiến cũng mủi lòng.
Tiếp đó, hoàng tử Calap đến chào vị hãn người Berla, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với Hãn đã xử sự vô cùng hào hiệp với gia đình mình, đã thế còn vui lòng tiễn nhà vua và hoàng hậu người Ngoài đến tận nước Trung Hoa. Hãn Alingơ đáp, trước đây do chưa tường địa vị của vua Timuatat và hoàng hậu Enma, nên đã đối xử với các vị chưa thật đúng với tước hiệu cao quý của họ; để bù lại khiếm khuyết ấy, Hãn Alingơ thấy mình cần tiễn hai vị đến đây để tạ lỗi phần nào. Đến lượt vua Timuatat và hoàng hậu Enma cảm tạ vị thủ lĩnh người Berla.
Sau đó mọi người cùng tiến vào hoàng cung yết kiến hoàng đế Anh Tông. Vị minh quân này đã chờ sẵn ở gian phòng đầu trước khi vào điện thiết triều. Hoàng đế lần lượt ôm hôn từng người với tình cảm chân thành. Rồi hoàng đế mời tất cả vào đại điện. Sau khi bảy tỏ với nhà vua Timuatat niềm vui được gặp, hoàng đế ngỏ lời chia sẻ những bất hạnh mà vương triều xứ Nôgai đã phải trải qua trong những năm tháng vừa rồi. Hoàng đế khẳng định sẽ mang hết sức lực của mình tiễu phạt vua nước Carim, trả hận cho họ.
Hoàng đế giữ lời. Nội ngày hôm ấy, nhà vua truyền chiếu lệnh cho thống đốc các tỉnh trong nước huy động quân đội sẵn sàng lên đường tiến về phía hồ Bangiuta, giao hẹn đấy là điểm hội các đạo quân lớn. Về phía mình, vị hãn người Berla Alingơ cũng muốn tham gia cuộc chiến tranh để tái lập vua Timuatat trên ngai vàng, cũng ra lệnh cho quân sĩ các bộ tộc của mình sẵn sàng lên đường ra mặt trận. Hãn Alingơ truyền cho các tướng lĩnh khẩn cấp kẻo dân đến hội với các đạo quân Trung Hoa khác cạnh hồ Bangiuta sớm càng tốt. Quân đội nước Trung Hoa thời bình vốn phân bố khắp tỉnh thành trong đế quốc, trong khi chờ đã các đạo binh về tới nơi hội quân, hoàng đế ra lệnh chuẩn bị mọi điêu kiện cần thiết để các vị khách quý được nghỉ ngơi tại Bắc Kinh. Hoàng đế sai người mời mỗi nhà vua đến một biệt điện riêng rẽ, và cử một số hoạn quan để hầu hạ từng người, cùng một đội cấm vệ hai nghìn quân sĩ lo việc bảo vệ hai nhà vua khách quý.
Hầu như ngày nào hoàng đế cũng cho mở đại yến, tiểu yến đãi đằng các vị khách quý. Hoàng tử Calap cho dù bận rộn trăm công nghìn việc, vẫn không quên bà cụ già chủ nhà trọ của mình. Chàng thú vị nghĩ đến phần bà cụ đã đóng góp cho duyên phận của mình, liền sai người mời cụ vào hoàng cung, và ngỏ lời xin công chúa Tuaranđoc hãy nhận bà như một người trong đoàn tuỳ tùng của công chúa.
NGÀY THỨ TÁM MƯƠI MỐT
Vua Timuatat và hoàng hậu Enma hy vọng giành lại ngai vàng người Nôgai ớ quê hương Tarta. Niềm vui làm họ vơi đi mọi khổ ải đã trải qua. Hạnh phúc của hai vị càng lớn khi nàng công chúa Tuaranđoc đúng tháng đúng ngày sinh hạ một hoàng tử rất xinh. Để mừng cậu hoàng bé nhỏ mới ra đời, hoàng đê Anh Tông phong ngay cho cháu làm thái tử nước Trung Hoa. Sự kiện được tất cả các tỉnh thành trong đế quốc Trung Hoa rộng lớn mở hội mừng vui, coi như một ngày đại khánh.
Giữa lúc các hội hè đang diễn ra thì có tin báo về triều, các đạo quân đã tề tựu đông đủ cạnh hồ Bangiuta, kể cả quân lính của vị hãn người Berla. Thế là vua Timuatat, hoàng tử Calap và hãn Alingơ ngay lập tức lên đường. Đến điểm hội quân, đã có đủ bảy mươi vạn quân sĩ sẵn sàng chiến đấu ( Rất có thể, bởi bình thường nước Trung Hoa có hai triệu quân. Riêng ở kinh đô Bắc Kinh có hai mươi vạn quân thường trực (Chú thích của F.P. De La Croix).). Họ ra lệnh tiến quân về xứ Cotan, từ đó băng qua nước Caxga, và cuối cùng tiến vào lãnh thổ của nhà vua nước Carim.
Nhà vua này, được tin cấp báo từ biên cương, không lấy gì làm ngạc nhiên. Vua dũng cảm chuẩn bị nghênh chiến. Vua không ém binh bố trí cố thủ trong thành, mà táo bạo cất đại quân tiến lên đón đánh quân thù. Đội quân vua vừa tập hợp tuy vội vàng cũng đông tới bốn mươi vạn người. Hai đạo quân lớn gặp nhau ở một điểm gần thành phố Cogien. Trận chiến quyết định bắt đầu, Về phía quân Trung Quốc, vua Timuatat chỉ huy cánh bên phải, Hãn Alingơ chỉ huy cánh bên trái, còn hoàng tử Calap làm tư lệnh trung quân. Về phía mình nhà vua nước Carim giao phó cánh phải cho một vị tướng tài giỏi nhất, và cử hoàng tử của mình cầm đạo quân ở giữa chiến đấu chống lại quân do hoàng tử người Nôgai chỉ huy, còn cánh trái là đội kỵ binh rất điêu luyện do đích thân vua lãnh đạo.
Vị hãn người Berla bắt đầu cuộc chiến, xua quân của bộ tộc mình tiến lên, họ chiến đấu rất dũng cảm và chẳng bao lâu đẩy lùi được cánh phải của quân địch, song chẳng mấy chốc đối phương lại dốc sức phản công. Tình hình quân cánh phải do vua Timuatat trực tiếp chỉ huy không được thuận lợi, bởi ngay từ đầu nhà vua nước Carim tung những đạo quân thiện chiến nhất ra đánh, khiến quân Trung Hoa rối loạn sắp bỏ chạy tháo thân. Vua Timuatat đang bối rối chưa có cách nào ngăn được. May sao vừa lúc ấy hoàng tử Calap được tin, vội giao quyền chỉ huy trung quân cho một lão tướng Trung Hoa, rồi tự mình cầm đầu một đội quân tinh nhuệ cấp tốc sang chi viện vua cha. Chẳng bao lâu chiến cục lại thay đổi chiều hướng. Cánh quân trái của người Carim bị tấn công dữ dội, hàng ngũ bắt đầu rối loạn, và cuối cùng bỏ chạy tan tác.
Nhà vua nước Carim quyết tâm hoặc chiến thắng hoặc bỏ mình, đã cố gắng hết sức tập hợp lại quân lính và củng cố trận tuyến. Nhưng vua Timuatat và hoàng tử Calap không để cho ông kịp có thời gian, xua quân bao vây ngay cả bốn mặt. Trong thời gian ấy. Hãn Alinhgơ cũng đã đánh tan được cánh quân bên phải của người Carim.
Vậy là toàn bộ chiến cuộc sắp đến hồi quyết định. Nhà vua nước Carim thấy chỉ còn hai cách để lựa chọn. Hoặc mở một con đường máu thoát ra ngoài vòng vây., chạy đến xin cư trú tại một nước lân bang nào đấy. Nhưng nhà vua này thà chất vì thất trận hơn là đi cầu xin một quốc gia khác trong cảnh thất cơ lỡ vận này. Vua liều mình xông vào những nơi chiến trận đang diễn ra dữ dội nhất, và tiếp tục chiến đấu tả xung hữu đột cho đến khi người bị cả ngàn nhát chém tử thương. Vua gục ngã xuống giữa trận tiền, trên đống xác chết.
Hoàng tử nước Carim cũng chịu chung số phận như cha. Hai mươi vạn quân hoặc bị giết hoặc bị bắt làm tù binh. Phần còn lại tìm đường chạy tháo thân. Quân đội Trung Hoa cũng tổn thất khá nhiều binh sĩ, nhưng trận chiến cho dù rất đẫm máu, thiệt hại khá nặng nề, phần thắng cuối cùng vẫn thuộc về họ. Vua Timuatat tạ ơn trời đất về chiến thắng này, vội phái một võ quan về Bắc Kinh cấp báo, tâu với hoàng đế Trung Hoa rõ cuộc chinh phạt đã thắng lợi. Trong thời gian ấy, ông tiếp tục dẫn quân tiến vào thảo nguyên Zatai, và thừa thắng chiếm đóng kinh đô nước Carim.
NGÀY THỨ TÁM MƯƠI HAI
Vào được kinh thành nước Carim, vua Timuatat cho ban bố cho toàn dân rõ, mình không có ý định chiếm đoạt của cải cũng như tước bỏ tự do của người dân nước này. Thượng đế đã muốn cho vua chiếm được ngai vàng kẻ thù thì ông sẽ phải giữ. Từ nay, vùng Zatai cũng như các nước trước đây vốn là chư hầu thần phục nước Carim, nay bắt buộc phải thừa nhận hoàng tử Calap là quốc vương nước Carim cũng như chua tế tất cả các nước chư hầu.
Người dân Carim, quá mệt mỏi trước sự cai trị của nhà vua vừa qua đời, và hy vọng tân vương Calap sẽ đỡ khắc nghiệt hơn nhà vua trước, đều vui lòng khuất phục. Mọi người đồng thanh tôn vinh chàng hoàng tứ trẻ mà ai nấy đều hiểu rõ tài đức lên làm vua ngư trị đất nước mình. Trong thời gian vị tân vương nước Carim cho ban hành những biện pháp cần thiết để củng cố quyền lực, thì vua Timuatat dẫn một phần quân đội đang dưới quyền chỉ huy của mình nhanh chóng quay về cố quốc. Những người Tarta thuộc bộ tộc Nôgai vẫn một lòng trung thành với vị hãn cũ, đều vui mừng thấy vua Timuatat của mình trở về chiếm lại ngôi báu.
Vua Timuatat không chịu dừng lại ở đấy. Thừa thắng, vua tuyên chiến với người Xiêca để trả thù họ đã phản bội trong liên minh của cuộc chiến trước đây, do hoàng tử Calap trực tiếp chỉ huy tại vùng Giun. Người Xiêca không chịu khuất phục. Họ huy động quân chống trả, nhưng cuối cùng bị quân chiến thắng đánh tan. Vua Timuatat tuyên bố mình đồng thời làm vua cả nước Xiêca. Sau chiến thắng ấy vua dưa quân trở về đến Zaita, thì gặp hoàng hậu Enma và công chúa Tuaranđoc vừa đến nơi. Đích thân hoàng đế Anh Tông đã sai một đạo quân tháp tùng trọng thể hai bà đến kinh đô nước Carim.
Vậy là kết thúc tất cả mọi nỗi bất hạnh của hoàng tử Calap. Với tài năng và đức độ của mình chàng được nhân dân Carim rất quý mến. Chàng làm vua ngự trị đất nước ấy ít lâu sau, công chúa Tuaranđoc sinh hạ thêm một hoàng tử nữa. Hoàng tử thứ hai sau này sẽ lên làm vua nước Carim, bởi con trai đầu của công chúa Tuaranđoc và chàng Calap đã được hoàng đế Anh Tông nuôi dạy và phong làm thái tử từ trước, chuẩn bị làm người kế vị mình lên ngôi báu toàn nước Trung Hoa.
Vua Timuatat và hoàng hậu lui về sống những ngày cuối đời ở kinh đô Astracan. Còn vị hãn người Berla, sau khi nhận lòng biết ơn sâu sắc của mọi người về lòng hào hiệp của hãn, kéo quân về lại lãnh địa bộ tộc của mình.
Bà nhũ mẫu Xutlumêmê của công chúa nước Casơmia kể xong câu chuyện về hoàng tử Calap, liền hỏi những người hầu của công chúa Farucna nghĩ sao về câu chuyện vừa nghe. Tất cả đều đồng thanh cho rằng câu chuyện cực kỳ thú vị, chàng Calap quả là một hoàng tứ tài đức vẹn toàn và một người yêu hoàn hảo. Riêng công chúa Casơmia nói:
- Về phần ta, ta thấy anh chàng ấy kiêu ngạo hơn si tình, phần nào ngớ ngẩn, tóm lại giống y như mọi chàng trai chưa chín chắn. Đối với nhà vua cũ xứ Muxen, cụ Fađala tốt bụng ấy,- nàng vừa nói vừa mỉm cười- phải nhận rằng đấy là một ông chồng yêu đương và chung thuỷ. ông đã không chịu chết ngay như nàng Zemrut mà còn cố sống năm mươi năm nữa sau khi nàng mất để khóc than nàng.
- Nếu vậy thì, thưa công chúa,- bà nhũ mẫu nói- nếu hoàng tử Calap và vua Falala đều chưa đủ thoả mãn sự tinh tế của công chúa, thì nếu được bà cho phép, tôi xin thuật câu chuyện nhà vua xứ Đamat và vị tể tướng của ông, may ra công chúa sẽ hài lòng hơn.

- Ta sẵn lòng nghe,- nàng Farucna đáp- các gia nhân của ta ai cũng thích nghe các câu chuyện của bà, ta không muốn không cho họ được thưởng thức. Quả là nhũ mẫu biết phác hoạ nên những bức chân dung tuyệt vời. Nhưng mẹ Xutlumêmê ạ, mẹ Xutlumêmê thân yêu của ta ơi, cho dù mẹ hết sức cố gắng tô vẽ đàn ông bằng những màu sắc rất đẹp đẽ, các khiếm khuyết của họ vẫn lộ rõ qua các bức chân dung mẹ thực hiện. 
Chương 11: Chuyện quốc vương Bêrêtđin- Lô Lô và tể tuớng Atanmuc biệt danh tể tướng ưu phiền
Bà nhũ mẫu bắt đầu kể tiếp chuyện khác:
Ngày xưa ở thành Đamat có nhà vua, vương hiệu là Bêrêtđin LôLô. Vua có một vị tể tướng tên Antamuc, nghĩa là Quốc Bảo. Sử sách thời ấy chép rằng tể tướng là một người có tài kinh bang tế thế, xứng đáng với danh hiệu của ông. ông phụng sự vương triều cực kỳ tận tuỵ, luôn luôn hết mình lo việc nước, lúc nào cũng hăng say làm nhiệm vụ, lại thêm tài năng lỗi lạc, kiến thức uyên thâm, lại hết sức thanh liêm, nhân dân trong nước ai ai cũng ca ngợi. Nhưng ông lại có biệt danh là Tể tướng ưu phiền, bởi lúc nào vẻ mặt ông cũng phiền não ưu tư. Vẻ mặt ông luôn nghiêm trang, cho dù trong triều đình có xảy ra việc gì buồn cười đến đâu ông cũng chẳng hề nhếch mép, cho dù có ai muốn cù cho ông cười, cũng chẳng làm ông bật ra được một tiếng gọi là vui.
Một hôm, trong lúc nói chuyện riêng với tể tướng, vua cười sảng khoái và kể cho ông nghe một câu chuyện ngộ nghĩnh vừa nghe ai đó nói lại. Tể tướng lắng nghe, thái độ trang nghiêm tới mức vua Bêrêtđin lấy làm phật ý.
- Tể tướng Atanmuc à,- vua nói- tính tình ông lạ thật. ông bao giờ cũng lộ vẻ âu sầu buồn bã. Từ mười năm nay ông làm việc với ta, ta chưa bao giờ nhìn thấy hiện lên trên nét mặt ông một dấu hiệu nhỏ nhặt nào của niềm vui.
Tể tướng đáp:
- Tâu bệ hạ, xin ngài chớ lấy làm ngạc nhiên. Mỗi con người đều có những ưu tư riêng, trên đời chẳng có ai không có chuyện phiền lòng.
- Ông trả lời không đúng,- nhà vua đáp- đâu phải bởi tại ông có một chuyện không vui bí ẩn riêng tư của mình, mà ông cho tất cả mọi người trên đời đều giống ông? ông có thật lòng tin lời ta vừa nói?
- Tâu bệ hạ,- tể tướng Atanmuc nói- thân phận con người trên trần thế đều giống hệt như nhau. Lòng chúng ta chẳng bao giờ được hưởng niềm vui trọn vẹn. Xin bệ hạ hãy tự lấy mình ra suy nghĩ xem, rồi so sánh với những người khác. Tâu bệ hạ, ngài có hoàn toàn thoả mãn về cuộc sống của mình?
Với ta ư?- Vua Bêrêtđin thốt lên.- Với ta thì không. Ta làm sao tự lấy làm thoả mãn mọi bề? Ta lúc nào cũng có kẻ thù rình rập, dòm ngó ở biên cương. Đôi vai ta suốt đời nặng gánh sơn hà. Vì cuộc sống của muôn họ, ta có nghìn điều lo nghĩ hàng ngày, làm sao ta hoàn toàn thanh thản? Nhưng ta tin trong thế giới có vô vàn những người dân thường, cuộc đời họ là những chuỗi ngày lạc thú, chẳng chút gợn đục bởi bất kỳ nỗi đắng cay nào.
NGÀY THỨ TÁM MƯƠI BA
Tể tướng Atanmuc vẫn bảo lưu ý kiến của mình. Quốc vương thấy ông cứ khăng khăng như vậy liền nói :
- Nếu trên đời không ai không có chuyện buồn phiền, ít ra cũng không phải mọi người lúc nào cũng đăm chiêu sầu não. Ta nói thật, ông làm cho ta sinh ra hiếu kỳ, muốn biết rõ điều gì đã khiến cho ông lúc nào cũng buồn bã suy tư như vậy. ông hãy nói cho ta biết, do đâu ông vô cảm trước cái cười, mà cười vui là niềm thích thú lớn nhất trong đời sông.
Tể tướng đáp:
- Tâu bệ hạ, xin tuân lệnh ngài. Tôi sẽ kể chuyện về cuộc đời của tôi, qua đó ngài sẽ thấy rõ đâu là nguyên nhân vẻ âu sầu mà ngài cho là bí ẩn của tôi.
Chương 12: Chuyện tể tướng Atanmuc, biệt danh tể tướng ưu phiền, và nàng công chúa Zê laca Bêgum
Tôi là con trai duy nhất một nhà buôn kim hoàn giàu có ở thành phố Batđa. Cha tôi tên là Côtgia Abđala. Sinh thời cha tôi hết sức chú trọng việc giáo dục tôi. Từ tuổi ấu thơ, tôi đã được cha tôi mời những bậc thầy tài giỏi dạy cho nhiều môn khoa học khác nhau như triết học, luật học, thần học... Đặc biệt cha tôi cho tôi nghiên cứu tất cả các ngôn ngừ đang được dùng ở châu á, với ý định nếu một ngày nào đó tôi muốn đi chu du tại châu lục này, thì những kiến thức ấy sẽ rất có ích cho tôi.
Bản tính tôi thích vui chơi và tiêu pha hoang phí. Cha tôi buồn rầu nhận ra điều đó. Nhiều lần cha tôi trách mắng, cố làm cho tôi thay đổi tính xấu. Nhưng lời dạy bảo khôn ngoan của một người cha có bao giờ để lại ấn tượng gì ở đầu óc một đứa con trai ham phóng đãng Tôi lắng nghe những lời của cha khuyên bảo mà chẳng mấy quan tâm. Tôi còn cho đấy chẳng qua là cái tật của tuổi già. Một hôm, tôi dạo chơi với cha tôi trong vườn nhà, theo lệ thường cha tôi chê trách tính tình ham chơi bời của tôi. Cha tôi nói:
- Hỡi con trai của ta? Ta nhận thấy những lời trách móc của cha cho đến hôm nay chỉ làm con chán tai. Nhưng chẳng bao lâu nữa con sẽ thoát khỏi người cha lắm điều.Thần chết không còn cách xa cha bao nhiêu nữa. Cha sắp đi vào cõi vĩnh hằng, cha sẽ để lại cho con rất nhiều của cải Con hãy chú ý chớ dùng tài sản ấy vào những mục đích không hay. Hay ít ra, nếu con quá hư hỏng đến nỗi làm  tiêu tán hết tài sản ấy một cách điên cuồng, thì rồi con sẽ phải nhờ đến cây cổ thụ mà con nhìn thấy chính giữa vườn  kia. Rồi con nên buộc vào cành cây cổ thụ ấy một sợi dây thòng lọng và tự treo cổ, bằng cách ấy con sẽ ngừa trước cho mình đỡ phải lâm vào những chuyện khốn đốn vẫn luôn luôn bám sát chân sự nghèo khó.
Quả vậy một thời gian sau, cha tôi qua đời. Và đúng như dự kiến của người, sau khi tôi cử hành lễ tang trọng thể cho cụ, và bắt đầu sở hữu tất cả tài sản cụ để lại, tôi mới nhận ra gia tài mình thụ hưởng thật lớn không sao kể xiết. Vậy là tôi nghĩ mình có đủ điều kiện để buông mình vô tội vạ theo bản tính ham vui chơi bời hành lạc. Tôi tăng thêm số lượng gia nhân hầu hạ trong nhà. Tôi lôi kéo đến nơi ở của mình tất cả bọn thanh niên trong thành phố. Tôi mở tiệc đãi đằng tất cả mọi người, ai muốn ăn xin cứ mời đến. Tôi chơi bời trác táng đủ thứ; dần dà mặc dù không để ý tôi xơi mất hết toàn bộ gia sản của cha tôi để lại lúc nào không biết. Ngay lập tức bọn bạn bè lần lượt từ giã tôi, gia  nhân tôi tớ cũng theo chân nhau ra đi. Số phận tôi thay đổi đột ngột làm sao. Tôi thất vọng đến ngã gục, không sao gượng dậy nổi. Lúc này tôi mới nhớ lại, nhưng quá chậm  rồi, những lời nói cuối cùng của cha. Tôi tự bảo:
- Thật đáng thân cho ta lâm vào cảnh ngộ hiện nay. Tại sao ta không chịu nghe theo lời khuyên bảo của phụ thân khi người còn sống? Người hoàn toàn không phải không có lý khi căn dặn ta nên dè sẻn chi tiêu. Chẳng có gì khủng khiếp hơn, buồn phiền hơn khi một con người đột nhiên thấy thiếu thơn mọi bề sau những ngày sống phè phỡn trong giàu sang. Ôi, nếu ta đã coi thường mọi lời khuyên của cha ta, ít nhất ta vẫn không còn nhớ lời cụ dạy nên tự mình kết liễu số phận mình một khi trót lâm vào cảnh khốn cùng. Lúc này ta đã đến cảnh khốn cùng rồi, ta muốn thực hiện lời khuyên rất đúng đắn của phụ thân. Bởi xét đến cùng, cho dù ta có bán ngôi nhà này, tài sản duy nhất còn lại với ta, thì nhiều lắm số tiền bán nhà cũng chỉ đủ nuôi ta thêm vài năm, sau đấy rồi thân ta sẽ ra sao? Đến lúc ấy ta chỉ còn cách ngửa tay ăn mày để kiếm sống hoặc chịu chết đói, đằng nào cũng vậy thôi? Vậy thì tốt hơn là ta tự treo cổ ngay giờ phút này, ít ra như thế cũng đỡ cho đầu óc mình rồi phải giằng xé xót xa nếu ta cứ sống.
Tự bảo như vậy, tôi đi tìm một sợi thừng, bước xuống vườn, đến gần cây cổ thụ mà thân sinh tôi từng chỉ cho thấy Tôi thấy cây cổ thụ này quả thật phù hợp với nhu cầu của tôi lúc này. Tôi vác hai tảng đá to xếp vào dưới gốc cây, trèo lên trên hai tảng đá ấy, tôi vươn tay buộc một đầu sợi .hừng lên cành cây to nhất, còn đầu kia làm một cái nút thông lọng, luồn vào cổ mình. Sau đó, tôi tung người lên không. Cái sợi dây thòng lọng mà tôi đã buộc rất khéo sắp tiết chặt cổ họng tôi, thì cành cây có buộc sợi dây bị gãy đã sức mạnh của tấm thân và cùng rơi xuống đất.
Thoạt tiên tôi cũng buồn, vì mình cố tự vẫn mà không có kết quả. Nhưng nhìn lại cành cây vừa mới gãy xuống đất, tôi chợt ngạc nhiên nhận thấy trong cành cây rỗng vung vãi ra nhiều viên kim cương. Hoá ra cành cây ấy cũng như toàn bộ thân cây đều rỗng ruột. Tôi vội chạy vào nhà tìm một cái rìu, chặt đổ cây cổ thụ, và tìm thấy bên trong bao nhiêu là hồng ngọc, bích ngọc cũng như nhiều ngọc ngà châu báu khác. Vậy là tôi tháo vội ra khỏi cổ mình sợi dây thòng lọng. Từ tuyệt vọng tôi chuyển sang vui sướng khôn chừng.
NGÀY THỨ TÁM MƯƠI TƯ
Giờ đây tôi không sống chạy theo lạc thú và phóng túng như ngày trước nữa, tôi quyết định nối nghiệp cha làm nghề buôn kim hoàn. Tôi cũng có ít nhiều hiểu biết về ngọc ngà châu báu, tin rằng mình có thể làm ăn thành đạt. Tôi tìm liên kết với hai thương nhân cũng chuyên nghề buôn kim hoàn ở thành phố Batđa. Hai người này xưa kia từng là bạn của thân sinh tôi. Họ đang chuẩn bị một chuyến đi buôn xa về mãi thành phố Ormut. Ba chúng tôi cùng nhau về thành phố cảng Basra. ở đấy, chúng tôi chung vốn mua một con tàu rồi lên đường tính chuyện sẽ cập bến ớ cái vịnh cũng mang tên Ormut.
Ba chúng tôi làm ăn rất hợp ý nhau. Con tàu gặp cơn gió thuận nhẹ nhàng lướt sóng. Chúng tôi sống những ngày thích thú trên tàu. Tàu sắp cập bến đúng như mong ước. Lúc này tôi mới nhận ra hai người bạn tôi liên kết không phải là những con người làm ăn đứng đắn như tôi hằng tưởng. Tàu sắp đến gần cái mũi ở đầu vịnh và chuẩn bị cập bến đất liền, điều làm cho mọi người trên tàu rất đỗi vui mừng. Trong niềm vui, chúng tôi không nề hà uống nhiều rượu ngon đã mua trừ sẵn trước khi rời bến cảng Basra. Hơi quá chén, tôi mặc nguyên cả áo quần và ngủ thiếp đi giữa đêm khuya trên chiếc sập.
Trong khi tôi đang thiêm thiếp giấc nồng, thì hai ông bạn liên kết mỗi người túm lấy một tay tôi, ném tung người tôi xuống biển cả qua một cửa sổ nhỏ của khoang tàu. Đáng ra tôi đã bỏ mình giữa biển cả. Cho đến lúc này, tôi vẫn không hiểu vì sao tôi sống sót sau chuyện không may ấy, vì hôm ấy biển động, gió lớn, sóng to. Dường như trời ngăn các ngọn sóng lớn không cho nhấn chìm tôi xuống đáy biển, lại hắt tôi lên mặt đất ở chân một ngọn núi phía bên kia mũi đất nhô ra ngoài vịnh. Tôi dạt lên bờ, người không hề bị thương tích. Tôi nghỉ qua đêm ở đấy và tạ ơn thượng đế đã giải thoát cho khỏi cái chết, ơn tái sinh tôi không bao giờ hết ngợi ca.
Khi trời rạng sáng, tôi vất vả lắm mới leo lên được đỉnh núi, vì sườn núi chỗ này rất hiểm trở. Tôi gặp nhiều người nông dân ở các vùng lân cận, họ đang đến đây khai thác pha lê mang về bán ở thành phố Ormut. Tôi thuật lại cho họ nghe tôi vừa trải qua một tai nạn suýt nữa mất mạng. Họ cũng như tôi đều cho tôi thoát chết là nhờ có chuyện thần kỳ. Những con người tốt bụng ấy thương hại thân phận của tôi, họ chia cho tôi một phần lương thực họ mang theo, gồm cơm nắm trộn lẫn hạt kê. Sau khi khai thác đủ số pha lê cần thiết, họ dẫn tôi cho cùng theo về Ormut, một thành phố lớn.
Tôi tìm đến trọ tại một nhà dành cho du khách lưu trú. Người đầu tiên tôi gặp là một trong hai người bạn thương nhân đã liên kết với mình.
Anh chàng ấy có vẻ ngạc nhiên thấy một người y đã ngỡ làm mồi cho cá rồi bỗng nhiên xuất hiện. Y vội chạy đi tìm người bạn kia bàn bạc cách làm hại tôi. Tôi thấy hai chúng nó thì thầm với nhau, rồi chúng cứ thản nhiên đi vào cái sân nơi tôi đang đứng, phớt lờ làm ra vẻ chẳng biết tôi là ai. Tôi liền bảo chúng:
- Bọn tráo trở kia! Trời không cho các người phản trắc thành công đâu. Cho dù các người dã man đến thế ta vẫn còn sống đây. Các người hãy ngay lập tức giao lại số châu báu của ta cho ta, ta chẳng muốn làm ăn chung với những con người xấu xa độc ác như các người nữa.
Câu nói của tôi không làm chúng bối rối chút nào, ngược lại chúng còn dám cất lời la lớn:
- Thằng kẻ cướp? Thằng khốn nạn! Mày là ai, mày từ đâu đến? Mày nói đến số ngọc ngà đồ đạc nào thuộc sở hữu của mày?
Vừa nói chúng vừa vác gậy phang tôi. Tôi doạ sẽ đến kêu quan chánh án. Nhưng chúng nó đi trước nước cờ của tôi, khi tôi chưa kịp đến toà án. Sau khi chào lạy rất trọng thị, rồi dâng quan chánh án một số viên ngọc chúng mang theo người, có thể đấy là những viên ngọc của chính tôi, chúng thưa với quan chánh án:
- Thưa quan lớn, ngài là đuốc sáng của sự công bằng, ánh sáng của ngài từ trước tới nay vẫn xua đi bóng đen những lời dối trá. Chúng tôi đến đây cầu van sự cứu giúp ở cửa quan. Chúng tôi là những người nước ngoài không nơi nương tựa. Chúng tôi đến từ một xứ rất xa xôi đến đây buôn bán, có lẽ công bằng nào cho phép một tên ăn cướp thoá mạ chúng tôi? Lẽ nào quan lớn cho phép nó được cướp đoạt bằng lời dối trá số của cải mà chúng tôi đã tích cóp được sau bao nhiêu vất vả nhọc nhằn, thậm chí có khi suýt phải trả giá bằng mạng sống của mình?
Quan chánh án hỏi:
- Các ông muốn phàn nàn về người nào?
- Bẩm quan lớn,- chúng đáp- Chúng tôi đâu có biết nó là ai, chúng tôi chưa bao giờ trông thấy nó.
 Vừa lúc ấy tôi bước chân đến toà án. Vừa trông thấy tôi, hai tên ấy kêu toáng lên:
- Bẩm quan lớn, chính hắn kia. Đích thị hắn là tên khốn nạn, tên trộm cướp bất nhân. Thậm chí hắn còn dám vác mặt đến trước mắt quan lớn. Xin quan chánh án công minh, ngài hãy đoái thương bảo vệ chúng tôi.
Đến lượt mình, tôi tiến đến gần quan chánh án định trình bày. Nhưng bởi tôi không có quà cáp nào lót tay quan, cho nên chẳng có cách nào làm cho vị quan toà ấy chịu lắng nghe. Thái độ bình tĩnh và kiên quyết của tôi càng làm cho viên quan cho rằng tôi hỗn láo. Không buồn nói năng thêm, quan ra lệnh cho mấy tên lính tống giam luôn. Trong khi bọn lính gông cổ tôi lại, lấy xiềng sắt xích chân tôi, thì hai tên buôn liên kết với tôi hớn hở trở về. Chúng tin chắc, lần này hẳn phải có một sự thần kỳ mới, may ra mới có thể giúp tôi thoát khỏi bàn tay quan án.
NGÀY THỨ TÁM MƯƠI LĂM
Có lẽ tôi đã không thể nào ra khỏi nhà tù nếu không có một sự kiện xảy ra. Lần này tôi được tai qua nạn khỏi cũng nhờ sự ngẫu nhiên may mắn như lần thoát chết trong vùng vịnh Ormut. Tôi nghĩ đây chắc cũng nhờ trời run rủi để cứu giúp người lành. Những người nông dân đã dẫn tôi về thành phố Ormut, tình cờ hay tin tôi bị tống giam. Đem lòng thương hại, họ cùng nhau đến gặp quan chánh án. Họ thuật lại chuyện đã bắt gặp tôi vừa thoát nạn trên biển như thế nào. Họ kể chi tiết tất cả những gì tôi đã nói cho họ nghe khi gặp nhau trên núi.
Sau khi nghe họ trình bày, viên chánh án sáng mắt ra. ông hối tiếc đã không chịu cho tôi trình bày, và quyết định đi sâu vào vụ việc này. ông sai người đi tìm hai thương nhân trọ tại quán lưu trú. Nhưng chúng không còn ở đấy nữa. Chúng đã vội lên tàu giong buồm ra khơi, biến mất. Mặc dù tôi đã bị quan toà tống giam, chúng vẫn chưa hết lo âu Một sự bỏ đi vội vã như vậy làm quan chánh án tin chắc tôi bị giam giữ bất công. Tôi được trả lại tự do. Và thế là chấm dứt vụ liên kết làm ăn giữa tôi với hai nhà buôn kinh hoàn kia.
Tôi thoát chết ngoài biển, tôi được thả ra khỏi trại giam, đáng ra tôi phải tự cho mình là người vô cùng chịu ơn trời đất Nhưng tình cảnh tôi lúc này có sống cũng chẳng sung sướng gì. Không tiền bạc, không bạn bè, không uy tín, tôi thấy mình đã lâm vào cảnh hoặc phải đi ăn xin hoặc chịu chết đói. Tôi lê chân ra khỏi thành phố Ormut mà chẳng hiểu rồi đây thân phận mình sẽ ra sao. Tôi cứ đưa chân bước về phía đồng cỏ vùng La- đồng cỏ này nằm vào giữa triền núi cao và bờ biển vùng vịnh Ba Tư. Đến cánh đồng, tôi gặp một đoàn lữ hành những thương nhân người Ấn Độ đang chuẩn bị nhổ trại đi tiếp về thành phố Sira. Tôi theo đoàn thương nhân ấy, làm giúp họ những việc lặt vặt dọc đường, nhờ vậy có thể kiếm sống qua ngày. Tôi cùng đoàn về đến thành phố Sira.
Tôi dừng lại ở thành phố này. Hồi bấy giờ đức vua Tamaspơ nước Ba Tư đang đặt kinh đô tại đây.
Một hôm, sau khi cầu nguyện tại đại thánh đường, tôi trở về lại nơi trọ, dọc đường chợt gặp một ông quan của triều đình vua Ba Tư. ông mặc áo quần rất sang trọng, dáng người oai vệ. ông chăm chú nhìn tôi rồi tiến đến gần và hỏi:
- Chàng trai trẻ kia, anh từ nước nào đến? Ta trông anh có vẻ một người nước ngoài, và dường như anh đang không phải là người dư dả lắm.

Tôi đáp tôi từ thành phố Batđa đến. Tình cảnh của tôi hiện nay quả đúng như lời ngài nói. Tiếp đấy tôi kể lại tóm tắt câu chuyện của tôi cho ông nghe. Có vẻ như ông lắng tai chú ý, còn tỏ ra thông cảm với nỗi bất hạnh cửa tôi.
- Anh năm nay bao nhiêu tuổi?- ông hỏi.
- Thưa, tôi mười chín tuổi.- Tôi đáp.
Ông truyền bảo tôi đi theo ông. Rồi ông cất bước, đi thẳng về phía hoàng cung. Tôi vẫn theo ông vào tận trong ấy ông đưa tôi vào một căn hộ khá đẹp và lại hỏi tiếp:
"Tên anh là gì?" .Tôi đáp tôi tên là Haxan. ông ta còn hỏi tôi nhiều câu khác nữa, và đều tỏ ra hài lòng về những câu trả lời của tôi. Lúc này ông mới bảo:
- Cậu Haxan à, ta thương cho nỗi không may của cậu ta muốn coi cậu như một đứa con trai ta. Ta là quan chỉ huy các đội hầu cận đức vua nước Ba Tư ta. Hiện nay đang khuyết một chân hầu trong phòng riêng của vua. Ta định chọn cậu vào chân làm công việc ấy. Trông cậu đẹp trai, trẻ tuổi và có giáo dục, ta cho như vậy là được. Hiện chưa tìm được một tên hầu cận nào mặt mũi sáng sủa khôi ngô hơn cậu.
Tôi cảm tạ vị quan chỉ huy các đội hầu cận (Nguyên bản là capi-aga. ) về tấm lòng nhân hậu của ông. ông sai người mang cho tôi một bộ đồng phục người hầu cận. ông dạy tôi cách thực hành nhiệm vụ. Tôi làm bắt chước làm theo một cách tốt đẹp, chẳng bao lâu được cảm tình của viên quản trực tiếp đội của tôi, tức là đội hầu hạ ở phòng riêng nhà vua(zulilzi. Hầu cận mỗi đội có một tên riêng. Tất cả có mười hai đội.).
Theo luật pháp ở đây, cấm tất cả những người hầu cận mười hai phòng trong cung .của vua, cũng như cấm tất cả các võ quan và lính tráng thuộc đội cấm vệ trong cung, ban đêm sau một giờ đã định, không được lai vãng trong các vườn ngư uyển. Ai không tuân sẽ bị tội chết, bởi thỉnh thoảng các bà hoàng hậu và công chúa dạo chơi trong vườn. Một đêm, tôi thơ thẩn trong vườn một mình, mải mê suy nghĩ về những nỗi bất hạnh của cuộc đời. Chắc quá chìm đắm trong trầm tư, tôi không để ý đã qua giờ quy định buộc đàn ông phải ra hết khỏi vườn. Bừng tỉnh, tôi giật mình nghĩ lúc này còn có thể kịp ra khỏi vườn, tôi vội vã quay trở về nơi ở của mình, chợt gặp một phu nhân xuất hiện đột ngột trước mặt tôi ở một khúc đường rẽ. Phu nhân có vẻ duyên dáng và đường bệ, mặc dù đêm tối tôi vẫn có thể nhận ra nàng còn trẻ và rất xinh. Nàng hỏi tôi:
- Cậu đi nhanh thế. Có việc gì buộc cậu phải chạy vội chạy vàng như vậy?
- Tôi có lý do để vội vàng,- tôi đáp.- Nếu bà là người trong hoàng cung, hẳn bà phải biết tại sao tôi hối hả. Hẳn bà hẳn rõ cấm đàn ông có mặt trong các khu vườn ngư uyển ban đêm, sau một giờ nào đó, ai trái lệnh phải tội chết.
- Bây giờ thì cũng hơi quá chậm cho anh kịp ra khỏi vườn rồi đấy,- người phụ nữ ấy lại nói- giờ quy định qua đã lâu rồi. Nhưng anh hãy cảm ơn ngôi sao chiếu mệnh anh, nếu không anh đã không may mắn được gặp ta.
- Khốn khổ thân tôi!- Tôi kêu lên không quan tâm đến bất kỳ điều gì khác hơn lo sợ mình mất mạng.- Tại sao tôi lại lãng quên giờ giấc, để đến nỗi muộn màng thế này?
- Anh chớ có buồn,- người đàn bà ấy lại nói.- Anh buồn rầu là xúc phạm đến ta đấy. Anh không thấy được gặp ta đủ là niềm an ủi cho điều bất hạnh của anh rồi sao? Anh hãy nhìn kỹ ta đây, ta đâu phải là người không xinh đẹp, ta mới mười tám tuổi, và về khuôn mặt thì ta tự cho mình cũng dễ coi.
- Thưa phu nhân xinh đẹp,- tôi đáp- cho dù đêm tối, mắt tôi không nhìn được tường tận mọi vẻ đẹp của bà, tôi vẫn thấy những nét duyên dáng làm tôi say mê. Nhưng, xin bà hãy đặt mình vào tình cảnh của tôi lúc này, bà hẳn thấy tình cảnh ấy lúc này cũng đáng buồn lắm chứ.
- Quả thật nỗi nguy ấy, anh tự hình dung nên thôi, nó chẳng bao giờ có trong đầu óc những con người vui vẻ, nàng đáp - Anh không bị mất mạng đâu, như anh tưởng. Đức vua ta là một đấng quân vương vô cùng đại lượng, người có thể tha tội cho anh.
- Thưa bà, bà là ai? Tôi lại hỏi.- Tôi là một viên hầu cận trong cung đức vua.
- À, ra thế ư!- Nàng ngắt lời tôi- Chỉ là một viên hầu cận, mà anh suy tư như vậy là hơi quá xa xôi rồi đấy. Đến vị đại tể tướng triều đình nước Ba Tư ta cũng không suy tư việc nước nhiều hơn anh. Này, anh hãy tin lời ta, hôm nay chớ nên quá lo sợ về điều sẽ xảy ra ngày mai. Con người làm sao ai biết được ngày mai rồi sẽ xảy ra chuyện gì. Chỉ có trời mới biết chuyện ấy. Có thể trời đã chuẩn bị cho anh một con đường thoát cơn bối rối này rồi đó. Vậy, anh hãy để mọi sự lại đấy cho tương lai, giờ chỉ nên quan tâm đến hiện tại. Nếu anh biết rõ ta là ai, nếu anh biết sự gặp gỡ này làm cho anh vinh dự đến đâu, thì không nên quá lo âu bởi những suy nghĩ không đâu, mà hãy nên tự coi mình là người đàn ông hạnh phúc nhất thế gian.
Tóm lại, người phụ nữ ấy nói năng khéo léo đến mức làm tan biến luôn nỗi lo sợ đang day dứt trong lòng tôi. Tôi quên bẵng đi hình phạt đang đe doạ mình. Lúc này. tôi chỉ còn nghĩ tới cơ hội đẹp vừa xuất hiện trước mắt. Tôi nồng nhiệt bước tới ôm hôn người phụ nữ. Nhưng, hoàn toàn đã không sẵn sàng cho tôi bày tỏ sự ấu yếm, nàng còn đẩy mạnh tôi ra và thét lên một tiếng hoảng hốt. Ngay lập tức, xuất hiện quanh tôi khoảng mươi, mười hai người phụ nữ vừa nấp ở đâu đấy để nghe câu chuyện giữa hai chúng tôi.
NGÀY THỨ TÁM MƯƠI SÁU
Chẳng khó khăn gì tôi nhận ra ngay người phụ nữ vừa nói chuyện đã đùa cợt tôi. Tôi đoán đấy là một cung nhân của công chúa nước Ba Tư. Hẳn cô ta muốn đùa nghịch cho vui nên đã đóng vai cô gái phiêu lãng như vừa rồi. Tất cả các phụ nữ vừa vội vàng chạy đến khi nghe người ấy kêu, đều phá ra cười lớn và bảo nàng hơi quá nhát gan đấy. Một người nói:
- Calê Cairi, từ nay cô có còn muốn thích bày ra những chuyện giải trí thế nữa hay không?
- Không từ nay thì thôi, xin chừa- nàng Calê Cairi đáp.- Việc ấy sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Sự hiếu kỳ của tôi đã khiến cho tôi bị một vố lo sợ phát khiếp rồi. Các cung nữ tiếp tục vây quanh tôi và trêu cợt tôi. Một cô nói:
- Anh chàng hầu cận này hơi hăng máu quá đấy, anh ta hẳn là con người sinh ra cho những cuộc phiêu lưu tình ái.
Một cô khác lại nói:
- Nếu mai sau có bao giờ tôi đi dạo chơi một mình trong đêm tối, tôi không mong gặp một anh chàng ngố hơn anh này.
Cho dù chỉ là một tên hầu cận, tôi rất bực mình về những câu đùa của họ. Họ vừa đùa cợt vừa phá ra cười với nhau. Nếu họ trêu tôi sao đã quá nhút nhát, có lẽ tôi không đến nỗi thấy xấu hổ hơn.
Bọn họ cũng đùa cợt luôn về cái thời điểm tất cả đàn ông phải ra khỏi vườn ngư uyển, cái thời điểm giờ đây tôi để nhỡ mất rồi. Các cô nói, thật đáng tiếc nếu tôi mất mạng; anh chàng này đáng được cứu sống lắm, bởi anh ta sẵn sàng phục vụ các bà nồng nhiệt đến thế cơ mà. Lúc này, tôi nghe cô gái được gọi là Calê-cairi nói với một người phụ nữ khác:
- Thưa công chúa, bà là người quyết định số phận của anh chàng này. Bà muốn chúng ta để mặc anh chàng lại đây hay là nên cứu anh ta khỏi tội chết?
Công chúa đáp:
- Phải giúp anh chàng thoát khỏi nỗi nguy. Cho anh ta được sống. Ta đồng ý. Hơn nữa, để cho anh ta nhớ đời về câu chuyện hôm nay, khiến cho buổi tối càng thích thú hơn nữa đối với anh. Hãy cho anh ta vào trong cung riêng của ta. Cho đến bây giờ chưa từng có một người đàn ông nào dám khoe đã được nhìn thấy tận mắt cung điện ấy.
Hai cung nữ vội đi tìm mang đến cho tôi một chiếc áo ngoài phụ nữ. Tôi mặc vào, rồi trà trộn vào đám cung nữ theo hầu nàng công chúa, tôi được vào tận cung riêng của nàng. Trong cung rực rỡ bởi ánh sáng thơm lừng của rất nhiều ngọn nến đang cháy. Tôi thấy cung phòng này cũng sang trọng không kém cung của chính nhà vua; nhìn vào đâu cũng thấy đồ đạc toàn là vàng và bạc lấp la lấp lánh.
Vào trong phòng của nàng công chúa nước Ba Tư- danh hiệu của nàng là Zêlica Bêgum- tôi nhìn thấy chính giữa phòng, trên một tấm thảm trải sàn, có đặt sẵn khoảng mười lăm, hai mươi chiếc đệm vuông phủ gấm thêu, xếp thành hình tròn. Tất cả các phụ nữ có mặt lúc ấy đến ngồi lên, mỗi người trên một chiếc đệm. Họ bảo tôi hãy ngồi lên một cái đệm giống như họ. Tiếp đó, công chúa gọi mang nước giải khát đến. Vừa gọi xong, đã thấy sáu cung nhân cao tuổi, trang phục không được sang trọng bằng những nàng đang ngồi trên gối kia, xuất hiện nhanh chóng. Họ mời chúng tôi uống giải khát và dùng thức ăn nhẹ . Chính giữa có một cái liễn lớn đựng thức ăn cùng nhiều thứ khác nữa. Rồi một người hầu đưa cho công chúa một cái muôi hình mỏ vịt. Công chúa dùng cái muôi lấy thức ăn cho vào miệng, xong chuyền cái muôi cho cung nữ ngồi bên canh. Cứ thế mọi người lần lượt cầm cái muôi chung lấy thức ăn, và dùng các thứ cho đến khi xong bữa. Lúc này, các cung nhân hầu bàn lại mang đến cho mọi người nước uống đựng trong những cái ly bằng pha lê( Nguyên tắc mô tả các món ăn Ba Tư rất phức tạp. Chúng tôi xin phép lượt dịch (PQ)). .
Sau bữa ăn chuyện trò chở nên rôm rả hơn, như thể chúng tôi vừa uống rượu nho hay rượu cất từ quả chà là.
Nàng Calê Cairi, không biết có phải do ngẫu nhiên không, ngồi đối diện với tôi, thỉnh thoảng lại nhìn tôi mỉm cười. Hình như qua nụ cười, nàng muốn làm cho tôi hiểu nàng đã tha thứ cho cử chỉ hơi quá đáng của tôi khi còn ở ngoài Vườn. Vế phần mình, thỉnh thoảng tôi cũng ngước mắt nhìn trộm nàng. Nhưng tôi vội vàng cúi mặt xuống ngay khi nhận ra nàng đang nhìn lại. Thái độ tôi lúc này rất bối rối cho dù tôi đã cố gắng hết sức để không lộ ra mặt và qua cử chỉ, nàng công chúa cũng như các cung nữ đều nhận thấy vẻ lúng túng của tôi, họ cố gắng động viên tôi cứ bạo dạn hơn. Công chúa Zêlica hỏi tên tôi là gì, tôi được tuyển vào làm hầu cận trong phòng riêng của đức vua từ bao giờ.
Sau khi nghe tôi đáp, công chúa nói:
- Cậu Haxan à, cậu hãy tự nhiên hơn chút nữa. Cậu hãy quên đi cậu đang ở trong một ngôi nhà nghiêm cấm đàn ông được đặt chân vào. Cậu hãy quên đi, ta là công chúa Zêlica. Cậu cứ nói chuyện với chúng ta như thể đây là các cô gái dân thường trong thành phố Sria cậu vẫn gặp. Cậu hãy nhìn kỳ vào mặt các cô gái trẻ ở đây, hãy nhìn cho kỹ vào, rồi cậu thẳng thắn nói ta nghe, cậu thích cô nào trong số này hơn cả.
NGÀY THỨ TÁM MƯƠI BẢY
Câu nói của nàng công chúa nước Ba Tư không những không làm cho tôi yên tâm hơn như nàng nghĩ, mà chỉ càng làm tăng sự phân vân. Công chúa nói:
- Ta thấy rõ, cậu Haxan à, ta đòi hỏi ở cậu một điều hơi khó khăn dấy. Chắc hẳn cậu sợ khi nói ra cậu chuộng một người này hay một người khác sẽ làm phiền lòng những người còn lại. Chớ nên lo sợ, không có gì trở ngại đâu. Các cung nhân của ta đều đoàn kết với nhau mọi người như một, cậu chẳng lo làm họ mếch lòng đâu. Vậy cậu hãy nhìn kỹ tất cả mọi người ở đây, rồi cậu nói ta hay cậu sẽ chọn ai làm người tình nếu cậu được phép lựa chọn.
Mặc dù tất cả các cung nhân của công chúa Zêlica đều hoàn toàn xinh đẹp ai cũng như ai, và chắc nàng công chúa muốn tôi coi nàng là người đẹp nhất, nhưng trái tim tôi lại nghiêng về vẻ đẹp của Calê-cairi. Tuy nhiên tôi giấu tình cảm ấy có thể làm xúc phạm nàng công chúa. Tôi thưa với công chúa, không ai dám xếp nàng ngang với những người ở đây, bởi công chúa là người xinh đẹp tuyệt trần, chẳng ai sánh bằng, bất kỳ nàng xuất hiện ở đâu, mọi người đều chỉ biết đưa mắt ngắm nhìn mỗi một nàng mà thôi. Tôi vừa nói ra những lời ấy vừa không thể không đưa mắt nhìn nàng Calê-cairi, để cho nàng hiểu chẳng qua tôi nịnh nàng công chúa cho nên phải nói những lời khéo vậy. Công chúa Zêlica công nhận ra điều đó. Nàng bảo tôi:
- Cậu Naxan à, cậu là người khéo nịnh đấy. Ta muốn cậu chân thành hơn kia. Ta tin chắc cậu chưa nói lên đúng điều cậu suy nghĩ. Giờ cậu hãy làm hài lòng ta. Cậu hãy bộc lộ cho chúng ta thấy rõ trái tim thật của cậu. Tất cả các cung nhân của ta ở đây ai cũng muốn yêu cầu cậu như vậy, và cậu nói thật ra sẽ làm cho tất cả mọi người rất thích thú.
Quả như lời công chúa nói, tất cả các cung nhân đều hối thúc tôi làm việc ấy. Nhất là nàng Calê Cairi, là người thúc giục tôi hơn cả, như thể nàng đã đoán trước nàng sẽ là người tôi lựa chọn. Tôi đành phải tuân theo những lời khẩn khoản của mọi người. Cố vượt lên sự nhút nhát, tôi thưa với công chúa Zêlica:
- Tâu công chúa, giờ tôi xin phép được làm hài lòng công chúa. Thật hết sức khó khăn nói ai là giai nhân xinh đẹp nhất trong các vị có mặt tại đây. Mỗi vị đều có một vẻ đẹp riêng tuyệt vời. Nhưng lòng tôi nghiêng về nàng Calê- Cairi, mà tôi nghĩ là khả ái hơn cả.
Tôi nói xong tất cả các cung nhân đều phá ra cười rất vui vẻ, trên mặt ai chẳng hề lộ vẻ phiền lòng. Họ có phải đàn bà hay không nhỉ? Tôi tự hỏi. Công chúa Zêlica chẳng tỏ ra bị xúc phạm bởi lời nhận xét thẳng thắn của tôi. Nàng nói:
- Ta rất hài lòng, cậu Haxan à, cậu đã lựa chọn nàng Calê Cairi là người khả ái nhất. Đây là cô cung nữ tâm phúc nhất của ta đấy. Như vậy chứng tỏ cậu không phải là người không có khiếu thẩm mỹ. Cậu chưa hiểu hết tất cả giái trị của con người cậu vừa chọn đâu. Cậu cho tất cả chúng ta ở đây đều xinh đẹp, nhưng tất cả chúng ta đều thật lòng thú nhận, không một ai sánh bằng cô Calê Cairi đâu.
Tiếp đó công chúa cùng các cung nhân lại quay sang trêu nàng Calê-Cairi về thành công do sắc đẹp của nàng vừa mang lại. Nàng đối đáp cũng khá thông minh. Tiếp đó công chúa Zêlica gọi mang ra một cây đàn tì bà đặt vào tay nàng Calê-Cairi và bảo:
-         Giờ em hãy chứng tỏ cho người tình của em thấy em đàn hay hát giỏi như thế nào.
Cô cung nhân tâm phúc của công chúa so dây đàn rồi chơi một khúc nhạc với phong thái làm tôi rất thich thú. Nàng vừa đàn vừa hát. Nghĩa của lời ca là: “Khi người ta đã chọn được một người để yêu, thì phải yêu người ấy đến trọn đời”. Vừa hát, thỉnh thoảng nàng lại đưa mắt nhìn tôi trìu mến, đến nỗi tôi quên khuấy mất địa vị mình là ai, tôi quỳ xuống dưới chân nàng, lòng tràn trề yêu đương và thích thú. Hành động của tôi làm  cho mọi người một lần nữa phá ra cười vui vẻ. Mọi người vui chơi thoải mái cho đến khi một cung nhân già đến báo, trời sắp sáng rồi, nếu mọi người muốn cho tôi được ra ngoài cung chỉ dành riêng cho các bà phụ nữ trước khi trời sáng hẳn, thì không được để mất thời giờ.
Lúc này công chúa Zêla cũng như tất cả các cung nhân đều muốn đi nghỉ. Công chúa bảo tôi cứ theo người cung nữ già mà đi. Bà dẫn tôi đi qua nhiều hành lang ngoắt ngoéo, quật trái quật phải nhiều lần rồi đến một cái cửa nhỏ. Bà lây chìa khoá mở cửa cho tôi ra. Đến khi trời rạng sáng, tôi nhận ra mình đang ở bên ngoài tường thành bao quanh hoàng cung.
NGÀY THỨ TÁM MƯƠI CHÍN
Công chúa Zêlica nói tiếp với tôi:
- Đấy, Haxan à, anh nhìn thấy trước mắt anh cô Calê Cairi thật. Giờ đây ta giả lại cho cô ấy tên của cô và ta lấy lại tên của ta. Ta không muốn cải trang lâu hơn nữa, cũng không muốn che giấu anh tầm quan trọng của hạnh phúc vừa đạt được; để anh thấy tất cả niềm quang vinh khi chiếm đoạt được trái tim một công chúa. Bới anh đặt tình yêu hơn mọi vinh hoa phú quý, ta tin anh sẽ đặc biệt vui thích hơn nữa khi biết rõ một nàng công chúa đã yêu anh.
Tôi vội thưa với công chúa Zêlica, tôi không sao hình dung được hạnh phúc tột cùng của mình. Tôi không hiểu do đâu từ đỉnh cao danh vọng nàng hạ cố cúi xuống tận tôi, và nâng tôi từ chỗ thấp tận cùng lên và ban cho một số phận xứng đáng được các vị quân vương vĩ đại nhất trên đời này ham muốn. Tóm lại, vừa ngạc nhiên vừa thảng thốt vừa sung sướng, tôi còn định tuôn ra nhiều lời dài dòng nữa để bày tỏ lòng biết ơn, thì nàng vội ngắt:
- Anh Haxan à, anh chớ ngạc nhiên điều ta xử sự như vậy với anh. Đối với những người đàn bà trong cung cấm, sự cao sang chẳng có nghĩa lý gì. Chúng ta chẳng ngại ngùng nghe theo tiếng nói của trái tim. Anh khả ái, anh làm hài lòng ta, chừng ấy thôi đủ xứng đáng với điều ta ban cho anh.
Gần suốt đêm hôm ấy nàng và tôi cùng nhau đi dạo trong vườn ngự uyển và chuyện trò thân mật với nhau. Dễ thường chúng tôi vẫn say sưa trò chuyện và để mặt trời lên hai người bị bắt chợt dạo chơi trong vườn, nếu không có cung nữ Calê Cairi luôn theo sát đằng sau, đã để ý thời gian và báo cho chúng tôi biết đến lúc cần ra về. Vậy là chia tay nhau. Trước khi quay gót vào cung, công chúa Zêlica còn nói với tôi: - Tạm biệt, chàng Haxan à. Chàng hãy luôn nghĩ đến em, chúng ta sẽ còn có dịp gặp nhau. Em hứa chẳng bao lâu nữa sẽ có cách bày tỏ cho chàng biết em quý mến chàng đến đâu.

Tôi quỳ xuống trước nàng, cảm tạ một lời hứa thật đáng vui mừng. Sau đó, tôi theo nàng Calê Cairi đi qua những lối quanh co khúc khuỷu như đêm hôm nọ, rồi nàng mở cửa cho tôi ra bên ngoài tường thành của hoàng cung.
Được nàng công chúa cao sang nhất mà mình đang yêu dấu đáp lại tình yêu, và tin vào điều mà nàng vừa hứa, ngày hôm ấy và mấy ngày tiếp sau nữa, người tôi luôn luôn trong tình trạng lâng lâng sảng khoái. Lúc này chính là lúc có thể khẳng định đúng: trên đời có một con người hạnh phúc, ngoại trừ chút náo nức muốn được mau chóng gặp lại nàng Zêlica. Tóm lại, vào lúc tôi đang ở trong tâm trạng hạnh phúc nhất của một người đang yêu và sắp đạt đến đỉnh cao ước vọng của mình, chợt một sự kiện bất ngờ xảy ra làm cho tôi hoàn toàn mất hết hy vọng. Tôi được tin công chúa Zêlica ốm nặng. Và chỉ hai ngày sau đó, loan truyền sắp hoàng cung tin công chúa vừa qua đời. Tôi không sao tin được điều xảy ra, nếu không thấy mọi người trong hoàng cung đều đang chuẩn bị lễ tang. Nhưng hỡi ôi, tự mắt tôi chứng kiến tang lễ đang diễn ra với tất cả mọi  chuyện đau buồn trong ấy.
Tất cả các viên hầu cận phục vụ ở mười hai phòng trong hoàng cung được lệnh xếp hàng đi trước tiên, anh nào cũng ở trần từ đầu cho đến thắt lưng. Những người này thì cào cấu cánh tay để bày tỏ nỗi đau, những người khác thì thích lên người mình nhiều dòng chữ tỏ lòng thương tiếc. Đây quả là cơ hội tuyệt vời cho tôi bày tỏ sự nuối tiếc chân thành nhất, hay đúng hơn là nỗi tuyệt vọng của mình. Tôi cào cấu nát thân thể, người tôi chảy máu ròng ròng. Tiếp sau chúng tôi là các sĩ quan bước đi chậm rãi và nghiêm trang. Mỗi người đeo những dải giấy dài mua tận Trung Hoa gắn vào khăn đội đầu và rũ xuống gần sát đất. Trên giấy viết nhiều đoạn trích dẫn Kinh Cô ran, hoặc những vần thơ ngợi ca công chúa Zêlica. Họ vừa tiễn đưa vừa ngâm nga những vần thơ ấy một cách buồn bã và kính trọng. Sau họ là linh cữu công chúa làm bằng gỗ trầm hương, . đặt lên một chiếc kiệu bằng ngà voi do mười hai quan chức quan trọng mang trên vai. Hai mươi vị hoàng tứ họ hàng của đức vua Tamaspơ, mỗi người nắm đầu một sợi dây buộc vào quan tài. Sau đó tất cả các cung nữ trong hoàng cung đưa tiễn. Họ vừa đi vừa khóc than thảm thiết. Khi thi hài nàng công chúa đã được rước vào chính giữa lăng mộ, mọi người đồng thanh hô lên: La tinh illha Allah ( Có nghĩa: Chỉ có một Đấng Thượng đế duy nhất trên đời.) .     Tôi không thể chứng kiến phần còn lại của lễ tang. Vì quá đau đớn và mất quá nhiều máu, tôi ngất đi tại chỗ hồi lâu Một sĩ quan vội vàng ra lệnh cho đưa tôi trở về phòng riêng. Mọi người chăm sóc tôi, dùng một loại cao thơm rất đặc biệt xát lên thân mình. Thế là chỉ sau hai ngày, tôi hoàn toàn bình phục sức khoẻ, tuy nhiên nỗi nhớ nàng công chúa làm cho tôi trở thành một người gần như mất trí. Lúc nào tôi cũng nói với mình: "ôi hỡi nàng Zêlica! Thì ra bằng cách từ giã cõi trần, nàng tự giải thoát cho mình khỏi lời đã hứa với tôi? Phải chăng đấy là một dấu hiệu nữa của tình yêu nàng muốn bày tỏ?".
Không thể nào khuây khoả nếu cứ lưu lại thành phố Siara, bây giờ thành .phố này đã trở thành một nơi tôi sao không sao chịu đựng nổi nữa. Ba hôm sau lễ tang công chúa Zêlica, tôi bí mật trốn ra khỏi hoàng cung nước Ba Tư.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI
Luôn luôn bị ám ảnh vì nỗi đau xé ruột của mình, suốt đêm hôm ấy tôi bước chân đi mà chẳng hiểu mình đi đến đâu. Sáng sớm hôm sau, dừng lại để nghỉ ngơi chốc lát, tôi nhìn thấy ở gần đó có một anh chàng trẻ tuổi ăn mặc khá dị thường. Chàng ta tiến đến gần tôi, tặng tôi một cành lá non đang cầm trên tay rồi rất lịch sự khẩn khoản mời tôi nhận. Sau đấy, anh chàng đọc những vần thơ Ba Tư ngỏ ý xin tôi làm phúc. Vì trong người tôi lúc này chẳng có đồng nào, tôi không có gì cho anh, anh chàng lại đọc những vần thơ bằng tiếng A Rập. Thấy tôi vẫn không cho đồng tiền nào như anh chờ đợi, anh chàng nói với tôi:
-         Người anh em à, tôi không thể tin anh thiếu lòng bác ái, tôi nghĩ hẳn anh không có cách thực hành đấy thôi.
-         Anh nghĩ hoàn toàn đúng – tôi đáp – anh nhìn đây, túi tôi không có một đồng xu nhỏ, và hiện tôi chưa biết làm thế nào đây.
Anh chàng kêu lên:
-         Ồ, khốn khổ cho người anh em, hoàn cảnh của anh mới tội nghiệp làm sao. Tôi thương hại anh, tôi muốn cứu giúp anh.
Tôi khác ngạc nhiên nghe một con người vừa ngửa tay xin mình của bố thí lại nói chuyện muốn cứu giúp mình. Tôi nghĩ sự cứu giúp anh nói đến đây chẳng qua là những lời cầu nguyện hoặc những lời chúc tốt lành, song anh chàng đã nói tiếp:
-         Tôi là một trong những tu sĩ người ta vẫn gọi là fakia (Những người chuyên làm nghê phù phép của Ấn độ). Cho dù chúng tôi sống nhờ của bố thí, chúng tôi chẳng phải không sung túc đâu. Bởi chúng tôi biết cách gợi lên lòng thương xót của người khác với dáng điệu làm ra vẻ buồn rầu và mộ đạo. Đúng là cũng có những vị fakia sống nội tâm rất giản dị, đúng hệt như trang phục bên ngoài của họ. Các vị ấy sống cuộc đời khắc khổ, có khi suốt mười ngày ròng chẳng ăn một miếng. Nhưng cánh này thì chẳng phải giữ gìn khắt khe như họ. Cánh này chẳng thiết đi vào thực chất đạo đức như họ. Chúng tôi chỉ cần giữ đúng bộ dạng đạo đức bên ngoài. Vậy anh có muốn trở thành một đồng nghiệp của chúng tôi không? Tôi vừa tuyển mộ được hai anh chàng ở thành phố Bost đồng ý theo nếu anh nhận lời làm người fakia thứ tư, thì chỉ việc đi theo tôi.
-         Tôi không quen làm công việc tu hành như  các anh – tôi đáp – tôi e rồi chẳng đâu vào đâu.
-         Anh quá lo xa – anh chàng ngắt lời tôi, và nói tiếp – chẳng có khó khăn gì việc tu hành của chúng tôi. Như tôi vừa nói, cánh này chẳng phải những bậc fakia thật sự, tóm lại, chúng tôi chỉ ăn vận áo quần của fakia thôi.
Cho dù anh chàng fakia ấy như đã hứa, giới thiệu với tôi y và hai anh đồng nghiệp y đều sống phóng đãng, tôi vẫn không từ chối kết bạn với họ. Trước hết bởi tôi đang trong tình cảnh thảm thương, hơn nữa, khi còn làm việc hầu cận cho nhà vua, cũng chẳng ai ngăn cấm tôi trong việc kết giao bè bạn. Tôi vừa ngỏ lời tôi chấp nhận điều anh gợi ý, anh chàng fakia dẫn tôi đi luôn về Bost, dọc đường vừa đi vừa xin ăn. Mỗi khi chúng tôi đi qua các thị trấn và làng mạc, dân chúng tự mang ra cho nào quả chà là, nào cơm bánh cùng nhiều loại thức ăn khác nữa. Hễ bắt đầu nghe tiếng lục lạc những người fakia rung lên cùng với tiếng ngỏ lời xin chúng sinh làm phúc, thì những người ngoan đạo vội mang nhiều thức ăn đến dâng các thầy.
Bằng cách kiếm sống ấy, chúng tôi ung dung tới được thành phố Bost. Hai chúng tôi đến một ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô, ở đấy đã có hai anh chàng fakia kia đang ở. Họ rộng mở đôi tay nồng nhiệt đón chúng tôi, ai nấy tỏ ra thích thú về việc tôi quyết định sẽ chia xẻ lối sống cùng với họ. Họ bắt đầu dạy tôi vài đường  về các bí quyết của họ, nghĩa là cách làm bộ làm tịch sao cho người ta kính trọng và thương hại. Khi tôi đã thành thạo trong nghệ thuật lừa dối dân chúng, họ cho tôi mặc trang phục y như họ, và ép tôi đi vào các phố đưa những bông hoa hoặc cành lá tươi tặng những người trung hậu, rồi đọc đôi vần thơ và xin của làm phúc. Lần nào, sau mỗi ngày trở về ngôi nhà chung tôi cũng có ít nhiều đồng bạc, nhờ vậy chúng tôi vẫn có thứ chè chén ngon lành.
Hồi ấy tôi còn quá trẻ, và bản chất tôi vốn thích chè chén vui chơi, tôi không có cách nào ngăn mình không làm theo gương xấu của những anh chàng fakia ấy, và thế là bất giác dần dần tôi quên đi hình ảnh nàng công chúa nước Ba Tư. Thật ra thỉnh thoảng hình ảnh của nàng cũng có hiện lên trong đầu óc tôi, khiến tôi buông ra đôi tiếng thở dài. Nhưng đã không nuo6i dưỡng những ký ức buồn thương ấy, tôi lại còn tìm cách huỷ hoại chúng đi. Thỉnh thoảng tôi tự bảo mình “Tại sao cứ nghĩ đến Zêlica, trong khi Zêlica không còn nữa? Cho dù ta có than khóc nàng suốt đời, thì những lời than khóc của ta phỏng được ích gì?”
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI MỐT
Tôi sống gần hai năm với các anh chàng fakia ấy. Và có lẽ tôi đã còn ở lâu hơn nữa nơi ấy cùng với họ nếu anh chàng đã lôi kéo tôi vào cái nghề này, người tôi thích nhất trong tất cả bọn, không gợi ý với tôi nên đi đó đi đây vài chuyến. Một hôm anh chàng bảo tôi: 
-         Haxan à, tớ bắt đầu chán cái thành phố này, tớ đang muốn rong ruổi khắp đất nước. Tớ nghe nói ở thành phố Canđaha có nhiều điều thú vị lắm. Nếu cậu thích thì hẵng đi cùng tớ, rồi chúng ta sẽ tự mắt thấy người ta đồn đại có đúng hay không.
Tôi đồng ý, phần bởi tò mò muốn được nhìn những xứ sở mới, hay nói cho đúng hơn, có lẽ bởi tôi bị lôi cuốn bởi một sức mạnh thần bí nào đấy vẫn xui khiến chúng ta làm mọi việc trên đời.
Vậy là hai chúng tôi giã từ thành phố Bost và lên đường. Sau khi đi qua nhiều thành phố và thị trấn thuộc nước Segestan mà không dừng lại, cuối cùng tôi đến được thành phố Canđaha đẹp đẽ, chung quanh bao bọc bởi những tường thành rất vững chắc. Chúng tôi vào trọ tại một nhà dàng cho khách lưu trú. Mọi người đón tiếp chúng tôi khá thân hậu, nhờ ở bộ áo quần chúng tôi mặc, đấy là tất cả những thứ làm cho chúng tôi trở thành người sáng giá.
Khi vừa đến nơi, chúng tôi thấy quang cảnh dân chúng thành phố đang rất nhộn nhịp, bởi vì ngày hôm sau sè là dịp khánh chúc kỷ niệm ngày nhà vua đăng quang. Chúng tôi cũng được biết ngay mọi người trong triều đình thời gian này cũng hết sức bận rộn. Các vị đại thần ai cũng muốn bày tỏ lòng nhiệt thành của mình đối với quốc vương Firousat, mà mọi người đều tôn quý bởi sự anh minh của người, hơn là sợ hãi trước luật pháp khắt khe ngài trị nước.
Với bộ trang phục fakia thì đi đến đâu chẳng được, chẳng ai ngăn cấm các fakia bao giờ. Ngày hôm sau hai chúng tôi vào tận trong triều đình để xem hội. Quả thực, ai chưa từng xem hội mừng ngày đăng quang của nhà vua Ba Tư thì thật đáng nên xem lắm. Trong khi hai chúng tôi mải mê nhìn cảnh hội hè, tôi thấy có người kéo cánh tay, tôi quay lại, thấy bên cạnh viên hoạn nô trước đây phục vụ trong cung quốc vương Tamaspơ, người từng trao cho tôi mảnh giấy của nàng Calê Cairi, đúng hơn là của công chúa Zêlica. Y bảo tôi:
-         Thưa ngài Haxan, tôi vẫn nhận ra ngài cho dù ngài đang vận bộ quần áo kỳ cục này. Cho dù tôi nghĩ chắc không thể nhầm, tôi vẫn không tin được ở mắt mình. Có lẽ nào tôi lại gặp ngài nơi đây?
-         Còn anh – tôi đáp – anh làm gì ở thành phố Canđaha này? Tại sao anh giã từ triều đình nước Ba Tư? Có phải việc công chúa Zêlica qua đời khiến anh cũng xa rời thành phố ấy giống như tôi?
-         Lúc này đây tôi không thể nào trả lời ngài điều đó – anh ta đáp – nhưng nếu ngày mai ngài lại có mặt chỉ mình thôi ở đúng chỗ này tôi sẽ thoả mãn sự hiếu kỳ của ngài. Tôi sẽ cho ngài biết những điều làm cho ngài vô cùng kinh ngạc. Vả chăng tôi muốn báo trước, những chuyện ấy đều liên quan đến ngài đấy.
Tôi hứa với anh ta ngày hôm sau tôi sẽ có mặt đúng chỗ này, và tôi giữ đúng lời. Viên hoạn nô lại xuất hiện, đến gần và bảo nhỏ:
-         Chúng ta hãy đi ra ngoài hoàng cung, tìm một nơi thuận tiện hơn để chuyện trò.
Chúng tôi vào thành phố, đi qua nhiều đường, cuối cùng dừng lại trước cổng một ngôi nhà khá lớn mà an hta có chìa khóa cổng. Vào bên trong, tôi thấy các phòng đều được bày biện đồ đạc khá sang, có những tấm thảm đẹp trải sàn, nhiều chiếc sập trang trọng. Sau nhà là một khu vườn cây cối um tùm, chính giữa vườn có một cái bẻ chứa đầy nước trong veo, thành bể xây bằng đá vân thạch. Viên họan nô hỏi tôi:
-         Thưa ngài Haxan, ngài thấy ngôi nhà này sống được chứ?
-         Được lắm – tôi đáp.
-         Như vậy tôi rất hài lòng – viên hoạn nô lại nói – bởi vì chính tôi hôm qua đã tìm thuê ngôi nhà này cho ngài đấy. Giờ cần có thêm vài tên nô lệ để hầu hạ ngài. Trong khi ngài đi tắm nước nóng, tôi sẽ ra chợ tìm mua mấy đứa.
Vừa nói anh ta vừa dẫn tôi đến một căn phòng, ở đấy đã chuẩn bị bồn tắm. Tôi nói:
- Nhân danh Thượng Đế, anh hãy nói cho ta hay tại sao anh dẫn ta đến ngôi nhà này, và có những điều gì anh định cho ta rõ.
- Rồi có người sẽ nói hết cho ngài nghe đúng nơi đúng lúc – anh ta đáp – Lúc này ngài chỉ cần biết số phận ngài đã thay đổi hẳn rồi, kể từ ngày ngài gặp tôi. Tôi được lệhh phải xử sự như ngài vừa trông thấy đấy.
Cùng lúc ấy viên hoạn quan giúp tôi cởi bỏ trang phục. Khi tôi vào buồng tắm, viên hoạn nô xin tôi chớ nên sốt ruột đi ra khỏi nhà.
Điều bí ẩn này khiến tôi suy nghĩ rất lung. Nhưng có vật đầu vật óc tự làm mệt mình đến bao nhiêu đi nữa cũng vô ích thôi. Viên hoạn quan ấy – tên là Sapua – để tôi nằm khá lâu trong bôn bước. Tôi đã bắt đầu mất hết kiên nhẫn thì anh ta trở lại theo sau có bốn tên nô lệ. Hai tên mang theo áo quần và các loại khăn, còn hai tên khác thì đủ thứ thức ăn nước uống. Viên hoạn nô nói:
- Xin ngài thứ lỗi, tôi tự trách mình để ngài chờ đợi quá lâu.
Mấy người nô lệ đặt các gói đồ của họ lên trên chiếc sập rồi vội vã hầu hạ tôi. Họ dùng những chiếc khăn vải mịn màng và mới toanh, lau khô người và xoa bóp cho tôi, sau đó mặc cho tôi một chiếc áo ngắn sang trọng, một chiếc áo dài lộng lẫy cùng một cái khăn đội đầu. Tôi tự hỏi “Những chuyện này rồi sẽ dẫn ta đi đến đâu nhỉ? Viên hoạn nô này đối xử với ta như vậy theo lệnh của ai?” Tôi vô cùng sốt ruột được hiểu rõ tất cả mọi điều, không làm sao chịu nổi nữa.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI HAI
Sapua nhận ra điều đó. Y nói:
- Tôi rất tiếc thấy ngài đang hết sức băn khoăn, nhưng tôi không thể nào giúp ngài giảm nhẹ nỗi băn khoăn ấy. Nếu giả sử tôi không được lệnh tuyệt đối không nói ra bất cứ điều gì, giả sử tôi được quyền tuâng theo ý muốn của ngài mà nói ra lúc này thì cũng chẳng làm cho ngài thanh thản hơn. Ngược lại, có khi ngài lại còn thêm nôn nóng. Xin gắng chờ đến tối hôm nay, ngài sẽ biết rõ tất cả những gì ngài muốn biết.
Cho dù qua lời nói của viên hoạn nô, tôi thấy đây là một điềm lành, suốt cả ngày hôm ấy tôi vẫn ở trong một tâm trạng nôn nao khó chịu. Hoá ra chờ đợi một điều không hay sắp xảy đến, ít làm cho chúng ta đau khổ hơn chờ đợi một nỗi vui sắp thành hiện thực. Đến tối, đèn nến được đốt lên. Người ta chú ý đặc biệt chiếu thật sáng căn phòng đẹp nhất trong nhà. Tôi ngồi chờ ở đấy cùng với Sapua. Để làm dịu bớt nỗi phấp phỏng của tôi, thỉnh thoảng anh ta bảo: “Xin ngài kiên nhẫn cho chút nữa, lát nữa thôi, có người sắp đến rồi đấy”. Cuối cùng có tiếng gõ cửa. Viên hoạn nô thân hành ra mở cửa, và quay trở vào cùng với một người phụ nữ. Người ấy vừa cất tấm mạng che mặt, tôi nhận ra ngay nàng Calê Cairi. Tôi kinh ngạc đến cùng cực, bởi tôi vẫn ngỡ nàng lúc này đang ở kinh đô Siara. Nàng nói với tôi:
- Thưa ngài Haxan, ngài ngạc nhiên lắm khi nhìn thấy em, nhưng ngài sẽ còn ngạc nhiên nhiều hơn nữa sau khi ngài nghe những điều em sắp kể.
Viên hoạn nô Sapua cùng  với hai người giúp việc đi ra khỏi phòng, để lại mình tôi với nàng Calê Cairi. Chúng tôi ngồi lên cùng một chiếc sập. Và nàng bắt đầu kể với tôi như sau:
- Hẳn ngài còn nhớ, thưa ngài Haxan, cái đêm hôm khi công chúa Zêlica bày tỏ tâm sự với ngài. Lúc chia tay công chúa nói, xin ngài hãy nhớ nàng có lời hứa. Sáng hôm sau, em hỏi công chúa nàng định tính sao, khi ngỏ lời hứa chắc như đinh đóng cột với ngài. Công chúa đáp nàng muốn làm sao cho ngài được hạnh phúc. Nàng muốn rồi đây sẽ có nhiều buổi gặp gỡ trò chuyện riêng với ngài không để cho ai biết. cho dù phải trải qua nhiều hiểm nguy. Hôm nay em không muốn dối ngài, ngay hôm ấy em đã không đồng tình với công chúa. Em đã tìm đủ mọi cách để nàng công chúa kiềm chế những hành động thái quá. Em thưa với nàng, thật kỳ cục sao một công chúa địa vị cao sang như nàng lại nghĩ tới chuyện dấn thân vào hiểm nghèo, thậm chí có thể vì thế mà mất mạng, chỉ vì một viên hầu cận.  Tóm lại, em tìm mọi cách để công chúa chấm dứt tình yêu bột phát đối với ngài.  Mong ngài tha thứ cho em. Tất cả mọi lý lẽ ccem nêu lên chỉ càng làm mạnh hơn nỗi đam mê của công chúa. Khi thấy không thể nào thuyết phục công chúa nghe lời mình, em liền hiến kế như sau:
-         Thưa công chúa, em không thể không rùng mình kinh sợ khi nghĩ đến những hiểm nguy bà sắp lao thân vào. Nhưng bởi không còn cách nào khiến bà thôi nghĩ tới người yêu, chúng ta cần tìm phương sách để hai người tự do gặp nhau mà không làm nguy hại cuộc sống của bà cũng như của ngài Haxan. Em vừa nghĩ ra một phương sách may ra thực hiện được, nhưng nó khá tế nhị, em chẳng dám ngỏ lời thưa với bà.

Công chúa vội đáp:
- Em Calê Cairi, em hãy nói đi, cho dù phương sách ấy có gì xúc phạm chăng nữa, em cũng đừng giấu ta.
- Chỉ còn có cách – em đáp – Công chúa quyết định giã biệt cuộc sống đầy quyền uy và trên nhung lụa giữa hoàng triều để sống cuộc đời một người dân bình thường như tất cả mọi người bình thường khác trong xã hội. Bà phải khước từ tất cả mọi vinh quang bà đáng được hưởng do địa vị của mình. Bà có đủ yêu đương chàng Haxan tới mức dám có một sự hy sinh to lớn như vậy?
- Em hỏi ta có đủ yêu chàng không ư? – công chúa thở dài buồn bã đáp lời em – Ôi! Nếu thân phận ta là thân phận một con người không ai hay biết đến tên tuổi mà được tự do yêu chàng Haxan thì ta còn thích thú hơn ngàn lần tất cả mọi vàng son snag trọng, hào hoa mà ta đang hưởng thụ trong cuộc sống hàng ngày. Em hãy nói ta rõ, ta cần làm gì để được tự do thoải mái gặp người yêu, ta sẽ thực hiện ngay không chút do dự.
Em đáp:
- Bởi vì không còn cách nào để công chúa thay đổi ý kiến, em xin hiến phương sách sau đây. Em biết có một loài thảo dược có đặc tính hết sức kỳ lạ. Nếu công chúa bỏ vào tai chỉ một ngọn lá ấy thôi, thì sau một tiếng đồng hồ bà sẽ trở nên mê man bất tỉnh, coi như một người đã chết thật. Người ta sẽ làm tang lễ cho công chúa nội trong ngày, và đến đêm em sẽ đưa công chúa đã tỉnh lại ra khỏi nhà mồ.
Nghe đến đấy, tôi vội ngắt lời nàng Calê Cairi:
-         Trời đất ơi! Vậy ra nàng  công chúa Zêlica chưa chết? Nàng hiện ra sao?
-         Thưa ngài – Calê đáp – công chúa hiện đang sống bình yên. Nhưng xin hãy lắng nghe em kể tiếp, ngài sẽ rõ tất cả những gì ngài muốn biết. Công chúa chủ nhân của em, mới nghe vậy đã mừng rỡ ôm hôn em, bà cho cái kế ấy thật tuyệt diệu. Nhưng  bà nghĩ rất khó thực hiện, bởi lễ tang của bà chắc kéo dài nhiều ngày. Công chúa nói luôn với em suy nghĩ ấy. Em thưa, có cách vượt qua trở ngại. Sau đây là cung cách chúng em đã làm để thực hiện mưu đồ mạo hiểm.
Ngay hôm  ấy công chúa Zêlica kêu đau đầu, và đi nghỉ. Sáng hôm sau, em cho đồn đại công chúa vừa đổ bệnh, một căn bệnh cực kỳ nguy cấp. Quan ngự y của chính đức vua được vời đến, ông cũng bị mắc lừa. Ông kê ra đơn rất nhiều lọai thuốc, em có đưa công chúa dùng thuốc nào đâu. Những ngày tiếp đó đồn đại bệnh tình càng nặng hơn. Khi em nhận thấy rằng bây giờ đã đến lúc mọi người tin công chúa ốm nặng lắm rồi, em liền bỏ vào tai nàng một ngọn lá thần dược em vừa nói ở trên. Rồi ngay lập tức sau đó em chạy bổ đến cấp báo với đức vua có lẽ công chúa Zêlica chỉ còn sống được trong chốc lát nữa thôi, bà tỏ ý mong được gặp quốc vương. Nhà vua vội vàng đến. Nhìn thấy do tác động của loại độc dược khuôn mặt nàng biến sắc rất nhanh, vua xúc động khôn cùng và tuôn rơi nước mắt. Lúc này, công chúa mới thưa với đức vua “Tâu bệ hạ, con xin phụ vương, vì tình thương yêu cha luôn luôn dành cho con, xin cha hãy truyền lệnh để những lời giối giăng của con đây sẽ được thực hiện đúng đắn. Con muốn sau khi con qua đời, không để cho bất cứ một cung nữ nào khác ngoài em Calê Cairi được lau rửa thi thể và xức nước hoa cho con. Con không muốn các cung nữ khác được chia xẻ vinh dự ấy cu1ng với Calê Cairi. Con xin cha chỉ cho phép riêng mình em ấy thôi thức canh bên cạnh thi hài con đêm đầu tiên, không để bất kỳ một người nào khác ngoài em Calê Cairi đến than khóc bên mộ của con đêm đầu tiên. Con muốn cô cung nữ trung thành ấy sẽ là người cầu nguyện Đấng Tiên tri cứu giúp, ngăn ngừa những thần linh độc ác đến quấy rầy con sau khi qua đời”.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI BA
Quốc vương Tamaspơ vừa khóc vừa hứa với con gái sẽ cho thực hiện tang lễ theo đúng như lời nàng giối giăng. Công chúa nói tiếp:
-         Không phải chỉ có thế thôi, thưa phụ vương. Con xin ngài, ngay khi con qua đời, cho em Calê Cairi được trở thành người tự do. Cùng với việc cho phép em được tự chọn muốn sống ở đâu thì sống, xin cha hãy ban cho em khá nhiều của cải, xứng đáng với lòng hào hiệp vốn có của cha, và đền đáp sự quyến luyến tận tuỵ của em đối với con suốt cả đời, khi con còn sống.
-         Con gái ta ơi – vua Tamaspơ đáp – con hãy yên tâm về tất cả người điều con vừa dặn cha thực hiện. Nếu chẳng may cha không còn có con trên đời này nữa, cha thề với con, cô cung nữ tâm phúc nhất của con sẽ được tự do, nó muốn đi đến đâu tuỳ ý nó, cùng với rất nhiều của cải cha sẽ ban cho.
Quốc vương vừa nói xong mấy lời ấy, thì chất độc thảo dược gây đầy đủ hiệu quả. Công chúa Zêlica lịm đi, và nhà vua tưởng nàng mất rồi, vừa khóc vừa quay trở về cung riêng của mình. Vua truyền lệnh chỉ cho phép tôi được lau rửa thân thể và xức hương cho nàng công chúa. Làm xong công việc ấy, tôi cuộn nàng công chúa vào một tấm vải trắng đặt vào trong quan tài. Quan tài sau đó được đưa vào lăng mộ. Vẫn theo lệnh vua, người ta để cho tôi một mình trong mộ của công chúa. Tôi quan sát khắp nơi để nhìn xem có ai nấp ở đâu đấy theo dõi mình hay không. Không thấy có ai tôi đưa bà chủ của tôi ra khỏi quan tài và chờ bà tỉnh hẳn. Tôi trao cho bà một chiếc áo dài cùng tấm mạng che mặt mà tôi đã mang theo giấu trong vạt áo. Hai chúng tôi đi đến một nơi anh Sapua đang chờ sẵn. Viên hoạn nô trung thành ấy đưa công chúa vào nghỉ tạm ở một ngôi nhà anh đã thuê trước, trong khi tôi trở lại bên mồ, thức canh cho hết đêm. Tôi dùng vải độn thành hình dáng một thi hài, liệm bằng chính tấm vải trắng tôi đã dùng để cuộn thân thể nàng Zêlica, rồi đặt trở lại vào trong quan tài.
Sáng sớm hôm sau, khi những cung nữ khác của công chúa đến đổi phiên cho tôi, tôi làm ra bộ khóc lóc thảm thiết, đau đớn vô cùng trước khi đi ra khỏii ngôi mộ. Người ta trình với quốc vương, tôi hết sức buồn thương công chúa, càng khiến người sai ban cho tôi rất nhiều của cải. Vua cho lấy từ kho tàng ra mười nghìn đồng xơcanh trao cho tôi, rồi chấp nhận lời tôi xin cho viên hoạn nô Sapua được cùng ra khỏi hoàng cung. Sau đấy, tôi đến tìm bà chủ, cùng chung vui với nhau về thành công trót lọt của mưu đồ.
Ngày hôm sau, chúng tôi bảo viên hoạn nô quay trở về phòng riêng của đức vua, mang theo mảnh giấy tôi yêu cầu ngài đến gặp tôi ở chỗ nọ. Nhưng một đồng nghiệp của ngài nói ngài đang ốm, không ai được phép gặp. Ba ngày sau nữa, chúng tôi lại cử Sapua đến, mới té ngửa ra ngài đã ra đi khỏi hoàng cung, bây giờ chẳng một ai hay biết ngài ở chỗ nào.
Nghe đến đây, tôi nóng nảy ngắt lời Calê:
-         Tại sao không báo trước cho tôi dự định của các cô? Tại sao không sai Sapua đến tin cho tôi hay ngay? Ôi! Giá được một mảnh giấy thì đã đỡ cho tôi biết bao vất vả nhọc nhằn.
-         Ngài hỏi tại sao chúng tôi giữ bí mật ư? – đến lượt Calê Cairi ngắt lời tôi – công chúa Zêlica lúc này hẳn đã có thể cùng sống với ngài ở một nơi nào đấy trên trái đất, nếu hôm ấy bà để cho tôi được quyền quyết định. Ngay sau khi thoả thuận mưu kế với nhau, tôi đã ngỏ ý nên báo cho ngài biết, nhưng bà chủ tôi không muốn vậy. Bà nói: “không nên. Hãy để cho chàng đau khổ vì việc ta qua đời đột ngột. Sau đấy, chàng sẽ xúc động hơn, hạnh phúc hơn khi gặp ta. Chàng càng đau khổ về việc ta chết bao nhiêu, thì sự bất ngờ khi gặp lại ta còn sống sẽ càng thú vị bấy nhiêu”. Tôi không đồng ý với dâu hiệu yêu đương tinh tế ấy của công chúa, như thể tôi linh cảm sẽ xảy ra những hậu quả đáng buồn, và thực tế sau đó bản thân công chúa Zêlica cũng vì điều ấy mà hối hận. Tôi không sao nói hết với ngài, công chúa buồn bã đến mức nào khi nghe tin ngài đã bỏ ra đi. Bà luôn luôn dập đầu bứt tóc: “Ôi khốn nạn thân tôi! Có ích gì việc tôi hy sinh mọi cao sang phú quý vì tình yêu, có ích gì tôi đã làm tất cả những chuyện ấy để rồi chẳng bao giờ gặp lại chàng Haxan!”. Chúng tôi đã nhờ tìm kiếm ngài khắp thành phố. Anh Sapua đã không tiếc sức để cố gặp ngài. Khi mất hết mọi hy vọng, chúng tôi giã từ thành phố Siara, tôi đi về phía sông Ấn độ bởi chúng tôi mường tượng hẳn ngài có thể cùng đưa chân đi về hướng ấy. Đến bất kỳ thành phố, thị trấn nào bên bờ con sông lớn ấy, chúng tôi đều dừng lại tìm kiếm ngài rất kỹ nhưng đều vô ích. Một hôm, đang đi từ một điểm cư dân này đến điểm khác, cho dù chúng tôi cẩn thận nhập chung cùng một đoàn lữ hành, bất ngờ vẫn gặp một toán cướp rất đông ập đến bao vây, đánh đập các thương nhân và cướp bóc hết hàng hoá của họ. Chúng cũng bắt luôn chúng tôi, tước đọat tất cả vàng bạc, ngọc ngà chúng tôi mang theo trên người. Sau đấy, toán cướp dẫn chúng tôi về thành phố Canđaha, bán cho một nhà buôn nô lệ có quan hệ với chúng từ trước.
Vị thương gia ấy vừa mua được nàng Zêlica thì quyết định đưa ngay nàng vào trình diện quốc vương. Vừa nhìn thấy, vua Fiarusat đã hết sức say mê vẻ đẹp của nàng. Vua hỏi nàng người quê ở đâu, công chúa đáp nàng sinh ra tại thành phố Ormut. Nàng cũng trả lời các câu hỏi khác của nhà vua một cách đúng mực. Vua xuất tiền mua cả hai chúng tôi, cho sang ở một ngôi nhà đẹp nhất trong phần hoàng cung dành riêng cho các bà hoàng, công chúa.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI TƯ
Nói đến đây Calê ngừng lời, hay nói đúng hơn, nàng bị tôi ngắt lời:
-         Trời đất ơi! Làm sao bảo tôi có thể vui mừng sắp gặp lại nàng Zêlica? Sao có thể nói là gặp lại, khi đồng thời với tin nàng còn sống, tôi được biết nàng đang bị một quốc vương hùng mạnh giữ trong cung riêng của mình. Giả sử nàng dám cưỡng lại tình yêu của vua Fiarusat, thì những ngày của công chúa sống trong thời gia qua thật đầy chuyện đáng buồn phiền, và làm sao tôi không đau khổ khi biết nàng cũng đau khổ. Nhưng, giả sử nàng yên tâm và hài lòng về số phận của nàng, thì làm sao bảo tôi có thể hài lòng về số phận của tôi?
-         Tôi rất vui được nghe ngài biểu lộ những tình cảm tinh tế như vậy. – Calê Cairi nói tiếp – công chúa thật xứng đáng với tình cảm của ngài. Cho dù quốc vương kinh đô Canđaha yêu nàng tha thiết, nàng vẫn không sao quên được ngài, và chưa bao giờ tôi thấy nàng vui như hôm qua, khi anh Sapua báo cho biết anh vừa gặp ngài. Suốt cả buổi chiều, công chúa như người ngẩn ngơ vì mong nhớ. Lập tức bà sai viên hoạn nô đi tìm thuê một ngôi nhà lớn có sẵn đồ đạc, và hôm nay rước ngài đến ở, không được để cho ngài thiếu thốn thứ gì. Hôm nay, công chúa lại sai tôi đến đây trình bày cho ngài rõ tất cả mọi điều, như  tôi vừa nói. Ngài hãy sẵn sàng để tối mai gặp công chúa ở ngôi nhà này. Tối mai, chúng tôi sẽ ra khỏi hoàng thành qua một cổng nhỏ trong vườn mà chúng tôi đã sai đánh trước một chiếc chìa khóa phòng ngừa sử dụng khi cần.
Nói đến đấy, cô cung nhân sủng ái của công chúa nước Ba Tư đứng lên rồi cùng với Sapua vội vã trở về với bà chủ của mình.
Suốt đêm hôm ấy, tôi chỉ nghĩ đến nàng Zêlica. Tg cảm thấy tất cả tình yêu nồng cháy đối với nàng trở lại hun đốt trong tâm can. Suốt đêm, tôi không hề chợp mắt. Và ngày hôm sau đối với tôi dài như cả một thế kỷ. Cuối cùng, sau một thời gian khôn cùng náo nức chờ đợi, tôi chợt nghe có tiếng gõ cửa. Những người giúp việc ra mở. Lát sau tôi thấy nàng công chúa của tôi bước vào phòng. Sự xuất hiện của người yêu làm cho tôi vừa bối rối  vừa thảng thốt mừng vui. Về phía nàng, nỗi vui lớn cũng lộ ra mặt. Tôi cúi xuống dưới chân nàng, ôm rất lâu trong vòng tay, chẳng nói nên lời. Nàng đỡ tôi đứng lên, mời tôi ngồi xuống bên cạnh nàng trên chiếc sập và nói:
-         chàng Haxan ơi, tạ ơn trời đất cho chúng ta tái ngộ. Chúng ta hãy cùng nhau hy vọng, phúc trời ban cho không chỉ dừng lại ở đấy. Rồi trời sẽ cho phép chúng ta vượt qua mọi trở lực để được chung sống với nhau. Trong khi chờ đợi giờ phút hạnh phúc ấy đến, chàng hãy sống ở đây thanh thản và phong lưu. Nếu chúng ta chẳng có được niềm vui thoải mái chuyện trò với nhau ngay, ít ra chúng ta cũng được an ửi bởi hàng ngày sẽ có thể nhận được tin tức của nhau, rồi thỉnh thoảng sẽ bí mật gặp nhau. Em Calê Cairi đã kể hết chàng nghe những việc từng xảy ra với em thời gian qua, giờ chàng hãy nói lại cho chúng em biết đã xảy ra những gì mấy năm qua đối với chàng.
Tôi thuật lại với nàng nỗi đau vô biên khi được tin nàng qua đời. Tôi nói tin buồn ấy làm tôi chán ngán mọi sự  trên đời, đến mức đi tu theo dòng fakia chuyên sống nhờ khất thực. Nàng thốt lên:
-         Ôi chàng Haxan quý mến! Vì tình yêu đối với em mà chàng đã phải sống một thời gian lâu như vậy cùng những người khổ hạnh hay sao? Hỡi ôi! Em đã gây nên cho chàng biết bao khổ ải.
Giá nàng biết thực tế tôi đã sống như thế nào dưới chiếc áo khất sĩ ấy, hẳn nàng đã bớt phàn nàn cho tôi. Nhưng tôi giữ kín, không nói gì về việc ấy, tôi chỉ một mực kể lể chuyện da diết nhớ thương.
Thời gian trò chuyện trôi qua mới nhanh làm sao! Gặp nhau dễ đã hơn ba tiếng đồng hồ, thế mà chúng tôi vẫn bực mình khi thấy Sapua và Calê Cairi bước vào, báo cho biết đến lúc nàng công chúa phải trở về “Quả thật những người không biết yêu đương, lúc nào đến là khó chịu! Hai ta mới ngồi với nhau được chốc lát, thế mà các người đã vào bảo chúng ta phải chia tay!” Nói vậy, nhưng nếu nấn ná trò chuyện thêm chốc nữa, thì ngày đã rạng, bởi công chúa vừa bước ra đi khỏi nhà chốc lát thôi thì trời đã sáng hẳn.
Mặc dù trong lòng đang hết sức khoái trá, tôi vẫn không quên anh chàng fakia đã đi cùng tôi đến thành phố Canđaha này. Tôi nghĩ anh ta chắc đang lo lắng không biết tôi ra sao, nên vội vã ra khỏi nhà định đi tìm anh bạn. Tình cờ tôi gặp anh chàng trong phố. Chúng tôi ôm hôn nhau. Tôi bảo:
-         Anh bạn ơi, tôi định đến nhà trọ báo cho anh biết việc gì vừa mới xảy ra với tôi mấy ngày qua, để anh yên tâm. Tôi nghĩ chắc tôi cũng có gây nên cho anh ít nhiều lo lắng.
-         Đúng vậy – anh chàng đáp – tôi đang lo cháy ruột cháy gan vì bạn. Nhưng làm sao anh thay đổi nhiều vậy? Anh mặc bộ quần áo đâu ra mà đẹp thế này? Có vẻ như anh đang giàu có lắm. Trong khi tôi lo vì anh gặp chuyện bất ổn, thì dường như anh đang sống rất thoải mái, phong lưu.
Tôi đáp:
-         Anh bạn thân thiết của tôi ơi, thú thật với bạn tôi còn nghìn lần hạnh phúc hơn những gì anh tưởng tượng. Tôi muốn anh là chứng nhân cho hạnh phúc của tôi và chia sẻ với tôi một phần hạnh phúc ấy. Hãy vứt cái quán trọ của bạn đi, và đến đây ở chung với tôi, anh bạn ạ.
Nói xong tôi dẫn anh ta về nhà, đưa đi xem tất cả các phòng. Anh ta thấy chỗ nào cũng đẹp cái gì cũng sang. Đến đâu anh cũng xuýt xoa “Trời đất ơi! Anh chàng Haxan này làm được gì hơn những người khác, mà bỗng dưng được trời ban cho bấy nhiêu của cải?”
-         Thế nào, hỡi anh bạn fakia, vậy ra anh muốn nhìn thấy tôi lúc này âu sầu buồn bã hay sao? Dường như sự giàu có của tôi không làm anh được vui?
-         Không, ngược lại – anh chàng đáp – tôi vui mừng lắm. Đời tôi không bao giờ tôi ganh tị với bạn bè, lúc nào tôi cũng hết sức mừng thấy bạn bè sống cảnh phồn vinh.
Nói đến đấy anh chàng đưa vòng tay ôm chặt cổ tôi để chứng tỏ anh nói thật lòng. Tôi ngỡ anh ta nói chân tình. Không ngờ tôi lại hết lòng tin cậy một con người hèn hạ nhất, ganh tị nhất, tráo trở nhất trần gian. Tôi bảo anh bạn:
-         Hôm nay chúng ta phải đánh chén với nhau một bữa ra trò.
Nói xong tôi cầm tay anh kéo sang phòng ăn, ở đấy những người giúp việc đã bày ra một cái bàn nhỏ cho hai người dùng bữa.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI LĂM
Hai chúng tôi cùng ngồi xuống bàn. Người nhà dọn ra các loại cơm rang đủ màu sắc, cùng món quả chà là tẩm nước đường. Chúng tôi còn dùng nhiều thứ khác nữa, sau đấy tôi sai một người nhà đến một nơi trong thành phố mà anh ta biết ở đấy người ta bán lén chất cay (Người theo đạo Hồi cấm uống rượu ban ngày và cấm không được bán rượu) Anh mua và mang về nhiều rượu ngon, chúng tôi uống với nhau sa đà, đến nỗi sau đấy không dám đi đến chỗ đông người, sợ bị phạt.
Giữa lúc đang chè chén say sưa nhất, anh chàng fakia bảo tôi:
-         Bạn Haxan à, bạn hãy kể cho tôi nghe tất cả câu chuyện của bạn, hãy nói cho tôi nghe điều bí mật. Bạn chẳng có gì phải lo lắng đâu, tôi là người rất kín đáo và tôi là người bạn tốt nhất của anh mà. Nếu bạn không tin tôi là bạn xúc phạm tấm lòng của tôi đối với bạn đấy. Bạn hãy cởi mở hết tâm tình với tôi, hãy thuật lại cho tôi nghe do đâu bạn gặp vận may, để bạn bè chia vui với nhau. Vả chăng tôi là một con người thường có những lời khuyên khôn ngoan, và bạn biết rồi đấy, có được một người tâm tình như vậy không phải là vô ích.

Ngây ngất bởi hơi men, bị mê hoặc trước những biểu hiện bạn bè thân thiết của anh chàng fakia, tôi chịu thua trước sự khẩn khoản của y. Tôi nói:
- Tôi rất tin, bạn không phải là người tìm cách lợi dụng những điều tâm sự tôi sẽ bày tỏ với bạn sau đây, bởi vậy tôi chẳng muốn giấu bạn điều gì. Bạn có nhớ lần đầu chúng ta gặp nhau, tôi rất buồn bã? Hồi ấy, tôi vừa mất đi tại thành phố Siara một người phụ nữ mà tôi rất yêu và tôi cũng được nàng yêu trở lại. Tôi ngỡ nàng đã qua đời, tuy nhiên nàng hãy còn sống, tôi vừa gặp lại nàng ở thành phố Canđaha này, và chẳng giấu gì bạn, hiện nàng là cung nhân sủng ái nhất của đức vua Fiarusat.
Chàng fakia tỏ ra vô cùng kinh ngạc.  Y nói:
-         Bạn Haxan à, bạn hãy mô tả cho tôi nghe về sắc đẹp của phu nhân ấy. Chắc hẳn nàng phải đẹp cực kỳ, bởi chính quốc vương Canđaha cũng mê mẩn cơ mà.
-         Đấy là một con người không ai sánh nổi – tôi đáp – Cho dù một người yêu có ca ngợi cô gái mình đang yêu đến đâu, cũng chẳng có cách nào mô tả đúng sắc đẹp của người này. Chắc hẳn nàng sẽ đến ngay đây, rồi anh sẽ gặp nàng, tôi muốn tự mắt anh nhìn thấy vẻ đẹp vô song của nàng.
Nghe vậy anh chàng fakia ôm hôn tôi rất thắm thiết, nói rằng y vô cùng vui thích nếu tôi thực hiện đúng lời hứa. Tôi bảo anh chàng hãy yên tâm. Sau đấy chúng tôi cùng đứng lên đi nghỉ. Một người nhà của tôi dẫn anh bạn vào một phòng riêng, ở đấy người ta đã sắp sẵn cho anh giường ngủ.
Sáng sớm hôm sau Sapua mang đến cho tôi một mảnh giấy của Zêlica. Nàng cho biết tối hôm sau nàng sẽ đến đây chơi và dùng bữa với tôi. Tôi đưa bức thư cho anh chàng fakia xem, anh ta tỏ vẻ vui mừng khôn xiết. Suốt ngày hôm ấy, anh chàng chỉ có việc nói về người phụ nữ tôi đã hết lời ca ngợi sắc đẹp. Anh chàng cũng nao nức chờ đêm đến, chẳng khác nào chính tôi cũng đang ước mong được gặp lại người yêu. Trong thời gian ấy tôi chuẩn bị đón nàng Zêlica. Tôi sai đi mua những thức ăn ngon nhất, cùng với thứ rượu ngon tuyệt diệu hai chúng tôi đã uống thử hôm trước.
Chập tối hôm ấy, tôi bảo anh chàng fakia:
-         Khi phu nhân ấy bước vào phòng tôi, anh không nên có mặt sẵn ở đấy, có thể nàng không thích như vậy. Anh hãy chờ tôi xin phép giới thiệu anh với nàng với tư cách một người bạn, tôi tin nàng sẽ đồng ý.
Chẳng bao lâu sau, chúng tôi nghe có tiếng gõ cửa. Đấy chính là công chúa đến. Anh chàng fakia kia nấp ở một căn phòng khác, tôi ra đón nàng Zêlica, cầm tay nàng dẫn vào phòng của tôi và nói:
-         Thưa công chúa, xin nàng vui lòng ban cho tôi một ân huệ. Anh bạn fakia kia từng đi với tôi đến thành phố Canđaha hiện đang ở trong ngôi nhà này. Tôi đã cho anh ta ở một phòng, đấy là bạn của tôi mà. Nàng có đồng ý cho anh ta được dùng bữa tối với chúng ta?
-         Chàng Haxan à, - nàng đáp – chàng không suy nghĩ chút nào về việc chàng vừa yêu cầu em. Đáng ra chàng không nên để em lộ mặt trước mắt một người đàn ông khác, đáng ra chàng phải giúp em chuyện ấy chứ.
-         Thưa nàng – tôi đáp – anh ta là một người khôn ngoan và kín đáo, rất thân thiết với tôi. Tôi xin bảo đảm, sẽ chẳng có việc gì làm nàng phải hối tiếc đâu, nếu nàng vui lòng chấp nhận lời yêu cầu.
-         Em không từ chối chàng bất cứ điều gì nhưng em có linh cảm rồi chúng ta có thể gặp chuyện buồn phiền.
-         Không đâu, thưa nàng công chúa của tôi – tôi đáp – về chuyện ấy xin nàng chớ lo âu. Nàng hãy tin lời tôi, chớ nên lo lắng gì để chúng ta cùng vui tái ngộ.
Nói xong tôi gọi anh chàng fakia và giới thiệu với nàng Zêlica. Để vui lòng tôi, nàng đón tiếp anh chàng khá lịch sự. Sau những lời chào mừng chúc tụng lẫn nhau, ba chúng tôi cùng Calê Cairi cùng ngồi xuống bàn. Anh bạn tôi là một người đàn ông trạc ba mươi tuổi, anh chàng rất thông minh, lém lỉnh. Chẳng bao lâu qua những lời đùa vui tán tỉnh, anh bạn fakia của tôi để lộ rõ cho hai người phụ nữ thấy anh chàng không mấy nề hà lạc thú, đúng hơn là anh chàng luôn làm hoen ố bộ trang phục tu sĩ của mình.
Sau khi dùng  bữa xong, người nhà mang rượu đến, rót trong những cái ly bằng mã não. Anh chàng fakia chẳng lúc nào để ly rượu của mình vơi. Lúc nào anh cũng sai rót cho đầy vào, rồi quá chén anh đâm ra ngất ngư. Thường ngày anh vốn không phải là người lịch sự lắm, có chén rượu vào càng làm anh thêm bạo gan, chẳng bao lâu đi đến chỗ không gìn giữ nữa. không chỉ làm xúc phạm hai người thiếu phụ bằng những lời nói bất nhã, anh chàng còn đột ngột quàng tay ôm choàng lấy cổ nàng công chúa và hỗn xược hôn chụt một cái.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI SÁU
Nàng Zêlica cực kỳ bất bình về thái độ hỗn láo của anh chàng fakia. Vì giận dữ nàng đủ sức mạnh gỡ đôi tay hỗn xược của cậu chàng:
-         Dừng lại, tên khốn nạn, chớ nên lam dụng lòng tốt người ta cho anh được lưu tại đây. Anh đáng để ta sai bọn nô lệ trong nhà trị tội. Nhưng vì nể mặt bạn anh, nên ta mới miễn cho.
Nói xong nàng cầm tấm mạng trùm lên che mặt rồi bước ra khỏi nhà tôi. Tôi chạy theo nàng, xin tha thứ về những điều xảy ra nhưng không sao làm dịu cơn giận của nàng. Nàng bảo tôi:
-         Bây giờ chàng thấy rõ chàng đã sai lầm khi cho phép anh chàng fakia này dùng bữa chung với chúng ta rồi chứ. Hồi nãy, em không đồng ý không phải không có lý do. Chẳng bao giờ em còn lại đặt chân trở lại ngôi nhà này, nếu anh chàng kia còn ở lại đây.
Nói xong nàng ra về, tôi không có cách nào giữ chân nàng lại.
Tôi trở lại tìm gặp anh bạn tôi trong phòng và bảo:
-         Này, bạn đã làm gì vậy? Tại sao bạn dám tỏ ra thiếu kính trọng với cung nữ sủng ái của vua Fiarusat? Bằng hành động xốc nổi như vừa thấy, anh đã làm cho nàng căm giận, và có lẽ nàng sẽ chẳng bao giờ tha thức cho tôi đã ép nàng để mặt trần trước mắt bạn.
-         Chớ nên buồn bã, bạn Haxan ạ, - anh chàng đáp – anh không hiểu đàn bà đâu, anh đừng tưởng họ bất bình thật. Ngược lại, hãy nên tin trong thâm tâm họ rất thú vị về những chuyện ấy. Không có người phụ nữ nào bực mình trước các loại cử chỉ bột phát như tôi làm vừa rồi. Thái độ giận dỗi của họ chẳng qua là giả dối cả mà thôi. Bạn có biết vì sao nàng cưỡng lại khi tôi ôm hôn nàng? Ấy là vì có bạn đang chứng kiến. Nếu chỉ có một mình tôi với nàng, thì tôi tin chắc nàng sẽ tỏ ra yếu đuối hơn nhiều.
Nghe vậy tôi biết anh chàng đã quá say, tôi không trách anh làm chi nữa. Tôi hy vọng ngày mai anh sẽ nhận ra lẽ phải, rồi anh sẽ thấy lỗi lầm của mình. Tôi truyền cho người nhà đưa anh ta vào phòng ngủ. Tôi trở về phòng của mình, suy nghĩ về những điều vừa xảy ra khiến không thể nào ngủ yên.
Ngày hôm sau, quả nhiên anh chàng fakia nói giọng khác hẳn. Anh bày tỏ ân hận, nói anh ta rất buồn phiền đã gây cho tôi chuyện không vui. Và để tạ lỗi, anh chàng quyết định sẽ rời khỏi thành phố Canđaha này. Anh chàng nói với cái giọng khiến cho tôi mủi lòng. Tôi vội viết thư gởi nàng công chúa báo tin anh chàng fakia đã hối hận về sự đường đột của mình, và anh chàng cùng với tôi xin nàng tha thứ cho vì đã quá chén.
Tôi vừa viết xong thư thì Sapua đến, anh ta báo cho tôi biết bà chủ đang rất giận. Tôi nhờ anh mang hộ bức thư về. Vài tiếng đồng hồ sau, anh quay trở lại cùng thư trả lời của Zêlica. Nàng cho biết nàng vui lòng bỏ qua sự hỗn láo của anh chàng fakia, bởi anh ta đã tỏ ra hối hận, nhưng với điều kiện anh ta không thể nán lại lâu hơn nữa trong nhà, anh phải đi khỏi thành phố Canđaha nội trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Tôi đưa thư của nàng cung nhân sủng ái của vua Firagat cho anh bạn tôi xem. Anh chàng nói trước mặt Sapua rằng đòi hỏi của phu nân rất phù hợp với ý định của anh. Sau sự việc chẳng may đã xảy ra ấy, anh không bao giờ dám xuất hiện trước mặt phu nhân nữa, và anh có ý định đi khỏi thành phố Canđaha ngay bây giờ.
Viên hoạn nô lên đường trở về hoàng cung thuật lại cho Zêlica thái độ của anh chàng kia.
Tôi rất hài lòng thấy sau cơn giông tố, bình yên đã trở lại. Tuy nhiên thú thật thâm tâm tôi không vui vì mất anh bạn của mình. Tôi giữ anh ở lại thêm ngày hôm ấy. Tôi bảo anh chàng:
-         Hãy gượm, ngày mai bạn hẵng đi, hôm nay tôi muốn vui với bạn, vì có lẽ rồi đây chúng ta sẽ không bao giờ có dịp gặp nhau nữa. Bởi đành phải chia tay nhau, thì ít nhất chúng ta hãy lùi cái phút chia tay ấy đến sáng mai.
Để cho bữa cơm chi tay thêm trọng thể, tôi truyền chuẩn bị một bữa ăn tối thật sang. Chúng tôi ngồi vào bàn, đã ăn được mấy món chợt trông thấy Sapua bước vào, tay bưng một cái đĩa bằng vàng đựng món ra gu, và nói với tôi:
-         Thưa ngài Haxan, tôi mang đến mời ngài món hầm người ta vừa dâng hoàng thượng dùng trong bữa tối. Ngài thấy món này tuyệt vời quá liền mang sang mời cung nhân sủng ái của ngài dùng, và bà lại sai tôi mang đến đây ngay mời ngài.
Hai chúng tôi chia nhau ăn món ra gu ấy, quả thật ngon tuyệt vời. Anh chàng fakia suốt bữa ăn, luôn luôn tỏ vẻ thán phục hạnh phúc của tôi, anh chàng nói đi nói lại cả vài chục lần:
-         Ôi, chàng trai trẻ ơi, duyên số của anh mới thú vị làm sao!
Cả đêm hôm ấy chúng tôi uống rượu với nhau. Trời vừa rạng sáng, anh bạn tôi bảo tôi “Bây giờ chúng ta phải chia tay”. Thế là tôi đi lấy một túi đựng đầy tiền xơcanh vàng công chúa vừa sai Sapua mang đến cho tôi ngày hôm trước, đặt vào tay anh fakia và nói:
-         Hãy cầm lấy. Đây là tiền của tôi, có thể có lúc bạn cần đến nó.
Anh cảm ơn, chúng tôi ôm hôn nhau và anh ra đi. Sau khi anh đi khỏi rồi, tôi còn buồn bã một lúc khá lâu. Tôi thầm nói với mình “Ôi, anh bạn thiếu thận trọng của tôi ơi, chính anh gây nên cảnh chúng ta phải chia tay nhau. Đáng ra anh chỉ vui lòng được nhìn thấy nàng Zêlica xinh đẹp là đủ, được chiêm ngưỡng một con người xinh đẹp như vậy là hạnh phúc rồi”.
Vì đang buồn ngủ, tôi ngả lưng xuống chiếc sập và ngủ thiếp đi. Một vài giờ sau có tiếng ồn ào ngoài nhà làm tôi tỉnh giấc. Tôi trở dậy ra xem có việc gì, và kinh hoàng nhìn thấy một tóan lính thuộc đội cấm vệ của quốc vương Fiarusat. Viên sĩ quan chỉ huy bảo:
-         Ông hãy đi theo chúng tôi, có lệnh đưa ông vào hoàng cung.
-         Tôi phạm tội gì? – tôi đáp – người ta tố cáo tôi tội gì?
Viên sĩ quan đáp:
-         Tôi không biết. Chúng tôi chỉ được lệnh đưa ông vào gặp đức vua. Chúng tôi đâu được rõ nguyên nhân. Nhưng tôi xin nói để ông yên tâm, nếu ông vô tội thì chẳng có gì phải lo. Bởi đức vua của chúng ta rất công minh. Ngay cả những người thật phạm lỗi cũng được nhà vua cho hưởng tội nhẹ hơn lỗi lầm đã phạm. Trừ phi có những chứng cớ thật đáng tin cậy về trọng tội thì người ta mới ra lệnh tử hình. Quả thực người tên đáng tội phải đền tội là đúng. Nếu ông là người có tội, thì tôi cũng thương hại cho ông đấy.
Đành phải đi theo viên sĩ quan. Trên đường vào hoàng cung, tôi tự nhủ “Có thể vua Fiarusat đã phát hiện ra ta tư thông với nàng Zêlica. Nhưng bằng cách nào nhà vua biết chuyện ấy nhỉ?”
Vừa vào đến cái sân trước hoàng cung, tôi nhìn thấy bốn chiếc giá treo cổ người ta mới dựng lên ở đấy. Tôi hiểu ngay, chuyện này liên quan đến mình. Và tôi nghĩ được chết bằng cách này là hình phạt nhẹ nhất tôi được hưởng trước sự tức giận của quốc vương. Tôi ngước mắt lên trời cầu xin, ít nhất trời hãy cứu sống nàng công chúa nước Ba Tư.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI BẢY
Chúng tôi vào hoàng cung. Viên sĩ quan dẫn tôi đi thẳng vào phòng nhà vua. Lúc ấy trong phòng chỉ có mình quốc vương với vị đại tể tướng cùng anh chàng fakia mà tôi ngỡ đã đi  xa khỏi thành phố Canđaha từ lâu rồi. Nhìn thấy anh bạn tráo trở, tôi hiểu anh chàng đã phản bội chúng tôi. Quốc vương Fiarusat nói:
-         Hoá ra chính mày đấy, tên khốn kiếp dám có quan hệ bất chính với cung nhân của ta. Tên khốn nạn, hẳn mày bạo gan lắm mới dám xúc phạm đến cả uy danh của ta. Mày hãy trả lời chính xác những điều ta sẽ hỏi mày đây. Khi mày bước chân đến kinh đô Canđaha, mày có nghe người ta bảo, ta trừng trị nghiêm khắc những tên phạm trọng tội hay không?
Tôi đáp có. Nhà vua nói tiếp:
-         Mày đã được báo trước, tại sao mày dám phạm tội lớn nhất trong các trọng tội?
-         Muôn tâu bệ hạ, - tôi thưa – cầu mong hoàng thượng vạn thọ vô cương. Hoàng thượng biết, tình yêu khiến một con chim bồ câu nhút nhát cũng trở nên dạn dĩ. Một người đàn ông đã yêu đương say đắm thì đâu có biết sợ hãi điều gì. Tôi xin sẵn sàng chịu tội. Hoàng thượng trị tội tôi nặng đến thế nào, phận tôi không dám hé răng phàn nàn, chỉ xin ngài ban ơn tha tội cho nàng cung nữ sủng ái của ngài. Than ôi! Nàng từng sống thanh thản trong hoàng cung trước khi tôi đặt chân đến đây. Nàng đang hài lòng vì mình góp phần vào hạnh phúc một đấng quân vương vĩ đại. Nàng đã bắt đầu quên đi người tình bất hạnh ngỡ chẳng bao giờ gặp lại. Khi nàng được tin tôi có mặt trong thành phố này, mối tình xưa lại bộc phát. Chính tôi là người đến đây kéo nàng ra khỏi vòng tay yêu thương yêu của hoàng thượng, vậy chỉ có tôi đáng tội chết.
Trong thời gian tôi đang tâu với vua những lời ấy, thì theo lệnh vua, nàng Zêlica bước vào, theo sau có Sapua và Calê Cairi. Nghe rõ những lời sau cùng tôi vừa nói, nàng vội chạy đến phủ phục dưới chân vua Fiarusat và van xin:
-         Muôn tâu bệ hạ, cúi xin bệ hạ hãy tha thứ cho chàng trai trẻ tuổi này. Chỉ có tên nô tì đã lừa dối ngài đây đáng tội chết.
-         Bọn khốn kiếp! – Nhà vua quát lên – chớ đứa nào được hòng tha tội. Tất cả chúng mày phải bỏ mạng tất. Con bạc nghĩa kia! Mày dám van xin ta tha tội cho tên bạo gan đã dám xúc phạm ta, mày còn tỏ ra xúc động trước cái chết của tên mày yêu qúy. Thật hỗn láo! Hai tên này dam bày tỏ trước mắt ta tình yêu điên loạn của bọn chúng. Quan đại tể tướng – vua quay lại nói với viên đại thần – ông hãy cho người dẫn bọn này đến nơi hành quyết. Sai treo cổ chúng nó lên, sau khi chúng chết, hãy ném xác của chúng làm mồi cho muông thú.
Tôi vội kêu lên:
-         Tâu bệ hạ, xin bệ hạ hãy gượm cho giây lát. Xin ngài chớ nên đối xử một cách nhục nhã như vậy đôi với một nàng công chúa con vua. Mong cơn thịnh nộ của ngài chiếu cố đến dòng máu cao sang của nàng công chúa ấy. 
Vua Fiarusat tỏ vẻ ngạc nhiên. Vua hỏi nàng Zêlica:
- Nhà vua nào đã sinh hạ ra cô?
Công chúa nhìn tôi với vẻ cao ngạo và nói:
- Hỡi chàng Haxan không biết giữ mồm giữ miệng, sai chàng lại nói lộ ra những điều chính tôi muốn dấu? Tôi muốn được chết đi với niềm an ủi không ai biết dòng dõi của mình. Bâu giờ anh nói cho mọi người rõ, anh làm cho tôi vô cùng xấu hổ. Đã thế thì, tâu quốc vương, xin ngài biết cho: kẻ nô tỳ mà ngài bắt phải chịu tội chết nhục nhã, là công chúa con gái quốc vương Tamaspơ nước Ba Tư.
Nói xong, nàng thuật lại tất cả câu chuyện của mình không bỏ qua một chi tiết nhỏ nhặt nào.
Lời nàng kể làm cho nhà vua càng thêm kinh ngạc.
Muôn tâu bệ hạ,- nàng nói tiếp- đấy là một điều bí mật mà em không có ý định tâu rõ với ngài, chỉ tại sự bất cẩn của người tình này nên em đành tiết lộ. Sau lời thú tội mà em vô cùng xấu hổ phải nói ra trước mặt mọi người, em khẩn thiết van xin ngài hãy ra lệnh hành hình em tức khắc. Đây là ân huệ duy nhất em cầu xin ở bệ hạ.
Ta huỷ bỏ quyết định tử hình nàng.- nhà vua nói- Ta đủ anh minh để không thể không tha thứ cho nàng tội thiếu chung thuỷ. Những điều ta nghe nàng vừa thuật lại khiến ta nghĩ khác đi. Thì ra vạn sự là do tiền định. Mọi việc tại trời. Ta thôi không buồn giận các ngươi nữa. Ta cho các ngươi được tự do. Nàng hãy đi đi, đi mà sống cùng Haxan, và ta cho phép anh chàng Haxan diễm hạnh kia được sống chúng với nàng. Ta cũng tha tội và trả lại tự do cho Sapua và cô hầu gái của nàng. Hãy đi đi, hỡi những tình nhân tuyệt vời, hãy đi và chung sống với nhau những ngày còn lại của cuộc đời, mong rồi đây không có gì cản trở niềm vui của các người. Còn về phần mày tên phản trắc kia,- vua quay lại nói với anh chàng Fakia- mày sẽ bị trừng trị về tội phản bội. Mày là con người hèn hạ và ganh ghét, mày không chịu nổi hạnh phúc của bạn mày, cho nên mày tự dấn thân đến đây thưa mọi việc, nhờ tay ta trả thù! Tên khốn kiếp! Chính mày phải là kẻ đáng chịu tội.

Nói đến đây, vua truyền cho đại tể tướng sai người dẫn tên Fakia trao cho đao phủ hành quyết.
Khi tên khốn kiếp ấy bị dẫn ta ngoài, nàng Zêlica va tôi đến phủ dưới chân quốc vương Candaha. Cùng tuôn nước mắt vì biết ơn lượng trời biển của vua. vừa vui mừng sẽ được chung sống với nhau, chúng tôi quả quyết với nhà vua, suốt đời chẳng bao giờ quên được ân sâu này.
Sau đấy hai chúng tôi ra khỏi hoàng cung cùng với Sapua và Calê Cairi, tìm đường trở về ngôi nhà cũ. Nhưng đến nơi, ngôi nhà đã bị cào bằng. Trước đó nhà vua ra lệnh triệt phá ngôi nhà. Những người được lệnh đã chấp hành nhanh nhảu lệnh của triều đình, đến nỗi nhà cửa đã bị đập phá tan tành tất cả đồ đạc trong nhà cũng như vật liệu đều đã được mang đi nơi khác, giờ không còn sót lại một viên ghạch. Dân chúng xung quanh cũng xông vào hôi của, thành ra đồ đạc bị cướp bóc hết sạch sành sanh.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI TÁM
Nàng công chúa và tôi đều ngỡ ngàng trước hạnh phúc vô biên và tình yêu vừa tìm lại được, tuy vậy vẫn không khỏi bàng hoàng trước quang cảnh ấy. Ngôi nhà trên thực tế là một dinh cơ chúng tôi thuê, và dĩ nhiên đồ đạc trong ấy không thuốc quyền sở hữu của mình. Ấy là chưa kể nàng Zêlica đã sai Calê Cairi mang từ cung riêng của nàng đến bao nhiêu vật quý giá khác, tất cả đều bị mất sạch. Còn được ít tiền, chúng tôi hỏi ý kiến tên hoạn nô và Calê Cairi nên làm thế nào bây giờ. Sau một thời gian bàn bạc khá lâu, chúng tôi nhất trí với nhau hãy tạm chuyển đển trọ một cái quán dành cho du khách.
Chúng tôi đang chuẩn bị đi đến đấy, thì một quan chức của nhà vua đến báo:
- Đức vua sai tôi đến báo, hoàng thượng mời các vị đến ở một dinh cơ khác. Chả là vị đại tể tướng cho các vị mượn một ngôi nhà lớn toạ lạc gần cổng thành phố, còn đẹp hơn dinh cơ ngài ở thời gian vửa rồi. Ở đấy các vị sẽ đầy đủ tiện nghi hơn. Mời các vị vui lòng theo, tôi xin dẫn đường đến tận nơi.
Ngôi nhà ấy quả là một dinh cơ sang trọng, xây dựng vững chải, nhìn bên trong bên ngoài đều tráng lệ và có khiếu thẩm mỹ cao. Hai mươi tên nô lệ chờ sẵn ở đấy. Họ thưa, được quan tể tướng sai họ đến đây hầu hạ. Họ được lệnh tể tướng truyền, ông bà cần gì, họ xin cung phụng đầy đủ và xin phục dịch các vị tận tuỵ như hầu hạ chính ngài tể tướng vậy, suốt thời gian các vị lưu lại nơi đây.
Hai ngày sau chúng tôi được đích thân tể tướng đến thăm. Ông mang tới cho nhiều tặng vật của đức vua. Có nhiều cuộn vải vóc lụa là sản xuất là Ấn Độ, ngoài ra còn có hai mươi túi tiền, mỗi túi đựng một nghìn đồng xơ canh vàng. Bởi chúng tôi cảm thấy không thoải mái lắm khi ở nhờ nhà của người khác, hơn nữa số tặng vật nhà vua ban cho đủ để chúng tôi dời đến một nơi ở khác, chúng tôi liền sát nhập với một đoàn lữ hành lớn của các thương gia từ Candaha chuẩn bị đi Bátđa và may mắn cùng họ an toàn trót lọt đến thành phố ấy.
Chúng tôi thuê tâm một ngôi nhà, những ngày mới đến ai nấy nghỉ ngơi cho lại sức sau một chuyến đi dài rất vả. Sau đó tôi vào thành phố tìm lại bạn bè. Ai cũng ngạc nhiên:”Ngài còn sống ư? Các nhà buôn từng lien kết với ngài đều quả quyết ngài đã qua đời”.
Nghe tin hai tay buôn kim hoàn kia hiện đang ở Bátđa. Tôi vội chạy đến xin gặp quan tể tướng. Tôi quỳ mọp dưới chân ông và thuật lại ông nghe tất cả mọi việc làm xấu xa tráo trở của chúng. Ông ra lệnh đòi hai tên kia đến, và cho phép tôi đối chất với chúng trước mặt ông. Tôi hỏi:
- Có đúng là khi hai anh túm lấy tay tôi, tôi thức giấc hỏi các anh định làm gì thế, các anh không trả lời mà ném tôi xuống biển qua cửa sổ khoang tàu?
Chúng đáp tôi nằm mơ thấy vậy thôi, chắc tôi ngủ say quá nên rơi xuống biển. Tể tướng hỏi vặn:
- Vậy thì tại sao khi đến Ormut gặp lại ông này, các anh lại làm ra vẻ không hề quen biết nhau?
Chúng đáp chúng không hề gặp tôi ở thành phố ấy. Quan tể tướng nghiêm nghị nhìn thẳng vào chúng và bảo:
- Hai tên phản trắc kia, vậy các anh sẽ trả lời thế nào nếu ta đưa cho xem một giấy chứng nhận của quan chánh án thành phố Ormut khẳng định điều ngược lại?
Hai tên buôn kim hoàn tái mặt và đâm ra lúng túng. Quan tể tướng bảo:
- Các anh đã biến sắc mặt. Điều ấy chứng tỏ các anh phạm tội. Giờ các anh có chịu nhận tội ngay không, hay chờ người ta phải dùng đến cực hình mới chịu khai ra?
Hai tên buôn kim hoàn thú tội, và bị tống giam. Hoàng đế biết được chuyện ấy, truyền cho hỏi chúng muốn xin kiểu hành quyết nào. Nhưng hai tên buôn tìm được cách mua chuộc mấy tên lính gác trại tù, chúng thoát ra khỏi trại giam và biến mất. Cho dù quan tể tướng cho người lùng sục khắp kinh thành Bátđa, vẫn không sao tìm ra tông tích hai tên phạm tội. Tuy nhiên, mọi tài sản của chúng bị tịch thu, sung vào kho tàng của Hoàng đế, trừ một phần nhỏ người ta giữ lại để đền bù những thiệt hại của tôi do bọn chúng gây nên.
Từ đấy, tôi chỉ còn nghĩ đến việc sống một cuộc sống bình yên thanh thản với nàng công chúa của mình. Hai chúng tôi ăn ở với nhau rất thuận hoà. Tôi chỉ cầu mong trời dất cho chúng tôi được sống trong cảnh này đến cuối đời. Nhưng mong ước của tôi chỉ vô ích. Làm sao con người trên trần thế có thể dài lâu được hưởng thụ cuộc sống một cách êm đềm? Một đêm, tôi đi chơi với bạn bè, khi trở về nhà tôi đập cửa, chẳng thấy air a mở. Ngạc nhiên, tôi đập mạnh hơn nữa,vẫn chẳng thấy ai xuất hiện. Tôi lo lằng tự hỏi: “Thế này là thế nào nhỉ? Hay là một bất hạnh mới lại vừa xảy ra?”
Nghe tiếng tôi đập cửa ầm ầm những người hàng xóm chạy ra xem, ai cũng ngạc nhiên sao bọn người nhà không ra mở. Họ xúm lại giúp tôi phá cửa vào nhà. Vào tới sân rồi bước tới gian phòng đầu tiên, đã nhìn thấy mấy người nhà bị giết hại. Vào phòng riêng của Zêlica, cảnh tượng mới hãi hùng làm sao! Cả viên hoạn nô và Calê Cairi đều nằm trong vũng máu. Tôi lên tiếng gọi nàng công chúa của tôi, không có lời đáp lại. Tôi chạy như điên chạy xục xạo khắp nhà cửa vườn tược chẳng thấy nàng đâu, tôi loạng choạng rồi ngã xuống đất bất tỉnh trong vòng tay mấy người hàng xóm. Hạnh phúc cho tôi xiết bao, giá như lúc ấy tôi được thần chết mang đi luôn. Nhưng trời vẫn bắt tôi cứ sống để chứng kiến tất cả mọi điều khủng khiếp trong số phận mình.
NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI CHÍN
Sau khi những người háng xóm giúp cứu tôi hồi tỉnh- tôi rất tiếc họ cứu tôi làm gì- tôi hỏi làm sao bọn tội phạm có thể gây nên một cảnh giết chóc ghê ghớm như vậy trong nhà tôi mà hàng xóm không ai nghe động tĩnh. Họ đáp họ chẳng hề nghe tiếng ồn ào, và cũng lấy làm ngạc nhiên về điều ấy. Tôi vội chạy đến trình với quan chánh án, ông phái viên phó của mình cùng nhiều lính cảnh sát đi điều tra lùng bắt, song mọi cố gắng của họ đều vô ích, rồi từ đấy trở đi ai muốn nghĩ thế nào về câu chuyện bị thảm vừa xảy ra thì cứ nghĩ.
Tôi cũng như nhiều người khác đều nghĩ chính hai tên từng liên kết với tôi trong việc buôn bán là hung thủ của vụ này. Tôi buồn rầu quá, sinh ốm nặng, tôi sống những ngày héo hon, sau đấy quyết định bán ngôi nhà, và dời sang sống ở thành phố Muxen mang theo số của cải còn lại. Sở dĩ tôi quyết định như vậy vì ở Muxen tôi có một người bà con tôi rất quý, ông ta là người giúp việc vị đại tể tướng triều đình. Người bà con ấy tiếp đón tôi rất nồng hậu. Ít lâu sau tôi được làm quen vị đại thần. Thấy tôi cũng có ít nhiều khả năng điều hành, ông giao việc cho tôi làm. Tôi cố gắng làm mọi việc ông giao đến nơi đến chốn, việc nào cũng đạt kết quả. Mỗi ngày vị tể tướng ấy càng tin tưởng tôi hơn, và thế là dần dần tôi làm quen các công việc cơ mật quốc gia. Tôi còn chia sẻ với tể tướng trách nhiệm nặng nề ông ghánh vác. Mấy năm sau khi vị tể tướng ấy qua đời, tôi được đức vua, chắc trước đó cũng có nghe lời khen ngợi và gửi gắm tôi, cho phép tôi thế vào chân quan tể tướng.
Tôi phục vụ hai năm trên cương vị ấy. Nhà vua cũng như dân chúng ai ai cũng hài long về công việc của tể tướng mới, thậm chí đức vua để chứng tỏ mình vui lòng, còn ban cho tôi danh hiệu Atanmuc (Quốc Bảo). Thế nhưng chẳng bao lâu tôi bị nhiều người ghanh tị. Một số vị đại thần trong triều trở thành kẻ thù của tôi dù không để lộ ra mặt. Họ dèm pha tôi, nói xấu tôi với hoàng tử Muxen, hoàng tử thưa lại với vua cha, xin nhà vua cách chức tể tướng của tôi. Lúc đầu quốc vương không đồng ý, nhưng hoàng tử khẩn khoản quá, cuối cùng vua làm theo lời con trai. Tôi rời thành phố Muxen, sang kinh đô Đamat, và ít lâu sau tôi vinh sự được phụng sự hoàng thượng.
Tâu bệ hạ, đấy là câu chuyện về cuộc đời tôi, đấy là nguyên nhân gây nên nỗi buồn sâu sắc chẳng bao giờ khuây khoả nổi của tôi. Hình ảnh nàng Zêlica bị bắt cóc luôn hiện trong đầu óc, làm cho tôi vô cảm trước mọi niềm hứng thú trong cuốc đời. Giá mà tôi hay tin nàng đã qua đời, thì có thể như lần trước, rồi may ra tôi dần dần có thể khuây nguôi.  Nhưng vì không biết rõ số phận nàng hiện sống chết ra sao, tôi không sao quên lãng, và nỗi đau trong lòng ấy chính là nguồn nuôi dưỡng vẻ buồn triền miên trên nét mặt tôi. 
Chưong 13: Chuyện quốc vương Bêrêđin-LôLô (tiếp theo)
Chờ tể tướng kể Atanmuc xong các câu chuyện về cuộc đời ông, nhà vua nói:
- Giờ ta không còn ngạc nhiên tại sao ông luôn buồn bã vậy, ông có lý do để buồn. Nhưng không phải ai cũng mất đi một nàng công chúa như ông. Vì vậy thật sai lầm khi ông nghĩ trên đời này không tìm đâu ra một con người một con người hoàn toàn hài lòng về cuộc sống của mình. Ông lầm to rồi đấy. Chẳng cần phải kể ra hàng nghìn người khác, cứ nói luôn hoàng thân Sêypen-Muluc kia, vị đại thần thân quý của ta, ông ấy thật là người hoàn toàn hạnh phúc.
Muôn tâu bệ hạ, tôi đâu có chắc. Nhìn bên ngoài ông ấy có vẻ hạnh phúc đấy, nhưng tôi không dám quả quyết trên thực tế ông ta đúng như vậy.
Đây là một điều ta muốn sáng tỏ ngay tức khắc- nhà vua thốt lên.
Nói xong, vua gọi viên chỉ huy cấm vệ, sai đi mời hoàng thân Sêypen-Muluc đến gặp mình.
Viên chỉ huy tuân lệnh. Một lúc sau, hoàng thân đến chào quốc vương. Nhà vua bảo ông:
- Hoàng thân à, ta muốn biết hoàng thân có hài lòng về số phận của mình không?
- “ Tâu bệ hạ,- hoàng thân đáp- sao ngài hỏi tôi câu ấy? Cho dù là người nước ngoài, tôi được mọi người ở thành phố này trọng vọng. Các vị đại thần tìm cách làm vui lòng tôi, có những người còn tìm cách lấy lòng tôi nữa. Tôi được hoàng thượng ban cho bao nhiêu ân sủng, tóm lại, tôi được ngài quý, còn thiếu gì nữa mà bảo tôi không hạnh phúc? "
- Điều quan trọng là hoàng thân phải nói thật lòng với ta- nhà vua tiếp- Tể tướng Atanmúc đây cho rằng trên đời không có ai hạnh phúc, ta thì cho ngược lại; ta nghĩ hoàng thân chính là người hạnh phúc đấy. Xin ông hãy cho ta biết, ta có nhầm lẫn không. phải chăng ông có một nỗi cay đắng nào đó dấu kín trong lòng làm giảm đi sự êm đềm trong cuộc sống hạnh phúc hàng ngày? Xin hoàng thân hãy nói thật, ta mong từ miệng ông chân thành nói cho ta rõ những điều ông hằng nghĩ trong thâm tâm.
Lúc này, hoàng thân Sêypen- Mulúc mới ngỏ lời:
- Tâu bệ hạ, bởi ngài truyền lệnh cho tôi mở toang cánh cửa tâm hồn mình, tôi xin thưa mặc dù ngài rất quý mến tôi, mặc dù cuộc sống tôi hiện nay đầy lạc thú do tôi biết chọn đất nước ngài làm nơi cư trú, tôi vẫn luôn cảm thấy một nỗi băn khoăn luôn quấy động sự yên tĩnh của tâm hồn. Trong trái tim tôi luôn có một con sâu đang ngày đêm đục khoét, và điều khốn khổ hơn, là nỗi đau của tôi không có thuốc nào chữa trị.
Quốc vương Đamát ngạc nhiên nghe vị hoàng thân sủng ái của mình thốt ra những lời như vậy. Vua nghĩ hẳn ông cũng có một nàng công chúa nào đấy bị người ta bắt cóc mất. Vua bảo ông:
- Hoàng thân hãy kể cho chúng ta nghe câu chuyện của hoàng thân. Ta sẽ nhầm nếu nỗi buồn của ông không phải do mất đi một nàng công chúa, giống như nguyên nhân gây nên nỗi buồn của tể tướng Atanmuc.
Vị khách được quý mến của nhà vua tuân lệnh. Ông cất lời kể câu chuyện về cuộc đời mình như sau.
Chương 14: Chuyện hoàng thân Sêyp- En -Muluc
Như tôi từng có dịp tâu hoàng thượng, tôi vốn là con trai hoàng đế Ai Cập đã quá cố là Axen Ben Xêfuan, em trai nhà vua hiên nay đang trị vì nước ấy. Năm lên mười sáu tuổi, một hôm tôi tình cờ thấy cửa kho tàng vua cha để ngỏ. Tôi bước vào và chăm chú ngắm nhìn những vật mà tôi cho là lạ lùng quý hiếm nhất trong kho. Tôi đặc biệt chú ý một cái hòm nhỏ bằng gỗ trầm hương đỏ, khảm kim cương, ngọc trai, hồng ngọc và tử ngọc. Sẵn cái chìa khoá vàng đã tra vào ổ khoá, tôi mở ra, cùng một cái hộp mỏng bằng vàng đựng chân dung một người phụ nữ.
Khuôn mặt của người phụ nữ trong chân dung rất cân đối, đường nét quá đẹp, dáng vẻ quá duyên, làm tôi tiên nghĩ đây là một bức tranh được người ta tưởng tượng ra để vẽ cho vui. Tôi tựbảo: “Con người là tác phẩm của tự nhiên cho nên chẳng bao giờ được hoàn hảo thế này. Bức tranh này đã làm nên vinh dự cho người đã cầm cành cọ sáng tác nên.” Tôi khâm phục trí tưởng tượng của nhà hoạ sĩ tài năng đã hình dung nên một khuôn mặt thế này.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM
Đôi mắt tôi không thể nào dời khỏi bức hoạ ấy, và điều kỳ lạ hơn nữa, là nó khiến tôi đâm yêu người trong tranh. Tôi nghĩ đây có lẽ là chân dung của một nàng công chúa hiện đang còn sống, và cành mê người trong tranh tôi cành tin chắc đấy là một người hiện còn sống trên đời. Tôi đóng cái hộp lại, bỏ vào túi cùng với chiếc nhẫn. Tự nhiên tôi nảy ra ý muốn lấy cắp cái hộp này và cứ thế ra khỏi kho tàng.
Tôi có một người bạn tâm tình tên là Xaơt. Anh ta là con trai một vị đại thần ở kinh đô Cairo. Tôi rất quý anh ta, anh lớn hơn tôi mấy tuổi. Tôi kể cho anh nghe câu chuyện. Anh hỏi bức chân dung đâu, tôi đưa anh xem. Anh lấy bức chân dung ra khỏi cái hộp để nhìn mặt sau xem có viết gì có thể giúp sáng tỏ điều tôi muốn biết, tức là tên nàng công chúa trong tranh. Chung quanh thành hộp, ở mặt trong, quả có ghi dòng chữ bằng tiếng Arap: Bêdyan-Giêman, con gái quốc vương Saban.
Sự phát hiện ấy làm tôi vui thích. Tôi hài lòng nhận ra không phải mình yêu một vật tưởng tượng, mà là một người có thực. Tôi nhờ anh bạn tâm tình tìm hiều xem quốc vương Saban trị vì ở nước nào. Xaơt đi tìm hỏi rất nhiều người thông thái nhất ở thành phố Cairo, không một ai có thể nói cho rõ, khiến tôi quyết định tự mình sẽ đi du hành, nếu cần rong rủi khắp cả thế giới này, để tìm nàng công chúa ấy, và chỉ trở về Ai Cập sau khi được nhìn thấy nàng Bêdyan-Giêman.
Tôi xin phép hoàng đế thân sinh cho tôi được sang thành phố Bátđa xem triều đình, đấng thống lĩnh các tín đồ, và thăm thú những cảnh vật kỳ diệu ở thành phố nổi danh ấy, tôi từng nghe bao nhiêu người ca ngợi. Phụ vương tôi đồng ý cho phép. Bởi tôi thích du ngoạn theo lối du hành, không để ai hay biết mình là ai, nên không đồng ý lên đường với một đoàn tuỳ tùng đông đảo kèn giong trống nổi khi rồi thành phố Cairo. Tuỳ tùng của tôi chỉ có anh bạn tâm tình Xaơt cùng mấy tên nô lệ mà tôi đã tin chắc lòng trung thành tận tuỵ.

Tôi đeo chiếc nhẫn đẹp lấy trong kho tàng của vua cha vào ngón tay. Suốt đường đi, tôi chỉ có mỗi việc tâm sự với anh bạn tâm tình về nàng công chúa Bêdyan-Giêman, mà tôi luôn cầm trong tay bức chân dung, không lúc rời. Đến thành phố Bátđa, sau khi xem tất cả những nơi kỳ thú nhất, tôi đi tìm hỏi các học giả uyên thâm, nhờ họ chỉ cho biết quốc gia của nhà vua Saban ở vào phương nào trên trái đất này. Tất cả đều trả lời không biết. Nhưng, có người nói thêm, nếu toio thiết tha muốn biết đến vậy điều mà tôi cho là quan trọng ấy, thì nên chịu khó đi về phía Nam, xuống tận thành phố Basra tìm gặp một cụ già năm nay bảy mươi tuổi tên là Patmanaba. Cụ già ấy là một người không có gì trên đời cụ không biết, chắc cụ có thể thoả mãn điều tôi muốn rõ.
Ngay lập tức tôi rời Bátđa, tôi đi nhanh như bay về thành phố Basra, tôi hỏi thăm nhà cụ già ở đâu. Người ta chỉ cho tôi nơi ở của cụ, tôi đến ngay xin gặp. Đấy là một cụ già vẻ đáng kính, tuy thời gian gần hai thế kỷ đã làm trán cụ nhăn sâu, cụ vẫn giữ được dáng vẻ cường tráng. Cụ vừa cười vừa hỏi tôi:
- Con trai, con có việc gì muốn nhờ đến già này?
- Thưa cha- tôi đáp- con muốn biết quốc vương Saban trị vì đất nước nào. Đấy là một điều cực kỳ quan trọng đối với con. Con có hỏi nhiều bậc thông tháu ở thành phố Bátđa, không ai có thể chỉ cho con biết. Tuy nhiên họ quả quyết với con, cha sẽ có thể nói rõ tên nước ấy và chỉ cho biết đường dẫn tới vương quốc của vua Saban.
- Con trait a à- cụ già đáp- những nhà thông thái đã giới thiệu ta cho con đến gặp, họ nghĩ ta là người không ngu dốt lắm nhưng thực ra không phải như vậy. Ta không hiểu chính xác quốc gia vua Saban ở đâu. Ta chỉ mang máng có một lần một nhà du hành nhắc đến tên nước ấy. Nếu ta không nhầm, quốc vương Saban trị vì trên một quốc đảo đâu ở gần đảo Xêrenđip(còn gọi đảo Coylan, tức Sri Lanka ngày nay) . Nhưng đấy cũng chỉ là phỏng đoán mà thôi, có thể ta nghe nhầm lắm.
Tôi cảm ơn cụ Patmanaba, ít ra cụ cũng chỉ cho tôi một địa chỉ cụ thế, sau khi đến được nơi đấy rồi, hy vọng có thể sáng tỏ hơn điều mình muốn biết.Tôi quyết định khởi hành đến đảo Xêrenđip. Tôi cùng với anh bạn Xaơt cùng với mấy tên nô lệ đáp tàu ở vịnh Basra, trên một chuyến tàu buôn giong buồm đi về thành phố cảng Xurat của nước Ấn Độ. Từ Xurat, chúng tôi sang thành phố Goa.
Đến nơi, chúng tôi hay tin, mấy ngày nữa sẽ có một chuyến tàu buôn lên đường đến đảo Xêrenđip. Chúng tôi không bỏ lỡ cơ hội. CHiếc tàu rời khỏi Goa thuận buồm xuôi gió, nhờ vậy ngày đầu tiên đi được khá nhiều đường. Nhưng từ ngày thứ hai, gió đổi hướng, rồi một cơn bão nổi lên rất dữ dội, đến nỗi các thuỷ thủ nghi chắc khó tránh khỏi cái chết, cứ bỏ mặc cho con tàu vật vờ trôi theo sóng gió biển khơi. Sóng rất to, khi thì sâu hoằn như một cái vực sắp nuốt chửng con tàu, khi thì cao như một quả núi nâng chiếc tàu lên tận mây xanh.Trong một thời gian rất lâu, trước sóng to gió mạnh, con tàu trông chẳng khác một đồ chơi của trẻ nhỏ. Nhưng điều làm cho tất cả chúng tôi đều kinh ngạc, ai cũng cho đây là chuyện thần kỳ, vì chiếc tàu không đắm.
Chúng tôi lạc vào một hòn đảo cạnh quần đảo Manđivơ(quần đảo Maldiver ở Ấn Độ Dương).
Hòn đảo ấy không rộng, và dường như không có người ở. Chúng tôi chuẩn bị lên đất liền, định đến một khu rừng rậm rịt nhìn thấy ở chính giữa đảo, thì một thuỷ thủ già thành thạo các con đường biển vùng Ấn Độ Dương cho biết hòn đảo ấy có những thổ dân man rợ, thờ linh vật là một con rắn thần. Họ có tục những người nước ngoài nào chẳng may rơi vào tay họ thì họ bắt mang đến dâng thần rắn ăn thịt. Người thuỷ thủ già khuyên không nên xuống tàu ở đây, tốt hơn nên cho tàu cố trở ra biển, và nếu có thể tìm cách cập bến ở quần đảo Malđivơ. Thuyền trưởng vốn biết thuỷ thủ cao niên này là một người đi biển rất có kinh nghiệm, cụ không bao giờ nói ra một điều gì không chắc chắn. Ông quyết định không cho người lên đất liền nữa, chờ đến rạng sáng hôm sau sẽ nhở neo ra khơi, tránh xa một chốn đầy cạm bẫy nguy hiểm như thế này.
Quyết định của thuyền trưởng rất đúng đắn, nhưng tốt hơn biết bao giá con tàu rời đảo ngay trong đêm, thà phó số phận cho biển cả trong đêm đen còn hơn nấn ná lại đây. Bởi ngay nửa đêm hôm ấy, chúng tôi bị một số rất đông thổ dân từ hòn đảo ấy xông lên tàu, trói tất cả lại và dẫn về nơi ở của họ.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ MỘT
Đến hôm sau, khi trời rạng sáng những thổ dân dẫn chúng tôi đi băng qua một khu rừng rậm từ trên tàu chúng tôi nhìn thấy chiều hôm trước, đến trung tâm cư trú của bộ tộc họ. Đấy là một khu đất bằng có rất nhiều túp lều nhỏ tường đắp bằng đất, sườn nhà làm bằng gỗ, quây quần xung quanh một ngôi nhà lớn hơn tất cả song cũng chỉ làm bằng gỗ và đất- những người thổ dân gọi đấy là Cung điện của Quốc vương họ.
Chúng tôi được dẫn vào cung điện ấy. Trên  một cái ngai làm bằng đá lổn nhổn làm băng vỏ sò vỏ ốc, nhà vua ngự ngật ngưỡng. Đấy là một người da đen thân hình hết sức cao lớn, nhưng bộ mắt hết sức xấu xí trông kinh sợ đến nỗi ông có giống một con quỷ hơn một con người. Ngồi bên cạnh vua là công chúa con gái ông, cô cũng giống cha về tầm vóc và nhan sắc của nàng cũng hao hao chẳng khác cha nàng là mấy.
Người có vẻ như là chỉ huy toán thổ dân dẫn chúng tôi đến đây, buộc chúng tôi phải quỳ lạy vị quân vương da đen và cô con gái của ông. Tiếp đó y tâu với vua ve thắng lợi chuyến cất quân vừa rồi. Nhà vua nghe có vẻ thích thú lắm, sau đó khen ngợi họ, nói đức vua hài lòng về việc y và những người dưới quyền y vừa thực hiện. Rồi đưa tay chỉ chúng tôi, vua nói với tể tướng đứng bên cạnh:
- Ông hãy sai dẫn những tù binh này giam vào một nhà riêng, và cứ mỗi ngày bắt một tên mang đến dâng thần rắng của chúng ta.
Tể tướng tuân lệnh. Ông thân hành dẫn chúng tôi sang giam ở một ngôi nhà riêng biệt. Theo lệnh tể tướng, hàng ngày người ta mang đến cho chúng tôi thức ăn nấu bằng hạt kê và nhiều thực phẩm khác để vỗ béo. Ngay hôm đầu tiên, hai tên da đen đã đến bắt một bạn đồng hành của chúng tôi mang đi cúng thần rắn. Hôm sau, chúng lại đến bắt một người khác. Cứ như vậy, mỗi sáng một người bạn đồng hành của chúng tôi bị con rắn quỷ ăn sống. Tất cả, từ mấy người nô lệ của tôi, viên thuyền trưởng, viên hoa tiêu cũng như các thuỷ thủ trên tàu, đều lần lượt bỏ mình.
Chỉ còn lại Xaơt và tôi. Chúng tôi chuâtn bị sẵn sàng để chịu chung số phận với mọi người. Trong khi chờ bọn thổ dân đến tách chúng tôi ra, bắt xa nhau vĩnh viễn, anh bạn tâm tình nói với tôi:
- ÔI, hỡi hoàng tử thân yêu, đã không còn cách nào chúng ta thoát khỏi chết, vậy tôi cầu trời khẩn thánh cho tôi được chết trước ngài! Cầu trời đừng để cho tôi nhìn thấy cảnh chúng dẫn ngài đi cho rắn thần ăn thịt! Việc ấy làm tôi quá đau đớn không làm sao chịu nổi.
- Hỡi anh Xaơt,- tôi đáp- tại sao số phận anh tự dưng đang yên lành lại gắn với cái nỗi bất hạnh của tôi? Tại sao khi đam mê một mối tình nhu xuẩn, tôi muốn giã từ thành phố Cairo của chúng ta đi tìm một người chẳng phải thuộc về tôi, anh không để cho tôi đi một mình? Anh đã khuyên can tôi rất nhiều, anh bảo tôi nên từ bỏ ý định phiêu lưu, vậy mà tôi đã bỏ ngoài tai mọi lời khuyên khôn ngoan, để đến nổi bây giờ anh phải bỏ mạng cùng với người không nghe lời không nghe lời khuyên của mình, trời đất an bài như vậy, sao gọi là công bằng?
Trong khi chúng tôi than thở với nhau thì hai tên thổ dân đến bảo tôi:
- Hãy đi theo chúng ta!
Tôi rùng mình khi nghe lời chúng nói. Tôi quay lại định nói với anh Xaơt lời vĩnh quyết. Cả anh và tôi lúc ấy không ai nói lên lời, trong lòng vừa lo sợ vừa đớn đau. Hai người chỉ còn biết nhìn nhau, bày tỏ cảm tình qua ánh mắt. Hai người thổ dân dẫn tôi đến một ngôi nhà rộng. Tôi tưởng chúng sắp làm thị tôi ở đây, thì một người phụ nữ da đen bước vào và nói:
- Hãy yên tâm đi, chàng trai trẻ, anh không phải chịu chung số phận với các bạn đồng hành của anh. Công chúa Husnara, bà chủ của tôi, dành cho anh một số phận êm đềm hơn nhiều. Tôi không muốn nói nhiều hơn nữa vào lúc này, bởi công chúa muốn tự mình nói cho anh hay điều thú vị ấy. Tôi là nô tỳ được tin cậy nhất của công chúa, tôi được lệnh dẫn anh đến một nơi bí mật trong ngôi nhà này, công chúa đang sốt ruột chờ anh ở đấy.
Nghe vậy, hai người thổ dân dẫn tôi đến bỏ đi ra ngoài. Người nô tỳ tin cậy của công chúa Hasnara cầm tay dắt tôi đến một căn phòng nhỏ, ở đấy chỉ có một mình công chúa. Cô đang ngồi trên một vật trông giống như cái sập, trên mặt sập phủ tấm da thú.
Nàng công chúa ấy có nước da xanh nhợt, đôi mắt tí hí sắc như hai lưỡi dao, mũi hếch, mồm rộng, đôi môi khá dày và hai hàm răng đen. Mái tóc của cô ngắn xoăn tít và đen tựa hạt huyền. Trên đầu công chúa đội một cái mũ khá đơn giản may bằng vải vàng có thêu hoa văn bằng chỉ đỏ, trên chóp mũ cắm chùm lông chim nhiều màu sắc sặc sỡ. Cổ cô xâu một chuỗi hạt hái từ cây talogaigia phơi khô nhuộm xanh, nhuộm vàng. Một chiếc áo khoác dài kết bằng da hổ phủ từ vai cô xuống đến tận chân. Nhan sắc công chúa này quả khó làm tôi quên nàng công chúa Bêđyan-Giêman của mình.
Vừa thấy tôi, công chúa nói:
- Hãy đến gần đây hơn nữa, hỡi chàng trai trẻ, hãy đến ngồi cạnh ta. Ta có nhiều điều nói cho anh biết, đủ để an ủi anh chẳng may rơi vào tay phụ thân ta. Chắc anh nghe ta nói vậy,- cô nói tiếp sau khi tôi ngồi xuống- hẳn lòng anh phải nôn nao lắm muốn rõ ngay ta định nói gì. Ta tha thứ cho anh điều ấy, bởi đối với anh, đây là chuyện quan trọng nhất và vui thú nhất trên đời cơ mà. Khi vừa nhìn thấy anh, ta đã thích ngay. Không những ta muốn cứu mạng sống cho anh, ta còn có ý định chọn anh làm người. Ta chuộng hơn tất cả các vị đại quan trong triều đình, anh phải biết, bất cứ vị nào nhìn thấy ta cũng hết sức đắm say vì sắc đẹp của ta.
Mặc dù lời thú nhận ấy không khiến tôi ngạc nhiên nhiều, bởi người nô tỳ đã chuẩn bị trước, song vẫn không thể không khiến tôi vô cùng bối rối. Tôi phân vân không biết có nên đáp lời công chúa đúng như cô đang chờ đợi hay không, ngược lại, nếu nói toẹt ra ý nghĩ của mình sợ cô nổi giận. Nhìn thấy tôi lúng ta lúng túng, ngồi im không đáp, công chúa lại đáp:
- Chàng trai trẻ à, ta chẳng chút nào ngạc nhiên tại sao chàng im lặng và lộ vẻ bối rối. Hẳn không chờ đợi một nàng công chúa trẻ đẹp như thế này chịu hạ mình tỏ tình với anh trước. Và cũng có thể nỗi ngạc nhiên khi nhận được hạnh phúc bất ngờ khiến anh không thốt nên lời. Nhưng không sao, ta không phật lòng trước sự bối rối của anh đâu, ta thú thật, thái độ ấy còn khiến ta khoái trá là khác. Ta nhìn thấy ở đấy dấu hiệu tốt lành cho tình yêu chúng ta. Và sự im lặng của anh, có lẽ do quá mừng vui không thốt nên lời, còn làm ta thú vị hơn những lời cám ơn dài dòng nếu được anh nói ra.
Nói đến đây, cô đưa một bàn tay lên cho tôi hôn, coi như đấy là khúc giáo đầu bao lạc thú cô định dành cho tôi.
Cô nàng quá tin chắc chẳng ai nhìn thấy mình mà không đem lòng yêu thương, vì vậy cô nhìn mọi dấu hiệu chán chường ghê sợ hiện lên trên nét mặt và trong cử chỉ của tôi đều là biểu chứng của tình yêu. Trong thời gian ấy, hai nữ nô tỳ mang đến trải ra đất mấy tấm da thú, và lát sau đặt lên trên các tấm da ấy nhiều đĩa đựng hạt kê nấu với cơm, cùng một ít thịt dầm mật ong. Nàng công chúa lệnh cho tôi hãy nằm xuống như nàng trên các tấm da thú ấy và cùng dùng bữa với nhau.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ HAI
Tôi không động vào các thức ấy, cho dù cô công chúa không ngừng mời mọc tôi hãy ăn cho nhiều vào. Cô nói:
- Thế nào, chàng trai trẻ, anh không đói ư? Càng làm cho ta thú vị, chắc bởi trong khi chờ đợi giờ phút hạnh phúc, anh quá nôn nóng cho nên không thiết ăn uống chứ gì. Tuy nhiên,- cô nói tiếp- cho dù ta có khơi gợi lên trong anh sự náo nức đến bao nhiêu, phải chờ đến tối hôm nay, ta mới cho anh được hưởng sung sướng tuyệt đỉnh. Giờ ta còn phải đến gặp phụ vương ta, để xin người cho anh được sống, xin cả cho cậu bạn của anh, bởi cô nô tỳ tin cẩn của ta là Miahasya cũng đâm ra thích anh chàng ấy.
Nói đến đây, cô gọi mang đến một tấm mạng che mặt, sửa soạn đến ra mắt phụ vương.
Chàng trai trẻ à,- cô nói với tôi- giờ anh hãy quay trở về nơi anh ở, gặp người bạn đồng hành của anh, nói cho cậu ấy biết cậu có hạnh phúc được cô nô tỳ tin cẩn của ta yêu. Tự anh hãy mang cái tin tốt lành ấy về cho bạn, hai người hãy cùng mừng vui với nhau cho thoả. Hãy tạ ơn duyên sỗ. Nhờ duyên may, hai anh không phải chịu tai ương như các bạn bè khác, trái lại còn được hưởng một cuộc sống lạc thú ngay ở nơi họ đã bỏ mạng. Chiều nay, ngay khi mặt trời vừa ngưng soi sáng hòn đảo này, ta sẽ cho người tìm anh đến ăn tối với ta, sau đó chúng ta cùng vui vẻ.
Tôi cảm ơn công chúa Husnara, cho dù thâm tâm muốn thà được chết đi còn hơn lợi dụng cơ hội này. Một thổ dân được cô gọi đến, bảo đưa tôi trở về nơi đã giam chúng tôi. Làm sao tả hết niềm vui của Xaơt khi anh thấy tôi trở về. Anh tưởng như vừa xảy ra một câu chuyện thần kỳ, và rồi sẽ còn một chuyện thần kỳ tiếp theo đưa hai chúng tôi trở về đất nước Ai Cập ngay tức khắc. Anh thốt lên:
- ÔI, ngài lại trở về đấy ư, hoàng tử thân yêu của tôi! Tôi đã ngỡ không bao giờ còn gặp lại chủ nhân của mình; tôi đã ngỡ bọn dã man kia đã đem ngài dâng cho thần rắn của họ rồi. Có thể nào ngài trở về đây, Làm ráo đi những giọt nước mắt tôi đang khóc ngài?
- Đúng vậy, anh Xaơt à,- tôi đáp- tôi trở về đây, về để báo cho anh biết mạng sống của tôi giờ đây chỉ tuỳ thuộc ở tôi. Tôi có thể nếu tôi muốn thoát khỏi số phận đau thương như các bạn đồng hành của chúng ta đã chịu.
- ÔI thưa ngài,- Xaơt đột ngột ngắt lời- Tôi có thể tin lời ngài được chăng? Tôi có thể tin chắc ngài đã thoát nạn? Và còn tin vui nào nữa ngài sắp cho tôi nghe?
- Tôi không bao gì nói với anh điều gì không chân thực,- tôi đáp- nhưng anh cần biết rõ, nếu muốn cứu mạng sống của mình, tôi phải trả giá. Anh biết rồi, sẽ không còn mừng vui đến vậy, và anh còn thương hại tôi hơn  cả khi tôi phải bỏ mình.
Tôi kể cho Xaơt nghe câu chuyện vừa rồi giữa tôi và công chúa Husnara con vua thổ dân. Sau khi lắng nghe, anh bạn tâm tình của tôi nói:
- Tôi đồng ý thật khó chịu khi phải ôm ấp một người tình như cô ấy. Ngài bực mình và ghét bỏ công chúa ấy không phải là không có lý.. Tôi hiểu rõ tâm sự ngài lắm. Nhưng cuộc sống là một điều rất tốt đẹp, thưa ngài! Ngài nên nhớ, phải chết vào tuổi của ngài thật đáng buồn sao. Thưa hoàng tử, ngày hãy cố lên, hãy gắng chịu đựng, ngài phải chấp nhận cái điều không thể nào tránh khỏi.
Nghe Xaơt nói vậy , tôi thốt lên:
- Anh Xaơt ơi, sao anh dám khuyên tôi những lời như vậy? Anh nghĩ tôi có thể làm theo những lời khuyên của anh sao? Rồi chúng ta sẽ xem, bản thân anh có làm được hay không điều anh khuyen người khác. Tôi báo trước để anh biết, anh cũng đang ở trong trường hợp như tôi. Người nô tỳ tin cẩn của công chúa yêu thương anh đấy, người ấy chẳng mấy xinh hơn bà chủ của mình. Anh có sẵn sàng tối nay đến đáp tình yêu của người ấy?
Xaơt biến sắc mặt:
- Trời đất! Tôi vừa nghe gì vậy! Người nô tỳ tin của công chúa muốn tôi chung sống sao? Ôi, thà bọn thổ dân đến dẫn tôi vào đền dâng cho thần rắn, còn nghìn lần hơn tôi được người ấy vuốt ve…
- À thế đấy, anh Xaơt à.- tôi nói- Vậy anh quên đi, cuộc sống là một sự rất tốt đẹp trên đời sao, thưa anh? Anh vừa nghe nói, người ta ép anh yêu một vật khủng khiếp như vậy thì anh đã không còn sợ phải chết, vậy mà anh muốn tôi không sợ chết sao! Hãy thú nhận đi chẳng có gì vượt nổi tiếng nói của trái tim. Thật khó tỏ tình với một người chỉ khiến mình ghê tởm. Vậy, hai ta hãy cùng chết, còn hơn giả vờ âu yếm hai con người lòng không thể nào yêu.

Người bạn tâm tình chia sẻ ý kiến của tôi. Thế là chúng tôi chỉ còn nghĩ đến chuyện chết. Chúng tôi nôn nóng chờ đêm đến, không phải để hưởng lạc thú mà người ta hứa hẹn, mà muốn sỉ mạ những người muốn yêu mình, để bày tỏ cho họ thấy chúng tôi ghê tởm đến bao nhiêu. Việc này cũng là một điều lạ đối với những người ấy. Chúng tôi tin, bằng thái độ của mình, làm các cô nổi giận, rồi các cô bắt chúng tôi phải chịu tội chết. Chúng ta đều biết, một người đàn bà xinh đẹp khi bị khinh rẻ có khả gây những hành động cùng cực như thế nào, thì những người phụ nữ xấu xí và độc ác bị dè bỉu còn có khả năng xử sự dữ dội hơn nhiều.
Trời vừa tối, một người thổ dân do công chúa Husnara phái đến, nói với chúng tôi:
- Những anh tù binh hạnh phúc kia, hãy chuẩn bị đi hưởng lạc thú. Có hai người tình đang sẵn sàng dành cho hai anh duyên phân thú vị. Các anh hãy ta ơn cái ngày biển cả và bão táp đã dạt các anh lên bờ biển này.
Chúng tôi lẳng lặng đi theo người thổ dân không nói năng. Nhưng chỉ nhìn nỗi buồn hay đúng hơn là cơn tuyệt vọng hiện lên trong đôi mắt của chúng tôi, hẳn anh chàng có thể hiểu rồi các bà phụ nữ sẽ chẳng có gì để hài lòng. ANh dẫn chúng tôi đến gian nhà riêng của công chúa. Cô đang nằm dài trên tấm da thú đang trải trên đất, dùng bữa tối với người nô tỳ tin cẩn. Công chúa Husnara bảo tôi:
- Anh hãy đến ngồi xuống cạnh ta, còn anh bạn của anh hãy ngồi xuống cạnh Miahasya.
Hai người ép chúng tôi phải ăn nhiều món. Thỉnh thoảng những nô tỳ da đen lại mang đến cho uống một thứ nước pha mật ong đựng trong những cái bát bằng đất nung
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ BA
Cô công chúa làm duyên làm dáng suốt bữa ăn. Cô Miahasya cũng không ngừng quấy rối anh Xaơt. Hai người phụ nữ mỗi lúc một hăng tiết hơn lên, khiến chúng tôi buộc phải bày tỏ cho họ thấy chớ mất công vô ích. Tôi nói nhiều câu châm chọc đau đớn với Husnara, trong khi anh bạn tâm tình của tôi cũng chẳng lịch sự gì hơn tôi với cô nố tỳ tin cẩn của công chúa.
Thái độ chúng tôi nhanh chóng mang lại kết quả. Hai người phụ nữ đều biến sắc mặt. Họ nhìn chúng tôi bằng đôi mắt dữ tợn. Cô công chúa thổ dân thét lên:
- A, những tên khốn nạn! Chúng mày đáp lại lòng tốt của chúng ta như vậy ư? Chúng mày chưa biết sẽ nguy hiểm như thế nào, nếu làm ta nổi trận lôi đình? Này anh chàng bạc nghĩa kia!- cô nói với tôi- mày tỏ ra ghê tởm với Husnara này sao? Con người ta có cái gì khiến mày không thích? Thân người ta có cái gì khiếm khuyết nào?
Nói đến đấy, công chúa quay lại hỏi người nô tỳ:
- Hãy nói đi, Miahasya! Cô không cần phải nói cho vui lòng ta. Có phải ta xấu xí lắm sao? Có phải thân hình ta dị dạng, khuôn mặt ta thiếu cân đối? Ta có để cho anh chàng ngoại quốc trẻ tuổi này khinh rẻ như thế hay không?
- Thưa công chúa,- người nô tỳ đáp- trên đời này không có một người phụ nữ nào xinh đẹp sánh ngang bà, khuôn mặt bà rất hoàn hảo, thân hình bà rất nở nang cân đối. Có lẽ anh chàng trẻ tuổi này quẫn trí nên không nhìn ra vẻ đẹp của bà đấy thôi. Thái độ anh ấy đối với bà như vậy, cho nên tôi chẳng ngạc nhiên sao anh chàng này cũng chẳng thích tôi. Tôi thật không hiểu, sao một người đàn ông có thể nhìn bà mà không đem lòng yêu mến? Anh chàng lẽ ra phải điên cuồng mê mẩn ấy chứ!
- Cô nói đúng, Miahasya à- công chúa đáp- cô cũng xinh đẹp lắm, cô cũng không đáng để bị khinh rẻ. Vậy chúng ta phải trả thù hai tên khốn kiếp này. Ta đã xin được phụ vương tha chết cho chúng, nhưng bây giờ chúng không đáng sống nữa. Chúng phải chết.. Hãy cho gọi một viên quan vào, bảo ông ta cho lính dẫn hai tên này đến đền thờ thần rắn, dâng chúng cho thần ăn thịt.
Cô nô tỳ Miahasya đứng lên thân hành đi tìm người. Một viên chỉ huy bước vào cùng với hai thổ dân đen. Công chúa Husnara bảo:
- Các anh hãy bắt hai tên tù binh này, dẫn chúng lên đền dâng thần rắn.
Hai tên da đen tiến đến, chúng định bắt chúng tôi đưa ra ngoài nhà, thì công chúa lại bảo:
- Hãy hượm, ta không hiểu trong lòng ta vừa có điều gì vừa nổi lên, xui ta chớ nên để hai tên này chết. Có lẽ trời không muốn cho chúng được hưởng một hình phạt nhẹ nhàng như thế. Được chết nhanh chóng là một điều quá tốt cho những tên khốn kiếp kia. Cả hai tên này phải sống, sống để chịu những ngày dài khổ ải. Ta muốn các ngươi đưa hai tên này đến chỗ xay hạt kê, bắt chúng làm việc suốt ngày suốt đêm không cho nghỉ. Bắt chúng sống khổ sống cực như vậy còn hơn cho chúng chết ngay.
Công chúa sai những người thổ dân dẫn chúng tôi đến một nơi trên đảo, ở đấy có những cối xay đẩy bằng tay. Lệnh công chúa được thi hành ngay lập tức. Họ bắt chúng tôi xay hạt kê không được ngơi tay. Và như thể công việc ấy chưa đủ vất vả, họ còn bắt chúng tôi đi vác những khúc gỗ lớn trong rừng. Không quen những công việc nặng nhọc như vậy, làm sao chúng tôi chẳng gục ngã. Bọn thổ dân bắt chúng tôi làm việc, thấy chúng tôi đã kiệt sức, thỉnh thoảng lại tinh quái hỏi, còn muốn quay lại làm người tình nữa không.
Một hôm, người thổ dân giao cho chúng tôi một lượng hạt kê rất lớn bắt  phải xay và bảo: “Giờ chúng ta quay về khu dân cư, chừng nào chúng ta quay trở lại, các anh phải xay xong số hạt kê này”.
Còn lại một mình với anh bạn tâm tình, tôi nói với anh:
- Anh Xaơt, trong khi bọn chúng đi xa, chúng ta hãy lợi dụng cơ hội này. Chúng ta hãy tới bờ biển, may ra có thể tìm thấy một chiếc thuyền có thể giúp chúng ta trốn thoát. Biết đâu chúng ta chẳng may mắn gặp một con tàu đi ngang qua trước đảo, chúng ta phát tín hiệu để họ vào cứu.
- Tôi đồng ý- Xaơt đáp- chúng ta chẳng còn gì để mất, phải cố gắng thoát khỏi cái hòn đảo chết chóc này. Nếu trời không cho chúng ta gặp cái gì giúp ta thoát cơn hoạn nạn, thì thà chúng ta cùng nhau nhảy xuống biển còn hơn. Tôi nghĩ tìm cái chết trong cơn sóng dữ còn hơn là sống để xay hạt kê.
Tôi đồng tình với bạn, chúng tôi chạy ra bờ biển, cũng chẳng xa lắm. Thấy có một chiếc thuyền buộc ở cái cọc. Đấy là thuyền của người thổ dân có nhà gần đấy. Hằng ngày y dùng cái thuyền này đi câu cá. Chúng tôi vội vàng nhảy lên thuyền tháo dây, chèo vội ra khơi, phó mình cho sóng gió.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ TƯ
Chúng tôi vừa nhảy lên thuyền chèo ra xa khỏi bờ được một đoạn, quay lại nhìn thấy người thổ dân, chủ chiếc thuyền từ trong nhà ra. Thấy không còn chiếc thuyền buộc ở cọc nữa, y gào lên khủng khiếp, đe doạ chúng tôi. Nhưng vô ích thôi, chúng tôi đã ra được ngoài khơi. Chúng tôi cố chèo miết cho đến đêm thì đi được khá xa, quay lại nhìn không thấy hòn đảo nữa. Tạ ơn trời đất đã giải thoát cho, chúng tôi cùng mừng vui với nhau như thể đã cập bến một cảng an toàn. Mặc dù đang lênh đênh giữa biển khơi không một chút thức ăn, nước uống và con thuyền mong manh này bất cứ lúc nào cũng có thể bị sóng nhấn chìm,nhưng lúc này chúng tôi chỉ biết mừng thoát khỏi tay bọn thổ dân. Dù sao thì chết đuối trên biển còn hơn bị rắn ăn thịt.
Sau khi lênh đênh suốt đêm, tảng sáng chúng tôi nhận thấy một hòn đảo nhỏ, liền cập bờ. Trên bờ có nhiều quả lạ, lủng lẳng vô vàn quả chín sà xuống mặt đất. Chúng tôi rất đỗi vui mừng bởi lúc này đã cảm thấy đói. Hái một vài quả ăn thử thấy rất ngon.
Sau trận khủng khiếp những người thổ dân gây nên, giờ chúng tôi như được một niềm vui hoàn hảo. Giờ chúng tôi lại đùa cợt về nhau những chuyện từng làm chúng tôi băn khoăn khốn khổ. Chúng tôi chế giễu nhau đã bỏ qua cơ hội tuyệt vời với hai người phụ nữ. Khi đã ăn được mấy miếng vào bụng, chúng tôi buộc con thuyền vào một gốc cây, rồi đi sâu vào trong đảo. Tôi chưa từng thấy nơi nào dễ chịu hơn chỗ này, trên đảo trồng nhiều cây gỗ quý như trầm hương, lê, hồi, lại có lắm dòng suối nước ngọt trong leo lẻo, cùng rất nhiều trái cây cũng như các loại hoa tươi.
Điều làm chúng tôi ngạc nhiên hơn cả là hòn đảo này cho dù đầy đủ tiện nghi và dễ chịu cho cuộc sống như vậy lại có vẻ hoang vu. Tôi nói với Xaơt: “Tại sao đảo này lại không có người ở? Chúng ta không phải là những người đầu tiên đến đây. Trước chúng ta hẳn có nhiều người đã phát hiện ra nó, tại sao hòn đảo lại bỏ hoang?”
Xaơt đáp:
- Thưa hoàn tử, đảo không có người ở, đấy là dấu hiệu chắc chắn nơi này không thể sống được, có một điều bất tiện nào đấy khiến nó không trở thành nơi cư trú.
Hỡi ôi! Khi anh Xaơt nói vậy, anh đâu có nghĩ mình hoàn toàn nói đúng sự thật.
Cả ngày hôm ấy chúng tôi nghỉ ngơi và đi dạo trên đảo.
Đêm đến chúng tôi ngã lưng trên bãi cỏ xanh. Trên cỏ có nhiều bông hoa rụng xuống vẫn còn thơm ngát. Chúng tôi ngủ ngon lành.  Khi  tỉnh giấc tôi ngạc nhiên chỉ thấy có một mình. Tôi cất tiếng gọi Xaơt nhiều lần. Không nghe anh trả lời, tôi dậy đi tìm. Sau khi xục xạo một phần hòn đảo, tôi quay trở về nơi hai anh em vừa nằm, hy vọng đã có anh ở đấy. Nhưng tôi chờ đợi suốt cả ngày hôm ấy và cả dêm hôm sau nữa. Tuyệt vọng vì không thể gặp lại người bạn chí thiết, tôi cất tiếng khóc lóc thở than:
- Hỡi anh Xaơt thân thiết của tôi! Lúc này anh ra sao rồi? Suốt thời gian tôi có anh bên cạnh, anh đã giúp tôi cùng chịu đựng những ghánh nặng của số phận đen đủi, anh đã chia sẽ những khổ ải nhọc nhằn với tôi. Bây giờ anh đi đâu? Có quyền uy dã man có thể chia rẻ chúng ta? Sẽ êm đềm biết bao nếu tôi được cùng chết với anh, như vậy còn hơn sống sót ở đây một mình.
Tôi không thể nào khuây nguôi đã mất đi một người bạn thân thiết. Điều khiến tôi băn khoăn nhất , là không hiểu điều gì đã xảy ra với anh. Tuyệt vọng, tôi quyết định bỏ mình trên hòn đảo này. Tôi tự nhủ, ta sẽ đi khắp hòn đảo này hoặc ta tìm ra Xaơt hoặc ta chết ở đây.
Tôi đi tới một khu rừng nhìn thấy đằng xa. Đến nơi, thấy chính giữa rừng có một toà lâu đài vững chắc, chung quanh có hào rộng và đầy nước sâu, chiếc cầu được cất đang đắt ngang bắc qua hào. Tôi bước lên cầu, đi vào một khoảng sân rộng lát bằng cẩm thạch trắng và tiến tới gần cái cổng ở phần đẹp nhất của toà lâu đài. Cổng làm bằng gỗ lô hội, có chạm nổi nhiều hình chim chóc. Một chiếc khoá lớn bằng thép có hình dạng sư tử khoá chặt cổng. Chìa khoá cắm sẵn trong ổ khoá. Tôi vừa cầm chìa định mở thì cái ổ khoá tự động vỡ tan như nó làm bằng nước đá, và cánh cửa tự nó mở ra không cần phải ai đẩy, điều làm cho tôi cực kỳ ngạc nhiên
Thấy một cầu thang xây bằng cẩm thạch đen, tôi leo lên vào một gian phòng rộng có trải một tấm thản lụa thêu vàng, nhiều chiếc sập phủ đệm gấm thêu. Từ đây tôi sang một căn phòng khác, đồ đạc cũng rất sang trọng, nhưng tôi chẳng quan tâm nhìn những thứ đó. Mắt tôi chỉ chăm chăm nhìn vào thiếu phụ xing đẹp. Nàng đang nằm trên một chiếc sập lớn, đầu gối lên một chiếc gối mềm, người nàng mặc áo quần sang trọng. Bên cạnh nàng có một cái bàn nhỏ làm bằng vân thạch. Nàng đang nhắm mắt, tôi nghĩ đây là một người còn sống, tôi nhẹ nhàng tiến tới gần và nhìn thấy nàng thở
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ NĂM
Tôi đứng yên một lúc quan sát Nàng rất đẹp và có thể tôi đã đâm si mê nếu trong lòng tôi không khắc sâu từ trước hình ảnh nàng công chúa Bêđyan-Giêman. Tôi cực kỳ muốn biết tại sao trên một hoang đảo lại có một thiếu phụ tươi như hoa đang ngủ một mình trong toà lâu đài tuyệt không một bòng người nào khác. Tôi rất mong nàng tỉnh dậy, nhưng nàng ngủ sâu quá tôi không dám làm kinh động giấc ngủ của nàng. Tôi đi ra ngoài toà lâu đài, quyết định sẽ quay lại mấy tiếng đồng hồ sau.
Đi dạo trên đảo, tôi khủng khiếp nhìn thấy một số rất nhiều những con thú thân mình to bằng con hổ, nhưg hình dáng và chân cẳng lại cao kềnh, giống nhức con kiến. Tôi sẽ ngỡ đấy là loài thú hung dữ ăn thịt nếu chúng không bỏ chạy khi nhìn thấy tôi . Tôi cũng còn gặp nhiều con dã thú khác, con nào cũng có vẻ như kính trọng tôi, mặc dù bộ dãng của chúng nhìn hung dữ phát khiếp. Sau khi ăn mấy trái cây và dạo chơi hồi lâu trên đảo, tôi quay trở lại toà lâu đài.
người thiếu phụ vẫn ngủ say sưa. Tôi không thể nào ngăn được nữa nỗi khát khao được trò chuyện với nàng. Tôi gây tiếng động, tôi giả vờ ho mong nàng thức giấc. Nàng vẫn cứ thiêm thiếp giấc nồng. Tôi tiến đến gần sẽ sờ vào cánh tay hy vọng nàng giật mình thức giấc, song không cách nào đánh thức nàng dậy. Tôi thấy chuyện này chẳng bình thường chút nào, chắc là phải có bùa ma phép quỷ gì đây. Có thể nàng bị ai bùa mê bắt nàng ngủ thiếp đi, nếu đã phải bùa mê thì làm sao đánh thức nàng dậy. Tôi đã thất vọng, chợt nhìn thấy cái bàn cẩm thạch đặt bên cạnh nàng mà tôi vừa nói đến, trên mặt bàn có khắc mấy dòng chữ. Tôi nghĩ những chữ này hẳn có liên quan đến giấc ngủ của nàng đây. Tôi định kéo cái bàn đi khác, nhưng vừa chạm đến mặt bàn, người thiếu phụ lập tức buông một tiếng thở dài và tỉnh giấc .
Cũng như tôi vừa ngạc nhiên thấy một thiếu phụ xinh đẹp thế này ngủ một mình trong toà lâu đài vắng, thì nàng cũng ngạc nhiên không kém khi nhìn thấy tôi:
- Hỡi chàng trai trẻ!- Nàng hỏi.- Làm sao chàng có thể vào được nơi đây? Bằng cách nào chàng đã vượt qua những trở lực ngăn không cho bất kỳ ai đặt chân vào toà lâu đài, những trở lực vượt quá sức con người. Em không tin chàng  là một người trần. Phải chăng ngài là đấng tiên tri đi vừa tái sinh?
Chẳng phải thế đâu, thưa bà,- tôi đáp.- Tôi chỉ là một con người bình thường. Tôi có thể quả quyết với nàng tôi vào đây chẳng khó khăn gì, chẳng thấy trở lực nào phải vượt qua cả. Tôi vừa chạm đến cái chìa khoá cổng, thì cánh cổng toà lâu đài tự động mở ra. Tôi theo cầu thang lên tận phòng này chẳng bị thế lực nào cản trở. Có điều tôi đã không dễ dàng đánh thức bà dậy, đấy là điều làm mất nhiều thời gian hơn cả.
- Em chẳng thể tin lời chàng vừa nói- thiếu phụ nói tiếp - Em tin chắc chắn không có người trần nào có khả năng làm được những việc như chàng vừa nói. Vì vậy em không thể nào tin, cho dù chàng nói sao đi nữa, chàng không thể là một người trần thế.
. Thưa bà, có thể tôi có một chút gì đấy hơn một con người bình thường. Phụ thân tôi là một đấng quân vương, đúng vậy, nhưng dù sao tôi cũng chỉ là một người trần như mọi người khác. Ngược lại, tôi có lý do để nghĩ bà thuộc đẳng cấp cao hơn người trần thế chúng tôi.
- Không, hoàn toàn chẳng phải vậy- nàng đáp.- Em cũng như chàng là người trần thế. Nhưng, xin chàng cho biết, tại sao chàng giã từ triều đình phụ vương, và bằng cách nào đến được hòn đảo này?
Tôi thoả mãn sự hiếu kỳ của nàng. Tôi ngây thơ nói thật, tôi si mê nàng công chúa Bêđy-an-giêman, con gái quốc vương Saban, nên quyết tâm đi tìm nàng tận đầu trời cuối đất Tôi vừa nói vừa đưa tấm chân dung công chúa cho nàng xem, bới nhờ tôi cố giấu thật kín cái hộp cũng như chiếc nhẫn, cho nên bọn thổ dân không nhìn thấy. Thiếu phụ cầm bức chân dung, chăm chú ngắm rồi bảo tôi:
- Em có nghe nói đến quốc vương Saban, ông trị vì một hòn đảo không mấy xa đảo Xêrenđip. Nếu con gái nhà vua ấy cũng đẹp như bức chân dung này, thì nàng xứng đáng để chàng say mê thiết tha đến vậy. Nhưng không nên quá tin vào các bức chân dung hoạ các nàng công chúa, bao giờ người ta cũng tô vẽ cho các nàng đẹp hơn trong thực tế. Xin chàng hãy kể nết câu chuyện của chàng, sau đấy em sẽ nói chàng nghe về những chuyện xảy ra trong cuộc đời em. Tôi thuật tiếp với đầy đủ mọi chi tiết những việc xảy ra kể từ sau chuyến ra đi khỏi thành phố Cairo. Kể xong tôi xin nàng hãy cho nghe về cuộc đời nàng. Nàng bắt đầu thuật lại như sau:

- Em là con gái duy nhất của quốc vương đảo Xêrenđip.Một hôm em đang cùng các cung nhân dạo chơi trong một toà lâu đài phụ vương em cho xây dựng không mấy xa kinh thành Xêrenđip, chợt em nảy ra ý nghịch ngợm muốn tắm trong chiếc bể bằng cẩm thạch trắng xây ngay trong vườn của toà lâu đài. Em sai cởi bỏ trang phục, và cùng với cô cung nhân sùng ái nhất của em nhảy vào bể nước. Chúng em ngâm mình trong nước chưa được bao lâu, bỗng nổi lên một trận cuồng phong. Một cơn lốc bụi xuất hiện trên không gian, ngay phía trên đầu chúng em. Giữa luồng cát bụi ấy xuất hiện một con chim khổng lồ sà xuống, đưa móng chân quắp lấy người em bay đi và đưa đến toà lâu đài này. Đến nơi, chim thay hình đổi dạng, biến thành một thần linh trẻ tuổi. Thần nói với em:
- Thưa công chúa, tôi là một trong những vị thần linh nhiều uy lực nhất trong vũ trụ. Hôm nay tình cờ bay ngang qua đảo Xêrenđip, tôi thấy nàng đang tắm, sắc đẹp của nàng làm tôi say mê. Tôi tự bảo nàng công chúa này trông xinh quá, thật đáng tiếc để nàng làm nên hạnh phúc cho một người trần. Nàng đáng được thần linh yêu quý. Ta nên bắt cóc nàng, mang nàng đến một hòn đảo vắng. Bởi vậy, thưa công chúa, nàng đã đến đây, xin hãy tạm quên đi phụ vương nàng, chỉ nên nghĩ tới việc đáp lại mối tình của tôi. Trong toà lâu đài này không thiếu thốn thức gì, và tôi sẵn sàng mang đến cho nàng tất cả những gì nàng cần thiết.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ SÁU
Trong khi vị thần linh trẻ nói vậy, tôi chỉ có khóc lóc thở than. Tôi mình tự bảo mình:
- Hỡi cô bé Malica, đây là số phận dành cho cô sao. Phụ vương cô đã tốn công dạy dỗ cô chu đáo thế để rồi chịu nỗi đau mất cô sao? Hỡi ôi? Lúc này cha tôi đang lo, không rõ Con gái hiện nay ở đâu và ra thế nào rồi, e cha tôi đến phải bó mình vì buồn phiền mất đi đứa con gái.
- Không đâu,- thần linh đáp- phụ vương nàng sẽ không chết vì buồn phiền. Còn nàng, thưa công chúa, tôi hy vọng nàng cảm thông tình yêu của tôi.
Tôi bảo với thần linh giọng gay gắt:
- Xin ngài chớ vội mừng về hy vọng hão huyền ấy. Suốt đời tôi sẽ mang mối hận thù sâu sắc đối với kẻ bắt cóc mình.
- Rồi công chúa sẽ thay đổi tình cảm,- thần linh lại nói.- Rồi công chúa sẽ dần dần quen nhìn thấy mặt tôi và trò chuyện tâm tình với tôi. Thời gian sẽ gây nên hiệu quả.
- Chẳng bao giờ có sự thần kỳ ấy.- tôi chua chát ngắt lời thần.- Với thời gian tôi càng thêm thù hận ông hơn. Vị thần trẻ không tỏ ra phật ý về lời lẽ gay gắt của tôi, vẫn mỉm cười. Chắc hẳn thần tin rồi tôi sẽ ngã lòng theo lời thần tán tỉnh. Thần không nề hà bất cứ việc gì không làm để vui lòng tôi. Không rõ y đi lấy ở đâu ra áo quần rất sang trọng mang về cho tôi mặc. Y tìm mọi cách làm cho tôi cảm động. Nhưng nhận thấy hoàn toàn không có chút thay đổi nào trong trái tim tôi, dưới mắt tôi rõ ràng y mỗi ngày mỗi bị căm ghét hơn. Cuối cùng mất kiên nhẫn, y quyết định trả thù thái độ khinh rẻ của tôi.
Vị thần ấy vẩy vào tôi một loại nước phép khiến tôi ngủ say như chết. Y đặt tôi nằm dài trên chiếc sập trong tư thế chàng đã nhìn thấy, và để cạnh tôi cái bàn cẩm thạch này, trên đó khắc sẵn những dòng bùa yêu bắt tôi ngủ say cho đến ngày tận thế. Thần linh ấy còn bày ra hai phép quỷ nữa. Một phép khiến toà lâu đài này mắt người trần không nhìn thấy được. Phép thứ hai ngăn không cho ai mở được cánh cổng mà vào. Sau đấy, thần để tôi lại một mình trong căn phòng này và bỏ đi. Thỉnh thoảng thần quay trở lại, dùng phép đánh thức tôi dậy, hỏi cuối cùng tôi đã sẵn sàng đáp lại nỗi đam mê của y hay chưa. Và bởi lần nào tôi cũng cố tình đối xử cao ngạo, y đành lại bắt tôi tiếp tục ngủ thiếp đi để trừng phạt.
- Ấy thế, thưa ngài, ngài lại có khả năng đánh thức tôi dậy, ngài có thể mở cổng mà vào toà lâu đài nhẽ ra mắt người trần không sao nhìn thấy được. Vậy sao bảo tôi tin được chàng là người trần thế. Tôi có thể nói thêm, ngài còn sống được để vào tận đây là điều kỳ lạ, bởi tôi có nghe vị thần linh ấy nói, những con thú hung dữ trong khu rừng rậm từng ăn thịt tất cả những ai ghé chân lại hòn đảo, và đấy là nguyên nhân vì sao cho đến bây giờ đảo này vẫn hoang vu.
Trong khi công chúa Malica đang tiếp tục kể cho tôi nghe câu chuyện, thì có tiếng quát ầm ĩ trong toà lâu đài. Nàng ngừng lời, lắng tai nghe cho rõ hơn. Trong chốc lát, nhiều tiếng hét khủng khiếp dội vào tai chúng tôi. Công chúa lo lắng kêu lên:
- Trời đất ơi! Chết chúng ta rồi. Thần linh ấy đến đấy, em nghe rõ chính giọng y. Chàng sắp bỏ mạng rồi, không có gì có thể cứu chóng thoát khỏi cơn giận dữ của y. ôi, hỡi hoàng tử đáng thương! Sao định mệnh oái oăm dẫn chàng đến toà lâu đài này? Nếu chàng đã tránh được bọn thổ dân hung ác, thì than ôi, lần này chàng không thoát khỏi sự dã man của kẻ bắt cóc em đâu.
Tôi cũng tin mình sắp chết. Và trong thâm tâm quả tôi không nghĩ thần linh ấy sẽ đối xứ nhẹ tay với mình. Y đùng đùng bước vào toà lâu đài, sắc mặt giận dử, thân hình y cực kỳ cao lớn, tay cầm một cái chuỳ bằng thép to tướng.
Nhưng vừa trông thấy tôi y đã rùng mình. Thay vì giáng cái chuỳ khổng lồ ấy lên đầu tôi, hoặc cất lời doạ nạt, thần linh ấy lại run rẩy tiến đến gần, quỳ mọp dưới chân tôi và thưa như sau:
- Thưa hoàng tử, con trai đáng quân vương vĩ đại, xin ngài hãy ra lệnh, tôi xin sẵn sàng tuân lệnh bất cứ ngài sai bảo việc gì.
Tôi ngạc nhiên lắm, không hiểu sao thần linh này lại quỳ trước mình và nói với mình theo giọng một người nô lệ nói với chủ. Nhưng tôi hết ngạc nhiên ngay khi nghe y nói tiếp: "Chiếc nhẫn ngài đeo ở tay là ấn của đại đế Xalomon(Một nhân vật huyền thoại phổ biến ở nhiều dân tộc châu âu và Trung Đông (PQ).). Bất kỳ ai đeo chiếc nhẫn vào ngón tay thì không bao giờ có thể gặp hiểm nghèo. Người đeo nhẫn này có khả năng vượt qua biển cả lúc bão tố dữ dội nhất mà không sợ bị nhấn chìm. Những thú hoang hung dữ nhất không dám làm hại người ấy. Mọi thần linh phải nhất nhất tuân phục lệnh người ấy truyền. Tất cả mọi bùa yêu phép quỷ đều tan tành trước ân của đức Xalomon".
- Vậy ra nhờ chiếc nhẫn mà ta đã không bị đắm tàu?
- Đúng vậy, thưa ngài,- thần đáp- và chính chiếc nhẫn ấy đã cứu ngài thoát khỏi nanh vuốt những con thú dữ trên hoang đảo.
- Thần hãy cho ta biết tôi hỏi tiếp- người bạn đồng hành cùng với ta lên hòn đảo này, hiện ra sao?
- Tôi có đủ quyển uy biết rõ hiện tại và quá khứ,- thần linh đáp- tôi xin thưa, người bạn của ngài đã bị các con kiến khổng lồ ăn thịt ngay đêm đầu tiên khi nằm ngủ bên cạnh ngài. Trên hoang đảo này có vô số những con kiến khổng lồ, chính vì chúng mà đảo này người không có người ở Tuy nhiên không vì vậy ngăn cản dân các đảo lân cận, nhất là dân sống bên quần đảo Manđivơ hằng năm sang đây đẵn gỗ trầm hương. Nhưng mang được trầm hương ra khỏi đảo chẳng phải dễ dàng. Họ phải làm theo cách như sau: Vào mùa hè, họ cho tàu cập đảo, mang theo trên tàu những con ngựa cao to và rất nhanh nhẹn. Họ cho ngựa lên đảo rồi cười ngựa phóng thật nhanh, chạy đi tìm nơi có cây trầm hương tốt. Khi thấy lũ kiến khổng lồ xúm lại, họ ném cho chúng những tảng thịt lớn đã mang theo. Trong thời gian lũ kiến mải mê xúm vào ăn các tảng thịt, đủ thời giờ cho họ đánh dấu những cây gỗ cần chặt, sau đấy quay xuống tàu ngay. Chờ đến sang đông, họ mới quay trở lại đẵn những cây gỗ đã đánh dấu, lúc này không lo lũ kiến giết hại vì kiến không ra khỏi ổ vào mùa đông giá lạnh.
Tôi không thể nén đau thương khi nghe số phận anh Xaơt kết thúc thảm thương như vậy. Tôi hỏi tiếp thần linh, vương quốc Saban nằm ở nơi nào, và liệu nàng công chúa Bêđy-an-giêman con gái của quốc vương hiện còn sống trên đời hay không. Thần đáp:
- Thưa ngài, trong vùng biển này có một hòn đảo, nơi ấy đúng là có một nhà vua danh hiệu Saban trị vì, nhưng nhà vua không có con gái. Nàng công chúa Bêđy-an-giêman mà ngài vừa nói đến, quả là con gái của một nhà vua cũng mang vương hiệu Saban, nhưng ông sống xưa kia vào thời đại đế Xalomon cơ.
- Vậy ra nàng Bêđy-an-Giêman không còn trên đời này nữa sao?-tôi hỏi.
- Chắc hẳn thế-thần đáp.-Bởi công chúa chính là người tình của đấng đại tiên tri Xalomon.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ BẢY
Tôi rất buồn hay tin người tôi hằng yêu dấu đã qua đời từ thủa nảo thủa nào. Tôi tự nhủ: „Thật ta ngu ngốc làm sao! Tại sao ta không hỏi ngay phụ vương bức chân dung nàng công chúa cất trong kho tàng của người là chân dung ai? Hẳn người đã cho ta biết điều ta vừa nghe thần linh này nói. Và như vậy, có phải đỡ trải qua bấy nhiêu khổ ải, hiểm nguy. Ta đã dẹp bỏ được tình yêu nó khi mới chớm nở, không để mối tình vô vọng tác động sâu vào đầu óc ta đến vậy. Ta đã khỏi phải rời thành phố Cairo. Anh Xaơt đã khỏi bỏ mình. Cái chết của anh đúng là do những tình cảm hão huyền của ta đem lại“.
Tôi nói với nàng công chúa Malica:
- Tất cả những gì có thể an ủi tôi phần nào lúc này, thưa công chúa xinh tươi, là giúp ích cho nàng. Nhờ đeo chiếc nhẫn thần ở ngón tay, tôi có khả năng đưa nàng trở về với phụ vương nàng.
Rồi tôi quay lại bảo thần linh:
- Bởi ta là người có diễm hạnh sở hữu chiếc Ấn của đức vua Xalomon, khiến ta có quyền uy sai khiến mọi thần linh, ông hãy tuân lệnh ta. Ta truyền cho ông đưa ta cùng với nàng công chúa Malica về ngay Quốc đảo Xêrenđip, để chúng ta ở trước cổng kinh thành.
- Tôi xin tuân lệnh ngài, -thần linh đáp- cho dù tôi rất buồn phải mất đi nàng công chúa của mình.
- Như thế là thần đã may mắn lắm rồi đấy, tôi đáp.-Ta chỉ đòi thần đưa chúng ta đến đảo Xêrenđip. Vì tội bắt cóc nàng Malica, thần đáng để ta dùng quyền uy chiếc nhẫn này trừng phạt đáng tội như đại đế Xalomon xưa từng trừng phạt các thần linh nổi loạn thời ngài còn trị vì.
Thần linh không dám nói gì hơn. Ngay lập tức, y thi hành lệnh của tôi. Y nâng nàng công chúa và tôi trên hai cánh tay và đưa chúng tôi trong nháy mắt bay đến trước cổng kinh thành Xêrenđip. Thần hỏi:
- Phải chăng đấy là tất cả những gì ngài muốn kẻ này thực hiện? Ngài có lệnh gì cần truyền nữa không?
Tôi đáp không, thế là thần linh biến mất luôn.
Vào kinh thành, chúng tôi tạm trú ở quán trọ đầu tiên trông thấy dành cho du khách. Công chúa và tôi bàn bạc xem nên viết thư đến triều đình hay tự tôi thân đến gặp quốc vương báo tin công chúa đã trở về. Chúng tôi nhất trí, tôi nên đi thì hơn. Vậy là tôi thân hành đến cung điện của vua.
Kiến trúc cung vua Xêrenđip thật khá lạ kỳ. Cung điện được xây trên một nghìn sáu trăm chiếc cột bằng cẩm thạch. Muốn vào tận cung vua, phải trèo lên một cầu thang cao ba trăm bậc lát bằng một thứ đá rất đẹp. Lên đến gian phòng đầu tiên, gặp một đội lính canh. Viên võ quan nhìn thấy tôi, biết là người nước ngoài, ông bước tới hỏi tôi có việc gì muốn tâu quốc vương hay chỉ đến đây xem vì hiếu kỳ. Tôi đáp, tôi muốn được yết kiến nhà vua, tâu một chuyện cực kỳ quan trọng. Viên võ quan đưa tôi vào gặp tể tướng. Ông dẫn tôi sang ra mắt quốc vương. Nhà vua hỏi:
- Chàng trai trẻ, chàng là người nước nào?
- Tâu bệ hạ, -tôi đáp- nước Ai Cập là nơi tôi ra đời. Phụ vương tôi đang trị vì nước đấy. Tôi xa phụ vương tôi đã ba năm, và trong ba năm ấy, tôi trải qua không biết bao nhiêu khổ ải.
Quốc vương Xêrenđip là một cụ già đáng kính, nghe tôi nói vậy cụ tuôn luôn nước mắt:
- Hỡi ôi, ta chẳng sung sướng gì hơn anh. Thế là cũng đã ba năm, ta mất đứa con gái duy nhất, làm ta đau đớn khôn nguôi bởi chắc không thể nào còn hy vọng gặp lại con.
- Tâu bệ hạ,- tôi thưa –tôi đến yết kiến ngài hôm nay để tâu ngài rõ tin tức về nàng công chúa ấy.
Vua kêu lên:
- Ôi! Anh vừa nói gì vậy? Anh đến đây báo cho ta biết con gái ta đã qua đời? Phải chăng anh là người chứng kiến lúc cháu lìa trần?
- Tâu, không phải thế-tôi đáp.-Công chúa vẫn an khang, và ngay trong hôm nay ngài có thể gặp nàng.
- Anh tìm được con gái ta ở đâu? Con gái ta bị giấu nơi nào?
Tôi kể quốc vương nghe mọi việc vừa xảy ra, đặc biệt thuật tỉ mỉ về toà lâu đài vô hình và vị thần linh. Vua nghe hết sức chăm chú. Tôi vừa nói xong, vua ôm hôn và bảo:
- Hoàng tử à, ta biết ơn hoàng tử sâu xa! Ta quý con gái ta lắm, ta tưởng đã mất hết hy vọng gặp lại con, ai ngờ hoàng tử đã mang cháu về cho ta, ta biết lấy gì trả ơn hoàng tử? Nào chúng ta hãy cùng đi ngay,-vua nói tiếp- hãy cùng đến quán trọ. Ta vô cùng nôn nóng được ôm hôn con gái Malica của ta.
Nói xong vua truyền cho tể tướng cho người chuẩn bị một cái kiệu. Lệnh vua được thi hành nhanh chóng. Quốc vương mời tôi cùng vua lên kiệu. Chúng tôi đến quán trọ nơi công chúa Malica cũng đang nôn nóng chờ đợi, đi sau kiệu chỉ có mấy võ quan cưỡi ngựa theo hầu.
Không lời lẽ nào tả hết nỗi mừng vui của quốc vương Xêrenđip và công chúa Malica được gặp lại nhau. Sau những phút bàng hoàng đầu tiên, quốc vương bảo công chúa Malica thuật lại ngay cho vua nghe chi tiết vụ bắt cóc cũng như việc tôi giải thoát nàng. Vua rất vui mừng khi biết tiết hạnh con gái mình không bị tên bắt cóc làm ô nhục, và nhờ vậy càng làm tăng thêm lòng biết ơn người giải thoát công chúa. Vua tỏ ra vô cùng cảm kích trước thái độ đứng đắn và lòng hào hiệp của tôi.
Chúng tôi trở về cung điện. Vua sai người mời tôi đến ở một ngôi nhà tráng lệ ngay trong hoàng cung. Tiếp đó vua truyền lệnh tiến hành lễ tế tạ ơn trời đất đã cho công chúa trở về bình yên. Sau buổi lễ chính, nhân dân kinh thành Xêrenđip mở hội tưng bừng. Trong triều, bày đại tiệc mời tất cả các quan chức lớn bé trên quốc đảo cùng đến dự. Buổi tiệc rất tuyệt vời, sau khi ăn uống mọi người tha hồ ăn cau trầu.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ TÁM

Quốc vương Xêrenđip hết lời khen ngợi và có nhiều cử chỉ vỗ về tôi. Ông đưa tôi cùng đi săn bắn. Cuộc vui nào ông cũng mời tôi tham dự. Vua quý tôi đến mức một hôm ông bảo riêng:
- Con trai của ta ơi, đã đến lúc ta muốn nói với con một ý định ta suy nghĩ từ lâu. Con đã trả lại cho ta đứa con gái, con đã an ủi một người cha buồn phiền, ta muốn đền ơn con. Ta muốn con làm phò mã của ta và là người sẽ kế vị ngai vàng nước Xêrenđip.
Tôi cảm tạ quốc vương về lòng tốt của vua, và cầu xin vua chớ phật lòng nếu tôi khước từ vinh dự lớn vua ban cho. Tôi tâu vua rõ nguyên nhân đã khiến tôi phải rời xa thành phố Cairo của mình. Tôi thú thật trong tim tôi không bao giờ phai mờ hình ảnh công chúa Bêđy-an-Giêman. Tôi vẫn say mê nàng cho dù vô vọng. Tôi tâu với vua:
- Hoàng thượng hẳn không muốn gả con gái mình cho một chàng trai mà nàng chẳng bao giờ chinh phục được trái tim anh ta. Tâu bệ hạ, công chúa Malica xứng đáng được hưởng cuộc đời hạnh phúc hơn thế.
- Vậy làm sao cho ta bày tỏ lòng biết ơn đối với việc hoàng tử đã giúp ta? Vua hỏi.
- Tâu bệ hạ, -tôi đáp- tôi đã được đền đáp nhiều lắm rồi. Sự đón tiếp nồng hậu ngài dành cho tôi, niềm vui giải thoát nàng công chúa khỏi tay thần linh đã bắt cóc nàng, đấy là những phần thưởng rất lớn đối với tôi. Tất cả những gì tôi cầu xin bệ hạ lúc này là ban cho tôi một con tàu đưa tôi trở về thành phố Basra.
Quốc vương thực hiện điều tôi mong ước. Vua truyền chuẩn bị một chiếc tầu mang theo đầy đủ lương thực và sẵn sàng để khởi hành bất kỳ lúc nào tôi cho là đến lúc. Tuy nhiên quốc vương vẫn tìm cách lưu tôi lại triều đình một thời gian nữa. Ngày nào vua cũng nói rõ ông rất không hài lòng vì tôi không chịu ở lại quốc đảo Xêrenđip.
Cuối cùng ngày lên đường đã đến. Tôi giã từ quốc vương cùng nàng công chúa và lên tàu. Trên đường đi, chúng tôi gặp nhiều cơn bão tố dữ dội hẳn đã làm đắm chiếc tàu, nhưng nhờ có chiếc nhẫn đeo ở ngón tay, chúng tôi cập bến cảnh Basra an toàn sau một chuyến đi dài. Từ Basra, tôi theo một đoàn lữ hành lớn gồm các thương nhân người Ai Cập cùng họ trở về thành phố Cairo vĩ đại.
Đã có nhiều thay đổi lớn trong thời gian tôi vắng mặt. Phụ vương tôi đã qua đời. Anh trai tôi hiện đang kế vị. Vị tân vương đón tiếp tôi nồng hậu với tình cảm anh em ruột thịt. Anh nói anh rất hài lòng thấy tôi trở về. Anh cho biết chỉ mấy ngày sau khi tôi ra đi, cha tôi tình cờ mở cái hòm con đựng chiếc Ấn của đại đế Xalomon và chân dung công chúa Bêđy-an-Giêman, không thấy còn hai vật ấy, phụ vương nghi tôi đã lấy mang đi. Tôi thú thật với anh trai tôi, và trao trả cho anh chiếc nhẫn thần.

Thoạt gặp vua anh tôi làm ra vẻ rất xúc động về những bất hạnh của tôi. Vua cho số phận tôi thật lạ lùng và ngỏ ý phàn nàn cho tôi, làm nỗi buồn của tôi cũng vơi được chừng nào. Tuy nhiên tất cả biểu hiện tình cảm ấy hoá ra chỉ là giả dối. Ngay hôm đầu tiên, sau khi tôi trao trả chiếc nhẫn, anh tôi sai nhốt tôi vào một cái tháp canh. Đêm hôm ấy, vua sai một võ quan đến giết chết tôi. Nhưng viên võ quan ấy đem lòng thương hại, ông bảo tôi:
- Thưa hoàng tử, quốc vương anh cả của ngài sai tôi đến đây sát hại ngài. Quốc vương sợ sau này hoàng tử biết đâu sẽ nảy ý muốn tranh giành ngôi báu và rồi có thể gây nên rối loạn trong nước chăng. Vì quá thận trọng, ngài muốn giết hoàng tử luôn để ngừa hậu hoạ. May mắn cho ngài, tôi là người được vua sai làm việc ấy. Vua nghĩ tôi sẽ thi hành mệnh lệnh độc ác của ngài, vua chờ đợi bàn tay tôi vấy máu hoàng tử. Nhưng tôi thà để tay tôi vấy máu chính tôi! Hoàng tử hãy chạy trốn ngay, cổng nhà giam đã mở. Hoàng tử hãy lợi dụng lúc đêm tối ra khỏi thành phố Cairo ngay, hãy đi thật nhanh chớ nên dừng lại chừng nào ngài vẫn thấy mình chưa hẳn được an toàn.
Sau khi hết lời cảm tạ viên võ quan hào hiệp, tôi chạy trốn khỏi tháp canh. Phó thân cho số mệnh, tôi vội vàng đi thật nhanh ra khỏi biên giới quốc gia anh trai tôi. Tôi may mắn đến được quốc gia của ngài, tâu bệ hạ, và tìm thấy ở triều đình ngài một nơi cư trú an toàn.
Chương 15: Chuyện quốc vương Bêrêđin- LôLô và tể tướng Atanmuc (tiếp theo)
Kể xong câu chuyện về cuộc đời mình, hoàng thân Sêyp-en-Muluc nói với quốc vương Đamat:
- Tâu bệ hạ, đấy là điều ngài muốn biết. Giờ ngài hãy phán xét, tôi có phải là người được hạnh phúc hoàn hảo hay không. Hiện nay, tôi vẫn si mê công chúa Bêđy-an-Giêman hơn bao giờ. Tôi luôn luôn tự bảo mình thật kỳ cục, sao lại đam mê một người phụ nữ không còn sống trên đời, thế nhưng không làm sao xoá nhoà hình ảnh của nàng, nàng vẫn ngự trị mãi mãi trong trái tim tôi.
Quốc vương Bêretđin không sao hiểu một mối tình lạ lùng đến vậy. Vua hỏi hoàng thân còn giữ chân dung công chúa Bêđy-an-Giêman hay không. Hoàng thân đáp:
- Tâu bệ hạ tôi luôn luôn mang theo người.
Vừa nói hoàng thân vừa lấy từ túi áo ra bức chân dung đưa vua xem. Vua ca ngợi vẻ đẹp nàng công chúa:
- Con gái vua Saban thật là một công chúa xinh tươi. Ta hiểu tại sao đại đế Xalomon thời xưa rất mực yêu quý nàng; nhưng tình yêu của ngài ta thấy quá dị thường.
Lúc này Tể tướng Ưu phiền mới cất lời nói:
- Qua các câu chuyện về cuộc đời hoàng thân Sêyp-en-Muluc, tâu bệ hạ, hẳn ngài đã thấy tất cả mọi người ai cũng có nỗi buồn phiền riêng. Không có ai sinh ra trên đời này có thể hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
- Ta vẫn chưa tin lời ông nói, nhà vua đáp,-ta nhìn người đời với đôi mắt lạc quan hơn. Ta tin trên thế gian vẫn có những người mà cuộc đời không hề bị xáo động bởi bất cứ phiền muộn nào.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM LẺ CHÍN.
Quốc vương Đamat khát khao muốn rõ trên đời này có những người sung sướng trọn vẹn hay không. Vua bảo hoàng thân Sêyp-en-Muluc:
- Ông hãy thả bộ dạo chơi trong kinh thành, hãy đi ngang qua các phố có cửa hiệu những người thợ thủ công. Ông để ý xem, thấy người nào vui vẻ nhất, hãy đưa về gặp ta.
Hoàng thân Sêyp-en-Muluc tuân lệnh. Vài giờ sau, ông quay trở về cung vua, gặp quốc vương Bêretđin-Lôlô. Nhà vua hỏi:
- Thế nào, ông đã làm xong việc ta truyền?
- Tâu bệ hạ, hoàng thân đáp,-tôi đã đi ngang qua nhiều cửa hiệu. Tôi đã nhìn thấy nhiều thợ thủ công các nghề khác nhau vừa làm việc vừa ca hát, trông ai nấy có vẻ khá hài lòng với số phận của mình. Tôi để ý một anh thợ dệt trẻ tuổi tên là Malek, anh ta luôn cười đùa sảng khoái với bạn bè. Tôi dừng lại hỏi chuyện anh ta: „Này anh bạn, trông anh vui vẻ nhỉ!-Tính tôi xưa nay vẫn vậy, anh đáp, tôi chẳng nghĩ tới chuyện buồn phiền làm gì“. Tôi hỏi những người hàng xóm xung quanh, có đúng anh chàng này tính tình dễ chịu vậy sao. Họ đều đáp, anh ta chỉ có việc cười đùa từ sáng đến tối. Thế là tôi bảo anh chàng trẻ tuổi hãy theo ta về hoàng cung. Anh ấy hiện đang chờ ở bên ngoài. Hoàng thượng có muốn tôi cho anh ta vào yết kiến ngài tại đây?
Nhà vua đáp:
- Ông cho anh ta vào. Ta muốn nói chuyện với anh ấy ngay nơi đây.
Hoàng thân Sêyp-en-Muluc bước ra, chỉ lát sau quay trở lại cùng một chàng trai mặt mũi sáng sủa, giới thiệu với vua. Người thợ dệt quỳ xuống lạy chào quốc vương. Nhà vua bảo:
- Hãy đứng lên, Malek. Anh hãy nói thành thật ta nghe, có phải anh thật sự hài lòng về cuộc sống hay không. Người ta bảo anh suốt ngày vừa làm việc vừa cười đùa ca hát. Có vẻ như anh là người hạnh phúc nhất trong tất cả thần dân của ta. Anh hãy nói ta nghe, có thật anh hoàn toàn bằng lòng với cuộc sống của mình. Đấy là một điều quan trọng ta cần biết, anh phải nói thành thật không được phép giấu giếm ta chút gì.
Người thợ dệt đứng lên thưa:
- Tâu hoàng thượng, cầu chúc người vạn thọ vô cương. Cầu mong cuộc đời ngài luôn luôn lạc thú. Nhưng cúi mong ngài cho phép kẻ nô lệ này khỏi phải làm việc ngài vừa truyền. Kẻ này biết, không được phép nói không đúng sự thật với bậc quân vương. Nhưng cũng phải thừa nhận có những sự thật người ta không dám nói rõ với ai. Tôi chỉ có thể tâu hoàng thượng, người ta nghĩ không đúng về tôi. Cho dù tôi luôn luôn cười vui ca hát, có lẽ tôi là người bất hạnh nhất thế gian. Xin hoàng thượng bằng lòng với lời thú nhận ấy, xin ngài đừng buộc tôi phải kể chi tiết những nỗi bất hạnh đã xảy ra trong đời kẻ này.
Nhà vua lại hỏi:
- Tại sao anh sợ không dám kể ta nghe những câu chuyện về đời anh? Những câu chuyện ấy có gì không làm vinh hạnh cho anh sao?
- Tâu bệ hạ, những câu chuyện của đời tôi có thể làm vinh hạnh cho một vị hoàng tử vĩ đại nhất,- người thợ dệt đáp- nhưng tôi đã quyết định giữ kín, không nói ra với bất kỳ ai.
- Malek à, anh nói vậy càng kích thích thêm sự hiếu kỳ của ta,- nhà vua nói.- Ta truyền lệnh cho anh phải kể hết ta nghe.
Người thợ dệt không dám trái lệnh vua, anh liền bắt đầu kể câu chuyện về cuộc đời mình như sau:
Chuơng 16: Chuyện chàng Malek và công chúa Thirin
Tôi là con trai độc nhất một thương gia giàu có ở thành phố Surat. Chỉ một thời gian ngắn sau khi cha tôi qua đời, tôi đã làm tiêu tán gần hết gia sản khổng lồ do người để lại cho con. Còn lại một ít, tôi tiếp tục hoang phí luôn với nhóm bạn bè của mình, chợt một hôm một người nước ngoài ghé qua Surat để đến đảo Xêrenđip tình cờ có mặt tại một bữa tiệc tôi chiêu đãi bạn bè. Hôm ấy câu chuyện xoay quanh chuyện đi du hành. Những người này ngợi ca sự cần thiết và những điều lý thú khi được đi đó đi đây. Những người khác thì kể ra muôn vàn hiểm nguy khó tránh trên đường rong ruổi. Những điều thú vị họ nói ra khiến tôi cũng muốn đi du lịch xem sao, nhưng các khó khăn trở ngại được những vị thực khách mô tả, qua các chuyến đi của họ lại làm tôi ngại ngần không dám quyết.
Chờ mọi người nói xong, tôi cất lời:
- Nghe kể về lạc thú của các chuyến đi xa, ai cũng muốn ra đi, nhưng hình dung các hiểm nguy người lữ hành thường gặp trên đường lại làm ta cụt hứng, không dám bước ra khỏi nhà nữa. Giá được đi từ đầu trời đến cuối đất mà không phải gặp gian lao khổ ải nào, thì ngay sáng sớm mai tôi lên đường giã từ thành phố Surat này.

Mọi người phá ra cười vui vẻ. Riêng người ngoại quốc lại nói:
- Thưa ngài, nếu quả ngài có ý định muốn đi chơi xa, song chỉ vì gian lao mà chưa quyết, nếu ngài đồng ý, tôi sẵn sàng bày cho ngài một cách tha hồ đi khắp mọi nơi mà chẳng lo trở ngại nào.
Tôi nghĩ ông ta nói đùa. Nhưng sao bữa tiệc, ông mời tôi ra một nơi và nói riêng, sáng sớm mai, ông sẽ đến nhà tôi, chỉ cho tôi xem một điều khá đặc biệt.
Quả như lời, ngày hôm sau ông đến nhà tôi:
- Tôi muốn giữ lời đã hứa với ngài. Nhưng phải chuẩn bị vài hôm nữa ngài mới thấy cụ thể kết quả lời tôi hứa. Hôm nay, tôi bắt tay làm công việc. Xin ngài sai người nhà đi tìm thuê một người thợ mộc. Khi trở về, cả hai người ấy cần mang theo một số gỗ đã xẻ sẵn thành tấm.
Mọi việc được thi hành chóng vánh.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI
Khi người thợ mộc cùng người nhà của tôi mang các tấm ván trở về, ông khách lạ bảo anh thợ mộc đóng giúp một cái hòm dài sáu bộ và rộng bốn bộ. (Đơn vị cổ, bằng 0,324m). Trong khi anh thợ mộc bắt tay vào việc thì người khách lạ cũng chẳng ngồi không. Ông hì hục sản xuất các bộ phận khác của cái máy, đại thể như ốc vít và lò xo. Hai người làm việc suốt cả ngày hôm ấy. Chiều tối, xong công việc, tôi cho anh thợ mộc ra về. Ngày hôm sau, vị khách nước ngoài lại lụi cụi lắp các ốc vít, lò xo và hoàn thiện sản phẩm.
Đến ngày thứ ba công trình hoàn tất. Chúng tôi cho phủ lên cái hòm gỗ ấy một tấm thảm Batư, rồi mang về quê. Tôi cùng người khách lạ cùng theo về dưới ấy. Đến nơi, ông bảo tôi:
- Ngài hãy cho tất cả mọi người nhà quay trở về, chỉ để hai chúng ta lại đây thôi. Tôi không muốn cho bất kỳ ai khác ngoài hai ta được nhìn thấy công trình này.
Tôi truyền cho tất cả gia nhân hãy trở về nhà, mình tôi ở lại cùng người khách nước ngoài. Tôi đang nóng lòng muốn rõ ông ta định làm gì với cái hòm gỗ này thì ông ta đã bước vào trong ấy. Và cái hòm tự nó bốc lên không trung, rẽ không khí bay đi với tốc độ khó tưởng tượng, trong chốc lát đã xa khỏi tầm mắt tôi, song lát sau lại đã thấy cái hòm bay về đỗ xuống đất.
Tôi cực kỳ ngạc nhiên trước chuyện kỳ lạ thế này. Người khách nước ngoài bước ra khỏi cái hòm và nói:
- Ngài thấy đấy, đúng là một cỗ xe nhẹ nhàng. Bây giờ hẳn ngài đã tin chắc đi du hành với chiếc xe này, không còn sợ bọn vô lại chặn lại với cướp bóc dọc đường. Đấy chính là phương tiện tôi muốn tặng, để ngài dùng đi đó đi đây một cách an toàn. Tôi biếu không ngài đấy. Ngài sẽ dùng nó chừng nào muốn đi du lịch nước ngoài. Xin ngài chớ nghĩ có phép thần thông biến hoá gì trong vật ngài thấy kia. Chẳng cần phải niệm thần chú hay yểm bùa yêu để cho cái hòm này bay lên trời. Sở dĩ nó bay được là do quy luật chuyển động. Tôi là người thông thạo cơ học, tôi còn biết làm nhiều máy móc kỳ lạ hơn cái máy này nhiều.
Tôi cảm tạ người khách nước ngoài đã biếu cho một vật hiếm. Để tỏ lòng biết ơn, tôi trao cho ông một cái túi đựng đầy tiền xơcanh vàng, và nói với ông:
- Xin ngài vui lòng cho biết, làm cách nào cho cái hòm này chuyển động.
- Ngài sẽ thấy ngay đây, -ông đáp.
Nói xong, ông mời tôi cùng ông vào bên trong cái hòm. Ông chạm tay vào một cái lò xo, cái hòm bay lên, sau đó ông bày cho tôi cách điều khiển nó thật an toàn.
- Quay cái vít này, ông sẽ đi sang phải, vặn cái vít kia ông sẽ rẽ sang trái, chạm vào cái lò xo này cái hòm sẽ bay lên, động vào cái lò xo kia cái hòm khắc hạ xuống.
Tôi muốn tự tay mình điều khiển thử. Quả nhiên rất dễ dàng, tôi muốn bay lên, hạ xuống đi nhanh đi chậm thế nào cũng được. Sau khi bay lượn mấy vòng trên không trung, chúng tôi cho nó quay trở lại nhà tôi và đỗ xuống sau vườn. Cái hòm đáp xuống khá nhẹ nhàng, bởi cái thảm phủ bên trên đã được bỏ đi, để lộ trên thành hòm những cái lỗ cho không khí thông vào cũng như để từ trong nhìn ra ngoài.
Chúng tôi về nhà trước cả bọn người nhà, khiến họ hết sức ngạc nhiên. Tôi sai mang cái hòm vào phòng riêng của tôi, giữ nó cẩn thận như giữ một kho báu. Người khách nước ngoài ra đi, cả ông và tôi hai người đều hài lòng.
Tôi tiếp tục chơi bời hoang phí với bạn bè cho đến khi hết sạch trơn gia tài cha tôi để lại. Tôi bắt đầu vay mượn, giật tạm mỗi nơi một ít, chẳng bao lâu nợ nần như chúa chổm. Khi người thành phố Surat hay tin tôi đã khánh kiệt, tôi chẳng còn chút tín nhiệm nào nữa, chẳng ai đồng ý cho tôi vay thêm, trong khi các chủ nợ ngày nào cũng cứ đến thôi thúc tôi trả các món nợ vay trước. Thấy mình chẳng còn nguồn sinh sống nào khác, có nghĩa chẳng mấy chốc rồi tự chuốc vào mình nhục mạ và ưu phiền, tôi nhớ đến cái hòm của mình. Một đêm, tôi tự tay kéo cái hòm từ phòng riêng ra vườn, cho vào đấy một ít thực phẩm và số tiền ít ỏi còn lại trong nhà, rồi bước vào bên trong. Tôi bật cái lò xo điều khiển cho nó bay lên, chẳng mấy chốc rời xa thành phố Surat cùng các chủ nợ của mình, chẳng còn lo lính tráng hay mõ toà mai kia săn tìm nữa.
Trong đêm tối, tôi cho cái hòm bay với tốc độ nhanh nhất, tưởng chừng nhanh hơn gió. Rạng sáng, tôi ngó qua cái lỗ để biết mình đang ở đâu. Nhìn xuống thấy toàn núi cao vực sâu, cánh đồng khô cằn, sa mạc khủng khiếp. Nhìn về hướng nào cũng chẳng nom thấy nhà ở. Tôi tiếp tục bên trên không trung cả ngày hôm ấy và đêm hôm sau nữa. Sáng hôm sau tôi thấy mình đang bay qua một khu rừng rậm, cạnh khu rừng có một thành phố khá đẹp, liền với một cánh đồng bát ngát.
Tôi cho cái hòm dừng lại để ngắm thành phố, cũng như toà lâu đài tráng lệ ở cuối cánh đồng. Rất muốn biết mình đang ở đâu, tôi đang suy nghĩ cách làm sao tìm hiểu, chợt nhìn thấy một nông dân đang làm việc trên cánh đồng. Tôi cho cái hòm đáp xuống giữa khu rừng, giấu cái hòm trong ấy, rồi đi ra cánh đồng hỏi người nông dân đang làm việc, thành phố này tên là gì. Ông đáp:

- Chàng trai à, tôi thấy rõ anh là người nước ngoài, bởi anh không biết thành phố này tên gọi là Gazna. Quốc vương Bahaman, một vị anh quân rất công minh và dũng cảm, hiện trị vì nơi đây.
- Vậy ai sống trong toà lâu đài tráng lệ nhìn thấy cuối cánh đồng kia? Tôi hỏi.
- Ấy là toà lâu đài quốc vương Gazna cho xây dựng để nhốt nàng công chúa Thirin con gái nhà vua. Theo số tử vi của nàng, công chúa sẽ bị một người đàn ông quyến rũ và lừa gạt. Để phòng ngừa điều ô nhục ấy, nhà vua cho xây dựng nên toà lâu đài này, toàn bằng đá cẩm thạch, chung quanh có hào rộng đầy nước sâu. Khoá lâu đài làm bằng thép mua tận Trung hoa, đích thân nhà vua giữ chùm chìa khoá, ngoài ra lại còn một đội lính đông đảo ngày đêm tuần tra canh gác chung quanh toà lâu đài, không cho bất cứ một người đàn ông nào bén mảng tới. Mỗi tuần nhà vua đến thăm con gái một lần, sau đó trở về sống ở hoàng cung trong thành phố Gazna. Ở trong lâu đài cùng nàng công chúa Thirin chỉ có bà quản mẫu cùng mấy tên nô tỳ giúp việc.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI MỘT
Tôi cảm ơn người nông dân đã cho biết những điều trên rồi quay gót đi vào thành phố. Vừa tới nơi, đã nghe có tiếng vó ngựa dồn dập. Ngay sau đó xuất hiện nhiều kỵ mã ăn mặc sang trọng cưỡi trên những con tuấn mã yên cương huy hoàng. Chính giữa đoàn kỵ sĩ ấy, một người cao lớn dáng điệu uy nghi, đầu đội vương miện vàng, áo hoàng bào có đính nhiều hạt kim cương lấp lánh, tôi đoán đấy chắc hẳn nhà vua xứ Gazna đang đi thăm con gái. Vào trong thành phố, hỏi mấy người dân, tôi biết mình đã đoán không sai.
Sau khi dạo một vòng quanh thành phố, thoả mãn chừng nào lòng hiếu kỳ của mình, tôi nghĩ đến cái hòm. Cho dù đã giấu ở một nơi kín đáo, vẫn không khỏi cảm thấy lo âu. Tôi vội vàng ra khỏi thành phố, và chỉ yên tâm trở lại khi nhìn thấy chiếc hòm gỗ còn nguyên vẹn.
Thanh thản trở lại, tôi ăn uống rất ngon lành số thực phẩm mang theo, rồi quyết định ngủ qua đêm trong khu rừng này. Hy vọng đêm nay sẽ ngủ ngon, bởi không còn phải lo âu chút nào về những người chủ nợ. Tuy nhiên, tôi không sao yên giấc. Những điều người nông dân nói cho nghe ban ngày cứ ám ảnh đầu óc. Tôi tự hỏi: “Quái thật, tại sao nhà vua Bahaman lại lo âu về một điều huyễn hoặc như thế? Có cần thiết không, phải xây cả một lâu đài để nhốt con gái? Để nàng sống trong hoàng cung chưa đủ an toàn hay sao? Nếu các nhà coi số tử vi đã nhìn thấy ngôi sao chiếu mệnh của nàng mắc vào cung ấy rồi, thiên tào đã định cô nàng đi theo ai đấy, tránh làm sao khỏi? Con người cho dù cẩn trọng đến đâu vẫn khó tránh khỏi một điều mà duyên số đã định. Nếu quả nàng công chúa Thirin phải lòng một anh chàng nào đó, thì phòng ngừa thế nào rồi cũng tốn công vô ích mà thôi”.
Cứ suy nghĩ mãi về nàng công chúa Thirin, tôi hình dung hẳn nàng xinh đẹp tuyệt thế vô song, đẹp hơn tất cả bao nhiêu người đàn bà khá xinh đẹp tôi đã gặp tại thành phố Surat hoặc thành phố Gioa, các nàng ấy đã góp phần đáng kể làm cho gia tài tôi mau khánh kiệt. Tôi tự nhủ, phải tìm lối đáp xuống mái toà lâu đài ấy, phải tìm cách vào bằng được trong phòng cô công chúa ấy, biết đâu mình chẳng được nàng mê say? Biết đâu tôi chính là chàng trai mà các nhà xem số tử vi đã đồ trước sẽ quyến rũ được nàng?
Hồi ấy tôi còn trẻ, do đó ngổ ngáo lắm, và tôi cũng chẳng phải con người nhát gan. Quyết định táo tợn vậy rồi, tôi bắt tay thực hành ngay lập tức.
Tôi vào chiếc hòm, lái cho nó bay về hướng toà lâu đài. May sao hôm ấy, như thể để chiều lòng tôi, đêm tối dày đặc. Tôi bay qua đầu bọn lính được bố trí canh gác đông đảo bên ngoài các hào nước, không bị chúng phát hiện. Tôi đáp xuống mái lâu đài, ở một chỗ nhìn thấy gần nơi có ánh đèn hắt lên. Tôi ra khỏi hòm, bò đến bên một cửa sổ người ta mở hé sẵn để đón gió mát. Nhìn vào, thấy một gian phòng bày biện đồ đạc cực kỳ sang trọng, công chúa Thirin đang nằm ngủ say sưa. Quả thật nàng vô cùng xinh đẹp, lời đồn đại chẳng chút sai ngoa, thậm chí đẹp hơn cả như tôi hình dung trong đầu. Tôi tiến đến gần nàng hơn để ngắm nghía cho thoả. Thấy nàng quá xinh, không sao cầm lòng được, tôi liền quỳ xuống nâng một bàn tay nàng đưa lên môi hôn.
Nàng tỉnh giấc ngay. Nhìn thấy một người đàn ông trong tư thế đáng cho mình đề phòng, công chúa kinh hãi thét lên một tiếng rõ to. Bà quản mẫu đang ngủ phòng  bên cạnh giật mình chạy bổ sang.
- Bà Matpêke ơi, hãy cứu tôi với. Có…có một người đàn ông trong phòng. Bằng cách nào anh ta vào được phòng tôi? Hay bà là người đồng loã?
- Tôi ư?  Bà quản mẫu phật ý – Sao công chúa nỡ nghi ngờ xúc phạm như vậy đến già này? Hơn nữa, cho dù tôi cố tình tạo điều kiện thuận lợi cho anh ta, thì làm sao vượt qua được đội lính canh gác vòng trong vòng ngoài? Công chúa biết rõ rồi đấy, muốn vào được tới đây phải qua hai mươi cánh cổng đúc bằng thép, cổng nào cũng niêm phong dấu ấn của hoàng thượng, và chỉ có ngài là người giữ chìa khóa thôi. Tôi thật lòng không hiểu làm sao chàng trai trẻ này đã vượt qua được bấy nhiêu trở ngại.
Trong khi công chúa và bà quản mẫu trao đổi với nhau như vậy, tôi tự đập óc suy nghĩ mình nên đối đáp như thế nào, và bỗng dưng nảy ra ý, phải làm cách sao để cho hai người này tin chắc ta đây chính là Đấng tiên tri Mahomét. Tôi liền nói luôn:
-         Công chúa Thirin à, cũng như bà quản mẫu Matpêke kia, chớ có ngạc nhiên tại sao ta vào được tới đây. Ta không thuộc những chàng trai dùng vàng bạc hoặc mưu đồ giả dối để đạt ước vọng. Ta không có ý định làm gì khiến công chúa phải lo tiết hạnh bị xâm phạm, trong đầu óc ta chẳng bao giờ có ý nghĩ vô đạo đức. Ta chính là Đâng tiên tri Mohamét. Ta không thể ngồi nhìn quốc vương Bahaman cha nàng, chỉ nhằm phòng ngừa duyên số đắng cay của con gái, mà giam cầm nàng bao nhiêu lây trong ngôi nhà tù này, để nàng phải bỏ mất những ngày xuân tươi đẹp. Công chúa, cũng như vua cha nàng, từ nay hãy yên tâm đi, hãy thanh thản đi, chớ nên lo lắng gì. Rồi đây nàng sẽ chỉ có hưởng vinh quang và hạnh phúc thôi, bởi nàng đã trở thành vợ của Đấng tiên tri Mahomét. Chừng nào tin về cuộc hôn nhân của nàng với Đấng tiên tri loan truyền ra khắp thế giới, thì tất cả mọi quân vương trên đời ai ai cũng kính sợ nhà vua bố vợ của Đấng tiên tri, và tất cả mọi nàng công chúa trên trần thế chẳng cô nào không ganh tị với chuyện may của công chúa Thirin.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI HAI
Công chúa Thirin và bà quản mẫu phân vân đưa mắt nhìn nhau, như thể ngầm trao đổi nên nghĩ thế nào về những lời tôi vừa thốt. Riêng tôi, thú thật lúc ấy tôi cũng chưa tin lời nói của mình có tác động gì nhiều đến tâm tư của họ. Nhưng phụ nữ xưa nay bao giờ cũng sẵn lòng tin những gì kỳ diệu. Bà quản mẫu và công chúa tin luôn lời tôi nói. Họ nghĩ tôi là Đấng giáo chủ Mahomét. Và đêm ấy tôi đã lạm dụng lòng tin ngây thơ của nàng công chúa. Sau khi trải qua gần hết đêm với nàng Thirin, trước khi trời rạng sáng, tôi ra khỏi toà lâu đài, không quên hứa đêm mai sẽ quay trở lại.
Tôi vội vã đến chỗ để cái hòm, chui tọt vào trong, cho nó bốc lên thật cao để khỏi bị bọn lính canh nhìn thấy. Tôi đáp xuống khu rừng, giấu cái hòm vào một chỗ kín đáo rồi đi vào thành phố. Tôi mua đủ thực phẩm dùng trong tám ngày, nhiều quần áo sang trọng, một chiếc khăn đội đầu may bằng vải tốt có những sợi sọc vàng sản xuất tận bên nước Ấn độ, cùng nhiều loại nước hoa đắt tiền nhất để bôi lên tóc xức vào người. Tôi dùng hết số tiền còn lại sắm sanh những thứ đó, chẳng chút quan tâm sau này sẽ ra sao, làm như thể sau khi đã gặp một chuyện phiêu lưu kỳ diễm thế ấy, chẳng còn phải lo thiếu thốn thức gì.
Suốt ngày hôm ấy tôi ẩn trong khu rừng, chỉ có mỗi một việc chăm lo chải chuốt vuốt ve và xức nước hoa thơm lừng. Đêm vừa sập đến, tôi chui vào cái hòm, cho nó bay đến đáp xuống mái toà lâu đài của nàng công chúa Thirin. Lại theo cách hôm trước, tôi lọt vào phòng nàng. Công chúa lộ rõ nàng đang nôn nóng chờ tôi. Nàng bảo:
-         Thưa Đâng tiên tri, em đã bắt đầu cảm thấy lo âu, e ngài đã quên mất cô vợ mới cưới của mình.
-         Nàng công chúa yêu quý của ta, sao nàng lại nghĩ lẩn thẩn vậy? Lời ta đã thốt, hẳn nàng phải tin ta sẽ yêu thương nàng đến trọn đời chứ?
-         Nhưng, xin ngài cho em biết rõ – nàng hỏi – sao trông chàng trẻ trung vậy? Từ trước đến nay em vẫn nghĩ Đấng tiên tri Mahomet phải là một cụ già đạo mạo cơ.
-         Nàng nghĩ thế chẳng nhầm đâu – tôi đáp – xưa nay người ta vẫn nhìn ta trong hình dạng ấy. Nhưng giả sử đêm hôm qua ta xuất hiện trước nàng với hình dạng như thỉnh thoảng ta vẫn xuất hiện trước những người ngoan đạo, thì nàng đã trông thấy ta là một cụ già có bộ râu bạc dài và cái đầu hói trán. Nhưng ta nghĩ chắc nàng thích nhìn thấy một người chồng trẻ trung, cho nên ta mới hiện lên dưới hình dáng một chàng trai.
Bà quản mẫu xen vào câu chuyện giữa hai chúng tôi, khen tôi quả là một con người điển trai, nếu một cô gái nào đó muốn kiếm tấm chồng, gặp được một chàng như tôi thì còn gì thú vị bằng.
Gần sáng tôi cẩn thận ra khỏi toà lâu đài, để khỏi lộ cho mọi người thấy đấng tiên tri giả. Đêm hôm sau, tôi lần trở lại, tôi lại xử sự khéo léo như hai đêm hôm trước. Cả nàng công chúa Thirin và bà quản mẫu Matpêke chẳng ai thoáng chút nghi ngờ có sự bịp bợm trong vụ này. Đúng là công chúa qua mỗi đêm lại mỗi thích tôi hơn, nhờ vậy tôi nói ra bất cứ điều gì nàng cũng tin luôn, bởi khi đã thấm duyên nhau thì làm sao còn ngờ vực sự chân thành của người mình đang ôm ấp.
Mấy ngày sau, nhà vua xứ Gazna, theo sau vẫn có đoàn tuỳ tùng đầu đủ văn võ bá quan, đến thăm con gái. Thấy cổng nào cũng còn nguyên dấu niêm phong, vua nói với các vị thượng thư tháp tùng:
-         Mọi việc đều tốt đẹp. Cửa nẻo vẫn còn nguyên khóa và nguyên niêm phong có dấu ấn của ta thế này, chẳng có gì phải lo cho con gái ta.
Nhà vua một mình lên phòng con gái. Trông thấy cha, cô nàng có vẻ lúng túng ngượng ngùng. Nhà vua nhìn thấy, hỏi nguyên do. Lời vua cha làm cho công chúa càng thêm bối rối. Thấy không có cách nào khác, cô đành thú nhận tất cả những việc xảy ra mấy đêm vừa rồi. Nhà vua càng kinh ngạc hơn.
-         Tâu bệ hạ - lời người thợ dệt nói tiếp với vua Bêrêtđin Lôtô thành Đamat – ngài có thể hình dung nỗi kinh lạ của nhà vua khi nghe nói mình đã trở thành nhạc phụ của đấng tiên tri Mahomét từ lúc nào mình chưa hề hay biết.
Vua thốt lên:
-         Thật chuyện kỳ dị! Này con gái ta, làm sao con cả tin đến vậy? Trời đất! Thật hoài công lo lắng phòng ngừa, chẳng sao giữ được tiết hạnh của Thirin, duyên phận của con là phải vậy chăng. Hẳn con đã để cho một tên vô lại nào quyến rũ và lừa dối mất rồi.
Nói xong vua bực bội bỏ ra khỏi phòng con gái. vua thân hành đi khám xét lùng sục cả toà lâu đài, từ tầng trên xuống tầng dưới. Nhưng mặc cho vua tha hồ tìm kiếm, chẳng hề thấy tung tích anh chàng săn gái ấy ở đâu, làm cho nhà vua càng thêm kinh ngạc. Vua tự hỏi “Tên táo gan ấy lọt  vào lâu đài bằng lối nào mới được chứ. Đấy là điều ta không sao hiểu nổi”.
Nhà vua lớn tiếng gọi các vị đại thần và người tâm phúc. Nghe giọng vua hơi thất thanh, mọi người lo lắng chạy đến ngay.
-         Tâu bệ hạ, có chuyện gì vừa xảy ra? – Tể tướng hỏi – Trông ngài như đang băn khoăn suy nghĩ, trong ánh mắt ngài có thoáng vẻ âu lo.
Nhà vua thuật lại câu chuyện và hỏi mọi người nghĩ sao về chuyện ấy. Tể tướng là người lên tiếng đầu tiên. Ông nói, cho dù câu chuyện thoạt nghe có vẻ như bịa đặt, song có thể chân thực lắm. Trên thế giới xưa nay có bao nhiêu vương triều vẫn quả quyết dòng dõi mình xuất phát từ thần linh, bởi vậy mối quan hệ giữa công chúa với giáo chủ Mahomét nếu đã xảy ra thì cũng đáng cho ta tin tưởng lắm.
Các đại thần khác, chắc do nể sợ tể tướng vừa cất lờim đều tỏ ra chi sẻ ý kiến của vị quan đứng đầu triều. Duy chỉ có mỗi một đại thần dám phản đối. Ông nói:
-         Tôi lấy làm lạ sao những người hiểu biết có thể tin vào một chuyện khó tin như vậy. Các bậc thức giả làm sao có thể nghĩ đấng tiên tri của chúng ta ở trên thiên đường có biết bao nhiêu tiên nữ xinh đẹp quây quần, lại xuống hạ giới tìm vợ? Tôi nghĩ chuyện này có gì bất minh, nếu bệ hạ nghe lời tôi, xin ngài hãy tìm hiểu sâu hơn nữa. Tôi chắc rồi ngài sẽ nhận ra tung tích tên khốn kiếp nào đó dám đội tên một thánh thần để làm mê hoặc công chúa.
Mặc dù nhà vua Bahaman bản tính cả tin, xưa nay ông vẫn cho tể tướng của mình là một người có trí phán đoán tốt, ông nói gì vua cũng nghe theo, hơn nữa lần này tất cả các đại thần đều cho trên thực tế công chúa đã có quan hệ với đấng tiên tri Mahomét, vua vẫn bán tín bán nghi. Vua thấy cần làm sáng tỏ sự thật, nhưng làm một cách thận trọng, chỉ có mình vua đối thoại với đấng tiên tri, không  có ai khác được dự. Vua liền quyết định cho các vị triều thần cùng đoàn tuỳ tùng quay trở lại kinh đô.
-         Mời mọi người hãy trở về. Chỉ mình ta ở lại trong toà lâu đài này với con gái ta. Sáng sớm mai, mời tất cả quay trở lại đây.
Mọi người tuân lệnh. Trong khi chờ đợi đêm tới, nhà vua đặt ra với công chúa nhiều câu hỏi khác nữa. Vua hỏi đấng tiên tri có cùng dùng bữa với công chúa không.
-         Tâu bệ hạ không, - công chúa đáp – con đã đưa ra nhiều món thịt ngon cùng rượu ngọt dâng mời, ngài đều từ chối. Từ hôm ngài đến với con, chưa hề nhìn thấy ngài ăn bất cứ món nào.
- Con hãy kể lại đầu đuôi ta nghe một lần nữa, chớ nên quên  chi tiết đặc biệt nào – nhà vua phán.
Công chúa thuật lại từ đầu, nhà vua chăm chú lắng nghe và cân nhắc từng điểm một.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BA

Đêm đến. Vua Bahaman ngồi trên chiếc sập, cho đốt nến rồi sai mang đến một cái bàn bằng cẩm thạch. Vua rút gươm ra, đặt lên đấy sẵn sàng lấy máu rửa sạch danh dự hoàng triều nếu bị ai đó làm hoen ố. Ông rất nóng lòng chờ đợi, và trong thời gian chờ đợi căng thẳng. tâm trạng cũng khó tránh khỏi xao xuyến.
Đêm hôm ấy, do sự tình cờ trời nổi cơn giông. Một tiếng sét nổ oàng, chớp giật sáng loè. Vua đi đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài, thấy bầu trời sáng rực, tưởng nhìn thấy đâu đâu toàn là lửa cháy. Mặc dù mọi sự vẫn bình thường, quang cảnh ấy không khỏi làm cho nhà vua lo lắng. Vua nghĩ đây là điềm lạ. Có thể cơn giông này báo hiệu đấng tiên tri giáng trần thật chăng. Những ánh chớp giật liên hồi kia có thể để soi đường cho đấng tiên tri đi.
Nhà vua đang trong tâm trạng ấy thì tôi vô tư lần đến bên cửa sổ. Trông thấy tôi đột ngột xuất hiện, cơn giận của nhà vua tan biến, thay vào đó là lòng kính trọng và nỗi lo sợ. Vua đánh rơi thanh gươm cầm sẵn ở tay, quỳ mọp xuống đất, hôn hai chân tôi và thốt lên:
-         Thưa đấng tiên tri vĩ đại! Kẻ trần thế này là ai, người trần mắt thịt này đã làm nên công trạng gì mà được vinh dự là nhạc phụ của ngài?
Nghe lời ấy, tôi hiểu giữa nhà vua và công chúa đã có cuộc trò chuyện với nhau. Hóa ra bịp vi quốc vương xứ Gazna này cũng chẳng khó gì hơn đánh lừa nàng công chúa con gái cưng của ông. Tôi hài lòng, hóa ra mình không phải đối đầu với một con người cứng cỏi, có thể đặt ra cho đấng tiên tri những câu hỏi làm ngài chẳng biết phải trả lời ra sao. Tôi quyết định ngay, có thể lợi dụng tính cách yếu đuối của nhà vua này. Tôi đỡ vua đứng lên và nói:
-         Hỡi nhà vua! Ngài là người gắn bó nhất với đạo giáo ta trong tất cả các vị quân vương theo đạo Hồi. Đức tin ấy của ngài làm ta có cảm tình. Ta đã cầu xin đấng tối cao tháo bỏ cho duyên phận nàng công chúa cái hạn sẽ phải gặp điều không đẹp, như đã ghi sẵn vào sổ tử vi của nàng. Ta được Đấng tối cao chấp nhận với điều kiện nàng công chúa Thirin phải trở thành một trong số các phu nhân của ta. Ta đã thuận tình làm chồng nàng, để thưởng công ngài về tất cả những côngđức hàng ngày của ngài.
Vua Bahaman càng bị mắc lỡm. Vua tin tất cả mọi điều tôi nói. Hài lòng về cuộc hôn phối ấy, nhà vua một lần nữa sụp xuống dưới chân tôi bài tỏ lòng biết ơn sâu xa. Tôi nâng nhà vua đứng lên, ôm hôn, và khẳng định sẽ luôn che chở. Vua không còn tìm được lời lẽ nào hay ho hơn nữa để cảm tạ lòng tốt của tôi. Sau đấy, chắc vua nghĩ để tôi ở lại một mình với cô công chúa thì hay hơn, vua liền sang nghỉ tại một phòng khác.
Tôi ở với nàng công chúa một hồi lâu, nhưng luôn chú ý chớ ngủ quên để trời sáng không biết, rồi có người sẽ trông thấy  cái hòm gỗ trên mái toà lâu đài. Bởi vậy, chưa sáng tôi đã vội lo ra khỏi phòng nàng công chúa và trở về với khu rừng của mình.
Sáng sớm hôm sau, các vị thượng thư và triều thần y hẹn đến lâu đài của công chúa. Họ hỏi nhà vua đã làm sáng tỏ điều cần biết hay chưa. Vua Bahaman đáp:
-         Có, giờ ta biết chắc mọi sự rồi. Ta đã gặp đích thân đấng đại tiên tri. Ta đã trò chuyện với ngài. Ngài là chồng của con gái ta, không có gì thật hơn chuyện ấy.
Nghe vậy mọi người quay lại nhìn vị triều thần ngày hôm qua đã tỏ ý nghi ngờ, trách ông ta sao dám hoài nghi. Nhưng ông ta vẫn một mực kiên trì ý kiến của mình. Cho dù nhà vua nói thế nào đi chẳng nữa, vẫn không sao thuyết phục được ông ta tin đức Mahomét thật là chồng của công chúa Thirin. Suýt nữa nhà vua nổi trận lôi đình với vị đại thần của mình. Và con người hay hoài nghi ấy bị cả triều đình ai cũng chê cười.
Có một chuyện nữa xảy ra ngay trong ngày hôm ấy, càng làm các triều thần vững tin hơn trong suy nghĩ của họ. Trên đường trở về kinh thành, đoàn vua quan bắt chợt gặp một cơn giông giữa cánh đồng. Chớp giật sáng loè, sấm nổ liên hồi, tưởng như hôm nay đến ngày tận thế. Tình cờ con ngựa vị thượng thư có tính hoài nghi đang cưỡi bị một tia chớp loé vào mắt, giật mình chồm lên, hất ông quan ngã lăn kềnh, gãy luôn một chân. Mọi người coi đây là điềm trời trừng phạt ông ta. Nhà vua nói:
-         Anh chàng khốn khổ, đấy là hậu quả việc anh thiếu lòng tin. Anh không chịu nghe lời ta, cho nên bây giờ mới bị đấng tiên tri trừng phạt.
Vị thượng thư ấy được đưa về nhà chạy chữa. Vừa tới kinh thành, vua Bahaman cho công bố ngay chiếu chỉ, truyền cho nhân dân  cả nước chuẩn bị mở hội ăn mừng lễ thành hôn của công chúa Thirin lấy đấng tiên tri Mahomét. Ngày hôm ấy, tôi vẫn đi lang thang trong thành phố như mọi hôm, nghe nhân dân đồn đại chuyện đám cưới của nàng công chúa cũng như chuyện vị thượng thư bị đấng đại tiên tri phạt bắt ngã ngựa trên đường về. Chẳng hiểu sao nhân dân nước này cả tin và mê tín như vậy. Hội hè chè chén linh đình khắp nơi. Đi đến đâu cũng nghe tung hô “Vạn tuế đức vua Bahaman, nhạc phụ của đấng đại tiên tri!”.
Sập tối tôi quay trở về khu rừng và chẳng mấy chốc sau đã có mặt trong lâu đài của công chúa. Vừa tới nơi tôi đã bảo nàng:
-         Công  chúa xinh đẹp à, chắc nàng không rõ điều gì xảy ra giữa cánh đồng sáng hôm nay. Một triều thần, người đã tỏ ý nghi ngờ việc nàng kết hôn với tiên tri Mahomét, gặp cơn giông làm ngã ngựa và gãy chân. Ta không muốn trừng phạt y nặng nề hơn thế. Nhưng ta thề trước ngôi mộ của ta hiện ở thành phố Mêđin, từ nay trở đi, nếu có ai còn dám tỏ ý hoài nghi hạnh phúc của nàng, ta sẽ bắt người ấy mất mạng.
Sau khi ăn ở mấy tiếng đồng hồ với nàng công chúa, tôi lại về khu rừng.
Ngày hôm sau, vua Bahaman triệu tập toàn thể các vị thượng thư và mọi triều thần tề tựu đông đủ và phán:
-         Hôm nay, tất cả chúng ta phải cùng đến để tạ lỗi hộ ông thượng thư bị ngã gãy chân do kém đức tin với đấng tiên tri Mahomét.
Nói xong nhà vua lên ngựa. Tất cả triều thần theo sau. Đến nơi, nhà vua thân hành mở khoá cổng ra vào và tất cả các cửa khác trong nhà tự tay nhà vua đã khóa chặt và niêm phong ngày hôm trước. Cùng với tất cả triều thần, nhà vua đến thẳng phòng công chúa, nói với nàng:
-         Công chúa Thirin à, hôm nay tất cả chúng ta đến đây nhờ công chúa nói giúp với đấng tiên tri một tiếng, xin ngài tha tội cho viên thượng thư đã kém đức tin khiến ngài nổi giận.
-         Tâu bệ hạ, con đã rõ ông ấy là ai. Chính ngài Mahomét đã cho con rõ.
Và nàng kể tiếp những lời tôi đã nói với nàng, rằng từ nay về sau, nếu có ai còn tỏ ý hoài nghi về cuộc hôn phối giữa nàng với đấng tiên tri Mahomét, thì sẽ bị mất mạng, chính ngài đã long trọng cất lời thề như vậy.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BỐN
Nghe thế, vua Bahaman quay về phía toàn thể triều thần và bảo:
-         Cho dù trước đây chúng ta có không tin những điều mắt thấy, bây giờ tai chúng ta nghe, vậy liệu đã đủ để các vị tin tưởng chắc chắn đức Mahomét là phò mã của ta chưa? Các vị đã nghe rồi đấy, ngài đã cho con gái ta biết ngài đã gây nên cơn giông tố để trừng trị tên khốn khổ do kém đức tin.
Tất cả các vị thượng thư cũng như mọi triều thần có mặt ai cũng tin chắc như đinh đóng cột, công chúa đích thị là người vợ yêu của đấng tiên tri. Tất cả đều quỳ xuống khúm núm khẩn cầu công  chúa nói giúp cho một lời, xin ngài tha tội cho thượng thư. Công chúa Thirin vui vẻ nhận lời.
Trong thời gian ấy, tôi đã chén hết số thực phẩm mua để dành, trong túi cũng hết nhẵn chẳng còn đồng nào. Đấng đại tiên tri đang điên đầu chưa biết sống bằng cách nào mấy ngày tới đây thì chợt nảy ra một ý. Một đêm, tôi bảo nàng công chúa Thirin:
-         Công chúa yêu quý của ta à, chúng ta quên mất chưa làm một thủ tục cần thiết trong cuộc hôn nhân giữa hai chúng ta. Nàng chưa trao cho ta của hồi môn, và điều đó cũng làm cho ta hơi phiền lòng một chút đấy.
-         Hôn phu yêu quý của em ơi, xin chàng chớ bận tâm – công chúa đáp – việc ấy sáng mai em chỉ cần nói với  cha em một tiếng, người khắc sẽ mang đến cho em moi của cải trong kho tàng của người.
-         Không, không, chả cần nàng thưa với phụ vương – tôi vội ngăn – ta chẳng mấy quan tâm các kho tàng, ta đâu có màng chi đến của cải trên đời. Chỉ cần nàng trao cho ta vài món nữ trang, ta chỉ cần có thế, coi như là đủ món hồi môn của nàng rồi.
Công chúa Thirin định trao cho tôi tất cả các nữ trang nàng có trên người để cho xứng đáng hồi môn lễ cưới đại tiên tri, song tôi chỉ chọn lấy hai viên kim cương lớn, hôm sau mang về thành phố bán cho một nhà buôn kim hoàn ở Gazna. Bằng cách ấy, tôi đã thừa sức đóng tiếp vai trò đấng đại tiên tri Mahomét.
Gần một tháng trôi qua, tôi thủ một cách dễ chịu vai đấng đại tiên tri chồng nàng công chúa, chợt xuất hiện tại kinh thành Gazna sứ thần của một nước lân bang. Sứ thần thay mặt nhà vua nước ấy đến cầu hôn công chúa Thirin làm hoàng hậu. Trong buổi hội kiến, sau khi nghe sứ thần trình bày, vua Bahaman nói:
-         Ta rất không vui vì không thể chấp nhận lời quốc vương quý quốc nhờ ngài đến hỏi con gái ta về làm hoàng hậu nước ngài, bởi ta đã gả công chúa cho đấng tiên tri Mahomét từ trước rồi.
Nghe nói, sứ thần nghĩ ông vua này đã hoá điên mất, liền vội vã xin cáo từ trở về nước. Quốc vương nước ấy thoạt nghe sứ thần tâu, cũng nghĩ vua Gazna đã hóa rồ. Nhưng ngẫm nghĩ, vua lại cho rằng qua sự từ hôn ấy quốc vương Bahaman tỏ ý khinh rẻ mình thì liền nổi giận. Ông dấy một đạo binh lớn, đùng đùng kéo vào nước Gazna để hỏi tội.
Nhà vua ấy, danh vị là Caxem, vốn hùng mạnh hơn vua Bahaman nhiều. Hơn nữa, ông này lại quá chậm chạp trong việc động viên quân đội khi nghe tin nước ngoài gây hấn, nên không kịp đối phó. Sau mấy trận giao tranh thất bại, quân đội xứ Gazna đành chịu để cho quân đội vua Caxem tiến sát kinh thành, đóng quân trên cánh đồng ngay trước mặt lâu đài nàng công chúa Thirin. Ý định của vua Caxem là công thành Gazna ngay tức khắc, quyết tâm đánh bại vua Bahaman tại kinh thành của ông. Nhưng quân Caxem vừa kéo đến cánh đồng thì trời đã tối, hơn nữa binh sĩ cũng cần nghỉ ngơi. Bởi vậy vua Caxem truyền cho hạ trại, quyết định sẽ tiến đánh để hạ thành ngay sáng sớm hôm sau.
Trong thời gian ấy, vua Bahaman được tin cấp báo về số lượng đông đảo và tính thiện chiến của quân đội đối phương, bắt đầu run sợ. Vua hội tất cả các triều thần lại bàn bạc phương sách đối phó. Vị thượng thư gãy chân lên tiếng:
- Tôi lấy làm ngạc nhiên sao bệ hạ quá lo âu về chuyện vặt ấy. có vị quân vương nào trên thế giới này, nói chi đến vua Caxem nhãi nhép kia, dám cả gan làm vị nhạc phụ cho đấng tiên tri Mahomét phải băn khoăn lo ngại? Tâu bệ hạ, tôi thiết nghĩ ngài chỉ cần thưa với vị phò mã một tiếng. Hãy xin đấng đại tiên tri phù hộ, quân đội xâm lăng ắt sẽ bị đáng tơi bời. Đấy cũng là bổn phận của đấng đại tiên tri nữa, bởi chính do ngài kết hôn với công chúa cho nên quân thù mớo có cớ gây hấn, khiên dân chúng nước ta không được yên vui.
Cho dù câu trên chỉ là một lời nói hàm ý nhạo, vua Bahaman vẫn cứ tin là thật. Vua gật gù:
-         Ông nói chí lý. Đúng là ta phải ngỏ lời cầu xin đức Mahomét. Ta sẽ xin ngài đẩy lùi đội quân dũng mãnh kia. Ta tin lời khẩn cầu của ta không bị ngài khước từ.
Nói xong, vua đến ngay lâu đài tìm công chúa, nói với nàng:
-         Con gái ta à, nội sáng sớm mai, khi trời vừa rạng, quân đội của vua Caxem sẽ nhất loạt tấn công. Ta e họ sẽ hạ được thành của ta mất. Ta đến đây cầu xin đức Mahomét giúp đỡ. Con hãy dùng tất cả ảnh hưởng của con đối với ngài, xin ngài hãy trợ giúp cha trong việc phòng thủ. Con và cha, cả hai chúng ta chung lòng chung sức để cầu khẩn ngài đống ý giúp cho.
-         Tâu bệ hạ - công chúa đáp – chẳng khó khăn gì không xin được đấng tiên tri giúp đỡ chúng ta. Quân xâm lược của vua Caxem nhất định sẽ bị đánh tan, và tất cả các bậc quân vương này sẽ lấy đó làm bài học để từ nay trở đi ai cũng phải kính trọng phụ vương.
-         Nhưng – nhà vua vẫn lo lắng – đêm đã tối rồi, chưa thấy đấng tiên tri xuất hiện. Hay là ngài đã bỏ cha con chúng ta?
-         Không đâu, thưa phụ vương. Xin cha chớ nghĩ chàng sẽ bỏ chúng ta khi chúng ta cần đến chàng – công chúa trấn an vua – từ trên trời cao ngài đã nhìn thấy quân đội đối phương bố trí quân sĩ như thế nào, có thể ngài đã nghĩ ra cách gieo rắc kinh hoàng và làm rối loạn hàng ngũ quân thù
Mà đấy đúng là điều Mahomét định làm. Chả là, ngày hôm ấy, từ xa tôi đã để ý quan sát doanh trại quân vua Caxem, nhất là chú ý đại bản doanh nhà vua đóng ở nơi nào. Tôi tìm nhặt rất nhiều viên đá cuội lớn có nhỏ có, xếp đầy cái hòm gỗ của tôi. Đến lúc nửa đêm, tôi cho cái hòm bay lên trời. Chẳng khó khăn gì không phân biệt rõ trại nhà vua đóng chính giữa các lều trại khác của quân sĩ. Đấy là một cái lều rõ lớn, màu vàng, dựng theo hình có mái vòm cao, gác lên mười hai cái cột to bằng gỗ sơn son, chôn chặt xuống đất. Giữa các cột, có nhiều cành cây là dây buộc ràng níu với nhau. Trên nóc trại, có mở hai cái cửa sổ, một cái về hướng đông, một cái về hướng nam.
Tất cả quân sĩ chung quanh trại của vua đều đã ngủ say. Nhờ vậy tôi có thể cho cái hòm hạ xuống gần  cửa sổ mà chẳng ai để ý. Nhìn vào, thấy vua Caxem đang ngủ trên một cái sập, đầu gối lên một cái gối vuông phủ lụa sa tanh. Tôi ném một viên đá lớn trúng đầu vua, làm ông bị thương khá nguy hiểm. Ông đau đớn thét lên, khiến các võ quan và quân cấm vệ thức giấc. Mọi người chạy đến, đã thấy đầu nhà vua đầm đìa máu me và nhà vua gần như bất tỉnh. Mọi người kêu tóang lên, báo động toàn thể doanh trại, chẳng ai rõ việc gì xảy ra. Có tin loan truyền nhà vua bị tử thương, mà chẳng rõ do bàn tay nào gây nên.
Trong thời gian mọi người lo lùng xục tìm bắt hung thủ, tôi cho chiếc hòm bay lên cao tít trên mây, và ném đá cuội xuống các lều trại của binh sĩ chung quanh. Một số lính tráng bị thương, kêu ầm lên có trận mưa toàn đá cuội lớn từ trên trời gieo xuống. Tin tức loan truyền khắp toàn quân. Để khẳng định thêm tin dữ ấy, tôi tiếp tục vãi đá xuống nữa. Thế là toàn thể đạo binh kinh hoàng. Từ quan đến lính, ai cũng tin đấng đại tiên tri đang nổi  cơn thịnh nộ, gây nên cảnh này để cảnh báo. Chắc rồi tai ương giáng xuống đầu mọi người sẽ còn lớn nữa. thế là đạo binh thù địch của vua Bahaman chỉ còn có việc tranh nhau tháo chạy, vừa chạy vừa than van “Chết hết, sắp chết hết chúng ta rồi, đấng Mahomét sắp tiêu diệt hết chúng ta”. Quân địch tháo chạy vội vàng đến mức bỏ lại lều trại và rất nhiều của cải cùng quân trang quâng dụng.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI LĂM
Tảng sáng hôm sau, vua Bahaman cực kỳ ngạc nhiên không thấy quân địch tấn công, mà lại tháo chạy tan tác. Vua vội vàng cho đội quân tinh nhuệ nhất của mình đuổi theo và tha hồ tàn sát quân địch.
Vua Caxem bị thương, không thể chạy nhanh, bị bắt sống. Vua Bahamn hỏi:
-         Tại sao đang yên lành mi lại cất quân tấn công ta, bất chấp mọi luật pháp và lẽ phải trên đời?

Nhà vua chiến bại đáp:
- Ta vẫn ngờ ông từ chối không chịu gả con gái cho ta vì khinh rẻ ta, cho nên phải trả mối hận ấy. Trước đây ta chẳng sao tin được đấng Mahomét là rể của ông. Bây giờ thì ta tin chắc rồi, bởi chính ngài đã đánh ta bị thương, chính ngài đã phá tan tành đạo binh của ta.
Vua Bahaman không truy đuổi quân thù nữa, quay trở lại kinh thành Gazna mang theo vua Caxem. Ông này qua đời ngay trong ngày vì vết thương quá nặng. Chiến lợi phẩm được chia đều, nhiều tới mức lính tráng người nào trở về cũng mang theo vô vàn của cải.
Tất cả mọi thánh đường trong thành phố đều làm lễ cầu nguyện, tạ ơn đấng đại tiên tri đã giúp nhà vua phá tan quân địch. Đêm hôm ấy, vua một mình đến phòng con gái. Ngài nói:
-         Con à, cha đến đây để tạ ơn đấng tiên tri. Như trong thư cha đã cho người mang tới trước, con hẳn biết rõ ngài  đã làm những gì trợ giúp cha. Cha quá đỗi cảm kích, muốn được ôm chân ngài bày tỏ ngay tức khắc lòng biết ơn sâu sắc.
Nhà vua được toại nguyện. Vừa lúc ấy, tôi từ cửa sổ vẫn đến cùng công chúa, bước vào phòng. Tôi tính trước thế nào nhà vua cũng tới đây. Trông thấy tôi, vua quỳ xuống đât, hôn mặt đất rồi thưa:
-         Thưa đấng đại tiên tri! Tôi chẳng biết tìm lời lẽ nào để bày tỏ hết lòng biết ơn sâu xa của tôi đối với ngài. Hẳn ngài đã nhìn thấy tận đáy trái tim tôi sự tri ân ấy.
Tôi nâng nhà vua đứng dậy, hôn lên trán ông:
-         Sao nhà vua lại nghĩ ta có thể bỏ mặc nhà vua trong cơn hoạn nạn? Ta đã trừng phạt tên vua Caxem kiêu ngạo, nó có ý định xâm lăng quốc gia của vua và bắt công chúa Thirin về làm nô tỳ trong hậu cung của hắn. Từ nay nhà vua chẳng cần phải lo âu có một ai trên đời này dám gây hấn với quốc vương Gazna. Giả sử có tên nào bất kính, ta sẽ cho trút xuống đầu quân đội chúng một trận mưa lửa đốt cháy tất cả ra tro bụi trong nháy mắt.
Sau khi một lần nữa vỗ về vua Bahaman là tôi sẽ luôn che chở cho ông, tôi kể lại quân vua Caxem đã phải kinh hoàng tháo chạy khi thấy trận mưa toàn bằng đá cuội trút xuống đầu như thế nào. Nhà vua xứ Gazna cũng thuật lại y như vậy, do nhà vua chiến bại kể lại cho ông nghe. Rồi vua hối hả đi ra để cho tôi được tự do với nàng công chúa. Cũng như cha, nàng rất cảm kích về việc tôi cứu giúp phụ vương nàng, càng hết lòng chiều chuộng. Tôi say sưa quá, đến nỗi quên mất thời gian. Khi lần đến cái hòm thì trời đã rạng. Tuy nhiên, mọi người lúc này đều tin tôi đúng là đức Mahomét, cho dù bọn lính canh có nhìn thấy cái hòm gỗ của tôi bay trên đầu, họ cũng chẳng ngạc nhiên. Đến cả bản thân tôi, sau khi làm cho cả một đạo binh lớn tháo chạy tơi bời, có lúc tôi cũng nghĩ chính mình là đại tiên tri Mahomét thật.
Quốc vương Caxem cho dù nhà vua thù địch, vẫn được xứ Gazna cho làm tang lễ trọng thị. Hai ngày sau khi chôn cất vua Caxem, vua Bahaman cho ban bố khắp đô thành, khuyến cáo dân chúng mở hội vui chơi, vừa để mừng chiến thắng vinh quang vừa để chính thức công nhận cuộc hôn nhân nàng công chúa Thirin xe duyên cùng đấng đại tiên tri Mahomét.
Tôi nghĩ, nhân dân mở hội mừng ngày cưới của mình, thì mình cũng nên nghĩ ra một phép diệu kỳ nào đấy, cho xứng đáng với danh dự được tôn vinh.
Thế là tôi vào thành phố tìm mua diêm tiêu, hạt bông vải cùng một khẩu súng con để phát hoả. Tôi trộn lẫn diêm tiêu với hạt bông vải khô, rồi cả ngày lụi cụi chuẩn bị làm pháo hoa. Đúng giữa đêm hội, tôi cho chiếc hòm bay thật cao trên thành phố và phát lửa đốt một trận pháo hoa rực rỡ. Tôi chú ý cho cái hòm lên thật cao để mọi người bị ánh sáng pháo hoa làm loá mắt, chẳng ai có thể nhìn thấy chiếc hòm.
Hôm sau, trời vừa sáng tôi lại vào thành phố để thích thú lắng nghe nhân dân loan truyền ngợi ca đêm pháo hoa tuyệt vời. Nhiều người cho rằng đấng đại tiên tri cho đốt pháo trên trời mừng lễ cưới mình. Những người khác một mực quả quyết chính mắt mình trông thấy. rõ như ban ngày không thể nào nhầm lẫn, đấng đại tiên tri xuất hiện dưới dạng một cụ già với bộ râu trắng như tuyết giữa vầng pháo hoa đẹp tựa sao sa.
Những chuyện lan truyền trong dân chúng ấy khiến tôi khoái trá không sao tả xiết. Trong khi tôi đang sung sướng vì được bốc tận mây xanh thì chiếc hòm gỗ, chiếc hòm gỗ yêu quý của tôi cháy rụi trong rừng. Chắc hẳn một đốm lửa nào đấy của đốm pháo hoa rơi xuống rừng và cháy âm ỉ trong khi tôi vắng mặt đã thiêu mất nó. Khi tôi quay trở về, chỉ còn nhìn thấy một đống tro. Nỗi đau của tôi đến cùng cực. Một người đi xa trở về nhà, thấy cậu con trai độc nhất của mình bị đâm hàng ngàn nhát tử thương, đang nằm trong vũng máu, hẳn cũng đau đơn như tôi lúc ấy là cùng. Tiếng tôi kêu la khóc lóc thảm thiết vang dội cả khu rừng. Tôi tự đập đầu giật tóc, xé rách áo quần của mình. Tôi không hiểu tại sao lúc ấy không đi đến mức tự kết liễu đời mình.
Nhưng tai hoạ đã xảy ra rồi, đằng nào cũng phải đi đến một quyết định. Chỉ còn mỗi một cách, là đi nơi khác, may ra tìm kiếm được vận may. Thế là đấng đại tiên tri đành bỏ lại nàng công chúa Thirin xinh tươi và quốc vương Bahaman ở thành phố Gazna, để lê gót ra đi đến phương trời khác, cả hai cha con nhà vua đều ngẩn ngơ nuối tiếc chẳng hiểu tại sao đấng tiên tri không đóai hoài trở lại với mình.
Ba ngày sau tôi gặp một đoàn thương nhân người Cairo sang đây buôn bán đang tổ chức thành đoàn lữ hành để cùng nhau trở về thành phố. Tôi lẩn vào đoàn, cùng đi với họ về thành phố vĩ đại ấy. Tôi học nghề thợ dệt kiếm sống qua ngày. Ở thành phố Cairo mấy năm, tôi sang thành phố Đamat này và vẫn hành nghê ấy. Bề ngoài mọi người nhìn thấy tôi có vẻ hài lòng lắm với số phận của mình, nhưng đấy chỉ là bề ngoài sai lạc mà thôi. Thâm tâm tôi không sao quên được những ngày hạnh phúc từng được hưởng. Nàng công chúa Thirin thỉnh thoảng lại hiện lên trong ký ức. Tôi cố quên nàng đi để cuộc sống của mình được thanh thản, nhưng cố gắng bao nhiêu cũng vô ích, chỉ làm cho mình khổ thêm mà thôi.
-         Muôn tâu bệ hạ - người thợ dệt nói tiếp – đấy là tất cả những gì hoàng thượng đòi kẻ này phải ngay thật tâu trình. Tôi hiểu bệ hạ không hài lòng sao tôi dám lừa dối công chúa Thirin và quốc vương Gazna, thỉnh thoảng tôi có nhận thấy ngài đã cau mặt chau mày vì những việc làm trái đạo đức ấy, khiến tôi run sợ lắm. Tuy nhiên, tâu bệ hạ, chính ngài đòi hỏi tôi phải nói cho thật chân thành, không được giấu giếm chút gì, vậy cúi xin bệ hạ rộng lòng thương tha tội cho về những điều sai trái đã trót làm.
Chương 17: Chuyện quốc vương Bêrêđin- LôLô và tể tướng Atanmuc (tiếp theo)
Sau khi nghe kể hết chuyện, vua Bêrêđin cho người thợ dệt lui về. Vua nói với tể tướng và vị hoàng thân tin cẩn của mình:
-         Câu chuyện về cuộc đời anh chàng thợ dệt này chẳng kém kỳ lạ chuyện của hai ông. Cho dù anh chàng ấy cũng như hai ông, không cảm thấy mình sung sướng, xin các vị chớ vội nghĩ là ta chịu thua cuộc, và nhất trí với kết luận của hai ông, trên đời này không có ai được hạnh phúc hoàn toàn. Ta muốn lần lượt hỏi chuyện các võ quan, triều thần cũng như tất cả mọi người phục vụ trong nội cung ta về vấn đề ấy. Tể tướng hãy mời họ theo thứ tự đến gặp ta.
Tuân lệnh, trước hết tể tướng cho vời các võ quan. Nhà vua truyền cho những người từng trải qua chinh chiến hãy mạnh dạn nói rõ, trong đời mỗi người có điều thầm kín nào khiến họ thấy cuộc sống không thú vị lắm. Mọi người hãy thành thật, đừng sợ điều mình nói ra có thể mang lại hậu quả không hay.
Thế là các võ quan thi nhau tuôn ra bao nhiêu điều bực bội, khiến lòng họ hoàn toàn không được thanh thản. Người thú nhận mình nuôi quá nhiều tham vọng, người nói mình quá chắt bóp tiện tặn trong cuộc sống. Có người thú nhận mình luôn luôn ganh tị với các bạn cùng quân ngũ, sao họ được hưởng nhiều vinh quang hơn mình, giận người đời không đánh giá đúng các chiến công hiển hách của mình. Tóm lại, các vị quan võ thoải mái dốc bầu tâm sự cho nhà vua nghe. Không tìm ra ai là người hạnh phúc, vua bảo tể tướng ngày mai sẽ nghe tiếp các vị quan văn trong triều đình.
Đến lượt các quan văn. Chẳng có vị nào cảm thấy hài lòng về mình. Một ông nói, tôi cảm thấy uy danh lớn chẳng hiểu sao cứ giảm sút từng ngày. Một ông khác phàn nàn, hễ định làm việc gì là y như có người khác chực phá ngang, chẳng bao giờ đạt kết quả ưng ý. Một ông nữa: mình luôn phải tính tóan cách ăn ở sao cho vừa lòng các kẻ thù của mình, thậm chí còn phải tìm cách vuốt ve họ. Một vị khác nữa lại kêu ca mình đã tiêu phá hết tài sản, sắp lâm vào cảnh khánh kiệt tới nơi.
Vua Bêrêđin Lôlô vẫn chẳng sao tìm ra con người hạnh phúc trongtc văn võ bá quan của mình, liền quay về hỏi những người hầu hạ tại nội cung. Vua kiên nhẫn lắng nghe từng người kể chuyện. .Câu kết luận của mỗi người chẳng mấy khác những điều các võ quan và triều thần đã nói. Người thì chuyện vợ cả nàng hầu, người thì lo lắng vì con cái. Người cho gia cảnh mình chưa sung túc lắm thì than thở sao số mình không được phú quý vinh hoa, người giàu sang thì phàn nàn sức khoẻ quá tồi, hoặc ngày nào cũng có chuyện xảy đến buộc phải luôn luôn lo nghĩ.
Mặc dù chưa vừa ý, quốc vương Bêrêđin Lôlô vẫn không chịu bỏ hy vọng rồi đây có thể gặp một con người cảm thấy hài lòng về bản thân. Vua nói với tể tướng:
-         Chỉ cần ta gặp được mỗi một người như vậy thôi, bởi ông cứ khăng khăng không có bất kỳ ai hạnh phúc trên đời này.
-         Vâng, tâu bệ hạ - Tể tướng đáp – giờ đây tôi vẫn tin ý mình là đúng. Tôi nghĩ bệ hạ sẽ tìm kiếm tốn công vô ích mà thôi.
-         Ta vẫn chưa đồng ý với ông – vua nói – trong đầu ta vừa nảy ra một ý có thể tạo điều kiện giúp ta làm sáng tỏ.
Thế là vua truyền lệnh, cho bố cáo để mọi thần dân trong kinh thành được biết, bất cứ người nào cảm thấy hài lòng với số phận của mình, bất kỳ ai chưa hề gặp một điều không vui làm cuộc sống mình kém thanh thản, nội trong thời gian ba ngày, phải đến ra mắt triều đình. Hết hạn ba ngày, vẫn chưa thấy một người dân nào xuất hiện trước hoàng cung, làm như toàn thể nhân dân trong vương quốc ai ai cũng đồng tình với nhận định của tể tướng Atunmuc.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI SÁU
Vua Berêđin cực kỳ ngạc nhiên chẳng thấy ma nào chịu đến ra mắt mình như chiếu chỉ truyền. Vua thốt lên:
-         Thật chẳng thể nào tin được! Làm sao cả kinh đô Đamat này, một thành phố rất rộng lớn, dân cư rất đông đúc lại không thể bói ra một con người hạnh phúc?
Tể tướng Atanmuc thưa:
-         Muôn tâu bệ hạ, cho dù ngài có cho hỏi hết mọi người thuộc mọi dân tộc trên trái đất này, ai ai cũng sẽ trả lời ngài họ cảm thấy bất hạnh.
-         Đó là điều ta không sao tưởng tượng nổi – vua nói – Dù ông khẳng định vậy, ta vẫn mong đất nước được thanh bình để ta có điều kiện đi du hành khắp nơi trên thế giới, để rồi xem giữa ông và ta, ai là người sai lầm.
Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Đúng vào thời gian ấy, các nước lân bang của xứ Đamat đều phái sứ thần đến xin cầu hào, với người điều kiện có lợi cho vua Bêrêđin. Vua hội đông đủ triều thần hỏi ý kiến, mọi người đồng ý tận dụng cơ hội này, chấp nhận các điều kiện ấy hay bác bỏ. Vậy là hoà bình được tái lập giữa quốc vương Đamat với các kẻ thù truyền thống của ông. Hoà ước được ký kết và ban bố cho thần dân cả nước cùng rõ. Ít lâu sau được rảnh rang, nhà vua nói với tể tướng:
-         Bây giờ đất nước không còn chiến tranh, ta có thể đi du hành. Ý ta đã quyết. Chừng nào chưa tìm gặp được một con người hạnh phúc, ta nhất định chưa trở về kinh đô.
Tể tướng vẫn tìm  cách khuyên can:
-         Tâu bệ hạ, sao ngài tự chuốc lấy hiểm nguy vất vả đường trường làm gì? Sao ngài không nhận ra ngài đã tìm được người ngài muốn gặp? Ngài cứ suy ngẫm về bản thân là thấy ngay. Giờ đây, ngài không còn kẻ thù nào để phải lo đối phó, giờ đây muôn dân trong nước ai ai cũng tỏ lòng kính yêu ngài, giờ đây tất cả văn võ bá quan trong triều ai ai cũng tìm cách làm vui lòng ngài. Nếu ngài được vậy mà còn cho mình chưa phải là con người hạnh phúc, thì làm sao có người nào khác trên đời này dám tự cho mình sung sướng?
-         Cho dù hoà bình đã được thiết lập – vua Bêrêđin  Lôlô nói – ta vẫn chưa cảm thấy mình là con người hoàn toàn hạnh phúc. Ta nói thật với ông, riêng một nỗi băn khoăn muốn rõ trên đời này liệu có người nào tự cảm thấy hài lòng về cuộc sống của mình hay không, đã khiến ta mất hết thanh thản, ngủ không sao yên giấc.
-         Đã thế tại sao bệ hạ cứ một mực đòi tìm cho rõ điều mình muốn biết? Bệ hạ cứ yên tâm đi, sẽ chẳng bao giờ gặp được một con người như bệ hạ mong muốn, như thế có phải tốt hơn không?
Tể tướng Atanmuc rất mong nhà vua từ bỏ ý định của mình, nhưng không lay chuyển được ông. Một thời gian sau, vua giao phó việc triều chính cho một số triều thần tin cẩn trông nom, rồi cùng với tể tướng Atanmuc, hoàng thân SêypenMuluc và một số nô lệ theo hầu lên đường tìm người hạnh phúc.
Họ đến thành phố Batđa. Đường đi yên hàn vô sự. Tới nơi, ba người tạm trú tại một lữ quán dành riêng cho du khách đường xa. Họ xưng là những đại thương gia chuyên buôn ngọc, từ trước tới nay vẫn đi từ triều đình này sang triều đình khác để chào  và bán hàng cho các bậc vua chúa. Quả họ cũng có mang theo nhiều châu báu, khiến ai nghe họ nói cũng tin. Bằng cách ấy, quốc vương Đamat được gặp mặt Đấng thống lĩnh của các tín đồ mà không để hoàng đế rõ mình là ai. Ba người cùng nhau đi xem các thắng cảnh ở Batda.
Một hôm tình cờ gặp trên đường phố một thầy tu theo dòng khất thực đang lớn tiếng thao thao thuyết pháp với một số khá đông người vây quanh. Đến gần hơn, nghe khất sĩ ấy thuyết:
-         Hỡi những người anh em thân quý của tôi, thật là vô nghĩa, sao những người anh em suốt đời cứ lo toan vất vả để làm giàu? Một khi tử thần đã gõ cửa gọi chúng ta đi, cho dù lúc ấy người anh em có dâng cho thần tất cả tài sản của mình để xin được sống thêm vài ngày, tử thần bất nhân ấy sẽ chẳng buồn nghe lời người anh em van vỉ. Hơn nữa, chắc những người anh em của tôi ai cũng phải nhận, có đúng là người ta càng giàu nỗi lo càng lớn? Có phải những người anh em giàu có cứ canh cánh lo âu canh chừng bọn trộm cướp rình mò? Riêng chuyện tính toán sao giữ cho vẹn tài sản của mình, đã làm người anh em ăn không ngon ngủ không yên. Xin những người anh em hãy nhìn tôi đây, tôi hoàn toàn không có tài sản, tôi chẳng bao giờ được chút tiện nghi, giữa sự thiếu thốn cùng cực này tôi vẫn cảm thấy mình hoàn toàn hạnh phúc.
Nghe khất sĩ thuyêt, nhà vua kéo riêng tể tướng ra bảo:
-         Cũng như ta, ông vừa nghe rõ những lời người khất sĩ kia nói. Ta không còn phải đi xa hơn nữa. Ta đã gặp được người ta cần tìm. Người khất sĩ kia chính là một người hài lòng về cuộc sống của mình.
Tể tướng nói:
-         Tâu bệ hạ, chúng ta nên tìm cách lân la trò chuyện riêng với khất sĩ ấy. Hãy tìm cách khiến anh ta nói đúng ra tâm sự của mình, có thể thực tế không như điều anh ta vừa nói đâu.
-         Ta đồng ý – nhà vua nói – nhưng giả sử trong cuộc nói chuyện riêng, rồi đây anh ta khẳng định hài lòng với mình, thì ông tin lời ta chứ?
-         Vâng, tâu bệ hạ - tể tướng đáp – lúc ấy tôi tin, và tôi xin thừa nhận mình đã sai lầm.
Ba người chú ý để mắt theo dõi người khất sĩ. Anh chàng, sau khi nhận được một ít tiền làm phúc của những người đứng nghe, liền ngưng buổi thuyết pháp lui về nhà trọ, tại một nơi ở ngoại ô thành phố. Nhà vua cùng mấy tùy tùng bám sát. Dọc đường, họ bắt chuyện anh chàng, ngỏ lời hỏi khất sĩ có vui lòng giải trí với họ một bữa hay không. Nhìn dáng họ, chàng khất sĩ nhận ra đầy là những thương gia giàu có người nước ngoài, liền đáp không có lời mời nào làm chàng ta vui lòng hơn thế. Khất sĩ dẫn ba người vô ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô, thuê chung cùng với hai khất sĩ khác. Hai người kia, vừa nghe nói có người mời đánh chén, cũng tỏ ra hết sức mừng vui. Tể tướng lấy ra mấy đồng xơcanh vàng, đặt vào tay khất sĩ và bảo:
- Anh hãy đi tìm mua những gì cần thiết để anh em ta vui chơi chè chén cả ngày hôm nay.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BẢY
Anh chàng khất sĩ cầm tiền đi, hai tiếng đồng hồ sau, quay trở lại mang theo nhiều thịt, hoa quả cùng một bong bóng dê lớn chứa đầy rượu ngon. Thế là mọi người sà xuống, ngồi quanh cái bà, bắt đầu đánh chén. Ăn xong là uống. Uống càng nhiều càng bốc. Chuyện trò càng về sau càng rôm rả. Nhất là ba chàng khất sĩ rất vui vẻ, vừa ăn uống vừa cười nói huyên thuyên. Nhà vua bảo riêng với tể tướng:
-         Ta nghĩ chúng ta đã gặp những người cần tìm. Thôi, ông hãy nhận mình sai lầm đi.
-         Chưa đâu, tâu bệ hạ - tể tướng không chịu – chưa đến lúc ấy đâu. Vẻ bên ngoài dễ đánh lừa chúng ta lắm.
Một khất sĩ nghe hai người nói chuyện, bèn quay sang hỏi:
-         Thưa, hai ngài định nói gì?
Nhà vua rút từ trong áo ra một túi đựng đầy xơcanh vàng, đặt vào tay chàng khất sĩ gặp ngoài đường phố, và nói với anh chàng:
-         Hỡi các bạn khất sĩ, xin các bạn hãy nhận túi tiền này. Tôi muốn làm quà cho các bạn, với điều kiện các bạn vui lòng cởi mở tâm tình cho chúng tôi nghe. Ngồi trước mặt các bạn đây là ba thương gia liên kết làm ăn với nhau. Một đồng nghiệp của tôi cho rằng trên đời chẳng có ai hạnh phúc. Tôi thì khẳng định ngược lại. Hồi nãy, ở ngoài phố, chúng tôi đã nghe bạn nói, tuy chẳng có mấy tài sản, bạn vẫn cảm thấy mình là con người hoàn toàn hạnh phúc. Xin bạn vui lòng cho biết chúng tôi nên nghĩ thế nào về lời nói trên của bạn. Đối với tôi, làm sáng tỏ điều này là hết sức quan trọng. Bạn sẽ làm cho tôi vô cùng thú vị nếu bạn chịu nói thật tâm tư.
Chàng khất sĩ nhận túi tiền, cám ơn vua Bêrêđin Lôlô và thưa:
-         Thưa ngài, bởi ngài đã muốn vậy tôi xin nói thật lòng. Tôi chẳng hạnh phúc chút nào đâu, cũng như hai anh bạn tôi kia. Nếu hồi nãy ngài có nghe tôi khoe khoang mình là con người hạnh phúc tuyệt vời, xin chớ vội nghĩ tôi hài lòng với hoàn cảnh. Tôi nói tôi không màng của cải, ấy là nhằm gợi lòng thương xót của những người đang nghe tôi nói. Cuộc sống của các khất sĩ chúng tôi khốn khổ lắm, chẳng nên nhìn vào bề ngoài của họ để tìm thấy sự yên vui, cái mà mọi người ai cũng khát vọng hoài công vô ích. Tôi, cũng như vị đồng nghiệp của ngài, tôi tin trên đời này chẳng có ai hài lòng về cuộc sống của mình. Không bao giờ thoả mãn tấm lòng khao khát của người đời. Vừa đạt được một ước vọng mình đang ôm ấp, thì lại nảy sinh một ước vọng mới, khiến cho con người chẳng lúc nào được thanh thản.
Tể tướng Atanmuc rất hài lòng nghe chàng khất sĩ nói những lời vừa rồi. Ông mong nhà vua chấp nhận thua cuộc và mau chóng trở về với đất nước của mình. Nhà vua cũng bắt đầu phân vân, có lẽ mình nghĩ không đúng. Sau khi từ biệt các khất sĩ, vua nói với hoàng thân Sêyp-enMuluc và tể tướng:
-         Còn buổi chiều hôm nay, chúng ta nên đến cửa hàng bán giải khát fiquaa [1] tìm hiểu nốt.

Trong quán chiều hôm ấy có rất đông khách. Họ là những người hàng ngày theo thói quen vẫn tụ tập nơi đây. Nhà vua, tể tướng và hoàng thân ngồi ghé vào một bàn, ở đấy đã có hai vị khách trông cũng ra dáng người có vai vế nhất định trong xã hội, đang chuyện trò với nhau về những nỗi buồn khó tránh của cuộc đời. Một người nói:  
-         Không, chừng nào chúng ta còn sống trên đời, thì chớ vội nghĩ trời để cho chúng ta sống thảnh thơi hạnh phúc. Sở dĩ trời không muốn đời chúng ta an nhàn lạc thú, hẳn là để sau này khi chết đi, những người nào vững đức tin sẽ càng cảm thấy được nhiều lạc thú hơn nơi cõi vĩnh hằng, như thánh nhân đã từng dậy.
-         Tôi không hoàn toàn đồng ý với anh – người kia nói – Tôi biết, phần đông người đời ai cũng có gặp bất hạnh, nhưng chẳng nhẽ tất cả mọi người đều bất hạnh cả hay sao? Tôi có biết một người đang sống một cuộc đời lạc thú, ngày nào cũng như ngày nào đối với ông ta đều là những ngày vui.
Tể tướng tham gia câu chuyện:
-         Ồ, ai là con người hạnh phúc ấy, thưa hai vị? Ông ta ở nơi đâu trên thế giới này?
-         Ở thành phố Astrakhan – người vừa nói cho biết – Ông ta là quốc vương hiện đang trị vì ở kinh đô Astrakhan. Tôi không rõ nhà vua ấy còn thiếu gì nữa không, nhưng tôi thừa nhận trên đời chẳng có ai được thanh thản như ông ấy, tôi hằng tin cuộc đời ông chẳng có điều gì khuấy động cảnh yên vui. Tóm lại, một con nó hài lòng về mình. Chẳng thế, mọi người chẳng gọi ông một cách đúng đắn là “Nhà vua không phiền não”.
Mấy lời trao đổi ấy tác động đến tâm trí nhà vua. Vừa ra khỏi quán giải khát, vua nói với tể tướng:
-         Chúng ta phải lên đường đến Astrakhan thôi. Ta muốn gặp mặt “Nhà vua không phiền não”.
-         Tôi cũng có mong muốn như bệ hạ - Tể tướng đáp – Tôi sẵn sàng theo ngài lên đường.
Thế là ba người cùng quyết định sẽ khởi hành vào sáng sớm ngày hôm sau.
Khi về tới quán trọ, lại nghe có tin một đoàn thương gia người nước Xiêcca hiện đang có mặt tại thành phố Batđa, sắp lên đường về nước trong dăm ngày nữa. Nhà vua quyết định lùi chuyến đi của mình ít hôm, sáp nhập với đoàn lữ hành đông đảo, để được an toàn hơn trên đường đi. Cùng với đoàn thương nhân ấy, ba người đến được nước Xiêcca bình yên vô sự. Họ đi tiếp đến thành phố Astrakhan, nơi quốc vương Hoemô, biệt danh Nhà vua không phiền não, đang đóng đô.
Cũng như lần trước, họ tìm nơi lưu trú tại quán trọ, và vẫn nhận là những nhà buôn kim hoàn. Thấy nơi đây dân chúng ai ai cũng có vẻ hớn hở, khắp kinh thành đâu đâu cũng đang mở hội, nhà vua hỏi người chủ quán trọ, thành phố ta đang có sự kiện gì mà mọi người hội hè đông đúc thế. Chủ quán trả lời:
-         Chắc hẳn các ngài chưa đặt chân tới thành phố này bao giờ kể từ ngày quốc vương Hocmô lên ngôi trị vì, cho nên mới đặt ra câu hỏi ấy. chẳng phải nhằm tôn vinh một trận vừa đánh thắng kẻ thù, hoặc để khánh chúc sự kiện trọng đại nào, mới có các cuộc vui chơi ấy. Ngày nào dân chúng kinh thành này cũng hội hè , sinh hoạt như vậy cho phù hợp với tính cách vui vẻ của quốc vuơng. Ngài là người lúc nào cũng thích cười đùa sảng khóai, chẳng thể người ta gọi ngài là Nhà vua không phiền não.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI TÁM
Chủ nhà trọ dứt lời, nhà vua nói riêng với tể tướng:
-         Mặc dù ông chủ nhà trọ vừa phác hoạ nên chân dung quốc vương Astrakhan là con người sảng khoái như ông cũng vừa nghe đấy, ta chắc trong lòng ông chưa hẳn tin biệt danh ấy hoàn toàn thích hợp với nhà vua trị vì nước này.
-         Đúng vậy, tâu bệ hạ - tể tướng đáp – tôi chẳng dễ gì để cho mình bị lừa phỉnh vì dáng vẻ bên ngoài. Chẳng qua lại như truờng hợp các chàng khất sĩ chúng ta từng gặp ở thành Batđa đó thôi.
-         Ta đồng ý, ông không nhầm khi vẫn ngờ vực biệt danh người ta tặng cho vua Hocmô có thể không thật chính xác. Cũng như ông, ta nghĩ làm sao một người gánh trên vai toàn bộ sơn hà xã tắc, lẽ nào không có việc phải lo nghĩ. Dù sao chúng ta cũng sắp rõ sự thật thôi. Ta có ý định ngày mai đi đến triều đình nhà vua ấy, tự giới thiệu, gây được cảm tình của ông, rồi tìm cách để ông cởi mở cho chúng ta thấy tận đáy tâm hồn.
-         Tôi rất đồng tình, tâu bệ hạ - tể tướng nói – Nhưng xin bệ hạ vui lòng hứa cho, trong trường hợp quốc vương Astrakhan nói thật với chúng ta ông cũng có nhiều điều phiền não riêng, thì ngài sẽ thôi, không tiếp tục tìm kiếm con người hạnh phúc nữa.
-         Ta chấp nhận – vua Bêrêđin nói – Hơn thế, ta còn hứa trong trường hợp ấy, ta sẽ lên đường trở lại kinh thành Đamat ngay tức khắc.
-         Nếu vậy chúng ta nên đến triều đình quốc vương Hocmô ngay đi – tể tướng nói – đến gần, chúng ta sẽ cùng chú ý quan sát mọi hành động của nhà vua, chớ nên để lọt ra ngoài mắt nhất cử nhất động của ông ấy.
Quyết định rồi, là thực hiện ngay. Ba người đến hoàng cung. Sau kh qua khỏi một sân rộng đông nghịt lính tráng, họ đến gian phòng đầu tiên, thấy nườm nượp ca sĩ và nhạc công. Từ đấy, sang một gian phòng khác, lại thấy có nhiều người hầu nam và cung nữ, trang phục lịch sự, đang biểu diễn rất khéo léo nhịp nhàng nhiều vũ điệu đặc sắc.
Sau khi đứng xem múa một lúc, nhà vua, tể tướng cùng vị hoàng thân đều muốn rõ có gì trong gian phòng thứ ba. Họ len vào đám đông, đông tới mực họ dường như không rẽ được lối đi mà cứ để cho dòng người xô đẩy tới. Giữa phòng thứ ba này, có kê một chiếc bàn rộng, chung quanh ngồi chừng vài ba mươi thực khách. Đấy là bữa tiệc hàng ngày nhà vua nước Xiêcca chiêu đãi các đại thần trong triều. chẳng khó khăn gì phân biệt quốc vương giữa số người đang ngồi tại bàn tiệc. Ông ngồi ở chỗ danh dự, đầu đội chiếc vương miện bằng bạc khảm nhiều viên hoàng ngọc và hồng ngọc. Đấy là một người trạc ba mươi tuổi, vẻ mặt rất tuấn tú khôi ngô, và luôn luôn tươi cười. Vua đang khích lệ các triều thần hãy uống nhiều rượu vào, và tự vừa cạn chén trước làm gương. Ông lại kể chuyện vui, lại cười sang sảng cùng mọi người. Nhà vua đúng là linh hồn của bữa tiệc.
Xong bữa, nhà vua ấy đứng lên, cùng các triều thần dự tiệc bước sang gian phòng đang có các ca sĩ và nhạc công múa hát. Nhà vua gần như ở hết ngày trong căn phòng ấy, vừa thưởng thức vừa tự mình tham gia đàn ca hát múa. Đến tối, vua Hocmô mời tất cả mọi người lui về, còn mình bước sang phòng dành riêng cho các cung nữ.
Chờ cho các ca sĩ và nhạc công ra về trước, quốc vương Đamat, tể tướng Atanmuc cùng hoàng thân Sêyp-en-Muluc mới ra khỏi hoàng cung cùng một lúc với cơ man là dân thành phố hằng ngày vào cung xem chỉ vì hiếu kỳ.
Về tới nhà trọ, vua Bêrêđin nói:
-         Phải nhận quốc vương Astrakhan có vẻ một con người hạnh phúc. Ta không nhìn thấy bất cứ một điều gì cho phép nghi ngờ niềm vui của ông là không thực. Cuối cùng ta đã gặp được một con người hạnh phúc, và điều kỳ lạ hơn cả, đấy lại là một bậc quân vương.
-         Về phần mình – hoàng thân Sêyp-en-Muluc nói – tôi có cùng cảm tưởng như bệ hạ. Không có dấu hiệu gì bên ngoài khiến ta suy nghĩ vua Hocmô có điều tâm tư thầm kín nào đấy tiềm ẩn trong lòng. Nếu phán đóan của tôi sai, thì nhà vua ấy quả là một người quá khéo che giấu tâm can.
Lúc này tể tướng mới lên tiếng:
-         Hoàng thân đã rõ, che giấu ta6m can là một nghệ thuật chẳng mấy ai lạ ở chốn triều đình. Riêng tôi, xin phép hoàng thượng cho tôi được miễn phán đóan. Có gì bảo đảm cho chúng ta dám chắc lòng nhà vua ấy trong lúc này biết đâu chẳng chôn giấu một phiền muộn sâu xa? Sao không nghĩ rằng bề ngoài cũng vui vẻ như ta nhìn thấy, thì trong tâm tư nhà vua càng đau khổ hơn?
NGÀY THỨ MỘT TRĂM MƯỜI CHÍN
Ngày hôm sau, quốc vương Đamat, tể tướng Atanmuc và hoàng thân Sêyp-en-Muluc trở lại hoàng cung, mỗi người mang theo một cái hộp đựng đầy ngọc báu. Họ nhờ người vào tâu, có ba thương gia chung vốn buôn ngọc vẫn đi chào bán ngọc ở các triều đình, từ kinh thành Batđa đến muốn xin gặp nhà vua. Vua Hocmô cho mời cả ba vị vào ngay. Ba vị thương gia mở các hộp, đưa trình vua xem những viên kim cương lớn nhất. Nhà vua thích thú xem ngọc, đặc biệt thốt lên khi nhìn thấy một viên to bằng quả trứng chim  bồ câu “Ôi, viên ngọc mới đẹp làm sao! Cả đời ta chưa từng nhìn thấy. Dường như thiên nhiên đã bắt tụ hội tại viên ngọc này tất cả màu sắc rực rỡ nhất trên đời. Đâu là nơi sản sinh ra vật lạ này?”
Tể tướng Atanmuc từng làm nghề buôn ngọc, đáp thay cho ba người:
-         Tâu bệ hạ, chỉ có ở đảo Xêrendip mới tìm ra được loại kim cương độc đáo như thế này. Chúng tôi đã mua được viên này ở nước ấy. Đúng là trong tất cả các lọai châu báu hiện có ở Xêrendip, duy viên này được mọi người đồng ý cho là quý hiếm nhất.
Thấy vua Hocmô cứ ngắm nghía không chán, vua Bêrêđin nói:
-         Tâu bệ hạ, chúng tôi rất mừng thấy có một thứ làm cho ngài hài lòng. Chúng tôi khúm núm khẩn cầu xin bệ hạ cho phép được dâng tặng ngài vật mọn này. Xin bệ hạ vui lòng chấp nhận cho, nếu bị ngài khước từ, chúng tôi  sẽ lấy làm tủi thân lắm.
Nhà vua Hocmô đồng ý nhận món quà. Vua ngỏ ý mời ba vị khách lưu lại một thời gian trong kinh đô mình, và mời ba người vào ở luôn trong cung điện của hoàng gia.
Ba người chuyển vào ở tại hoàng cung ngay trong ngày hôm ấy. Quốc vương Hocmô ban cho họ mấy căn nhà đẹp nhất và sai các quan vẫn hầu cận nhà vua đích thân phục dịch họ. Vua Hocmô tin đấy là những thương gia có nhiều dịp đi lại các nước châu Á, nên quyết định đối xử với họ vô cùng trọng hậu, để sau này khi có dịp đến bán ngọc tại các triều đình khác, họ sẽ ca ngợi kinh thành Astrakhan. Ngày nào vua cũng sai ban tặng phẩm cho ba nhà buôn. Khi thì vua đích thân dẫn họ tham gia các cuộc săn bắn, khi thì mời họ dự buổi trình diễn nghệ thuật đặc sắc. Lại có lần vua mở một tiệc lớn chiêu đãi họ, có mặt tất cả các vị đại thần trong triều. Bất kỳ tổ chức lễ lạc gì, vua cũng dặn cho làm huy hoàng hơn bình thường một tí, khiến cho họ đến phải loá mắt ngỡ ngàng trước sự giàu có phồn vinh của nước Xiêcca.
Quốc vương Bêrêđin cũng như tể tướng Atanmuc và hoàng thânSêyp-en-Muluc ít quan tâm đến các vinh dự ấy mà chỉ để ý quan sát, không bỏ qua một động thái nào của nhà vua Hocmô. Ba vị cố chú ý xem có lúc nào quốc vương Hocmo lộ ra đang phải che giấu một nỗi niềm nào đó trong lòng. Nhưng mặc cho họ tốn công dò xét, vẫn chưa thấy có dấu hiệu nào khả nghi. Một hôm vua Bêrêđin nói với tể tướng:
-         Ông Atanmuc à, nhìn xem cơ sự này, có lẽ nhà vua nước này đúng là một con người hạnh phúc, dư luận không sai ngoa.
-         Vâng, tâu bệ hạ - tể tướng đáp – mọi sự bên ngoài đều khiến ta phải nghĩ nhà vua là người sung sướng. Nhưng vẫn chưa chắc lắm đâu. Chúng ta chưa có dịp quan sát vua vào ban đêm. Biết đâu khi chúng ta tưởng nhà vua đang ngon giấc, thì ông lại trăn trở không yên vì một điều phiền muộn nào đó.
-         Nhưng làm sao chúng ta có thể đi sâu vào đời tư mà nhìn tận đáy tim gan người khác? – nhà vua hỏi.
-         Theo tôi nghĩ, bệ hạ nên tâm tình với nhà nvua. Ngài nên nói thật mình là ai, tại sao mình đến tận nước Xiêcca này. Thấy ngài thật lòng như vậy, quốc vương Hocmô sẽ tin cậy rồi dốc hết tâm tư với ngài, biết đâu vua sẽ chẳng vén cho ngài thấy một điều bí mật vua vẫn cố che giấu mọi người.
Hoàng thân cũng tán đồng ý kiến của tể tướng. Quốc vương Bêrêđin liền quyết định sẽ nói chuyện với quốc vương Hocmô với cách sao ông này chịu làm sáng tỏ vấn đề. Một hôm, ba nhà buôn kim hoàn đến gặp quốc vương nước Xiêcca xin được nói chuyện riêng. Vua Hocmô chấp nhận. Quốc vương Bêrêđin-Lôlô ngỏ lời nói với ông như sau:
-         Tâu bệ hạ, chúng tôi đến cầu xin bệ hạ cho phép chúng tôi từ giã triều đình của ngài. Thời gian chúng tôi định lưu lại kinh thành quý quốc đã quá lâu. Chúng tôi đến cảm tạ ân sủng của ngài và xin ngài vui lòng cho chúng tôi được ra đi.
-         Ta không cố ý lưu giữ các ngài nếu các ngài không muốn ở lại đây nữa – vua Hocmô nói – Tuy nhiên, ta thú thật các ngài ra đi vội vàng quá đấy, khiến ta phiền lòng. Trước đây ta vẫn ngờ bà vị sẽ còn ở chơi lâu hơn nữa. Có lẽ kinh thành này không có gì đủ thú vị để giữ chân các ngài chăng?
-         Tâu bệ hạ - vua Bêrêđin vội đáp – tôi xin nói có đất trời chứng giám, triều đình của ngài đối với tôi còn nhiều lạc thú hơn, dễ chịu hơn cả kinh đô của chính Đấng thống lĩnh các tín đồ. Hơn nữa, sự đón tiếp nồng hậu của ngài, mọi ân huệ ngài thường xuyên ban cho đủ làm chúng tôi vô cùng cảm kích. Tuy nhiên, có nhiều lý do quan trọng buộc chúng tôi phải trở về tổ quốc của mình. Bởi, tâu bệ hạ, chúng tôi không phải là những nhà buôn ngọc như ngài vẫn tưởng. Tôi cũng là một vụ quân vương như ngài. Tôi đang trị vì xứ Đamat, còn hai vị mà ngài vẫn ngỡ là các vị đồng nghiệp của tôi đây, một là vị tể tướng của tôi, một là vị đại thần tin cậy nhất của tôi.
Quốc vương Astrakhan khá ngạc nhiên về lời nói thật ấy. Vua càng tin chắc hơn khi vua Bêrêđin thuật rõ nguyên nhân do đâu ba người ra đi khỏi kinh thành Đamat. Nghe xong, vua Hocmô cả cười và nói:
  -         Lạ nhỉ, tâu bệ hạ, vị tể tướng của ngài vẫn quả quyết trên đời không có người nào hoàn toàn hạnh phúc sao?
-         Đúng vậy – vua Bêrêđin đáp – và đây chính là điều ông ấy không thể thuyết phục tôi. Qủa thực, tại vương quốc của mình, tôi chưa tìm ra được một người hoàn toàn hài lòng với cuộc sống. Tôi đã tốn công vô ích đi kiếm tìm người tuyệt đối hạnh phúc ở nhiều xứ khác. Tại kinh thành Batđa tôi có gặp mấy người thoạt trông có vẻ hoàn toàn thoải mái với số phận, song thực ra không phải vậy. Tìm kiếm mãi không thấy, tôi định lên đường trở về Đamat thì nghe có người nói, tại kinh đô Astrakhan đang trị vì một bậc quân vương được người đời tặng biệt danh là Nhà vua không phiền não, do tính cách lúc nào cũng tươi cười vui vẻ của người. Vì hiếu kỳ, tôi muốn được nhìn thấy ngài tận mắt, và quả nhiên tôi thấy ngài bước chân đến đâu mang theo niềm vui đến đó. Tâu bệ hạ, tôi muốn cầu xin ngài hãy cho biết, vẻ bên ngoài ấy co phải hoàn toàn khớp sự thật chăng? Có đúng là ngài hoàn toàn lạc thú? Có phải tuyệt không có một nỗi ưu phiền nào khuấy động giấc ngủ thanh thản của ngài?
Quốc vương Hocmô lại phá ra cười trước câu hỏi ấy, và hỏi lại quốc vương Bêrêđin:
-         Có thể nào bệ hạ bỏ mặc xã tắc của ngài để ruổi rong khắp thế giới tìm cho ra một con người hoàn toàn hạnh phúc?
-         Hoàn toàn đúng như vậy – vua Bêrêđin đáp – vi1 vậy mong bệ hạ cho tôi rõ tâm trạng thật của ngài. Đó là một ân sủng nữa, tôi  cầu xin ở ngài, sau bấy nhiêu điều ngài đã làm cho tôi.
-         Bởi ngài đã ngỏ lời hỏi tôi một cách nghiêm túc như vậy – vua nước Xiêcca nói – và bởi ngài cho dưới là một điều rất quan trọng muốn làm sáng tỏ, tôi xin trả lời: tể tướng của ngài có lý. Tôi chia xẻ ý kiến đó với ông. Tôi tin trên đời này không thể có một con người hạnh phúc. Về phần mình, tôi không phải là con người hạnh phúc, hay nói thật đúng hơn, tôi tự cho mình là nhà vua đau khổ nhất trên thế gian này. Niềm vui thường xuyên bộc lộ trên khuôn mặt tôi là niềm vui giả tạo. Đấy là hệ quả của một sự nén lòng nặng nhọc nhưng cần thiết không được để cho thần dân của tôi thấy rõ sự phiền não đang đốt cháy tâm can tôi, và do phải luôn luôn kiềm chế, cho tôi càng cảm thấy đau khổ hơn.
Quốc vương xứ Đamat bày tỏ với quốc vương thành Astrakhan mình quả thực vô cùng ngạc nhiên khi biết điều ấy. Ông lại tỏ ra quá hiếu kỳ muốn biết rõ do đâu vua Hocmô phiền muộn, đến mức ông này phải hứa sẽ có dịp cho ông rõ.
Trong thời gian ấy, niềm vui của cuộc sống thường ngày vẫn lan toả khắp kinh thành Astrakhan. Đêm nào dân chúng cũng mở hội hè lễ lượt, hội hè nào cũng đầy phấn khích tươi vui. Như thể nhân dân cả đô thành đua nhau làm cho quốc vương của mình vui vẻ, mỗi người tự cho là một vinh hạnh lớn nếu được vua tán thưởng trò vui mình bày ra. Về phần ông, càng ngày vua Hocmô càng tươi vui sảng khoái hơn, để bày tỏ lòng cảm kích trước dân chúng. Tuy nhiên, cho dù nhà vua vẫn biết cách tự nén lònng và che dấu rất khéo mọi phiền muộn như bao giờ, quốc vương Bêrêđin-Lôlô, tể tướng Atanmuc và hoàng thân Sêyp-en-Muluc, từ sau khi nghe được lời tâm sự, tưởng có thể nhìn thấy hé lộ trên khuôn mặt vua Hocmô điều phiền muộn chôn sâu trong lòng ông. Cả ba người đều náo nức chờ vua nước Xiêcca nói thật lòng mình như đã hứa. Nhà vua ấy quả nhiên thực hiện lời hứa theo cách sau đây.
Một đêm, chờ đến lúc trong hoàng cung hoàn toàn tĩnh lặng, vua sai một hoạn no6 sang mời ba vị khách đến cung riêng dành cho các phụ nữ. Nhà vua không phiền não đã chờ sẵn họ ở phòng đầu tiên. Vua nói với họ:
-         Hôm nay tôi thực hiện lời hứa với quý vị. Sau đấy, các vị sẽ phán xét tôi có đúng là nhà vua bất hạnh nhất trên thế gian này hay không.
Nói xong, nhà vua cầm tya vua Bêrêđin đưa ông đi ngang qua hai phòng, đến cửa phòng thứ ba, bảo ông đứng đấy nhìn vào. Qua cánh cửa để ngỏ, vua Bêrêđin nhận thấy một phu nhân rất xinh đẹp đang ngồi trên chiếc sập. Da nàng trắng hơn màu tuyết, đôi mắt nàng sáng tựa hai vầng dương. Nàng có vẻ đang tươi cười chăm chú nghe một cung nữ già kể một câu chuyện gì đấy. vua Hocmô nói:
-         Xin ngài hãy nhìn kỹ nàng công  chúa đang ngồi trên sập kia. Có bao giờ ngài được nhìn thấy một con người xinh tươi dường ấy? Ngài hãy nói đi, có phải ngay trong cung của ngài cũng không thể có một nàng đẹp hoàn hảo đến thế?
Vua quay sang hỏi tiếp tể tướng và thượng thư:
-         Đời hai vị đã bao giờ được nhìn thấy một giai nhân tuyệt thế như vậy chưa?
Chăm chú ngắn nhìn cô công chúa, vua Bêrêđin công nhận nhan sắc của nàng quả có một không hai. Tể tướng Atanmuc tưởng thấy lại qua công chúa ấy nàng Zêlica của mình, còn hoàng thân cũng nghĩ, sắc đẹp công chúa này chẳng thua kém nhan sắc nàng Bêđy-An-Giêman. Quốc vương Astrakhan nói tiếp:
- Chính nàng công chúa khả ái này là nguyên nhân gây nên mọi phiền não cho đời tôi, nàng là nỗi bất hạnh của tôi.
- Có phải công chúa không yêu ngài? Có phải nàng dửng dưng… - Vua Bêrêđin hỏi.
- Không, chẳng phải thế - vua Hocmô vội ngắt lời – Tôi không có gì phàn nàn về điều ấy. Tôi yêu nàng, nàng cũng yêu tôi.
- Vậy tại sao nàng làm cho ngài phiền não? – Vua Bêrêđin lại hỏi.
- Ngài sẽ thấy ngay đây. Xin ba vị hãy đứng yên ngoài cửa và quan sát những gì sắp diễn ra.
Nói xong, vua bước vào phòng, bước đến gần nàng công chúa. Ôi, diệu kỳ làm sao, vua càng tới gần, nét mặt công chúa càng thay đổi. Khuôn mặt nàng da trắng như tuyết với đôi má hồng đào bỗng nhiên đổi màu tái xám chẳng khác nào da xác chết, vẻ tươi vui trên mặt tan biến dần, đôi mắt từ từ khép lại. Nhà vua ngồi lên sập, bên cạnh nàng, đưa đôi mắt vừa yêu đương đắm đuối vừa đau đớn sâu xa nhìn nàng và nói:”Ôi hỡi nàng công chúa của lòng ta, xin hãy mở mắt ra, xin hãy làm ơn mở mắt ra nhìn người chồng khốn khổ của nàng đây”. Công chúa không đáp, cũng không tỏ dấu hiệu có nghe lời vua nói. Có vẻ như nàng đã hoàn toàn bất tỉnh nhân sự.
Vua Hocmô không chịu nổi cảnh tượng ấy kéo dài, ngài đứng lên, ra khỏi phòng. Và cứ theo nhịp bước vua rời xa công  chúa, nàng dần dần hồi tỉnh. Đôi mắt tan biến đần nỗi buồn vừa thoạt hiện, càng trở nên long lanh đầy sức sống hơn trước, da mặt nàng lấy lại vẻ đẹp ban đầu, thậm chí nhìn nàng lúc này còn xinh tươi hấp dẫn hơn hồi nãy. Nhà vua, tể tướng và hoàng thân đang chăm chú quan sát hiện tượng ấy, ngạc nhiên không thể nào tả xiết.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI
Ba người vẫn dán mắt nhìn nàng công chúa, không sao hết bàng hoàng. Vua Hocmô hỏi:
-         Thế nào, giờ đây các ngài đã thấy ở tôi con người hạnh phúc các ngài tìm kiếm chưa?
-         Không – quốc vương Bêrêđin đáp – giờ đây ngược lại chúng tôi tin chắc ngài là một bậc quân vương rất bất hạnh, điều kỳ diệu vừa diễn ra khiến chúng tôi không cách nào nghĩ khác. Nhưng tâu bệ hạ, tại sao công chúa bất tỉnh khi ngài bước tới gần, và điều thần kỳ nào làm nàng hồi tỉnh lúc ngài rời xa? Tôi có được phép cầu xin ngài thoả mãn sự hiếu kỳ ấy?

- Tôi không chút ngạc nhiên nghe ngài hỏi vậy – vua Hocmô nói – Tôi chờ đợi câu hỏi ấy. Ngài ngạc nhiên nhìn thấy chuyện vừa rồi, song muốn để ngài tường tận như ngài muốn rõ, tôi phải thuật lại một câu chuyện khá dài. Mà đêm nay đã quá khuya rồi, xin mời ngài đi nghỉ. Sáng mai tôi sẽ kể ngài nghe.
Viên hoạn nô hồi nãy dẫn nhà vua, tể tướng và hoàng thân đến đây, lại đưa họ trở về các phòng riêng của mình.
Đêm hôm ấy, cả ba người không ai chợp mắt. Trước những điều vừa nhìn thấy, mỗi người cố tìm rõ nguyên do, nhưng chỉ là mệt đầu óc mất ngủ của mình thêm mệt mà thôi. Cuối cùng trời cũng sáng. Nhà vua, hoàng thân cùng tể tướng được mời đến phòng riêng của vua Hocmô. Nhà vua thuật lại câu chuyện về đời ông như sau:
Chương 18: Chuyện quốc vương Hocmô, biệt danh nhà vua không phiền não
Cách đây năm năm, tôi nảy ý muốn đi du lịch. Tôi xin phép phụ vương tôi, hồi ấy người đang tại vì, tôi xin khẩn khoản quá khiến người cuối cùng chấp nhận. Người cho lập một đoàn tuỳ tùng thật đông đảo, vừa để bảo đảm an toàn cho tôi, vừa để tôi xuất hiện tại nước ngoài một cách đàng hoàng, xứng đáng với vai vế của mình. Cha tôi sai mở kho tàng, xuất ra bao nhiêu tiền bạc chuẩn bị cho tôi, lại ban cho vô vàn ngọc ngà châu báu mang theo người. Phụ vương tôi dặn “Một vị hoàng tử bất kỳ đi qua chốn nào, đều phải để lại đấy dấu ấn về sự huy hoàng và lòng hào hiệp của mình. Không thể hành xử như một người dân bình thường được. Ta muốn hoàng tử mỗi lần chi tiêu phải tiêu tiền vàng cả vốc. Dân chúng loá mắt vì tính tình phóng khoáng ấy, sẽ nghĩ hoàng tử có thêm cả những đức tính mà trời không phú cho chàng”.
Vậy là tôi rời kinh thành Astrakhan với một đoàn tuỳ tùng thật sang trọng. Chúng tôi vượt sông Vônga, qua sống Giaich rồi đi ven biển Caspi, đến thành phố Jengikun. Từ dưới chúng tôi đến Giun, rằng đến Caracu, từ đây đoàn đi tiếp sang thành phố Otra. Tôi không quên lời phụ vương tôi dặn. Bất kỳ đến đâu, tôi cũng chi tiêu rất hào phóng. Tóm lại, tôi đáp lại một cách huy hoàng mỗi khi được người khác đón tiếp, tôi thưởng công hết sức trọng thị những việc nhỏ nhặt người ta làm giúp mình. Nhờ tiêu xài như vậy, tôi nổi tiếng là một hoàng tử trăm phần hoàn hảo.
Trong số các triều thần nước Xiêcca phụ vương phái đi theo giúp việc, có một vị làm nhiệm vụ sư phó của tôi, mà tôi đặc biệt quý trọng. Tên ông ấy là Huxêin. Đấy là một người tài cao học rộng, nhưng điều có lẽ đặc biệt àm tôi hết sức thích ông, là ông bao giờ cũng thuận theo mọi ý muốn của tôi. Ông ta không xử sự như một ngài ngự sử lúc nào cũng chỉ xét nét can ngăn. Tôi vừa ngỏ ý muốn, ông đã tận tuỵ chấp hành ngay, thậm chí có khi ông còn đón trước sở thích của tôi để tìm cách làm cho tôi vui lòng, không chờ phải nói ra. Tôi tin cậy ông tới mức không có điều riêng tư nào tôi chẳng tâm sự với ông.
Đến thành phố Otra, một hôm tôi bảo ông:
-         Ông Huxêin à, đi du hành theo kiểu vua chúa này, tôi chán ngấy. Tôi chẳng được hưởng những lạc thú mà người dân thường vẫn có nhân những chuyến đi chơi xa. Tôi đành bỏ qua không được xem bao nhiêu thứ, do vướng chân bởi tước vị cao quý nên không  có cách sao thoả mãn sự hiếu kỳ. Tôi muốn người ta nhìn tôi như một người dân thường. Tôi muốn đi sâu tìm hiểu những hoàn cảnh khó khăn nhất, được nghe dân chúng nói ra ý nghĩ thật của họ và được nhìn xem cuộc sống thường nhật của người dân. Như vậy không những thích thú hơn, mà nó có thể bổ ích cho tôi trên nhiều mặt.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI MỐT
Ông phó sư Huxêin dễ tính hoan nghênh ngay ý kíến của tôi. Ông nói:
- Ý định của ngài thật đáng ngợi khen. Ngài muốn thực hiện nó lúc nào tuỳ ngài. Thưa hoàng tử, ngài chỉ việc để cả đoàn tuỳ tùng của ngài ở lại đây, rồi hai chúng ta sẽ lên đường đến thành phố Carim đơn giản như hai du khách.
Tôi hết súc thú vị tính tình dễ dãi của ông phó sư. Tôi giao cho ông việc chuẩn bị hành trang để lên đường. Việc này cũng khá đơn giản, bởi chúng tôi chỉ cần có hai con ngựa. Chúng tôi lấy vàng bạc cùng ngọc ngà mang theo người, rồi lên ngựa từ giã thành phố Otra. Tôi truyền cho đoàn tuỳ tùng cứ ở yên đấy, chờ chúng tôi quay trở lại. Chúng tôi qua vùng Giaxac, đi sâu vào thảo nguyên Zagatai, rồi đến được thành phố Carim bình yên vô sự. Lúc bấy giờ vua Chit-Axêlan đang trị vì ở đấy, và hiện nay cũng vẫn còn ngự trị ở kinh đô Carim.
Chúng tôi trọ ở một quán dành cho du khách. Mọi người đều coi chúng tôi là những dân du lịch bình thường. Ngày hôm sau, chúng tôi đi xem thành phố, nhận thấy nhà cửa nơi đây đúng là tráng lệ như lời đồn. Thấy một toà nhà kiến trúc kỳ cục, chúng tôi dừng chân ngắm. Nó không giống như các dinh cơ to lớn thông thường, nghĩa là có ngôi nhà to nhất ở chính giữa, chung quanh có những hành lang nối với những nhà phụ nhỏ hơn. Đấy chỉ là một khu đất rộng chung quanh có tường thấp vây kín. Chính giữa, cách nhau từng quãng đều đặn, là các chiếc tháp cao rất hẹp.
Chúng tôi nảy ra ý muốn đi vào bên trong xem cho rõ. Đến gần  các tháp, nghe như có tiếng người từ trong ấy vọng ra. Quả không nhầm. Trong các tháp có nhiều đàn ông, có điều chỉ nghe tiếng chứ không nhìn thấy người. Giọng ai cũng cao, người thì hát nghêu ngao, người thì cười sằng sặc. Chắc đây là nơi giữ những người điên, chúng tôi nghĩ. Và chẳng bao lâu những điều được nghe khiến chúng tôi tin mình đoán chẳng sai. Một người điên cất cao giọng ngâm những vần thơ bằng tiếng Ả Rập. Những câu thơ ngợi ca người tình yêu quý, một người tình đẹp đến chim sa cá lặn, hơn cả các nàng tiên nữ trên thiên đàng.
“Hỡi nữ thuỷ thần mà ta yêu quý, hỡi đoá hoa uất kim đẹp nhất trần gian. Miệng nàng ngọt ngào tựa ly rượu. Khi nàng cười, răng nàng là hai hàng ngọc trai. Khi nàng nói, lời nàng là chuỗi ngọc xinh. Mái tóc vàng của nàng là nơi mặt trời ẩn hiện. Bàn tay nàng là cây cọ nhà danh hoạ Mony dùng để trang hoàng cung điện hoàng đế Trung Hoa”.
Anh chàng còn dùng nhiều lời lẽ mặn nồng hơn nữa, nghe biết ngay đầu óc anh ta không được bình thường. Tôi hỏi vị phó sư của mình:
-         Ông nghĩ sao về anh chàng ấy, thưa ông Huxêin?
-         Đầu óc của anh chàng ấy bị thơ với thẩn làm hỏng mất rồi – Ông đáp.
Chúng tôi nghe anh chàng ấy lập đi lập lại chừng ấy lời ngợi ca người yêu. Chán tai, chúng tôi đến gần một cái tháp khác. Từ tháp này lại nghe giọng hát của một anh chàng không trông thấy mặt:
-         “Hỡi giai nhân mà vầng thái dương đã mượn ánh sáng của nàng để soi rọi các cung điện cũng chiếu sáng như mọi túp lều tranh, xin nàng hãy hiểu cho tấm lòng tôi. Ngày nào tôi cũng ngợi ca chút nắng nàng gởi đến soi sáng phòng giam ảm đạm của tôi. Hỡi ôi, nàng là kiến trúc sư, tôi là ngôi nhà đổ nát. Tôi là dòng sông không ngừng tuôn nước vào tình nàng. Nàng chính là ngọn nguồn của cuộc sống. Tôi là con đường dẫn đến ngọn nguồn ấy”.
Một người điên khác, cùng nhốt chung trong cái tháp ấy, lại cất cao giọng hát não nuột, thở than sao người yêu chẳng đoái hoài gì đến mịnh và ước mong thần chết chóng đến kết thúc mối tình bi thương. Ông Huxêin nói với tôi:
-         Thưa hoàng tử, ngài có để ý mọi câu thơ và lời hát kia đều hàm ý tình yêu? Tất cả những người trong các tháp đều có vẻ những kẻ thất tình.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI HAI
Trong khi vị phó sư trao đổi với tôi như vậy thì một người dân địa phương tình cờ đứng bên cạnh nghe được, nói chen vào:
-         Chẳng có gì lạ sao những người ấy ai cũng nói về tình yêu. Bởi ái tình chính là nguyên nhân gây nên nỗi khổ cũng như dẫn tới bệnh điên của họ. – người ấy nói thêm – Hai vị hẳn là những người chưa bao giờ đặt chân đến thành phố Carim này, nên các vị mới không biết tất cả các chàng trai ấy đều đổ bệnh điên sau khi nhìn mặt công chúa con gái đức quốc vương chúng tôi.
Thấy chúng tôi tỏ ý vô cùng kinh ngạc, người ấy nói tiếp:
-         Tôi biết tôi đang nói với các vị một chuyện rất khó tin, nhưng không có gì đúng sự thật hơn. Nếu không tin lời tôi, các vị cứ hỏi bất cứ người nào trong thành phố này, người ta đều khẳng định với các vị, nhan sắc nàng công chúa xứ Carim là tác nhân gây nên hệ quả lạ lùng đến những chàng trai bất hạnh ấy.
-         Nàng công chúa ấy – người ấy kể tiếp – thỉnh thoảng chơi đánh cầu nơi sân chơi công cộng. Những lúc chơi cầu, nàng không đeo mạng và ai cũng có thể nhìn ngắm nàng. Nhưng khốn cho bất kỳ ai dừng chân ngắm dung nhan nàng, qua ánh mắt công chúa người ấy sẽ si mê ngay, một nỗi si mê vô cùng nguy hiểm. Những người này rồi trở nên trầm uất, và đi đến chết héo chết mòn vì không lấy được người mình yêu, những người khác mất luôn lý trí, trở thành những tên điên thực thụ. Những người phát điên vì nàng công chúa bị nhốt vào các chiếc tháp kia. Quốc vương chúng tôi đã cho xây nên chỉ dùng vào việc ấy. Nhà vua, thật ra không phải con người kém đức hạnh, chẳng hiểu sao không cấm con gái chớ có đưa khuôn mặt không đeo mạng phô ra trước mắt mọi người, hơn nữa dường như vua còn thích thú chơi trò bất nhân ấy, và vui mừng vì mình sinh ra một người con nguy hại đến thế cho cánh nam nhi.
Trong thời gian người ấy đang kể chuyện như trên, chúng tôi nhìn thấy một đámg đông đang ùa theo một tóan lính của nhà vua, dẫn hai chàng trẻ tuổi đi về hướng khu tháp cao. Tôi thốt lên:
- Có lẽ kia là những người điên người ta đưa đến giam vào tháp.
- Đúng đấy – ông ta đáp – hôm nay là ngày công chúa Rêzia Bêgum đi đánh cầu mà.
Người ấy vừa nói xong, tôi đột ngột bỏ đi. Ông Huxêin chạy theo, thấy tôi hấp tấp, ông hỏi hoàng tử đi đâu vội vàng thế. Tôi đáp:
-         Đi xem công chúa chơi cầu. Tôi muốn nhìn thấy nàng ấy đẹp tới mức nào. Tôi không tin nhan sắc của nàng nguy hiểm dường ấy.
Nghe nói, vị phó sư của tôi rùng mình. Lần đầu tiên ông lên tiếng can ngăn tôi, ông nói, trên khuôn mặt ông lộ vẻ vô cùng lo lắng:
-         Thưa hoàng tử, xin ngài chớ ngả theo mong muốn ấy. Quỷ dữ nào xui khiến ngài như vậy? Sau tất cả những gì chúng ta nhìn thấy, sau bấy nhie6u lời người dân Carim vữa nói cho chúng ta hay, ngài vẫn ngỏ ý mong muốn tai hại là nhìn thấy mặt công chúa Rêzia ư? Tôi van ngài, nhân danh Đấng thiêng liêng nhất đã sáng tạo ra muôn loài, xin ngài chớ nhìn vào đôi mắt cô công chúa ấy. Xin hoàng tử hãy biết sợ rồi đây phải chịu cảnh ngộ chung với những chàng trai khốn khổ mà người ta vừa kể chuyện cho chúng ta nghe.
Tôi không thể ngăn được cười khi nhìn thấy vẻ lo lắng đột ngột xuất hiện trên khuôn mặt vị phó sư của tôi
-         Ông quả chẳng phải là một người có lý trí chút nào. Sao ông có thể tin một nỗi lo âu lố bịch như vậy! Vậy ra ông nghĩ chỉ cần nhìn mặt một giai nhân tôi đã có thể trở thành một con người mất trí ư? Ông chẳng lạ gì trong cung phụ vương tôi có nhiều người đẹp cực kỳ, thế mà chẳng có ai có thể đụng đến sợi lông chân của tôi đây. Tôi có lẽ là vị hoàng tử tồi trong số các hoàng tử cùng lứa tuổi, tôi ít xúc cảm về chuyện yêu đương nhất. Trong triều tôi đã nổi tiếng về chuyện ấy, mặc cho kẻ chê người khen. Xin ông chớ nghĩ tôi có thể từ cực đoan này nhảy ngay sang cực đoan khác. Ông chớ lo lắng gì về sự hiếu kỳ của tôi. Ông chúng tôi tin lời tôi hứa, rồi tôi sẽ tha hồ ngắm nhìn nàng công chúa Rêzia Bêgum, cho dù nhan sắc nàng đã tạo nên bấy nhiêu lời đồn thổi.
Vị phó sư của tôi không cãi, nhưng tôi nhận ra mặc cho tôi nói, không thể nào trấn an ông được. Trong lúc ấy tôi chỉ nghĩ đến việc thoả mãn hiếu kỳ của mình. Tôi hỏi người đầu tiên gặp trên đường: “Xin vui lòng chỉ cho biết con đường dẫn tới bãi chơi cầu”. Người tôi hỏi chuyện là một vị tu sĩ. Ông đáp:
-         Chàng trai à, nếu anh muốn chơi cầu, hãy lùi sang ngày mai. Hôm nay là ngày công chúa chơi môn giải trí ấy. Anh không nên đến sân cầu hôm nay, ta khuyên anh nên lánh xa chỗ ấy.
-         Thưa thầy – tôi đáp – tôi không có ý định tiêu khiển, tôi chỉ muốn nhìn mặt nàng công chúa.
Vị tu sĩ kêu to:
-         Ôi hỡi anh chàng khốn khổ! Anh chán sống rồi sao, hay là anh mất hết trí khôn rồi? Vậy ra chưa ai nói cho anh rõ hệ quả tai hại thế nào nếu nhỡ nhìn vào ánh mắt công chúa Rêzia? Nếu anh đã biết, hẳn anh phải là con người to gan lắm, mới không biết sợ dung nhan sát nhân của nàng.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI BA
Vị tu sĩ còn nói thêm nhiều điều nữa. Ông cố sức thuyết phục tôi từ bỏ quyết định của mình. Thấy tôi vẫn khăng khăng một mực, ông nổi nóng quát:
-         Thôi anh hãy xéo luôn cho, hãy đi đến chỗ chết, bởi anh đã không chịu nghe lời khuyên của ta.
Rời vị tu sĩ đi được một lát, tôi nghe một người cầm loa đi rao to khắp các phố phường “Nhân danh lệnh Đức Vua, xin rao truyền cho bà con thiên hạ mọi người được rõ. Hôm nay công chúa Rêzia đi chơi cầu. Nếu người nào dại dột đưa mắt nhìn công chúa, người ấy sẽ chịu trách nhiệm về căn bệnh sẽ xảy ra cho mình sau này”.
Càng đi đến gần sân cầu, tôi càng để ý thấy mọi người náo động. Nghe ơi ới tiếng những người cha đang gọi con trai về nhà, hoặc tìm cách ngăn không cho các cậu tò mò đến xem mặt nàng công chúa Rêzia. Tôi càng cười cho những sự lo âu thái quá ấy, cũng như nỗi kinh hoàng lại hiện lên trên nét mặt ông Huxêin phó sư của tôi. Đến gần sân chơi cầu, tôi chỉ thấy toàn các ông già lọm khọm. Đã thế, các cụ đều đứng xa sân chơi. Các cụ cũng lo, cho dù lửa trong lòng mình đã lạnh giá như băng, biết đâu nhìn thẳng vào mặt nàng công chúa kia, có khi rồi bị người ta lôi cổ nhốt vào tháp dành cho những người điên. Chung quanh sân chơi cầu chẳng có mấy người xem. Ai cũng tránh không nhìn vào dung nhan xinh đẹp nhất mà tạo hoá đã sẵn đúc nên.
Riêng tôi cứ bạo dạn tiến vào, tôi bỏ ngoài tai lời mấy cụ già tốt bụng đang cất tiếng kêu to cố ngăn tôi lại vì thương hại. Tôi xăm xăm bước tới chỗ nàng công chúa. Nhưng chậm chân mất rồi. Nàng  vừa rời khỏi sân chơi. Công chúa đã đeo lại tấm mạng che mặt. Tôi chỉ có thể nhìn thấy nàng từ đàng sau. Vóc dáng nàng trông có vẻ yêu kiều lắm. Nàng  cùng hai nô tì tin cẩn nhất bước lên kiệu trở về cung, chung quanh có đội lính tráng đông đảo dẹp đường và theo hầu.
Tôi buồn rầu nói với vị phó sư của mình:
-         Tôi thật không may! Giá nhanh chân hơn một chút, tôi đã có thể nhìn thấy mặt công chúa Rêzia rồi.
Ông phó sư không ngăn nổi mừng vui lộ trên mặt:
-         Tạ ơn trời đất đã không để cho ngài nhìn thấy công chúa. Mặc dù ngài bảo đảm sẽ dửng dưng khi nhìn thấy nàng, thú thật tôi không làm sao yên tâm được. Tôi rất vui khi hoàng tử đã không phải trải qua cơn thử thách.
-         Ông chẳng có gì để vui mừng quá sớm – tôi đáp – bởi cơn thử thách ấy chỉ bị hoãn lại mà thôi. Tôi thề là sau hôm nay, lần đầu tiên công chúa đến đây chơi cầu, tôi sẽ cố nhìn thật kỹ vào, cho dù hôm ấy nàng còn nguy hiểm hơn cả hôm nay.
Tôi sống trong tâm trạng chờ đợi suốt một ngày. Hôm sau, dân chúng toàn thành phố được tin đức vua vừa ban bố, kể từ ngày hôm nay, công chúa Rêzia sẽ không công khai xuấg hiện trước dân chúng để chơi cầu nữa, từ nay trở đi công chúa chẳng bao giờ đến chỗ có đàn ông mà không đeo mạng che mặt, đúng như luật lệ đạo Hồi bắt buộc. Đức vua đã quyết định như vậy sau những lời trách móc, can gián mạnh mẽ của quần thần.
Chiếu chỉ vừa ban bố của nhà vua làm tôi buồn bực bao nhiêu thì vị phó sư của tôi càng vui thích bấy nhiêu. Ông ta không che giấu được sự vui mừng ra mặt:
- Ôi, hoàng tử của tôi. Thế là từ nay ngài thoát khỏi nguy hiểm rồi. Na1ng công chúa từ nay không đưa mặt khi bước ra ngoài cung cấm nữa, nàng không còn cơ hội làm hại đàn ông. Tôi thật lòng ngợi ca trời đất về việc ấy…
- Ông nhầm rồi, ông Huxêin à – tôi bực tức ngắt lời ông – ông chớ vội nghĩ tôi bỏ sự hiếu kỳ của mình. Cho dù rồi đây khó nhìn mặt nàng công chúa Rêzia đấy, nhưng không có nghĩa không thể nào có cách.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI BỐN
Tôi tính toán trong đầu nhiều cách, rồi quyết định làm theo cách như sau. Tôi mang theo một số vàng bạc châu báu, tìm đến gặp người làm vườn trong hoàng cung, đặt vào tay ông ta một túi tiền và bảo:
- Bố ơi, xin bố cầm lấy túi tiền này. Bên trong có năm trăm đồng xơcanh vàng. Xin bố hãy cầm tạm, sau này con sẽ đưa bố nhiều món quà đáng giá hơn.
Người làm vườn là một cụ già tốt mã, có người vợ già cũng trạc tuổi. Cụ  cầm túi tiền, mỉm cười nói với tôi:
- Chàng trai à, món quà của cậu khá lắm. Nhưng chắc cậu cho già này tiền chẳng để làm gì. Nào, già có thể làm gì giúp cậu được bây giờ?
- Tôi có một lời nhờ cụ. Xin cụ hãy để cho tôi vào trong vườn ngự uyển, và rồi đây có dịp được nhìn thấy nàng công chúa Rêzia trong khuôn viên hoàng cung, chỉ cần nhìn mỗi một lần thôi, bởi từ nay trở đi nàng không được phép ra ngoài cung cấm nữa.
 Nghe nói vậy cụ già làm vườn đột ngột trả lại cho tôi túi tiền:
-         Hãy đi đi, hỡi chàng trai táo tợn. Anh không nghĩ tới hậu quả điều anh vừa đề nghị với tôi hay sao. Nếu tôi cho anh cải trang mặc áo quần phụ nữ, và cho phép anh có mặt trong vườn này khi công chúa Rêzia đi dạo chơi trong đó, tôi không sợ người ta phát hiện ra sao? Cánh hoạn nô chuyên lo việc theo hầu công chúa rất tinh anh, không điều gì thoát khỏi đôi mắt sắc sảo của họ, thoáng chút gì khác lạ đã khiến họ nghi ngờ ngay. Vậy anh nên nghĩ đến nỗi nguy anh tính lao thân vào và kéo tôi vào với anh.
Lời cụ già làm vườn chẳng làm cho tôi nản chí. Tôi đưa trở lại túi tiền vào tay cụ và nói tiếp:
-         Bố ơi, xin bố chớ từ chối giúp đỡ con. Con là một người nước ngoài mới đến, chẳng có ai ở đây là bà con thân thích hay bạn bè. Con cực kỳ mong ước được nhìn mặt nàng công chúa ấy. Con chỉ còn biết trông mong vào sự giúp đỡ của bố mà thôi. Bố khước từ không giúp, thì con đến chết mất vì buồn phiền.
Bà vợ người làm vườn đem lòng thương hại tôi, nói giúp vào, cả hai chúng tôi cùng năn nỉ. Ông già làm vườn có vẻ thuận tình. Nhưng trong lúc chúng tôi năn nỉ, cụ lại có vẻ mơ màng suy nghĩ. Tưởng cụ còn do dự, tôi vội dúi thêm mấy viên kim cương nữa vào tay, để cụ không xiêu lòng. Cụ nói:
-         Chàng trai à, không cần đưa thêm mấy viên ngọc này làm chi. Vừa trông thấy anh già đã có cảm tình. Hồi nãy già chưa đáp là còn mải suy nghĩ xem có cách gì giúp anh mà không để xảy ra nguy hiểm cho anh cũng như cho bản thân già.
Tôi vội ôm hôn cụ già, và nài nỉ cụ vừa nghĩ ra kế gì, xin nói cho biết ngay, chớ để tôi phải nóng lòng chờ đợi lâu hơn. Cụ nói:
-         Cậu phải bỏ bộ áo quần đang mặc trên người kia đi. Cậu hãy mặc cho giản dị đơn sơ vào. Tôi sẽ làm cho cậu giống hệt như một chú giúp việc làm vườn. Mái tóc vàng của cậu có thể làm cho cánh hoạn nô để ý và nghi ngờ. Bà nhà tôi và tôi sẽ cho cậu đeo một cái bong bóng để che tóc đi, rồi chúng tôi sẽ kiếm cách bôi lem nhem lên đấy như thể cậu mắc bệnh chốc đầu. Như vậy là tốt lắm, bởi trông cậu càng xấu càng ít bị người ta để ý. Chắc cậu không hài lòng khi tôi bảo cậu cải trang nhảm nhí như vậy. Tuy nhiên hẳn cậu không lấy chuyện ấy làm điều nếu cậu thực lòng tha thiết muốn thực hiện ý đồ của mình, mà như lời cậu nói, ý đồ ấy chỉ là được một lần nhìn thấy mặt công chúa con gái đức vua. Dĩ nhiên, nếu cậu muốn công chúa thích, thì hình thức và trang điểm bên ngoài của cậu phải theo cách khác cơ, có thể mới có cái để mà hy vọng.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI LĂM

Tôi đồng ý sáng kiến của cụ làm vườn. Tôi để yên cho hai vợ chồng cụ hoá trang tôi thành một chú giúp việc trong vườn. Các cụ lấy một cái bong bóng chụp lên đầu tôi che mái tóc, rồi bôi gì lên đấy cho thật xấu xí để các tiểu thư ý nhị nhất cũng chẳng thấy ngại ngùng khi nhìn thẳng vào mặt tôi. Trong khi hai vợ chồng làm gần xong công việc hoá trang, vị phó sư của tôi vẫn đứng chờ bên ngoài, sốt ruột chẳng hiểu tôi làm gì lâu la trong vườn đến thế, bèn bước vào tìm. Ông nhìn tôi, cho dù đã cải trang ông vẫn nhận ra, và rất lấy làm lạ tại sao tự dưng tôi biến thành một chú phụ việc bẩn thỉu như thế này.
Tôi không nén khỏi phì cười khi nhìn vẻ mặt thảng thốt của ông, làm cho ông cũng phá ra cười theo. Bộ áo quần giản dị, cái bong bóng chụp lên đầu làm cho tôi giống hệt một anh bị bệnh chốc đầu, chừng ấy đủ làm cho chúng tôi cười sảng khoái. Riêng cụ già làm vườn vẫn tỏ vẻ nghiêm trang, thậm chí còn thoáng chút lo lắng. Cụ hỏi tôi có đáng tin ông vừa đến này là người kín mồm kín miệng hay không. Để cụ yên tâm, tôi khẳng định có, và còn nói thêm đấy là ông anh trai của tôi. Cụ già nói:
-         Thế là được, tôi hài lòng. Bây giờ có việc đưa cậu vào bên trong vườn ngự uyển. Còn ông anh trai cậu, bảo anh ta cứ về, thỉnh thoảng đến đây, tôi sẽ cho rõ tin tức về cậu.
Vị phó sư của tôi ra về. Lát sau, cụ già làm vườn cho tôi đi theo vào trong vườn của hoàng cung. Cụ trao vào tay tôi một cái thuổng, dạy tôi cách cầm thuổng, rồi chỉ cho tôi biết nên làm những việc gì. Trong khi tôi tập làm việc, một vài viên hoạn quan đi qua bên cạnh. Nhìn thấy tôi, ai cũng cho đây là một cậu bé đang bị bệnh lở lói trên đầu. Họ nói với nhau “Đấy, chúng ta cần những người giúp việc trong vườn đại loại giống như chú này”. Nói xong, họ đi tiếp, khiến tôi rất hài lòng vì đã không gây nên chút ngờ vực nào.
Đến cuối ngày làm việc, cụ già làm vườn nghĩ đến lúc này chắc tôi đã thấm mệt, bảo tôi ngừng tay rồi đưa đến gần một cái bể xây bằng đá cẩm thạch chứa đầy nước trong veo. Ở đấy, có một tấm da trải trên bãi cỏ, bày sẵn các món rượu thịt. Lại thấy cả một cái bình đựng rượu nho và một cây đàn nguyệt.
Hai chúng tôi ngồi lên tấm da, ăn uống ngon lành. Ăn xong, mới đụng đến cái bình. Uống gần cạn, cụ già chắc vì có hơn men nên tỏ ra sảng khoái hơn, cụ cầm chiếc đàn và bắt đầu chơi.
Tôi đã học chơi đàn từ nhỏ, quá thành thạo để đánh giá cao tài nghệ của cụ già làm vườn. Nhưng nhìn thấy cụ đánh đàn chỉ để mua vui cho chính mình thôi mà chơi say sưa quá, tôi không thể không ngỏ lời khen ngợi hay lắm, hay lắm. Cụ có vẻ thú vị về lời khen của tôi, liền trao cây đàn vào tay và bảo tôi đánh đi “Con trai à, con cũng nên chơi đàn một chút, xem thử con có làm nên trò vẻ gì với thứ đàn này không”
Chẳng cần để cụ giục giã nhiều hơn, tôi đón cây đàn, tấu mấy điệu nhạc cổ hay tài hoa nhất của đại tác giả Abđenmumen, lại còn hứng chí vừa đàn vừa hát. Cụ làm vườn thích lắm, cũng ngợi khen nồng nhiệt như tôi vừa khen cụ, làm cho tôi không khỏi xúc động ít nhiều, cho dù biết chắc mình chơi hay hơn hẳn cụ già.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI SÁU
Tôi tưởng lúc này chỉ có mỗi một khán giả đồng thời là người ngợi khen duy nhất là cụ già làm vườn. Không ngờ lúc ấy, quan tể tướng tình cờ đi dạo trong vườn, nghe giọng tôi hát cùng tiếng nhạc dặt dìu, lặng lẽ tiến gần. Ông đứng lắng nghe. Khi tôi ngừng đàn, ông xuất hiện và bắt chuyện. Trông thấy ông, tôi đứng lên và kính cẩn đi ra xa. Ông bảo:
-         Chú kia, hãy đứng lại, tại sao chú tránh mặt ta?
-         Bẩm thưa ông, tôi không dám ở lại vì tự thấy mình không được phép được trước mặt các vị quyền quý như ngài.
-         Không sao, chú bé ạ, chú cho ta biết chú là ai – tể tướng hỏi.
Tôi chưa đáp ngay, vì không biết nên trả lời thế nào, thì cụ làm vườn đã nói đỡ:
-         Bẩm ngài, nó là chú bé con giúp việc cho già, chú làm vườn khá lắm, và già lấy làm may kiếm được một người như chú ấy để đỡ đần.
Tể tướng bảo tôi hát thêm vài bài nữa. Tôi vừa hát vừa đệm đàn thật điệu nghệ khiến vị đại thần có vẻ rất thú vị. Ông thốt lên:
-         Tất cả các nhạc công của đức vua ta cộng lại cũng không bằng chàng trai này.
Nói xong ông tiến đến gần tôi hơn, chăm chú nhìn lên đầu rồi hỏi:
-         Nhưng đầu chú mày làm sao thế, hình như chú mày bị bệnh chốc đầu?
-         Bẩm ngài, thật đáng tiếc – cụ già làm vườn lại nói đỡ - đúng là chú bé khốn khổ này mắc phải bệnh chốc đầu.
-         Thật đáng tiếc – tể tướng nói – không bị chứng bệnh hay lây lan và khó coi ấy, ta có thể cho chú mày ra khỏi địa vị tối tăm. Ta muốn có chú bên cạnh để thỉnh thoảng giải trí cho ta. Ta có thể làm cho chú trở thành giàu có, đáng tiếc là chú bị chốc đầu.
Nói xong tể tướng bỏ đi. Sáng hôm sau, vào buổi chầu, ông tâu với nhà vua:
-         Tâu bệ hạ, ngài chưa rõ trong vườn bệ hạ có cả một kho báu.
Và tể tướng kể cho nhà vua nghe câu chuyện xảy ra chiều hôm trước. Nghe trình, nhà vua ngỏ ý tự mình cũng muốn nghe tôi chơi nhạc và hat. Vua nói:
-         Chiều hôm nay ta sẽ ra vườn ngự uyển xem chú chốc đầu ấy đàn hát. Hãy truyền cho các nhạc công trong nội phủ được biết để chuẩn bị một buổi hoà nhạc ngoài vườn. Nhớ sai mang bày sẵn thức ăn nhẹ ở vườn luôn.
Lệnh vua đã truyền, ngay lập tức nhiều tấm thảm đẹp được mang đến trải xuống chỗ hôm qua cụ già làm vườn và tôi cùng ngồi. Các quan lo việc ngự thiện còn đẩy ra vườn mấy cái tủ rượu để nhiều bình chứa toàn rượu ngon. Trong khi đó dưới hai chiếc lọng xanh, người ta bày ra đủ món thịt thà, hoa quả. Mọi việc vừa xong, thì nhà vua từ trong cung bước ra vườn, theo sau có tể tướng cùng một số vị triều thần.
Vua vừa an toạ, và cho phép những người cùng đi được ngồi lên các tấm thảm, thì tôi đeo từ thắt lưng trở xuống một tấm khăn trắng và mang đến trước mặt vua một lẵng chứa đầy hoa tươi. Tôi đặt lẵng hoa dưới chân nhà vua và kính cẩn lui ra. Tôi để ý thấy vua chăm chú nhìn theo, và nhất là quan sát cái bong bóng xấu xí trên đầu tôi. Chẳng khó khăn gì vua không đóan ra tôi chính là nhân vật tể tướng đã nói đến. Vua phán:
-         Này anh chốc đầu, anh làm công việc gì ở đây?
Ông cụ làm vườn, chủ nhân của tôi, đáp lời hộ, nói đấy là chú giúp việc của mình, chú ấy giỏi công việc vườn tược lắm. Cụ già nói với nhà vua một cách tự tin như thể cụ đang nói lên sự thật.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI BẢY
Đức vua vẫn nhìn tôi chằm chằm. Vua hỏi ông già làm vườn:
-         Có đúng là chú giúp việc của lão chơi đàn nguyệt khá lắm, và lại còn hát hay nữa?
-         Tâu bệ hạ đúng  vậy – người làm vườn nói – giọng ca của chú ta khá mùi mẫn. Nghe chú hát, người ta chỉ nhớ giọng hát mà quên luôn người ngợm của chú.
-         Ta muốn nghe qua – vua nói – Thử xem tài nghệ của chú mày đến đâu.
Cùng theo hầu nhà vua hôm ấy có một số chú hề. một tên hẳn nghĩ nhà vua nói vậy để chế giễu tôi, liền bước tới nắm tay tôi, như thể mời cùng nhảy múa làm trò với hắn. Hẳn anh chàng nghĩ tôi sẽ múa may lộn xộn, cộng thêm bộ dạng kỳ dị của tôi nữa, hắn sẽ làm cho mọi người được một mẻ cười khóai trá. Nhưng hắn đã nhầm. Tôi đưa cánh tay rắn chắc túm vai hắn ta, lắc cho mấy cái thật mạnh làm hắn lảo đảo. Mọi người phá ra cười, nhưng không phải cười tôi mà cười chính anh hề ấy. Tiếp đấy, tôi tỏ cho mọi người thấy tôi nhảy múa đẹp hơn rất nhiều, không như hắn ngờ đâu. Nhà vua và tất cả mọi người có mặt ở đấy đều nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng.
Người ta chú ý đến tôi hẳn cũng tại tiếng đồn về người ngợm bên ngoài của tôi chẳng ra sao. Ai cũng lấy làm ngạc nhiên tại sao một anh chàng ai cũng nghĩ là khốn khổ khốn nạn, lại biết vũ đạo tài hoa đến thế. Chẳng hiểu sao, có người nào đó trao vào tay tôi đôi phách bằng ngà voi. Tôi vừa nhảy múa vừa nhịp phách, khéo léo nhịp nhàng uyển chuyển đến mức mọi người đều công nhận chưa từng gặp một vũ công nào điêu luyện đến vậy biểu diễn ở triều đình nước Carim này.
Sau khi nhảy múa hồi lâu, tôi cầm cây đàn nguyệt của cụ già làm vườn và bắt đầu vừa đàn vừa hát, còn hay hơn cả ngày hôm trước, khi tôi diễn cho tể tướng xem. Tôi để ý vị đại thần càng về sau càng tỏ ra hài lòng, khi ông nhìn thấy trong ánh mắt của nhà vua sự thích thú rõ rệt. Người ta lại đưa đến cho tôi một cây đàn hạc, một cây đàn tì bà, một cây đàn thất huyền và một chiếc sáo trúc. Tôi lần lượt chơi bốn loại nhạc cụ ấy, đều khéo léo khiến nhà vua càng lấy làm thích thú.
Vua ra lệnh ban thưởng cho tôi một ngàn đồng xơ canh vàng. Người ta mang túi tiền đến trước mặt tôi. Tôi mở ngay cái túi ra, lấy tiền vàng trong ấy chia cho nhạc công và ca sĩ có mặt. Tất cả mọi người đều ngạc nhiên về cử chỉ ấy. Mọi người xì xào: “Anh chàng này có tâm hồn cao thượng. An hta muốn bắt chước các vị quân vương. Thật đáng tiếc là anh ta bị chốc đầu”.
Nhà vua cũng ngạc nhiên không kém những người khác hỏi tôi tại sao không giữ riêng cho mình món tiền thưởng. Tôi đáp, tôi chẳng nên có những của cải từng được vinh hạnh thuộc sở hữu của hoàng thượng, vì tôi đã quá vinh hạnh được làm việc trong vườn ngự uyển hầu ngài rồi. Vua hài lòng về câu trả lời. Mọi người lại vỗ tay tán thưởng.
Tiếp đó nhà vua truyền mang thức ăn đến. Vua cùng các triều thần dùng thức ăn nhẹ và uống rượu. Sau đấy, là hoà nhạc. Hôm ấy cũng có nhiều giọng hát khá hay. Nhưng có lẽ nhà vua quá có ấn tượng về giọng hát của tôi nên xem chừng nghe không chăm chú lắm, như thể đang nghe những người hát tầm thường sau khi vừa thưởng thức xong một giọng ca tuyệt diệu.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI TÁM
Buổi hoà nhạc kết thúc, vua và các triều thần ra về. Người ta mang các tấm thảm đi, các tấm lọng cũng bi dỡ đi hết. Những người phục vụ cũng ra đi nốt. Chỉ còn lại cụ già làm vườn và tôi. Cụ nói:
-         Hôm nay anh trao tặng vật cho tôi, tôi đã nghĩ anh không phải thuộc hạng người bình thường. Cách anh xử sự với món tiền thưởng của nhà vua hôm nay càng làm cho tôi vững tin thêm điều tôi suy nghĩ. Những người bình thường không ai có thể xử sự như anh.
Mặc dù cụ già dường như gợi ý để cho tôi nói rõ mình là ai, tôi vẫn cho giãi bày tâm tình lúc này chưa phải lúc. Tôi chỉ nói, quả là gia cảnh của tôi cũng khấm khá, rồi chuyển sang nói chuyện khác. Tôi nói với cụ tôi rất nóng lòng muốn được nhìn tận mắt nàng công chúa nước Carim. Cụ đáp:
-         Lạ nhỉ. Ta khá ngạc nhiên sao anh chưa được gặp. Ngày nào công chúa chẳng cùng với các cung nữ của mình dạo chơi trong vườn này. Nhưng than ôi! – cụ làm vườn nói thêm – rồi anh sẽ được nhìn thấy mặt công chúa thôi, và rồi ta sẽ hối tiếc sao lại dễ chiều lòng anh như vậy.
Lời cụ già tốt bụng không làm cho tôi sợ hãi, ngược lại càng kích thích thêm mong ước.
Ngày hôm sau nữa, tức là ngày thú ba, sau khi làm việc được hồi lâu, tôi ngồi nghỉ bên gốc cây hoa hồng. Tôi vừa chơi đàn tì bà vừa trầm ngâm tư tưởng, chợt một phu nhân mặt đeo mạng đột ngột xuất hiện trước mặt tôi, và bảo:
-         Chàng trai trẻ kia, hãy để cây đàn của anh lại đó. Hãy đi hái hoa ngay để dâng cho công chúa. Công chúa đang dạo chơi trong vườn. Đáng ra việc đó anh phải làm xong rồi chứ? Người ta không nói cho anh rõ bổn phận của anh sao? Anh giúp việc làm vườn như vậy hả?
Tôi vội cúi hôn mặt đất, thưa với phu nhân quả thật tôi chưa được rõ công chúa hiện đang dạo trong vườn, hơn nữa, cho dù có biết tôi cũng không dám mang bộ mặt này ra mắt công chúa.
Phu nhân ấy phá ra cười:
-         Hoá ra anh mới bị một chút chốc đầu mà đã không dám ra mắt người khác? Ta chẳng thấy xấu hổ chút nào khi lưu giữ anh lại, và lát nữa ta sẽ đưa anh đến ra mắt công chúa. Nàng, cũng như mọi cung nữ đều biết anh chốc đầu, mọi người đều biết như vậy, nhưng anh chẳng phải sợ làm họ kinh tởm đâu, ngược lại, họ sẽ thú vị đấy. Nhiều người khen ngợi tài năng của anh lắm. Vậy anh hãy mau mau đi hái hoa tươi, ta tin chắc công chúa Rêzia, mà ta vinh dự là quản mẫu của nàng, sẽ tiếp đón anh tử tế.
Tôi chẳng mong gì hơn điều bà quản mẫu vừa bảo. Tôi vội chạy về nhà cụ làm vườn, lấy một chiếc lẵng rồi mau chóng hái đầy hoa tươi. Sau đấy tôi để bà quản mẫu dẫn đến một ngôi nhà có mái vòm cao xây chính giữa vườn. Cũng như ngày hôm trước, tôi buộc một tấm vải trắng vào nửa dưới người, và hai tay nâng lẵng hoa tươi bước vào.
Công chúa đang ngồi trong một phòng khách tráng lệ, trên một chiếc ngai vàng, chung quanh có chừng hai, ba chục cung nữ người nào cũng xinh đẹp như người nào. Dường như người ta khéo lựa chọn để tạo nên một triều đình riêng xứng đáng với công chúa Rêzia. Quả thật những tiên nữ mà người ta vẫn hứa hẹn với những tín đồ Hồi giáo ngoan đạo nên cố giữ vững đức tin để rồi sau này lên thiên đường sẽ được gặp, chắc cũng chẳng thể nào xinh hơn các cô gái ở đây. Đặc biệt công chúa xinh đẹp quá mức tưởng tượng, nàng chói ngời giữa tất cả các cung nhân xinh đẹp kia, khiến tôi đứng ngây người như phỗng, mắt chăm chăm dán vào nàng, mồm thì há hốc.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM HAI MƯƠI CHÍN
Vẻ bối rối và sự kinh ngạc của tôi, mọi người chẳng khó khăn gì không hiểu nguyên do đâu, khiến tất cả đều phá ra cười vui vẻ. Bọn cung nhân cứ ngặt nga ngặt nghẽo tin chắc sắc đẹp của công chúa họ đã hút hết thần của tôi rồi. Họ nghĩ vậy không phải không căn cứ. Tôi không làm chủ được bản thân nữa, người cứ như ngẩn ngơ, quẫn trí, thậm chí có thể làm cho người khác nhìn vào tưởng tôi đã hóa điên mất. Mà quả thật, lúc này tôi gần như con người không có trí khôn. Bà quản mẫu, người dẫn tôi đến đây nhắc:
-         Hãy tiến lên nào, sao anh cứ đứng ngây như phỗng vậy, Hãy đưa hoa dâng công chúa đi.
Lời của bà làm tôi hoàn hồn một lát. Tôi tiến đến gần ngai, đặt lẵng hoa ở bậc cấp đầu, rồi tôi phủ phục, mặt úp sát xuống đất, cho đến khi nghe nàng công chúa bảo:
-         Hãy đứng lên, chàng trai, hãy để chúng ta được nhìn rõ mặt anh với nào.
Tôi vâng lời nàng. Thế là tất cả đám đàn bà con gái có mặt ở đấy đều nhìn thấy cái đầu trọc nhem nhuốc của tôi hay đúng hơn là cái bong bóng phủ kín mái toc, cho dù đã biết trước họ đều phá ra cười sằng sặc, vẫn làm tôi mất luôn chút ít tự tin mà bà quản mẫu vừa đưa lại cho khi ngỏ lời nhắc tôi dâng hoa. Và tất cả mọi người cứ thế cười ngặt nghẽo không thôi.
Khi mọi người cười chán chê, công chúa sai người đưa cho tôi cây đàn tì bà, rồi truyền lệnh cho tôi hãy vừa hát vừa đàn:
-         Hôm qua anh đã làm phụ vương ta thích thú. Ta không sao tin anh có thể vừa hát vừa đàn tì bà tuyệt diệu như lời người nói.
Thế là tôi so dây, rồi vừa tự đệm đàn vừa cất tiếng hát một điệu uzzal[1] mấy vần thơ Ba Tư cổ “Ôi, thế là thôi, cái chết  của anh không sao tránh khỏi được nữa rồi! Anh sẽ chết sau khi anh nhìn thấy nét tiên sa. Anh sẽ chết vì đớn đau nếu không được nàng đoái tưởng!  Anh vẫn sẽ bỏ mình vì quá hạnh phúc nếu được nàng đoái thương”.
Chẳng khó khăn gì không hiểu ý tứ bài ca tôi vừa hát, và đáng ra lại có thêm một dịp nữa để mọi người cất tiếng cười chế nhạo, nhưng lần này không ai cười. Thay vì cười nhạo là những tràng vỗ tay khen ngợi. Đúng ra vì công chúa là người vỗ tay đầu tiên, cho nên thật khó hiểu ý nghĩa thật tràng vỗ tay của mọi người vừa rồi dành cho ai. Nhưng, một cung nữ khác đã nhấc chiếc đàn tì bà ra khỏi tay tôi, đặt vào đấy một chiếc trống con, rồi lần lượt tiếp theo là cây sáo trúc, chiếc đàn hạc, cây thất huyền cầm. Tôi đều biểu diễn xuất sắc các nhạc cụ ấy khiến mọi người lại nồng nhiệt vỗ tay khen ngợi.
Lúc này công chúa lại nói:
-         Chưa hết đâu, anh bạn à, ta còn nghe nói anh nhảy điêu luyện lắm, ta muốn xem thực hư ra sao.
Tôi bảo đưa cho tôi đôi phách, tôi lại biểu diễn đúng vũ khúc đã trình bày chiều hôm trước, và cũng chẳng đến nỗi kém. Tất cả các cung nữ lại ngợi khen “Anh chàng nhảy có duyên đấy chứ” – một người nói. Người khác “Giọng anh chàng nghe mượt mà lắm. Giá mà không bị bệnh chốc đầu, anh chàng có thể trở thành một ca sĩ có hạng”.
Trong khi các cung nữ luận bàn và khen ngợi tôi đủ thứ, nàng công chúa Rêzia vẫn chăm chăm nhìn tôi, lặng yên không thốt một lời. Rồi đột nhiên phá tan im lặng, nàng bước xuống ngai lui về cung riêng, miệng nói “Đáng tiếc, thật đáng tiếc anh ta bị chốc đầu”.
Nàng  vừa nói xong, bọn cung nữ bao giờ cũng hùa theo chủ, vừa lần lượt đi theo nàng, vừa đồng thanh nói vang cả gian phòng “Thật đáng tiếc, thật rất đáng tiếc là anh ta lại bị bệnh chốc đầu”.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI
Tôi chẳng ở lâu trong gian phòng sang trọng sau khi mọi người lui ra. Tôi trở về ngôi nhà nhỏ của cụ làm vườn, và gặp ở đây vị phó sư của mình vừa đến hỏi thăm tin tức. Tôi nói:
-         Ái chà, tôi vừa nhìn thấy công chúa.
Vị phó sư cũng như cụ già làm vườn đều tái mặt. Cả hai cùng chăm chăm giương mắt nhìn sát vào mặt tôi. Họ lo nhìn thấy trên mặt có cái gì đó đáng sợ. Tuy nhiên, nếu những anh chàng từng đam mê nàng công chúa ấy phải mang nhốt vào các tháp kín, thì tôi cũng xứng đáng được có một chỗ ngồi trong tháp ấy.
Tiếp đó tôi thuật lại cho hai người nghe tất cả những gì diễn ra trong phòng khách của công chúa vừa rồi. Tôi nói thêm tôi muốn ở lại lâu hơn nữa trong vườn ngự uyển dưới dạng cải trang này, để cố làm vui lòng công chúa Rêzia. Vị phó sư cũng như cụ già làm vườn đều tìm hết cách thuyết phục tôi nên bỏ ý định ấy đi. Nhưng tôi cấm vị phó sư không được nói gì thêm nữa, và tôi lại dùng quà cáp làm xiêu dạ cụ làm vườn, để cụ cho tôi tiếp tục đóng vai chú hài đồng giúp việc cuốc xới.
Ngày hôm sau, vào buổi chiều, tôi muốn nghỉ. Tôi đến cạnh một hồ nước, bờ hồ có phủ cỏ non và chung quanh hồ có nhiều cây to toả bóng mát. Tôi biết thỉnh thoảng công chúa vẫn ra tắm trong hồ nước này. Điều ấy cũng đáng khuấy động trí tưởng tượng của một chàng trai si tình lắm chứ. Trong đầu óc tôi hình dung trăm thứ dịu dàng một chàng trai đam mê có thể nghĩ ra. Nhìn xuống nước tôi chợt nhìn thấy hình ảnh mình phản chiếu trong ấy. Đã không thú vị, tôi còn thở dài buồn bã sao tự mình biến mình ra con người gớm ghiếc như thế này. Tôi thốt lên:
-         Số phận trớ trêu sao, sai lại bắt tôi xuất hiện trước mắt nàng công chúa yêu kiều mà tôi say đắm với hình dạng thế này! Với bộ mặt kinh tởm này làm sao hy vọng gợi nên tình cảm tốt đẹp trong lòng nàng? Kỳ cục quá! – tôi vừa nói vừa lột chiếc bong bóng bịt đầu – giá ta được giữ nguyên dạng như trời sinh ra để xuất hiện trước mắt công chúa Rêzia, thì nếu không gây được cảm tình, ít ra cũng không làm cho nàng ghê tởm.
Than thở cho số phận mình một lúc, tôi lại trùm cái mũ giả ấy lên đầu. Hai tay tôi đang điều chỉnh sửa sang cho ngay ngắn bỗng xuất hiện một phụ nữ đến gần. Bà cất mạng che mặt, tôi nhận ra đấy là bà quản mẫu của công chúa. Bà nói với tôi:

- Anh chàng chốc đầu kia, ta tìm anh để nói cho anh biết anh còn hạnh phúc hơn một con người lành lặn nhiều. Mặc cho anh có cái đầu như thế, công chúa chủ của ta vẫn thích anh. Công chúa muốn tối nay ta lại đưa anh vào phòng riêng của nàng. Công chúa muốn nghe anh hát, xem anh múa nữa. Vậy tối hôm nay anh phải có mặt ở chỗ này, nhớ đấy nhé.
Bà quản mẫu chẳng cần phải nhắc tôi đến đúng giờ. Tôi chạy vội về gặp cụ làm vườn già, dĩ nhiên không với mục đích nói cho cụ hay vận may đang chờ đợi tôi, mà bảo cụ chớ có lo lắng gì cho tôi nếu đêm nay nhỡ tôi không về nhà. Tiếp đó tôi trở lại nằm dài trên thảm cỏ, nơi bà quản mẫu bảo tôi chờ.
Dĩ nhiên tôi vô cùng sốt ruột đợi cái giờ phút ấy đến. Cuối cùng một viên hoạn nô cũng xuất hiện, bảo tôi đi theo. Y đưa tôi vào nội cung qua một cánh cửa bí mật mà y cầm chìa khóa, rồi đưa thẳng vào phòng nàng Rêzia.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI MỐT
Nàng công chúa ấy đang nằm dài trên chiếc sập, trong khi các người hầu xúm xít trên tấm thảm trải dưới đất, đang kể cho nàng nghe đủ thứ chuyện để mua vui. Mọi người vừa nhìn thấy tôi, đều đứng lên kêu to:
-         Anh chàng chốc đầu kia rồi. Anh sẽ tiêu khiển cho chúng tôi tối nay.
Công chúa nói:
-         Chàng trai à, tối hôm qua anh làm ta thú vị, ta muốn được xem anh biểu diễn thêm tối hôm nay nữa.
Nàng sai mang đến một chiếc đàn tì bà đã lên dây sẵn, truyền cho tôi hãy chơi đàn. Tôi vâng lời, vừa đàn vừa hát lên những lời ca ngẫu hứng do tình yêu khi nhìn thấy công chúa gợi nên. Người ta lại lần lượt mang ra để tôi biểu diễn với các nhạc cụ y như tối hôm qua, và tôi lại được mọi người vỗ tay tán thưởng.
Sau đó đến chuyện trình diễn các vũ khúc. Tôi muốn tỏ ra vũ đạo là môn nghệ thuật tôi thành thạo nhất. Tôi nhảy nhiều kiểu, biểu diễn nhiều động tác mạnh mẽ, đôi khi phải quay mình uốn éo, đến nỗi cái bong bóng đội đầu mà hồi nãy tôi chưa kịp buộc cho chặt, bung ra rơi luôn xuống đất.
Trước cảnh tượng ấy, bọn cung nữ đều kêu lên một tiếng rõ lớn, còn nàng công chúa tỏ ra rất giận dữ. Nàng bảo tôi:
-         Anh chàng bạo gan kia, ta cứ ngờ anh là một người không có mưu đồ xấu. Mặc dù anh từng mang lại niềm vui cho chúng ta, chớ có vì vậy mà hy vọng ta tha thứ cho tội táo gan của anh.
Nói xong nàng lên tiếng gọi các hoạn nô. Chúng đến rất đông, đổ xô vào tôi, dẫn tôi ra khỏi phòng công chúa, đưa vào nhốt tại một căn buồng nhỏ, rồi sáng hôm sau dẫn đến tâu trình đức vua mọi chuyện.
Nhìn thấy tôi, đức vua quát:
-         Tên khốn kiếp kia, tại sao mày dám cải trang thành chú giúp việc làm vườn? Ý đồ của mày là gì? Mày định gây nên chuyện ô nhục trong nội cung của ta sao? Nhờ trời, sự phản trắc của mày đã bị phát hiện, mày phải chịu tội. Ta muốn cho mày biết thế nào là nhục. Mày sẽ bị giong đi khắp thành phố, đi trước mày sẽ có một tên mõ cầm loa rao cho mọi người rõ tội ác của mày, sau đó mày sẽ bị xả thân thành trăm nghìn mạnh Ta không cần hỏi mày là ai, dù mày sinh ra từ dòng giống nào cũng chẳng ích gì, cho dù người sinh ra mày là một nhà vua đi nữa, mày vẫn phải chết vì dám to gan lừa dối ta.
- Chưa phải chỉ có thế - nhà vua nói tiếp – ta còn muốn trừng trị thêm một tên khác nữa. Lão làm vườn phải chịu chung hình phạt với tên này. Chắc chắn lão ta đồng loã với nó trong vụ này.
Tôi muốn xin tha tội cho ông già làm vườn, ông ta chẳng có tội tình gì trong việc cải trang của tôi, song chẳng ai chịu nghe. Chúng tôi sắp bị giao cho đao phủ đưa đi bắt chịu tội, thì bỗng vị tể tướng đến cấp báo với nhà vua:
- Tâu bệ hạ, tôi vừa nghe được một tin không hay. Quốc vương nước Gazna, cách đây mười tháng có cho sứ thần đến cầu hôn công chúa mà không được ngài chấp nhận, vừa liên minh với quốc vương nước Canđaha. Hai nhà vua đã huy động tổng lực của họ, kéo quân đến xâm lăng bờ cõi nước ta. Đại quân của họ đã vượt qua sông Ôxut, hiện nay đang ở quãng giữa thành phố Xamacan và thành phố Bôcara.
Quốc vương nước Carim bàng hoàng được tin cấp báo, vua hỏi tể tướng:
- Ông Sham-en-Muluc à, ta phải tính sao đây trong tình huống này?
-  Tâu bệ hạ, ý kiến của tôi là – tể tướng đáp – chúng ta không được để mất thời gian, phải huy động ngay đội quân thường trực sẵn có trong tay, giao quyền chỉ huy cho một viên tướng đủ tài tiến quân về thành phố Xôt, tìm cách cầm chân đội quân đối phương lại, chờ cho đến khi ta huy động đủ viện binh đến sẽ mở cuộc phản công ở đấy để đẩy lui quân địch. Đồng chúng ta phải cầu xin trời đất phù hộ cho đất nước chúng ta. Tất cả các thánh đường phải mở cửa và thường xuyên cầu nguyện. Xin bệ hạ hãy truyền cho tất cả nhân dân kinh thành Carim phải cùng thực hiện nhịn ăn và trai giới trong nhiều ngày. Hãy ban của cải làm phúc, tha tội tất cả tù nhân đang bị giam cầm, cho dù trước đây chúng phạm những tội ác gì. Tôi hy vọng các việc làm tốt lành chúng ta thực hiện sẽ khiến trời đất cảm tấm lòng thành và cứu giúp chúng ta.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI HAI
 Bằng ý kiến ấy, tể tướng Sham-en-Muluc cứu cụ già làm vườn và tôi khỏi bị hành quyết. Nhà vua phán:
-         Ông nói chí lý, phù hợp với ý ta. Vậy ông hãy truyền cho tất cả quân đội ta lên đường ngay tức khắc và ta giao cho ông quyền chỉ huy cánh quân ấy. Ta sẽ cho lệnh tổng động binh, và chẳng bao lâu ông sẽ mau chóng có đầy đủ viện binh để đánh lui quân thù. Trong khi chờ đợi, mọi tín đồ phải đến các thánh đường đọc kinh cầu nguyện. Những người nghèo khó phải được làm phúc. Các tù nhân được tháo mọi xiềng xích và trả lại tự do. Ta cũng tha tội luôn cho hai tên thủ phạm ta vừa có lệnh gia hình. Ta tha cho chúng khỏi phải chịu tội chết.
Nhờ cách ấy, tôi thoát khỏi một cái chết nhục nhã. Ra khỏi hoàng cung, tôi trở về quán trọ, nơi vị phó sư của tôi đang tuyệt vọng đợi chờ. Ông vừa đi gặp ông cụ làm vườn về, và đã hay tin những việc không may xảy đến cho tôi. Ông tỏ ra rất ngạc nhiên khi gặp lại tôi. Tôi thuật cho ông nghe mọi chuyện. Thấy tôi vẫn giữ ý định cứ ở lại kinh đô Carim, tìm cách khác để lọt được vào trong nội cung nhìn mặt nàng công chúa, cho dù đã xảy ra việc vừa rồi, vị phó sư phục xuống dưới chân tôi và nói trong nước mắt:
- Hoàng tử thân yêu ơi, xin chớ lạm dụng lòng tốt của trời đất. Trời đã cho anh thoát khỏi một nỗi hiểm nghèo mà tình yêu đã đẩy ngài đến, xin ngài chớ dấn thân vào một cái chết nhục nhã khác. Hỡi ôi, nếu phụ vương ngài hay được những chuyện vừa xảy ra, ngài sẽ buồn rầu biết bao. Nói dại, ai biết điều gì rồi đây có thể xảy ra cho đức phụ vương, mà chỉ vì hành động bất cẩn của ngài hoàng tử! Xin ngài hãy tin lời tôi, hãy quên công chúa xứ Carim này đi, nàng không đáng cho người nghĩ tới nữa. Nàng có thương xót gì đa6u khi đưa ngài đến chỗ xuýt mất mạng. Trong tình huống ấy, ngài phải chán cô ta thì mới hợp đạo lý hơn. Ngài nên suy nghĩ theo lý trí. Xin ngài hãy đóai thương những giọt nước mắt và nỗi đớn đau của kẻ đang nói với ngài! Chúng ta hãy đi xa cái thành phố chết chóc này. Ngài hãy nhớ, đức quốc vương của chúng ta đã cao tuổi lắm rồi, có lẽ vào lúc này đây ngài đang sẵn sàng đi về thế giới bên kia. Chỉ có hoàng tử mới mang lại được niềm an ủi cho muôndân, ai ai cũng quý trọng ngài, ai ai cũng chờ đợi ngóng trông ngày ngài trở về với họ. Trước sự chờ mong của thần dân cả nước, ngài định đáp lại bằng cách xử sự như ngài vừa toan tính hay sao?
Vị phó sư làm cho tôi cũng mủi lòng. Ông còn nói thêm nhiều điều nữa. Tôi vội đáp:
-         Thôi, nói thế đủ rồi, ông Huxêin à. Xin ông chớ trách tôi sao yếu đuối. Tôi nghe lời ông. Chúng ta hãy ra đi. Vĩnh biệt nàng Rêzia! Vĩnh biệt nàng công chúa quá bất nhân! Mong sao vì sự độc ác của nàng, và cũng như với thời gian, ta sẽ quên được nàng!
Tôi vừa nói đến đấy, thì ông lão làm vườn bước vào quán trọ. Ông đến tìm bảo cho tôi biết ông đã bị đuổi khỏi công việc chăm sóc cây cối trong vườn ngự uyển. Tôi bảo ông:
-         Bởi tại tôi nên ông mất việc làm, vậy tôi phải bù đắp thiệt hại cho ông. Ông hãy theo về đất nước tôi, tôi sẽ giao cho ông một việc làm sáng giá hơn nhiều công việc ông đang làm ở đây.
-         Xin đa tạ ngài – ông lão đáp – Tôi sinh ra ở vùng Zagatai, tôi muốn chết ở vùng Zagatai. Tôi sẽ trở về chốn làng quê đã sinh ra tôi, với số tiền tôi đã kiếm được và với món quà ngài ban cho, tôi sẽ sống an nhàn ở quê hương.
Để cho cuộc sống của cụ già được dễ dàng hơn nữa, tôi biếu cho ông thêm nhiều ngọc ngà châu báu. Ông lão lui về hết sức hài lòng.
Tôi ra đi khỏi thành phố Carim ngay trong ngày hôm ấy. chúng tôi quay trở về thành phố Otra, gặp lại đoàn tuỳ tùng đang hết sức sốt ruột, cho dù chuyến đi của tôi vừa rồi chẳng mấy lâu. Tuyên bố mình muốn trở về nước Xiêcca ngay. Những người gốc Xiêcca tháp tùng tôi đến đây hết sức vui mừng khi nghe tin ấy bởi họ chẳng mong gì hơn được sớm gặp lại vợ con.
Tôi không nán lại thành phố Otra quá sáu ngày. Chúng tôi lên đường, tức tốc trở về kinh đô Astrakhan. Giữa đường bỗng gặp phải một phái viên của cha tôi. Phụ vương tin cho tôi hay ngài đang bệnh nặng. Người nghĩ mình chẳng còn sống được bao lâu nữa. Nếu tôi muốn được nhìn thấy người và ôm hôn người lần cuối, thì chớ nên chậm trễ.
Tin ấy làm tôi vô cùng lo lắng. Tôi khẩn cấp trở về kinh độ Nhưng hỡi ôi! Cho dù tôi vội vã đến bao nhiêu, kết quả vẫn đáng buồn. Tôi chỉ được nhìn cảnh làm tôi tan nát ruột gan, tôi chỉ được gặp phụ vương tôi lúc người sắp lâm chung. Tôi chạy vội đến bên giường người bệnh, cầm một bàn tay của người đưa lên môi hôn, bàn tay người đẫm nước mắt tôi rơi xuống “Hỡi cha ơi! Sao cha sớm bỏ con khi con vừa trở lại? Sao con không thể chết đi trước cảnh tượng này?”
Câu than khóc của tôi làm phụ vuơng tôi nhận ra và xúc động. Người ngước đôi mắt đã thất thần nhìn tôi, và cố gắng lấy hết chút sức tàn cuối cùng còn sót lại, người mở đôi vòng tay ôm tôi và nói: “Con ơi, vậy là con đã trở về. Cha chẳng còn mong gì hơn thế nữa! Cha hài lòng ra đi! Vĩnh biệt!”
Như thể thần chết cũng chỉ nấn ná chờ cho cha tôi kịp nói lời vĩnh biệt khi tôi trở về, nói xong phụ vương tôi trút hơi thở cuối cùng.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI BA.
Sau khi làm lễ tang trọng thể, tôi lên ngôi báu. Tôi cố gắng trị vì sao cho xứng đáng với sự đánh giá tốt lành và lòng kỳ vọng nhân dân đặt vào mình. Tôi may mắn thành công trong sứ mệnh ấy. Từ thời ấy cũng như cho đến bây giờ, dân chúng vẫn quý yêu tôi. Bởi lòng tôi chẳng có mong ước gì hơn được nhìn thấy nhân dân sống thanh bình hạnh phúc, ngày nào tôi cũng cố gắng sao cho mỗi ngày tôi trị vì đối với nhân dân là một ngày hội, ở đấy mọi người cùng nhau thưởng thức. Chính vì vậy không chỉ tổ chức vui chơi trong triều đình mà mở rộng ra toàn kinh đô nữa. Chẳng có nước nào nhân dân sảng khoái hơn ở nước tôi. Tôi rất hài lòng về tình trạng ấy. Và để khỏi làm vẩn đục niềm vui của mọi người, tôi cố sức che dấu nỗi phiền ưu của riêng mình. Tôi tin chắc, nếu tôi không giữ được thái độ vui tươi như từ trước tới nay tôi vẫn có, nếu tôi không chôn cho chặt nỗi đau sâu xa của mình, thì tại kinh đô này sẽ không còn bầu không khí tươi vui hội hè nữa, thay vào đó là ưu phiền trùm toả khắp nơi.
Một thời gian sau khi lên ngôi, tôi cảm nhận mình vẫn chưa quên được nàng Rêzia. Quả thật, việc phụ vương tôi băng hà, quá bận rộn về lễ tang, và sau đó mải mê chăm lo công việc đất nước, đã khiến tôi tạm thời không còn thời gian để nghĩ tới tình yêu của mình. Nhưng nó không vì vậy mà giảm đi, ngược lại còn nung nấu mạnh mẽ hơn. Tôi tâm sự với ông Huxêin về việc ấy. Ông khuyên:
- Tâu bệ hạ, bây giờ ngài đã là vị quân vương có đủ tư cách tìm người làm hoàng hậu một cách đàng hoàng, tôi nghĩ ngài nên phái một sứ thần sang nước Carim để cầu hôn công chúa nứơc ấy. Để vị quốc vương bên ấy dễ thuận tình, ngài nên hứa sẽ chi viện cho ông đủ sức đánh lui kẻ thù.
Tôi làm theo lời khuyên. Tôi còn phong chính ông Huxêin làm sứ thần đảm đương trọng trách ấy. Ông lên đường cùng một đoàn tuỳ tùng trọng thể, mang theo nhiều vật phẩm quý giá, cùng một bức thư gửi quốc vương trong đó tự tay tôi viết như sau:
Cầu xin Thượng đế phù hộ quốc vương nước Carim vạn thọ vô cương! Ngài là bậc quân vương được trời giao phó cho sứ mệnh cao cả nhất, chinh phục thế giới và trị vì đất nước rộng lớn hùng cường. Cầu mong quốc gia ngài đời đời thịnh vượng và chẳng bao giờ bị quân thù ganh tỵ dòm ngó biên cương!
Tôi xin ngài rõ cho, lòng tôi cầu mong được liên minh với ngài nếu ngài vui lòng cho công chúa Rêzia, con gái của ngài, được trở thành hôn thê chính thức của tôi. Và đương nhiên ngài vốn đã có đội quân bách chiến bách thắng của mình để đánh bại mọi quân thù nếu chúng dám cả gan gây hấn, tôi xin sẵn sàng đặt toàn bộ quân đội nước Xiêcca và quân đội các nước đồng minh của tôi phục vụ ngài, trong trường hợp ngài cần đến.
Xin kính chào.
Tôi tưởng chẳng cần thưa để ngài rõ tôi nôn nóng chờ đợi hồi âm như thế nào, hẳn ngài đã có thể tự mình hình dung. Sau một thời gian bồn chồn, tôi gặp lại ông Huxêin làm xong nhiệm vụ trở về. Ông cho biết nhà vua nước Carim đã đón tiếp sứ bộ của ông rất nhiệt thành và trọng thị, song khuyên tôi nên từ bỏ hy vọng có thể cưới nàng Rêzia làm hoàng hậu.
- Tại sao? Tại sao ta phải từ bỏ hy vọng ấy? – Tôi bồn chồn hỏi.
- Tâu bệ hạ, - vị sư phó của tôi đáp - bởi nàng đã đính hôn với quốc vương nước Gazna. Nhà vua này đã đánh tan nhiều đạo quân của nước Carim ra nghênh chiến. Vua nước Carim, để giữ vẹn toàn lãnh thổ và lập lại hoà bình, đành nhận lời gả nàng công chúa ấy cho vua Gazna. Và bởi vua Gazna mang quân gây chiến cũng chỉ nhằm mục đích lấy được nàng công chúa Rêzia mà thôi, hai nhà vua ấy đã bắt tay hoà hiếu với nhau. Thành thử đã có sự thoả thuận, hai ngày sau khi tôi rời khỏi kinh đô Carim, sẽ làm lễ vu quy cho công chúa.
Suýt chút nữa thì tôi trở thành người mất trí khi nghe tin ấy. Tôi nói năng lảm nhảm đến nỗi ông Huxêin lo rồi tôi hoá điên mất. Không chỉ có buồn rầu, tôi đổ bệnh. Chẳng hiểu sao tôi gượng dậy đựơc sau cơn bệnh, bởi trong thời gian đau yếu, đầu tôi lúc nào cũng bị ám ảnh một điều tưởng khó làm cho tôi bình phục.
Tuy nhiên, nếu sức khoẻ phục hồi, thì trái tim tôi luôn rớm máu. Tôi không còn thanh thản nữa. Trong đầu óc tôi luôn luôn hiện diện hình ảnh công chúa Rezia. Đêm đêm, tôi tưởng tượng lúc này nàng đang nằm trong vòng tay ôm ấp của chồng, và thế là giấc ngủ của tôi chẳng bao giờ ngon giấc. Ông Huxêin hy vọng nếu gặp một người đẹp nào đó vừa ý, may ra người ấy có thể lấp và chỗ trống trong lòng tôi, ông ra công tìm kiếm nhiều cung nữ thật xinh tươi. Cung tôi đầy tràn giai nhân từ tứ xứ đến. Hoài công vô ích! Ông sư phó của tôi đã hết lòng tìm kiếm người đẹp, không một cô nào có thể xoá nhoà trong tôi hình ảnh nàng Rêzia – Begum.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI TƯ
Trong thời gian ông Huxêin chạy vạy tìm kiếm cung nhân cho tôi như vậy, thì một hôm quan tể tướng đến báo cho tôi hay, ở ngoài cổng thành Astrakhan vừa xuất hiện những nhà tắm công cộng thật lộng lẫy. Ông nói:
- Nước trong bể tắm lúc nào cũng trong, các cột nhà xây bằng cẩm thạch quý, các bể thì rực rỡ vô cùng. Nhân dân cả kinh thành đổ về xem như xem hội. Điều kỳ lạ là chẳng ai nhìn thấy nhà tắm ấy được xây dựng nên lúc nào. Bỗng chốc thấy nó hiện lên hoàn hảo như vậy. Đấy là tất cả những gì người ta được biết.
Nghe tâu, tôi cũng lấy làm lạ, tự mình muốn nhìn tận mắt một cảnh có thể do sự thần kỳ mà có. Tôi cùng với tể tướng vi hành đến nhà tắm ấy. Sau khi xem xong kiến trúc cũng như cách trang hoàng lộng lẫy, tôi càng ngạc nhiên hơn. Ngoài việc cái gì cũng sạch sẽ ngăn nắp, tôi để ý thấy các cậu phục vụ ở đây cậu nào cũng bảnh trai, ăn mặc tử tế, và điều kỳ lạ hơn nữa chú nào nom cũng giống hệt chú nào, chẳng sao phân biệt được ai với ai.

Chủ nhà tắm là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, mặt mũi sáng sủa, luôn luôn trông nom việc phục dịch cho được tốt. Sau khi tắm xong, khách được mời uống rượu ngọt thật tuyệt vời, ra về ai cũng mãn nguyện. Khi trở về triều, tôi nói chuyện với các triều thần về khu nhà tắm, hóa ra mọi người đều đã tới đấy rồi. Tôi hỏi họ nghĩ thế nào về chuyện ấy. Không hài lòng về bất cứ câu trả lời nào, tôi sai đi mời người đã xây nên ngôi nhà ấy, định trò chuyện riêng với ông ta. Tôi sai ông Huxein thay mặt tôi đến gặp người ấy, bảo đối xử với ông cho đàng hoàng, rồi tìm cách mời ông ấy đến gặp tôi.
Vị sư phó Huxein thi hành lệnh vua thật mẫn cán. Chẳng mấy lâu sau, ông đã trở về cùng với người trông nom nhà tắm. Ông ấy phủ phục dưới chân tôi. Tôi đỡ ông đứng lên, chào hỏi lịch sự.
Ông khách thú vị về sự đón tiếp huy hoàng của nhà vua, bắt đầu lên tiếng ngợi ca, ông ta nói năng hùng biện tới mức làm cho tôi cũng như tất cả triều thần đều khâm phục. Tôi thích thú nghe ông ấy nói, tới mức quên khuấy đi lý do tại sao cho mời ông ta tới đây.
Tuy nhiên rồi cũng sực nhớ, tôi hỏi ông:
- Thưa vị đại triết gia, chẳng khó khăn gì nhận thấy ông đúng là một người học rộng biết nhiều, ta có một lời yêu cầu đối với ông. Xin ông vui lòng nói cho chân thành, chớ nên giấu giếm điều gì. Bằng cách nào ông xây dựng nên khu nhà tắm tuyệt vời như vậy? làm sao ông cho dựng nên một công trình tráng lệ đến thế ngoài cổng kinh thành Astrakhan chẳng một ai để ý?
Ông đáp:
- Muôn tâu bệ hạ, tôi có bốn mươi tay thợ, tất cả đều khéo léo, đều thạo tay nghề, chẳng ai kém ai. Những người thợ ấy đều câm, nhưng lại nghe rõ những điều người ta bảo. Thậm chí khi muốn họ thực hiện công việc gì, họ sẽ thực hiện xong ngay trong chốc lát.
Tôi quá muốn xem sự thật thế nào, chứ không bằng lòng chỉ nghe nói. Tôi sai đi tìm những người thợ ấy. Hóa ra đấy chính là các cậu phục vụ trong nhà tắm. Ngạc nhiên sao họ giống nhau như đúc, tôi hỏi người chủ nhà tắm đấy có phải là anh em ruột thịt hay không, ông đáp:
- Đúng vậy, tâu bệ hạ. Hơn nữa, tôi có thể quả quyết họ đều cùng một mẹ sinh ra. Bệ hạ cần sai bảo họ làm việc gì xin cứ truyền. Tuy nhiên, xin bệ hạ cho mọi người lui hết ra ngoài, chỉ có ngài và tôi chứng kiến cảnh ấy mà thôi.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI LĂM
Các triều thần nghe vị triết gia nói vậy, tất cả đều lui ra ngoài, không đợi tôi truyền. Chỉ còn lại người chủ nhà tắm và tôi cùng bốn chục chú nô lệ. Sau khi suy nghĩ nên truyền họ làm gì, tôi ngỏ ý muốn họ xây khu nhà tắm ngay tại hoàng cung.
Tôi vừa thầm ngỏ với họ ý muốn của mình, lập tức tất cả bốn chục người biến mất. Lát sau, họ quay trở lại mang theo đá cẩm thạch đủ màu sắc và tất cả những vật liệu cần thiết cho việc xây dựng. Rồi bắt tay vào việc. Tôi nhìn họ làm, chưa kịp chán mắt thì công việc đã hầu như xong. Trong khi những người này làm công việc với nhịp độ phi thường thì những người kia lại đi ra ngoài, tìm kiếm vật liệu và mang về ùn ùn, một cách cực kỳ nhanh chóng. Tóm lại, chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, khu nhà tắm đã xây xong. Không có ngôi nhà nào lộng lẫy hơn hoàn hảo hơn. Nhà chính có mười hai cột đỡ bằng đá văn thạch, bóng lộn đến mức có thể soi gương. Nhiều vòi nước xả nước trong veo ào ào đổ vào các bể bằng cẩm thạch trắng.
Ngạc nhiên trước những điều trông thấy và về kiến thức của vị triết gia, tôi ngỏ lời nhờ ông giải thích cho nghe, bằng cách nào các sự việc diễn ra nhanh chóng như vậy. Ông đáp:
- Tâu bệ hạ, nếu giải thích hết thì dài dòng lắm. Tôi chỉ xin phép được tâu bệ hạ, tôi am tường ba mươi chín môn khoa học tất thảy.
Những lời nói ấy của vị bác học càng làm tôi ngạc nhiên thêm. Tôi muốn có một con người vĩ đại như vậy gần gũi bên cạnh mình.Tôi khuyến dụ ông, hỏi ông là người nước nào, quý tính quý danh là gì. Ông đáp:
- Tôi vốn là người gốc ở địa hạt Bocara. Tên tôi là Avixen. Nếu bệ hạ muốn nghe câu chuyện đời tôi, tôi sẵn sàng thuật lại hầu ngài.
Tôi nói tôi sẽ lấy làm thú vị lắm. Thế là ông bắt đầu kể như sau.
Chương 19: Chuyện nhà bác học Avixen
Tôi sinh ra tại một thị trần gọi là Absana. Tôi hầu như vừa lớn lên qua khỏi tuổi nằm nôi, cha mẹ tôi đã gửi đến thành phố Bocara cho theo học các trường học ở đấy. Bắt đầu tôi học Kinh Coran. Vì cũng có năng khiếu về văn chương, năm lên mười tôi đã thuộc hết bộ thánh kinh ấy. Sau đấy tôi được dạy số học, đọc các tác phẩm của Ơclit, rồi chuyển sang các môn toán học. Tôi cũng nghiên cứu triết học, y học và thần học.
Tôi đạt khá nhiều tiến bộ khi đi sâu vào các môn khoa học ấy, thành thử chỉ trong một thời gian ngắn tôi rất nổi tiếng. Chưa tới hai mươi tuổi, tên tuổi tôi đã lừng lẫy từ bờ vịnh Ba Tư đến cửa sông Ấn.
Một hôm cha tôi đến kinh đô Xamacan có công việc gì đấy, tôi theo ông đến thành phố ấy. Nhân vào tham quan trong triều, tôi gặp ở đấy nhiều người quen, họ khen ngợi tôi không tiếc lời. Những lời khen ấy đến tai tể tướng, ông ngỏ ý muốn gặp riêng tôi. Sau buổi chuyện trò, ông mời tôi ở lại luôn kinh thành Xamacan để gần gũi với ông. Tôi đồng ý. Tôi có nhiều ảnh hưởng đối với tể tướng, tới mức ông không ra quyết định nào không tham khảo ý kiến của tôi.
Vị tể tướng ấy không thọ được lâu. Song ông qua đời, tôi không mất đi một người tôi rất yêu quý, mà sự nghiệp của tôi còn rực rỡ hơn. Quốc vương nước ấy quý tôi không khác gì quý vị đại thần quá cố. Tôi được giao nhiều quyền hành. Một thời gian sau, bởi sau khi vị tể tướng từ trần vẫn chưa có ai giữ trọng trách ấy, nhà cua ngỏ ý giao luôn cho tôi đảm nhiệm, tôi chấp nhận.
Chú thích:
(*) Avixen là tên một nhà bác học nổi tiếng trong nền văn hoá A rập Hồi giáo. Ông người gốc Ba Tư, tên đầy đủ là Abu Alf Huxyin Ibn Abđalala Ibn Sinâ (980 – 1037). Là thầy thuốc, triết gia và nhà thần học rất được kính trọng, ông có nhiều trước tác về y học thực hành, triết học, nghiên cứu thần học còn lưu lại nhày nay. Dĩ nhiên truyện dưới đây chỉ là một trong nhiều huyền thoại lưu truyền trong dân gian về một con người có thực (PQ).
NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI SÁU
Tuy phải làm nhiệm vụ một vị đại thần đứng đầu triều, tôi vẫn cố sắp xếp thời gian để nghiên cứu. Nhưng cho dù rất ham học tập, cũng chỉ có thể thu xếp được có mấy tiếng đồng hồ một ngày. Vì vậy tôi quyết định từ bỏ công việc triều chính. Tôi năn nỉ mãi mới được quốc vương chấp nhận, bởi vua rất hài lòng với công vụ của tôi. Vua không cố ép để tôi phải giữ nguyên chức vụ, song ông nói chỉ bằng lòng cho tôi miễn nhiệm với điều kiện không rời khỏi triều đình vua để đi nơi khác.
Bản thân tôi cũng không muốn đi xa khỏi triều đình. Tôi vốn quý trọng nhà vua ấy, hơn nữa quá cảm kích bao nhiêu ân huệ vua ban, cho nên dù rất ham mê nghiên cứu, tôi vẫn không lui về cảnh sống cô đơn ẩn dật chỉ vùi đầu vào sách. Vậy là tôi vẫn ở lại triều đình, song nhường dinh tể tướng cho người kế vị. Tôi chuyển sang ở một ngôi nhà khác cũng trong khuôn viên hoàng cung, sống ở ngôi nhà ấy gần như một vị quan hưu trí. Tôi chia thời gian của mình thành hai phần: nghiên cứu và gặp gỡ đàm đạo với nhà vua.
Không chỉ đọc sách, tôi còn viết nhiều tác phẩm, một số bằng thơ, một số bằng văn xuôi. Tôi khác với một số các nhà bác học chẳng để lại lại ích cho đời, chỉ biết đam mê đọc sách, nhồi nhét vào đầu đủ mọi thứ kiến thức để rồi chết đi mà không lưu lại cái gì khiến cho công chúng gặt hái thành quả nhờ những hiểu biết của mình. Cứ mỗi lần suy ngẫm được những điều sâu sắc thì tôi diễn giải ngay thành tác phẩm để chia sẻ với mọi người. Tôi đã trước tác gần một trăm cuốn sách đề cập nhiều môn học. Các tác phẩm ấy được người đời cho xứng đáng được gọi là Những trước tác vinh quang.
Tôi cũng có quan tâm, nghiên cứu môn hoá học và môn khoa học bí huyền, theo đó có thể cắt nghĩa mọi hiện tượng biến hoá trong tự nhiên. Hồi ấy tôi đã là một nhà pháp truyền danh tiếng. Chợt một hôm có sứ thần của vua Cubêtdin, quốc vương xứ Catga đột ngột đến kinh thành Xamacan. Người ta đàm đạo khá nhiều về chuyến đi sứ ấy. Người thì bảo sứ thần đến để tuyên chiến với nước Xamacan, người thì cho sứ thần có sứ mệnh đề nghị nước Xamacan liên minh với nước Catga. Chẳng ai rõ sự thật.
Sứ thần được tiếp kiến. Sau khi trình quốc thư, ông làm mọi người khá ngạc nhiên khi tâu với vua Xamacan như sau:
- Tâu bệ hạ, quốc vương Cubếtdin chúa tể  của tôi, một hôm trong một bữa dùng cơm thân mật nói chuyện với một số đại thần về các bậc triết gia thời cổ. Vua hỏi họ, không biết trên đời này còn có ai thông thái như các bậc hiền triết Hipocrat thời cổ đại hay không. Một vị đại thần tâu, có nhiều thương gia nước ngoài vừa mới đến kinh đô Catga; họ là những người từng rong ruổi khắp năm châu bốn bể, có thể họ rõ ngày nay ở đâu có các nhà thông thái. Thế là quốc vương chúng tôi cho mời các thương nhân ấy đến. Họ cho biết ở triều đình Xamacan hiện có hai vị triết gia lừng danh không ai không ngợi ca tài trí. Một vị quý danh là Avixen, vị kia là Fazen Asfahani. Các thương nhân nói hai vị hiền triết ấy am tường mọi bí quyết của tự nhiên, bản thân các thương gia ấy đã có dịp được nhìn thấy hai vị thực hiện nhiều việc lạ kỳ.
Các thương gia ấy ngợi ca nhài Avixen và ngài Fazen ấy không tiếc lời, quốc vương chúng tôi có ý muốn xin bệ hạ cho chúng tôi mời họ sang nước chúng tôi một thời gian. Quốc vương chúng tôi thiết tha muốn được gặp mặt cả hai vị cùng một lúc. Quốc vương chúng tôi xin bệ hạ vui lòng để hai vị ra đi. Đức vua nước tôi muốn được nghe các vị ấy trình bày và phán đoán xem các vị ấy hiểu biết sâu rộng đến đâu. Chả là quốc vương Cubêtdin chúng tôi cũng là một nhà vua rất thông tuệ, ngài đã học qua tất cả các môn khoa học.
Sứ thần trình bày như vậy, quốc vương Xamacan liền cho người vời cả ông Fazen và tôi cùng đến, và nói như sau:
- Đức vua nước Catga có nhã ý muốn đàm đạo với hai vị. Ta nghĩ không thể không đáp ứng mong muốn của quốc vương nước ấy.
Ông Fazen đáp ngay:
- Tâu bệ hạ, ngài cứ phán, nhiệm vụ chúng tôi là tuân hành. Về phần mình, ngài bảo cần làm gì, tôi làm theo như ý của ngài.
Thấy tôi vẫn lặng im, quốc vương hiểu tôi chẳng thích thú mấy việc ra đi, liền nói:
- Ông Avixen à,  ta thấy ông không đáp. Hình như chuyến đi này khiến ông không thoải mái lắm.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI BẢY.
Tôi đáp quả thực tôi cảm thấy ngại ngùng không thích lắm công việc người khác đòi tôi phải làm. Nghe vậy Fazen Asfahani nói, nếu chúng tôi khước từ, quốc vương Cubêtdin sẽ đi đến kết luận không hay, nhà vua ấy sẽ nghĩ chúng ta chẳng giỏi giang như người đời đồn đại. Hơn nữa các vị quân vương là người tạo nên danh vọng cho chúng ta. Nếu họ có ý làm hại, họ sẽ viết thư ra nước ngoài nói về chúng ta những điều bất lợi. Vì vậy để bảo toàn quang vinh, chúng ta nên tuân thủ ý muốn của quốc vương nước Catga.
Lời Fazen khiến tôi nổi nóng. Tôi bảo ông:
- Ông quả thực có một nỗi lo lố bịch đối với một triết gia. Này, tôi xin hỏi, làm sao các vị quân vương có thể làm hại một con người nắm vững các môn khoa học như tôi đây? Ông nên biết, sở dĩ tôi lưu lại triều đình này, bởi tôi quý đức vua. Không có tình thân hữu thể hiện dưới muôn vàn ân huệ của đức vua, thì tôi đã đến một nơi nào khác trên trái đất, sống trong sự độc lập hoàn toàn từ lâu lắm rồi. Đối với ông là người chưa cao hơn số mệnh, ông cần có sự bảo hộ của các vị quân vương, ông nên sang bên nước ấy ăn ở cho vừa lòng vua Canđaha. Một khi nhà vua ấy chưa hài lòng về kiến thức của ông, ít ra cũng hài lòng về thái độ ông muốn làm vừa ý mình, chắc chắn ông ấy sẽ viết thư ra nước ngoài loan truyền những điều có lợi cho ông.
Tôi nhìn thấy rõ câu nói vừa rồi của tôi làm cho ánh mắt Fazen loé lên một cơn giận dữ, khó khăn lắm ông mới kiềm chế nổi. Quốc vương Xamacan cũng nhận thấy điều đó. Vua không muốn để cho lời qua tiếng lại giữa hai chúng tôi biến thành một cuộc tranh cãi, liền nói với tôi:
- Ông Avinxen à, ta mong ông chiều lòng mọi người. Đức vua nước Catga có mong muốn được gặp ông, là một người đầy tài năng, giỏi các môn khoa học và quý các bậc thông thái. Vua có sở nguyện được đàm đạo với ông. Nếu chúng ta cho sứ thần lui về với lời khước từ thì thật là không phải. Ta không dám chê trách lòng tự hào của ông, do những kiến thức hiếm có mang lại. Tuy nhiên, xin ông hãy suy nghĩ, các bậc quân vương cũng đáng để người khác có ít nhiều trọng thị đối với họ chứ. Ông hãy nghe lời ta, hãy sang bên triều đình vua Cubêtdin. Ông sẽ lưu lại đấy một thời gian rồi lại trở về đây với chúng ta, nếu ông còn giữ được những tình cảm tốt đẹp đối với ta như lời ông vừa biểu lộ.
- Tâu hoàng thượng đầy quyền uy, - tôi đáp lời vua Xamacan - bởi ngài đã ngỏ ý, muốn tôi đi đến nước Catga, như vậy sẽ làm vui lòng ngài, thì tôi đâu còn dám khước từ. Tôi sẵn sàng lên đường. Đối với tôi, ngài có đầy đủ quyến uy như đối với một nô lệ. Nếu ngài cần, tôi sẵn sàng xả thân.
Nhà vua tỏ ra cảm kích về sự trọng thị của tôi đối với ông. Vua sai ban cho sứ thần nước Catga một chiếc áo thêu vàng, và khẳng định ông Fazen và tôi sẽ mau chóng lên đường ngày một ngày hai, nhờ sứ thần trở về tâu như vậy để quốc vương Cubêtdin rõ.
Fazen Asfahani là một người trạc tuổi tôi. Đúng ông là một con người thông thái, tuy nhiên các thương gia khi giới thiệu với nhà vua xứ Catga, cũng có khen ông hơi quá lời. Mấy ngày trước khi chúng tôi cùng khởi hành, vị triết gia đến gặp tôi và nói:
- Thưa ngài Avixen lừng danh, người đời cho chúng ta là những nhà bác học hoàn hảo, tôi nghĩ chúng ta không nên du hành như những người bình thường. Chúng ta phải làm một việc gì đó khác thường. Ngài có muốn chúng ta cùng nhau thực hiện chuyến đi này đến nước Catga không cần ăn uống dọc đường hay không? Cho dù chuyến đi cũng hơi dài ngày đấy, tôi nghĩ điều tôi vừa đề nghị chẳng khó khăn gì đối với một bậc đại thông thái như ngài. Như vậy chúng ta chỉ cần chuẩn bị thực phẩm cho bọn người theo hầu đủ dùng trong suốt chuyến đi, còn chúng ta sẽ thực hiện nhịn ăn nhịn uống. Bọn người hầu ấy sẽ là những chứng nhân chuẩn xác nhất cho việc ấy. Khi đến kinh thành Catga, chúng sẽ loan truyền cho mọi người rõ, và sẽ mang lại vinh quang lớn cho chúng ta.
Ông Fazen sở dĩ đề nghị với tôi như vậy vì ông ấy nắm được thuật luyện linh đan, mỗi ngày chỉ cần ngậm một viên linh đan, đủ nuôi sống hoàn toàn một con người to lớn khoẻ mạnh. Nếu chuẩn bị và mang theo vừa đủ để dùng mỗi ngày một viên, thì chắc chắn không phải lo đói khát dọc đường. Ông Fazen nghĩ, tôi sẽ không thể không chấp nhận đề nghị của ông, bởi làm như vậy sẽ tỏ ra mình là người kém tài so với ông ấy. Vì vậy ông bảo sẽ chờ thêm năm hoặc sáu ngày sẽ lên đường. Tuy nhiên, tôi chẳng chút bối rối như ông ấy nghĩ, tôi đồng ý ngay sẽ cùng du hành theo cung cách ấy. Tôi luyện một loại thần dược củng cố khả năng nuôi sống con người giống hệt các viên linh đan của ông ta. Vậy là hai bên chẳng ai ngỏ cho người kia biết mình chuẩn bị thứ gì, chúng tôi giã từ Xamacan lên đường tới Catga.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI TÁM

Ba bốn ngày đầu, chúng tôi đều đàng hoàng, chẳng ai cần ăn uống gì sất, trong lúc đi đường. Thần dược của tôi cũng như linh đan của ông đều tỏ ra vô cùng hiệu nghiệm. Hai người, ai nấy đầy tự tin. Thỉnh thoảng tôi quan sát ông ta để xem người ông có dấu hiệu gì đổi khác hay không. Ông cũng hay nhìn ngó để ý đến tôi, bởi chính vì lý do ấy. Về phần mình, cơ thể tôi không suy nhược đi, mà còn tỏ ra mỗi ngày một cường tráng hơn. Nhưng ông bạn đại thông thái của tôi không được như vậy. Ông ta đánh rơi mất các linh đan. Người ông ta trở nên mơ màng, buồn bã, mặt mũi ông ta mỗi ngày một xanh tái, làm tôi hiểu sự tình không ổn rồi. Nhưng ông giấu nhẹm điều bất hạnh xảy ra, ông cố gắng kiên nhẫn chịu đựng, và vì vậy mỗi ngày một thêm suy nhược. Thấy tình cảnh ông thảm thương quá, tôi mời ông dùng thần dược của tôi, song ông khước từ. Ông thà chịu chết còn hơn phải thú nhận mình cần có sự cứu giúp của người khác.
Tôi hết sức xúc động trước vịêc ông Fazen qua đời. Tôi khóc thương ông thật lòng. Với sự trợ giúp của những người theo hầu, tôi an tán ông trên dãy núi Botom. Trong số những người giúp việc có một anh rất được ông Fazen tin cậy. Anh ta nói cho tôi biết sư phụ anh có luyện linh đan. Chúng tôi lục tìm các túi trong bộ quần áo ông mặc, không thấy đâu chúng tôi nghĩ chắc ông đánh rơi mất dọc đường.
Sau khi làm lễ tang trọng thể cho ông Fazen, với những nghi thức tốt nhất có thể trong hoàn cành ấy, tôi mang tất cả số tiền bạc vua Xamacan đã ban cho ông Fazen và tôi để nuôi những người nô lệ theo hầu trong thời gian sẽ lưu lại kinh thành vua Catga, chia đều cho mọi người, sau đó tôi tuyên bố cho tất cả trở thành những người tự do. Tôi nói với họ:
- Các anh ai muốn đi đâu thì đi, tuỳ ý thích. Hãy để tôi lại một mình giữa vùng núi non này. Tôi không cần đến các anh nữa.
Những người giúp việc, một số đi về nước Tocarestan, một số khác sang xứ Fergan, những người còn lại vượt qua dãy núi Imaut, váo đất nước Tuôckhen.
Chờ cho tất cả đi khỏi rồi, tôi nán lại hồi lâu bên ngôi mộ của Fazen Asfahani, vừa khóc thương cho số phận không may của nhà triết gia ấy, vừa chê trách ông đã quá khinh suất và kiêu căng. Tiếp đó tôi suy nghĩ nên làm gì bây giờ. Tôi không muốn tiếp tục đi về nước Catga nữa, cũng không trở lại Xamacan. Tôi quyết định một thân một mình đi chu du khắp thế giới. Tôi đi đến xứ Uzcun, từ đó sang thành phố Côgien, rồi từ đấy thẳng theo con đường có sẵn quen thuộc với mọi người, sau nhiều ngày đường, tôi đến kinh đô nước Carim.
Tôi đang đi dạo thăm thành phố lớn ấy, chợt nghe tiếng ồn ào, rồi thấy nhân dân nhiều người có vẻ náo động. Những người buôn bán nhỏ và thợ thủ công đóng cửa hiệu, hoà vào dòng người đang nói chuyện ồn ào, như thể có một sự kiện trọng đại nào vừa xảy ra hoặc đang diễn ra ngay lúc này. Hoá ra nguyên nhân gây nên là do một người loan tin, anh này mỗi lần thành phố có sự kiện gì cần công bố cho toàn thể mọi người đựơc rõ thì có nhiệm vụ vác loa đi rao khắp các phố phường. Hôm ấy, cứ cách chừng mười lăm phút, lại nghe tiếng người ấy rao một lần ở phố này hoặc phố nọ. Hỡi những ai yêu thích các môn khoa học, xin thông báo để quý ngài được rõ, mai là ngày vào hang.Vừa nghe tiếng rao, tôi quyết định đi theo sát người loan tin, để có cuộc chuyện trò riêng với anh về cái hang ấy. Đến cuối ngày tôi mới tiếp cận được anh ta, lúc anh xong việc sắp trở về nhà. Tôi chào hỏi anh lịch sự, và xin anh vui lòng cho biết cái hang ngày mai các nhà thông thái sẽ vào trong ấy có cái gì.
Người loan tin ngờ tôi là một nhà tu hành, liền đáp:
- Thưa thầy, ở bên ngoài thành phố này, về hướng biển Caspi, có một dãy núi gọi là Hồng Sơn, bởi quanh năm dãy núi ấy phủ toàn hoa hồng. Dưới chân dãy núi ấy có một cái hang khá rộng, từ ngoài có thể vào hang qua bốn cổng. Do chịu phép thần thông, bốn cánh cổng ấy tự mở ra và tự đóng lại vào một ngày đầu năm. Những người hiếu kỳ đến chờ ở cửa hang để vào ngay khi trời rạng sáng, lúc các ngôi sao trên bầu trời vừa tắt. Trong hang đá có vô vàn nào sách là sách, ai muốn chọn cuốn nào mang về nhà đọc, tha hồ chọn. Có điều phải mang sách và ra khỏi hang nhanh nhanh lên, bởi chỉ sau khoảng mười lăm phút hoặc nửa giờ tính từ lúc cổng hang mở ra, thì nó sẽ tự động đóng lại. Nếu một nhà bác học nào đấy quá say sưa chọn sách, không để ý đến thời gian và cứ nấn ná trong hang – việc này thỉnh thoảng cũng có xảy ra – thì rồi sẽ chết đói trong ấy, bởi phải chờ đúng một năm sau cổng hang mới lại mở ra.
Theo như lưu truyền, - người loan tin nói tiếp – chính nhà hiền triết Chehabetdin đã cho đào nên cái hang này để chứa các kinh sách của ông ấy – kể cả những cuốn do ông trước tác và những cuốn ông thu thập được từ khắp nơi trên thế giới. Suốt cả cuộc đời ông, nhất là những năm cuối đời, ông không tiếc công sức bỏ ra thu thập kinh, sách. Và kết quả công cuộc ấy là ông đã tích được hơn hai mươi ngàn cuốn sách riêng về cách luyện đá thành vàng, về các phương pháp tìm kiếm và phát hiện các kho tàng dưới đất. Lại có những cuốn sách dạy làm những việc kỳ diệu, như biến dạng một con người trở thành một con thú, hoặc là phả cho cây cỏ trở thành vật có hồn, nói tóm lại mọi bí quyết của đất trời đều được ghi chép lại trong một số cuốn sách nào đó, đặc biệt trong những cuốn do chính Chehabetdin biên soạn.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM BA MƯƠI CHÍN
Tôi chăm chú theo dõi những điều người loan tin trình bày. Người ấy còn cho biết thêm, để bảo đảm an toàn cho kho sách quý báu lưu trữ trong hang đá, nhà hiền triết Chehabetdin đã yểm bùa bốn cánh cổng, vì vậy cho dù chỉ làm bẳng gỗ trầm hương bình thường, không ai có cách nào mở ra hoặc phá vỡ, cho dù với tài năng hoặc sức lực nào.
- Sự thận trọng ấy xem chừng chẳng cấn thiết lắm – tôi nói – bởi tất cả mọi người ai cũng vào được trong hang và tự do chọn sách ra cơ mà, người ta có thể lấy đi hết. Tôi ngạc nhiên sao cho đến nay tình trạng ấy vẫn chưa xảy ra.
- Thầy rất có lý khi nghĩ vậy, thưa thầy, - người loan tin mỉm cười đáp – bởi tôi chưa thưa thầy rõ, những người lấy sách trong hang mang về nhà bắt buộc sang năm sau phải mang đến trả lại chỗ cũ. Quên việc ấy đi ắt gặp chuyện không hay đấy. Có những thần linh chuyên lo việc giữ gìn thư khố ấy. Người nào đãng trí quên thì sẽ bị các thần linh ấy quấy rầy không yên, thậm chí có một vài người có lòng tham lam muốn giữ sách làm của riêng, đã phải đền bằng mạng sống của mình.
Biết rõ tất cả những điều vừa nghe, tôi cảm ơn người loan tin và xin cáo từ. Rất hài lòng về những chi tiết trên, tôi nảy ra ý sáng mai sẽ đi vào trong hang sách cùng với những người hiếu kỳ ở thành phố. Hơn thế, tôi còn quyết định sẽ ở luôn trong hang sau khi mọi người ra khỏi, cho dù sao đó có việc gì xảy ra. Tôi đã am tường khá sâu pháp thuật, chẳng có gì phải lo ngại nếu gặp các thần linh.
Ngay lập tức tôi ra khỏi kinh thánh Carim, đi theo hướng về bờ biển Caspi. Đến chân núi Hồng Sơn, tôi nhìn thấy bốn cái cổng làm bằng gỗ trầm hương đúng như anh loan tin cho biết, trên các cánh cổng có chạm hình các linh thú, đấy chính là nơi bùa thần được yểm.
Tôi trèo lên núi, nằm nghĩ giữa sườn núi hồng toả hương thơm nhè nhẹ. Tôi nôn nóng muốn mau chóng được vào trong hang, thành thử đêm hôm ấy không sao ngũ yên giấc. Cuối cùng trời rạng sáng. Từ phía thành phố đã có rất đông người kéo ra. Nghe tiếng chân họ rậm rịch, tôi vội suống núi, để mình khỏi là người cuối cùng lọt được vào hang.
Các ngôi sao trên trời vừa lặn, thì đột nhiên bốn cánh cổng ở bốn hướng của quả núi tự động mở ra, gây nên tiếng ầm ầm khủng khiếp. Mọi người ùa vảo, toả đi khắp nơi trong hang đá, quả rất rộng, đúng như người loan tin hôm qua đã nói trước với tôi. Nói ở đây có vô vàn là sách và sách chẳng ngoa chút nào. Dọc trên các giá đóng bằng gỗ lô hội kê sát các thành hang, sách được xếp ngay ngắn, mỗi chiếc giá đều có nhãn ghi rõ giá này sếp sách thuộc môn khoa học nào. Giữa các hàng sách xếp trên giá lộ nhiều chổ trống, nhưng các nhà bác học mời vào đã mau chóng mang sách đã mượn trả lại và xếp vào các chổ trống ấy. Đồng thời trên các giá lại xuất hiện những chổ trống khác, bởi các nhà thông thái ấy lai chọn mượn những cuốn khác và vội vàng ra khỏi hang.
Một lát sau, tôi lại nghe tiếng chuyển động ầm ầm, đấy là bốn cánh cổng đang tự động đóng lại. Lúc này chỉ còn mình tôi ở lại trong hang. Bởi hang sách được chiếu sáng từ các cổng, nay các cổng đóng chặt rồi, bên trong tối như mực, ngữa lòng bàn tay không nhìn thấy.
Giá là một người nào khác chứ không phải tôi hẳn hết sức bối rối trong hoàn cảnh ấy. Nhưng tôi biết cách làm tan bóng tối. Tôi bắt đầu dùng pháp thuật bắt các thần linh trong nom hang sách này phải phục mình, sau đây tôi lệnh cho họ mang đèn đến, làm sao cho trong hang lúc nào cũng có ánh sáng đủ để đọc sách.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI
  Một khi các thần linh đã chịu khuất phục một người nào đó, họ nhất nhất vâng lời các mệnh lệnh người ấy truyền. Tất cả các thần giữ hang ra đi và trở về trong nháy mắt, mang theo đủ đèn để chiếu sáng mười cái hang chứ không chỉ một cái hang này, cho dù nó rất rộng. Tôi nghĩ các thần linh dường như đánh cắp hết tất cả đèn đóm ở kinh thành Carim mang về đây cho tôi. Chưa bao giờ trong hang có nhiều đèn sáng y như một đêm hội vửa mở để mừng sự có mặt của tôi trong hang đá. Đâu đâu cũng có đèn, đèn để đọc theo các giá sách, đèn tro trên mái vòm cao, ngước nhìn lên như thể bầu trời đầy sao. Tôi hài lòng được các thần linh phục vụ chu đáo.
Vậy là tôi vùi đầu đọc nhiều cuốn sách khá kỳ lạ. Có những cuốn luận bàn những điều kỳ diệu của hoá học và các môn khoa học bí truyền, tuy nhiên văn phong quá bóng bẩy, ngôn từ quá rối rắm, đến nối các nhà thông thái từng xem những cuốn sách ấy không sao hiểu thấu hết nghĩa lý. Muốn thấu triệt nội dung, phải có sẵn trong đâu tất cả kiến thức như tôi đã có.
Tôi muốn ghi chép lại một vài đoạn trong sách. Tôi vừa ngỏ ý, các thần linh đã vội vàng mang đến đủ  giấy bút, làm như họ đúng là những tên nô lệ tận tuỵ với chủ. Họ còn lo việc đi tìm thực phẩm mang vào hang cho tôi, khi thần dược tôi mang theo đã cạn kiệt. Ngày nào các thần cũng mang vào hang cho tôi nhiều món an ngon cùng với rượu nho tuyệt vời của vùng Sira. Tôi chỉ co việc nói lên mình cần thứ gì, ngay tức khắc các thần cung ứng đủ. Tôi sống thật thoải mái trong hang đá ấy. Cũng có những cuốn sách hết sức bổ ích, qua những trang sách ấy tôi học được nhiều điều huyền bí của thiên nhiên. Tôi đọc sách suốt môt năm ròng không hề chán.
Đến đầu năm sau, các cổng hang tự động mở ra như thường lệ. Những người hiếu kỳ lại đổ xô vào hang. Nhưng không một ai chờ đợi trong hang có nhiều đèn đóm sáng rực đến thế, cho nên ai nấy đều kinh hoàng. Mọi người vội vức lại những cuốn sách mang đến trả rồi ba chân bốn cẳng chạy thoát ra ngoài. Tôi cũng có ý nên ra ngay cùng với họ. Cần nói rõ, trong thời gian một năm ở trong hang, tôi để cho tóc, râu, lông mày mọc tự nhiên, thành ra bộ dạng người tôi trong rất kỳ cục, khiến ai nhìn thấy không khỏi khiếp đảm. Nhiều người kêu lên: "Phù thuỷ Muc đấy, đích thị phù thuỷ Muc kia rồi!"
Phù thuỷ Muc vốn là một nhân vật xưa nay chuyên gây nên tai hoạ cho xứ sở này. Lão phù thuỷ ấy thường sử dụng pháp thuật cao cường để làm hại người đời. Nhân dân ai cũng kêu ca về lão. Nhà vua nước Carim nhiều lần huy động cả quân đội, nhưng chẳng sao bắt được lão. Lần nào lão cũng lẫn trốn giỏi như trạch, vì vậy chưa bao giờ phải chịu tội.
Nghe mọi người gọi mình là phù thuỷ, vì thiếu thận trọng, tôi định tìm cách giảng giải cho họ hiểu ra. Tôi nói với dân chúng:
- Hỡi những người anh em của tôi, các bạn nhầm rồi, tôi không phải lão phù thuỷ Muc các bạn đã nói đến đâu. Toi tuyệt nhiên không có mảy may ý định gây hại cho các bạn.
Mọi người ngừng la hét nhưng chẳng ai tin lời tôi. Được một số người can đảm khích lệ, đám đông vây chặc tôi vào giữa, rối nhất tề xông vào bắt giữ.
Lúc này, chỉ cần niệm một câu thần chú, tôi đã xô tất cả bọn người đổ nhào xuống đất và thoát khỏi tay họ ngay, nhưng tôi nghĩ chẵng cần kháng cự làm gì, để yên cho mọi người muốn làm gì thì làm. Họ càng tin tôi là phù thuỷ Muc. Sau khi trói nghiến tôi lại, họ dẫn tôi đến trình quan chánh án. Vừa nhìn thấy bộ dạng của tôi, viên quan đã phán ngay:
-Tên khốn kiếp kia, lần này mày đừng hòng thoát khỏi tội. Mày làm dơ dáy cuộc sống này từ lâu bởi những hành động ghê tởm cúa mày. - Phán xong, quan quay sang nói lại với viên giúp việc - Ngay tức khắc, hãy cho dẫn tên này đến quang trường công cộng, nơi ta vẫn hành quyết những tên tội đồ nguy hiểm nhất.
Viên chánh án vừa ngừng lời, bọn lính đã tóm lấy tôi, dẫn đến một quãng trường khá rộng. Trong thời gian ấy, viên chánh án vào triều tâu với nhà vua, xin nhà vua cho ý kiến nên xử tên phù thuỷ bằng hình thức nào.
NGÀY THỨ MỘT TRĂM BỐN MƯƠI MỐT

Quốc vương nước Carim nghe lâu lão phù thuỷ Muc đã bị bắt và hiện đã bị áp giải đến quãng trường chờ hành quyết, liên kêu kiệu đến tận nơi. Vừa mới đến, chỉ nhìn thấy bộ mặt tôi, vua đã truyền bắt tôi phải chịu chết trên giàn lữa. Vua chưa dứt lời, người ta đã mang tới một giàn hoả thiêu đủ chổ thiêu sống một lúc hai chục tên phù thuỷ. Công việc tiến hành nhanh chóng lắm, bỏi nhân dân tự động mang củi gỗ tới góp nhiều không kể xiết. Ai ai cũng thích thú chờ đợi xem cảnh tôi bị thiêu đốt thành tro.
Tôi kiên nhẫn chờ cho người ta dẫn tới trói vào giàn hoả thiêu. Nhưng khi lữa vừa châm, tôi niệm mấy câu thần chú làm đứt tung moi dây nhợ trói buộc. Tôi nhặt một thanh gỗ, hoá phép thành một cỗ xe chiến thắng và bước lên xe. Tôi cho cỗ xe bay lượn nhiều vòng trên không trung. Nhân dân kinh thành Carim xem cỗ xe của tôi bay lượn cũng thích thú y như họ được nhìn thấy tôi bị đốt cháy trên giàn lửa vậy. Tiếp đó tôi cất cao giọng nói với nhà vua nước Carim:
- Hỡi vua Clit-Arxơlan kém công minh kia, ngươi muốn hành quyết ta như giết chết một tên khốn kiếp, ngươi nên biết ta không phải một lão phù thuỷ mà là một bậc hiền triết. Ta có khả năng làm nhiều điều kỳ diệu hơn rất nhiều những gì ngươi đang được nhìn tận mắt.
Nói xong, tôi biến mất, khiến nhà vua cũng như toàn thể dân chúng có mặt ở đấy, vô cùng kinh ngạt.
Sau việc xảy ra ấy, tôi du hành suốt mười năm liền. Tôi đã đến các thành phố Cairo và Batda, đã đi nhiều vùng trên đất Ba Tư. Bất kỳ đến đâu, tôi cũng tạo nên hạnh phúc cho bạn bè. Sau khi chu du khắp thế giới, đến thành phố Astrakhan, tôi nảy ra ý muốn làm một việc gì đấy để người đời nói đến mình. Tôi ra ngoài kinh thành, tìm một nơi nhiều cây cối, chặt bốn mười cành cây dài bằng nhau, rồi niệm câu thần chú biến bốn mươi cành cây ấy thành bốn mươi con người. Tôi sai chúng tạo dựng nên khu nhà tắm bên ngoài cổng đô thành như bệ hạ đã thấy. Tâu bệ hạ, bốn chục cành cây ấy chính là bốn chục tên hầu. Chính vì lẽ ấy tôi có lý do để hỗi nãy tâu với bệ hạ, tất cả đều cùng một mẹ sinh ra, bởi tẩt cả đều từ đất mọc lên.

Francois Pétis De La Croix
Phan Quang dịch
Theo http://www.maxreading.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bùi Phan Thảo với khúc ca bi tráng

Bùi Phan Thảo với khúc ca bi tráng Trường ca “Những ngọn khói về trời” của Bùi Phan Thảo là cuốn truyện bằng thơ, kể lại một thảm họa lịch...