Thứ Ba, 22 tháng 3, 2016

Nghìn lẻ một ngày 1

Nghìn lẻ một ngày 1
Lời giới thiệu
Hai anh em sinh đôi
Bộ truyện Ả Rập Nghìn lẻ một đêm và bộ truyện Ba Tư Nghìn lẻ một ngày có thể coi như hai anh em sinh đôi. Không chỉ bởi tên sách và thời gian ra đời của chúng: Mười tập Nghìn lẻ một đêm do nhà Đông phương học Antoine Galland chuyển từ tiếng Ả Rập sang tiếng Pháp ra mắt bạn đọc từ năm 1704 đến năm 1711 tại Paris- sau .khi ông mất, còn ra thêm hai tập nữa. Năm tập của Nghìn lẻ một ngày do một nhà Đông phương lỗi lạc khác là Francois Pétis De La Croix thực hiện từ nguyên bản tiếng Ba Tư, được xuất bản cũng tại Paris từ năm 1710 đến năm 1712.
Cấu trúc hai bộ truyện giống nhau: Có một truyện mở đầu làm khung cảnh để từ đấy nhìn ra một khoảng trời và lung linh muôn vàn vì sao cổ tích, ở đó người trần thế và thần linh chung sống với nhau, thực hư trộn lẫn, trí tưởng tượng bay bổng lên thiên đàng, xuống địa ngục rồi trở về trái đất, bên cạnh nhiều chi tiết huyễn hoặc là cuộc sống thực tại được miêu tả bằng những nét bút tả chân... Truyện mở đầu xác lập vị trí của người dẫn chuyện và ấn định chủ đề ở bộ truyện trước: Nghìn lẻ một đêm, một cô gái trinh kể chuyện nhằm làm vui tai một tên bạo chúa. Tên này để trả thù bà hoàng hậu thất tiết, đã quyết định cứ mỗi đêm bắt một cô gái trẻ vào thoả mãn dục vọng rồi sáng hôm sau sai chém đầu ngay, cho người đàn bà ấy không còn có cơ hội ngoại tình nữa. Câu chuyện cô kể do đó bắt buộc phải hấp dẫn, truyện trước mở nút kéo truyện sau nhập cuộc; truyện sau phải hay, phải mới hơn truyện trước;  và bao giờ câu chuyện cũng phải ngưng lại nửa chừng ở đoạn gay cấn nhất, để vua bằng lòng chờ đến sáng hôm sau- có nghĩa hoãn bản án tử hình thêm một ngày. ở bộ truyện sau:Nghìn lẻ một ngày, một bà vú nuôi kể chuyện theo yêu cầu của một vua cha. Bà tự nguyện làm người kể chuyện hầu nàng công chúa mắc một chứng bệnh điên khùng: ghét đàn ông tới mức bày cách hãm hại những chàng hoàng tử bất hạnh đam mê sắc đẹp của nàng dám cả gan đến ngỏ lời cầu hôn. Bà nhũ mẫu tự đề ra nhiệm vụ: qua các chuyện kể của mình, chứng minh người trần mắt thịt cũng như các vị thần linh có phép màu biến hoá, không thiếu những mối tình chung thủy; không thiếu những chàng trai bất chấp thăng trầm một lòng thủy chung với người tình: "trong đời chỉ nên yêu một lần, song đã yêu thì yêu đến trọn đời". Bà phải kể sao cho chuyện sau hấp dẫn hơn chuyện trước, để nàng công chúa cưng không chán, tiếp tục nghe kỳ đến lúc khỏi bệnh và chịu đi tìm người làm chồng mới thôi.
Các truyện kể trong hai bộ truyện do đó độc lập với nhau, mỗi truyện là một thể hoàn chỉnh song đều có quan hệ chằng chịt, thậm chí có chung một nhân vật chính, được gắn kết lại theo cách móc xích, móc nào cũng có thể coi là móc chính. Hoặc theo lối ngăn kéo: chuyện trước chứa chuyện sau, chuyện sau đựng chuyện sau nữa, cứ thế kéo đài tưởng như vô hồi kỳ trận, cho đến sau một nghìn lẻ một đêm (hoặc một nghìn lẻ một ngày) mới thắt nút lại và kết thúc. Kết thúc chuyện nào cũng có hậu: ở bộ truyện trên, sau nghìn lẻ một đêm, người kể chuyện sinh hạ cho nhà vua ba hoàng tứ xinh như mộng, không những được tha tội chết mà còn được phong làm hoàng hậu. ở bộ truyện dưới, sau nghìn lẻ một ngày, nàng công chúa điên khùng rời hoàng cung bôn ba đi tìm chàng trai làm mình say đắm- một hoàng tử, đương nhiên- để rồi khi hoàng tứ lên nối ngôi cha, sẽ trở thành hoàng hậu.
Hai bộ truyện còn giống nhau ở sự thành công vang dội. Thành công của bộ Nghìn lẻ một đêm, theo các nhà nghiên cứu, chưa từng có ở pháp hoặc bất kỳ một nước nào trước đó. Trong vòng bảy mươi tám năm, từ khi tập I đến với bạn đọc (năm 1704) cho đến năm 1782, nó được tái bản 70 lần. Từ tiếng Pháp, bộ truyện A Rập được dịch sang hầu hết các ngôn ngữ chính ở châu âu, đi vòng quanh thế giới, và được dịch trở lại tiếng A Rập. Nó gợi đề tài và cảm hứng cho người đời sau sáng tạo nên nhiều không kể xiết những vở kịch nói, ca kịch, nhạc kịch, điện ảnh, hội hoạ... lừng danh trên thế giới.
Đề tựa bản dịch hoàn chỉnh xuất bản bằng tiếng Nga, đại văn hào Maxime Gorki đánh giá bộ sách là "di sản tuyệt diệu và đồ sộ nhất của sáng tác truyền khẩu dân gianh là"một công trình dệt gấp bằng từ ngữ, Phủ lên trái đất một tấm thảm đẹp lạ lùng" Một điều thú vị nữa, một văn hào khác sáng tác bằng tiếng Tây Ban Nha là Gabriel Marquez, Giải thưởng Nobel về văn chương, trong cuốn đầu bộ hồi ký ba tập mới công bố năm nay (2003) cho biết, cuốn sách tập đọc đầu tiên của cậu bé Gabriel học trường Montessori ở một làng quê mất hút một nơi nào đấy giữa nước Colombia xa xôi bên kia bờ Đại Tây Dương chính là truyện... Nghìn lẻ một đêm. Thành công của bộ Nghìn lẻ một ngày, ít nhất trong hơn một trăm năm đầu, không mấy kém. Từ tiếng Pháp bộ truyện được dịch ra các tiếng Đức, Anh, Hà Lan, Đan Mạch, ý, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và... Ba Tư. Thế kỷ 18, riêng ở Pháp, Nghìn lẻ một ngày được tái bản mười tám lần, thế kỷ 19 mười lăm lần... Cũng như Nghìn lẻ một đêm, bộ Nghìn lẻ một ngày được đưa vào giáo trình văn học bậc trung học phổ thông ở Pháp từ thế kỷ 18, và gợi đề tài, cảm hứng cho nhiều bậc tài danh sáng tạo những công trình văn học, nghệ thuật xuất sắc. Chỉ một trường đoạn trong chuyện Hoàng tử Calap và công chúa nước Trung Hoa đã gợi hứng để các tác gia nước ý sáng tạo nên hai tác phẩm công diễn: kịch nói Turandot của bá tước Gozzi (1720-1806) và nhạc kịch cùng tên của nhạc sĩ tên tuổi Giacomo Puccini (1858-i924). Puccini là tác giả tài hoa về nhiều loại hình âm nhạc: giao hưởng, nhạc thính phòng, nhạc tôn giáo . . . ông là người chuyển thể  thành công nhiều tác phẩm văn học sang nhạc phẩm, trong đó có Ma non Lescaut (1893), LaBohême (1896), Madame Butterlzy (1904)... Vẫn như Nghìn lẻ một đêm, bộ Nghìn lẻ một ngày cũng được biên tập để xuất bản cho độc giả trẻ tuổi. Nổi tiếng nhất ở Pháp là bộ sách của Nhà xuất bản DelagTave, Paris, tuy đã lược bớt một số truyện vẫn này tới 813 trang và 500 minh họa. Truyện nàng Repxima đức hạnh, truyện cuối cùng của bộNghìn lẻ một ngày, không rõ từ bao giờ trở thành một câu chuyện dân gian phổ biến nhất tại Thụy Điển.
Bộ Nghìn lẻ một ngày tuy ra đời sau khi bộ Nghìn lẻ một đêm toả sáng chói lọi, vẫn được nhiều nhà văn và học giả đương thời đánh giá cao. Văn hào và triết gia đi tiên phong Thế kỷ ánh sáng: Voltaire (1694-1778), người mà người ta đồn có lần cho rằng trong số các tác gia lỗi lạc cùng thời với ông như Jean Jacques Rousseau, Diderot, Montesquieu, Bernadin ~ dễ Sang Pierre... chỉ mỗi một  Lesage có thể sánh ngang văn tài của mình, đã đánh giá cao bộ Nghìn lẻ một ngày. Voltaire viết trong bộ Thời đại vuaLouis XIV của ông như sau: lui Người ta đọc được của F. Pétis de la Croix Chuyện Thành Cát Tư Hãn và Chuyện Tamerlan (tức Timour-i Lang) dựa theo các tác gia cổ người A Rập, cùng nhiều tác phẩm có ích khác; tuy nhiên bản dịch bộ Nghìn lẻ một ngày của ông là cuốn sách có nhiều người đọc hơn cả..." Tại một bài khác, Voltaire lại viết: "Nghìn lẻ Một đêm hay Nghìn lẻ Một ngày đều giống như nhau thôi, đều cùng là Nghìn lẻ Một"- ý nhà văn muốn nói cả hai tác phẩm cùng hấp dẫn, phong phú tuyệt vời không mấy khác nhau.
Tu sĩ J. P.Nicéron (1685-1738), một tác gia chuyên về tiểu sứ các nhà văn Pháp thế kỷ 18 bình: "Các truyện trong Nghìn lẻ một đêm do A. Galland dịch thường có nhược điểm là không mấy giống thực tế. Các truyện trong Nghìn lẻ một ngày, do F. P. De la Croix dịch một phần từ tiếng Ba Tư tài tình hơn nhiều và gần thực tại hơn nhiều, tuy không phải sự thần kỳ không ngư trị trong nhiều truyện, đúng như sở thích của những người phương Đông". R. F. Burton (1821-1890) là dịch giả thành công nhất rong số người dịch bộ Nghìn lẻ một đêm của A. GallanD ra tiếng Anh, khẳng định: Nghìn lẻ một ngày trên thực tế là một sáng tác. Trong phần lớn trường hợp, nhiều truyện kể trong bộ ấy là những sáng tác tài tình bắt nguồn từ chỗ vay mượn (các truyện dân gian) rồi diễn tả lại một cách rất tự do".
Hai bộ truyện sinh đôi ấy, đúng như lời mở đầu câu chuyện nổi tiếng An Ba ba và bốn mươi tên cướp viết, "những tưởng số phận hai người rồi cũng sẽ giống nhau, ai ngờ sự tình xui nên khác". Sau gần hai thế kỷ lừng lẫy không mấy kém người anh, bộNghìn lẻ một ngày bị thất sủng trước bạn đọc. Phải chờ cả trăm năm, đến cuối thế kỷ 20, công bằng mới tái lập, Nghìn lẻ một ngày mới có dịp tái xuất giang hồ.
Trong Lời giới thiệu do chính F.P. De La Croix viết năm 1710 và in ở đầu tập I, ông khẳng định bộ sách của mình được dịch từ tác phẩm của tu sĩ Mocies mà ông có dịp giao du năm 1675 khi đang làm việc ở thành phố Ispahan (Ba Tư). Tác phẩm ấy được tu sĩ Mocles dịch từ một bản tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, nhan đề Al-farage badal-shidda,cónghĩa Niềm vui sau nỗi buồn, mà "Thư viện Hoàng gia của ta (Pháp) cũng có lưu trữ một bản". Tại Lời thưa trước I in đầu tập II và Lời thưa trước II, De La Croix hai lần khẳng định điều ấy Vấn đề đặt ra đối với người đời sau là có tu sĩ Mocles- tác gia thật hay không (mặc dù tên ông ấy đã được đưa vào bộ Từ điển thư mục thế giới, cổ đại và hiện đại của Michaud /1811-1828), và có thật nguyên bản Niềm vui sau nỗi buồn lưu trữ ở Thư viện Hoàng gia (Paris) hay không.
Ngay từ cuối thế kỷ 18, đã có ý kiến nghi ngờ lời giới thiệu của De La Croix. Trong một chuyến sang Pháp, nhà Đông phương học người áo là J. de Hammer (1774-1856) thân hành đến Thư viện hoàng gia đào bới. ông tuyệt nhiên không nhìn thấy nguyên bản Niềm vui sau nỗi buồn của tu sĩ Mocles. ông đi tới kết luận Lời nói đầu của De La Croix cũng là một "truyện kể". Theo chân ông, nhà Đông phương học người Pháp A. Loiseleur Deslongchamps (1805-1840) cũng cho đấy một khuyên ngụ ngôn. Người ta còn nhấn mạnh, trong các cuốn sách ghi chép về những chuyến đi của ông sang các nước Trung á, tuy De La Croix có thuật lại khá chi tiết việc gặp tu sĩ Mocles tại thành phố Ispahan năm 1675, và sau đấy giữa hai người có mối quan hệ thầy trò, song tuyệt nhiên trong nhật ký ông không đả động đến bộ sách Hezaryec (Nghìn lẻ một ngày) mà ông nói "được tu sĩ cho phép sao giờ một bảng". Rõ ràng người làm nên bộ truyệnNghìn lẻ một ngày không phải tu sĩ Ba Tư Mocles mà chính là nhà Đông phương học người Pháp F. P. De Lacroix.
Câu chuyện trở thành một vụ án văn chương. F.P. De La Croix bị các nhà nghiên cứu văn học cổ đại phê phán nặng nề về sự không trung thực. Lý do? Chắc hẳn, như lời nhà nghiên cứu J.A.S. Collin dễ Plancy nói trong lời nói đầu bộ Nghìn lẻ một ngày tái bản năm 1826 , "De La Croix sợ nếu nói thật mình là tác giả, có thể ảnh hưởng đến thành công của các truyện kể trước bạn đọc, vì người Pháp xưa nay vẫn chuộng các bản dịch từ tiếng nước ngoài hơn các kiệt tác của nước mình".
Tuy nhiên, ngay thời bấy giờ, đã có không ít người lên tiếng bênh vực De La Croix, khẳng định giá trị độc đáo của bộ Nghìn lẻ một ngày. Nhà văn La Harpe, trong cuốnGiáo trình văn học cổ đại và hiện đại (xin lưu ý: Giáo trình) đánh giá đúng mực: Các truyện kể Ba Tư trong Nghìn lẻ một ngày có cơ sở vững chãi hơn các truyện trongNghìn lẻ một đêm. Chủ đề chính là thuyết phục một nàng công chúa từ chỗ nặng định kiến về đàn ông, đi đến tin rằng trong giới mày râu chàng thiếu gì người yêu chung thủy (...) Chúng ta cùng biết ơn Antoine Galland và Pétis De La Croix- biết ơn thật sự hai ông đã có công giới thiệu với chúng ta các truyện kể A Rập và truyện kể Ba Tư. Antoine Galland viết văn cẩu thả, Pétis De La Croix viết chuẩn mực hơn, văn cả hai ông đều rất tự nhiên". Nhà nghiên cứu Collin dễ Plancy còn dứt khoát hơn: "Dù thế nào, nếu lòng biết ơn của chúng ta đối với Pétis De La Croix với tư cách nhà dịch thuật có kém đi (sau khi phát hiện đấy không phải là một bộ truyện dịch), thì chúng ta càng biết ơn ông nhiều hơn với tư cách nhà sáng tác. Quang vinh của ông vì vậy chúng giảm chút nào".

Ngày nay, sau bao công trình nghiên cứu, nhà Đông phương học Phí Sebag đã có đủ cơ sở để khẳng định: phần lớn các truyện kể trong bộ Nghìn lẻ một ngày dựa vào bản cuốn sách viết tay bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ nhan đề Al- Farage bao al-shidda có nghĩaNiềm vui sau nỗi buồn.. Đây là một tập gồm bốn mươi truyện kể, dịch từ tiếng Ba Tư sang. Những bản viết tay ấy, vào cuối thế kỷ XVII có ở Thư viện Hoàng gia Pháp, và De La Croix có thể tìm đọc bộ sách ở đấy.
Ngày nay, sau tròn ba thế kỷ, có lẽ đến lúc có thể quả quyết như Phút Sebag: "Bộ sáchNghìn lẻ một ngày là một công trình hoàn hảo nhất của nghệ thuật kể chuyện theo phong cách thế kỷ 18... Độc giả nào chưa đọc bộ sách ấy, chưa thể nói mình đã thông hiểu mọi tuyệt tác của nền văn học nước nhà". Gần đây, trên nguyệt san Thế giới ngoại giao số ra tháng 10-2003 vừa qua, nhà phê bình văn học Pierre Lepape viết: “phải chăng thời điểm của Nghìn lẻ một ngày cuối cùng đã trở lại? Có phải cuối cùng người ta thôi không coi F.P. De La Croix như một người làm đồ giả về tác phẩm hư cấu nữa, mà đánh giá ông thật sự là một nhà bác học dành thời giờ sáng tác trong những giờ thư giãn? Bộ sách ấy xứng đáng giành lại chỗ nó đã có đúng như vào thời cuối triều đại vua Louis XIV, sát cánh bên bộ Nghìn lẻ một đêm của A. Galland. ông này so với De La Croix có thể là nhà phiên dịch trung thành hơn, song lại là nhà văn không được trau chuốt bằng".
Về dung lượng, bộ Nghìn lẻ một ngày dài chỉ bằng một nửa người anh sinh đôi của nó:Nghìn lẻ một đêm. Có phải nguồn truyện cổ Ba Tư và Thổ Nhĩ Kỳ không phong phú bằng nguồn truyện cổ A Rập? Hay nhà Đông phương học của chúng ta cạn tư liệu? Các nhà nghiên cứu về F.P. De Lacroix vừa phát hiện thêm một chi tiết thú vị. Tại Lời thưa trước I, tác giả cho biết "mặc dù bận trăm công nghìn việc khác, người dịch vẫn tiếp tục công việc của mình vào những giờ phút rỗi rãi, và hy vọng sẽ cung cấp chongười đọc mỗi tháng một tập Nghìn lẻ một ngày Hoá ra, ngoài hiệu ứng của thành công vang dội của bộ Nghìn lẻ một đêm, còn có một động lực cá nhân khác nữa thôi thúc Delacroix cố dành những giờ phút rỗi rãi để làm bộ sách, là nhằm mua vui cho một "người đọc" hào hoa: nàng Marie- Adélaide de Savoie(*), quận chúa xứ Bourgogne. Vẫn nhà nghiên cứu Phút Sebag cung cấp cho chúng ta tư liệu mới. ông viết trong phần Cuộc đời và tác phẩm của F.P.De La Croix: 1710-1712. Xuất bán bộNghìn lẻ một ngày, truyện kể Ba Tư do F.P. De La Croix dịch ra tiếng Pháp, Paris 1710- 1712, năm tập. Căn cứ và một tư liệu chúng tôi vừa phát hiện, hoá ra De la Croix biên soạn bộ sách ấy vào những giờ rỗi rãi của ông, nhằm giải trí cho Marie-adélaide dễ Savoie, quận chúa xứ Bourgogne, và chính "sự qua đời của nàng quận chúa ấy"- mất vì bệnh ngày 12 tháng 2 năm 1712 ớ tuổi hai mươi sáu,-đã khiến tác giả ngưng một công trình đáng ra còn có thể tôi xa hơn nữa" (Theo tư liệu lưu trừ tại Thư viện L Arsenal, Paris(**), hồ sơ 5495, tập 75). "4-12-1713. F.P. De La Croix, bị kiệt lực sớm vì làm việc quá sức, mất tại Paris và được an táng trong khuôn viên nhà thờ Sang Sulpitre. Báo La Gazette dễ Pari8 đưa tin về sự qua đời của nhà Đông phương học như sau: Ngài Frallcois Pétis De La Croix, thư ký- phiên dịch của nhà qua và giáo sưngôn ngữ và văn chương A Bập tại Đại học hoàng gia, một người có năng lực phi thường và rất đáng tin cậy về các ngôn ngữ : A Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư và Arlnelli, vừa qua đời ngày 4-12, thọ sáu mươi tuổi.
"Ông để lại trong tình trạng bản viết tay một số lượng rất đáng ngạc nhiên nhiều tác phẩm dịch từ tiếng A Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư và Armêni, nhiều từ điển song ngữ và sách bình chú về nhiều chủ đề khác nhau, con trai ông, Alexandre Louis Marie và linh mục Goujat, trong hai công trình tiến hành độc lập, đã thống kê và bổ sung đầy đủ."
[(*) Marie Adélaide dễ Savoie sinh ngày 5-12-1685, kết hôn cùng quận công deBourgogne, sống tại triều đình vua Louis XIV, và là một người được ông vua này sủng ái . Theo những người đương thời, đấy là một phụ nữ xinh đẹp, thông ninh, trò chuyệnhấp dẫn, tính ham vui. thích chung diện, khiêu vũ, tiệc tùng, săn bắn và đánh bạc. Có thể với địa vị, uy lực và sắc đẹp của thình, nàng quận chúa này- giữa lúc cả kinh thànhParis đang say sưa với Nghìn lẻ một đêm- là người ngỏ ý khích lệ nếu không phải là đặt hàng" cho De La Croix viết bộ Nghìn lẻ một ngà
Chú thích:
(**)  Một thư viện rất lớn ở Pháp thành lập từ thế kỷ XV/ toạ lạc tại Quận 4 Paris. về tầm quan trọng chỉ chỉ kém có Thư viện Quốc gia.
François Pétis De La Croix là người cùng thời với Antoine Galland, kém ông này bảy tuổi nhưng lại ra đi trước hai năm, người ta bảo do kiệt sức vì làm việc quá nhiều. Khi ông mất, Antoine Galland ghi vào Nhật ký của mình: “sáng nay (ngày 9-12-1713), đọc báo La Gazette, tôi mới hay tin ông François Pétis De La Croix, thư ký- phiên dịch của Nhà Vua về ba thứ tiếng phương Đông: A Rập, Ba Tư và Thổ Nhĩ Kỳ, giáo sư Đại học Hoàng gia môn ngôn ngữ A Rập, đồng nghiệp của tôi, đã qua đời ngày 4 tháng này, thọ sáu mươi tuổi. Cho đến nay, chưa có một người châu âu nào nắm vững cả ba ngôn ngữ ấy hoàn hảo như ông, không chỉ trong việc dịch xuôi hay nói chuyện mà cả trong sáng tác. Ngoài ba thứ tiếng ấy, gần đây do nhu cầu của Triều đình có một số văn bản tiếng Armêni cần dịch  (ra tiếng Pháp), ông còn học và thông thạo thêm tiếng Armêni. ông để lại nhiều tác phẩm dịch từ tiếng A Rập và tiếng Ba Tư, đặc biệt cuốnCuộc đời Tamerlan, nguyên tác tiếng Ba Tư của Sherfeddin, mà ông vừa chỉnh lý lại để De La Croix là một trong những người châu âu đi tiên phong trong môn Đông phương học. ông sinh năm 1653, con trai một viên chức làm thư ký và phiên dịch cho nhà vua về các ngôn ngừ Thổ Nhĩ Kỳ và A Rập. Ngay từ nhỏ, cậu Francois đã được quan tâm đào tạo nhằm nối nghiệp cha sau này. Cậu không chỉ học các ngôn ngữ phương Đông, mà còn tỏ ra xuất sắc các môn toán, thiên văn, địa lý, hội họa và âm nhạc. Chưa đến mười bảy tuổi, ông đã được Colbert hồi bấy giờ là thủ tướng của vua Louis XIV (còn được người đương thời tôn vinh là ông vua toả sáng như Mặt trời) gửi sang Trung Đông để bồ túc về ngôn ngữ, văn học, nghiên cứu phong tục tập quán cũng như các môn khoa học, nghệ thuật và tôn giáo các dân tộc phương Đông.
Trong suốt mười năm, từ 1670 đến 1680, chàng thanh niên chu du qua các nước Xyri, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, lưu trú một thời gian dài tại các thành phố Alep, Ispahan và Constantinop (nay là Istanbun) để học thêm ngôn ngữ văn học cũng như khẩu ngữ của người A Rập, người Ba Tư và người Thổ Nhĩ Kỳ. Thời gian lưu học ở Alep, mặc dù chưa đến hai mươi tuổi ông đã viết trực tiếp bằng tiếng A Rập một cuốn sách về tiểu sử vua Louis XIV và chiến dịch đánh Hà Lan do nhà vua ấy tiến hành. Khi nước Pháp lần đầu thiết lập quan hệ ngoại giao với đế quốc ôtôman và cử đại sứ đặc mệnh toàn quyền đến Thổ Nhĩ Kỳ, De La Croix làm trợ lý cho hai đại sứ liên tiếp.
Đọc các nhật ký và ghi chép ông để lại, người ta thấy ông đã đặt chân đến nhiều thành phố và vùng nông thôn sau này sẽ được nhà văn miêu tả khá chân thực sinh hoạt của người dân trong bộ Nghìn lẻ một ngày. Có thể kể: Alep, Batđa, Điabêkia, Mu xen (hoặc Mu xun), Ispahan, Constantinop, Smiêc, Livuanơ, rồi thời gian sau Maroc, Algiê, Cai ro... Là người ham mê sưu tầm sách cổ Đông phương, ông mang về làm giàu cho Thư viện Hoàng gia Pháp rất nhiều bản sách in và sách chép tay bằng tiếng A Rập, Ba Tư hoặc Thổ Nhĩ Kỳ.
Sau đây là một đoạn nhật ký của chàng trai hiếu học về cuộc gặp gỡ tu sĩ Mocles ở Ispahan- Mocles là người gần bốn mươi năm sau được ông giới thiệu với độc giả Pháp là tác giả bộ Nghìn lẻ một ngày bằng tiếng Ba Tư: "Thời gian này tôi còn phải học thêm một cuốn sách rất khó về thần học nhan đề là Mesnevi gồm ít nhất chín vạn câu văn vần. Tôi muốn tìm một người thuộc lòng bộ sách ấy để học, nhưng vì thiếu tiền không thể tìm ra, đành phải xin gặp vị Tu sĩ Bề trên dòng tu Mewlevis. Nhờ một người bạn giới thiệu, tôi được gặp vị tu sĩ ấy. Tôi vừa ngỏ lời chúc tụng xong, ông đã đồng ý cho phép tôi trong khoảng thời gian . năm, sáu tháng tới, được nhiều lần gặp ông để ông dạy bảo cho. Tôi học thành công cuốn sách ấy. Vị tu sĩ ấy đâu phải là người sẽ đồng ý nhận tiền công, tôi tặng ông ba cái âu sứ lớn, và được ông vui lòng nhận cho. Tên ông là tu sĩ Mocles. Thời gian này ông đang cùng mười hai môn đệ chuẩn bị sáng lập một giáo phái mới..."
Cuối năm 1680, trớ về Paris, De La Croix được cứ vào chức vụ làm thư ký phiên dịch cho nhà vua về các ngôn ngữ Trung Đông, mà thân sinh ông vẫn giữ từ trước. Năm 1692, được phong làm giáo sư thực thụ dạy ngôn ngữ và văn học A Rập ở Đại học Hoàng gia, đồng thời vẫn tiếp tục làm thư ký- phiên dịch cho Triều đình. ông tập trung công sức vào việc trước tác và phiên dịch sách tiếng A Rập, Ba Tử, Thổ Nhĩ Kỳ và Armêni. ông để lại một thư mục dày dặn về các công trình của mình.
Việc đầu tiên của F.P. De La Croix về trước tác là chỉnh lý và cho xuất bản cuốn Lịch sử Thành Cát Tu Hãn mà người cha khi qua đời chưa kịp hoàn thành. Sau đấy, xuất bản cuốn Truyện bà hoàng Ba Tư và các vị tể tướng, gồm bốn mươi truyện kể gốc Thổ Nhĩ Kỳ (1707) và bộ Nghìn lẻ một ngày (1710-1712). Sau khi ông qua đời, con trai ông cho xuất bản cuốn Chuyện Timua-Bec (còn gọi là Tamerlan) do ông biên soạn. Thật ra, số lượng những tác phẩm đã được in của De La Croix chẳng nghĩa lý so với toàn bộ các công trình hết sức đồ sộ gồm trước tác, biên dịch, ghi chép, nhật ký... rất cần thiết cho những ai thời ấy muốn đi sâu nghiên cứu phương Đông. Cuối bộ sách Thế kỷ củaLouis XIV, phụ lục về Danh mục các nhà văn Pháp dưới triều đại của ông vua ấy, nhà văn và triết gia Voltaire dành cho De La Croix những dòng sau: "ông là một trong những người được vị thủ tướng vĩ đại Colbert khuyến khích và thưởng công xứng đáng. Vua Louis XIV đã cử ông sang Thổ Nhĩ Kỳ và Ba Tư từ năm mười sáu tuổi để học các ngôn ngừ phương Đông. Có mấy ai ngờ ông đã biên soạn một cuốn sách bằng tiếng A Rập được đánh giá rất cao ở phương Đông về cuộc đời vua Louis XIV~ ông còn viết cuốn Lịch sử Thành Cát Tư Hãn và Lịch sứ Tamerlan, dựa trên các tác gia A Rập thời cổ, và nhiều cuốn sách có ích khác. Nhưng bản dịch Nghìn lẻ một ngày là cuốn sách có nhiều người đọc hơn cả. Chẳng là: Con người là băng giá trước sự thậnNllưng lại là lửa hồng trước những điều tưởng tượng ra (La Fontaine, IX, 6)" Sau nhiều chục năm nghiên cứu, nhà Đông phương học Paul Sebag không ngần ngại gọi tác giảNghìn lẻ một ngày là một nhà bác học.
Đạo Hồi, A Rập, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ...
Người đọc Nghìn lẻ một ngày cũng như Nghìn lẻ mộtđêm thường gặp những khái niệm lịch sử, địa lý, tôn giáo...Trên thực tế, đất nước của các vị hoàng đế Ba Tư trong truyện không phải nước Ba Tư như  chúng ta thường hiếu, càng không đồng nhất với Cộng hoà Hồi giáo Iran ngày nay. Cũng như vậy, nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại chỉ là một phần nhỏ còn lại của đế quốc ôtôman do các sultan( Sultan : Danh hiệu của hoàng đế ThổNhĩ Kỳ (PQ))
 ngày xưa trị vì. Và giữa đế quốc Ba Tư huyền thoại và đế quốc ôtôman Thổ Nhĩ Kỳ có khoảng cách chừng. . . hai ngàn năm lịch sử.
Ba Tư là một trong những dân tộc và quốc gia cổ nhất hành tinh. Nước Ba Tư thời thượng cổ có một nền văn minh tồn tại gần hai nghìn năm, từ khoảng năm 2500 đến năm 640 trước kỷ nguyên công giáo (quen gọi là công nguyên- C.N.). Đấy là nền văn minh êlamit, di sản văn hoá lâu đời nhất của người Ba Tư, dù trên thực tế những người tạo dựng nên nền văn minh ấy không phải tổ tiên đích thực của người Iran hiện nay. Từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ IV trước C.N. là đế quốc Ba Tư của người Mêdet và người Acsênêit. Dưới triều các hoàng đế Xuân và Đariut, đế quốc Ba Tư trải rộng khắp vùng Trung Cận Đông. Phía  Nam, từ phần đất dọc bờ nam Địa trung hải, qua toàn bộ lưu vực sông Nin, phần bắc lục địa A Rập, đến vùng Lưỡng Hà, rồi đi dọc theo vịnh Ba Tư đến tận toàn bộ lưu vực sông Inđut của ân Độ. Phía Bắc từ Maxêđoan thuộc châu âu, theo bờ nam Hắc Hải tới bờ nam biển Caspi, vươn sang vùng nam biển A ran và đi quá kinh đô Xamacan (nay thuộc Uzbêkistan) rất xa về phía đông.

Với cuộc chinh phục của vua Alêchxan Đại đế, đế quốc Ba Tư bước vào thời kỳ Hi Lạp hoá, chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn minh cổ đại Hy Lạp. Dĩ nhiên nền văn minh Hy Lạp gặp sức đối kháng mãnh liệt của người Ba Tư mong muốn trở lại thời hoàng kim của mình thời trước. Đế quốc Ba Tư sau cùng là triều đại các hoàng đế thuộc dòng Xaxanit (từ thế kỷ III đến thế kỷ Vi sau C.N.).
Nhà sử học Philippe Gignoux viết về thời kỳ này như sau: "Dưới triều đại của đại đế Xosro Anusiavan (531-579) và cháu ông, đại đế Xosro Paviz t591-628), sự huy hoàng tráng lệ của các triều đình Ba Tư đạt tới đỉnh cao và lưu vào huyền thoại cho đến ngày nay. Hoàng đế Anusiavan là một điển hình nhà vua công minh, hào hiệp theo truyền thống A Rập. ông duy trì được hòa bình, tiến hành nhiều cuộc cải cách, xây dựng nhiều thành phố. Riêng vùng Xtêsiphon đã là một tổng thể gồm bảy thành phố liên hoàn. Đây là một thời kỳ rực rỡ của văn học và triết học. Giới tăng lữ nắm trong tay toàn bộ nền giáo dục. ảnh hưởng của Hy Lạp về y học, của ấn Độ về văn học rất đậm nét"[( Bách khoa toàn thư Universalis, 1996, tập XV/I, trang 896.)]
Với sự ra đời của đạo Hồi do Mahomêt sáng lập và thế kỷ thứ VII, đặc biệt sau các cuộc chinh phục của các Calip (hoàng đế và thống lĩnh tín đồ Hồi giáo) kế vị Mahômêt, đế quốc Ba Tư bước vào thời kỳ Hồi giáo hóa. Kinh đô được chuyển sang Batđa nay là thủ đô trắc. Xuất hiện một nền văn minh mới, hệ quả giao thoa giữa hai nền văn minh lớn: Ba Tư và A Rập (còn có tên Văn minh A Rập- Ba Tư). Chói lọi nhất (và cũng nhiều rối rắm nhất) thời kỳ này là vương triều của hoàng đế Harun-an-Rasit (766-809), một nhân vật lịch sử xuất hiện thường xuyên trong hai bộ Nghìn lẻ một đêm và Nghìn lẻ một ngày. Dưới triều đại của ông, kinh thành Batđa được coi như một trung tâm chính trị văn hoá huy hoàng tráng lệ nhất thời bấy giờ.
Đế chế Calip suy đồi và tan rã trước cuộc xâm lược và đô hộ của người Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, thế kỷ XI-XII vẫn còn là một thời đại hoàng kim của nước Ba Tư Hồi giáo về chính trị, văn học, triết học, nghệ thuật, kiến trúc... Các cuộc xâm lăng liên tiếp của người Mông Cổ (Thành Cát Tư Hãn), người Ti mua (Tamerlan), người Tuôcmen... là những biến động cự kỳ lớn, vừa làm xáo trộn vừa làm phong phú thêm nền văn hóa Ba Tư Hồi giáo vốn đã rất đặc sắc. Đế quốc ôtôman của người Thổ Nhĩ Kỳ manh nha từ thế kỷ XII, hình thành vào thế kỷ XV và đạt tới cực thịnh và thế kỷ XV-XVI cũng hết sức rộng lớn. Biên giới phía nam của nó trải dài suốt cả vùng Bắc Phi sang tận vịnh Ba Tư.
Phía bắc, tất cả vùng Lường Hà sang một phần các nước Đông âu. Qua nhiều bước thăng trầm và đổi thay địa giới, đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ tồn tại mãi đến năm 1923 mới chấm dứt, và thay bằng sự ra đời của nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại. Khoảng đầu thế kỷ XVIII, thời Antoine Galland bắt tay  dịch bộ Nghìn lẻ một đêm và F.P. De La Croix soạn bộ  Nghìn lẻ một ngày, đế quốc Thổ tuy đã qua thời cực thịnh vẫn còn là một lực lượng hùng cường và đầy bí ẩn trước con mắt phương Tây. Những truyện có nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ trong hai bộ truyện nói trên đã hình thành rất sớm, có thể vào thời kỳ sơ khai hoặc cực thịnh của đế quốc ôtôman.
Đạo Hồi do Mahomêt (còn gọi là Môhamêt hoặc Muhammat 570-632) sáng lập vào thế kỷ thứ VII, và ngày nay ai cũng biết đã trở thành một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới. Mahomêt được người Hồi giáo suy tôn là đấng Đại tiên tri. Nền tảng là đạo Hồi là Kinh Co ran, tương truyền đấy là tập hợp những lời giáo huấn của Mahomêt do các môn đệ của ông ghi chép lại. Những lời giáo huấn ấy, bản thân Mahomêt cho rằng được Thượng đế trực tiếp truyền đạt cho ông.
Đặc trưng nổi bật của đạo Hồi là nhất thần giáo (tin rằng chỉ có một Đấng Sáng Thế duy nhất, tiếng A Rập là Alah- Thượng đế tối cao) đối lập với đa thần giáo được lưu truyền rộng rãi hồi bấy giờ. Người theo đạo Hồi phải thề chỉ tin vào Alah và Mahomêt, có bổn phận cầu nguyện hằng ngày, nhịn ăn ban ngày trong tháng Ramadan, ai có điều kiện về kinh tế phải hành hương về thánh địa Mecca nơi sinh ra Đấng đại tiên tri ít nhất một lần trong đời.
Theo giáo lý đạo Hồi, phụ nữ không có quyền tự do cá nhân. Đàn bà hoàn toàn phụ thuộc vào đàn ông, trong khi đàn ông có quyền lấy đến bốn vợ chính thức. . . Những ràng buộc truyền thống ấy càng làm bật rõ những đòi hỏi về "nữ quyền" trong hai bộ truyện, đặc biệt trong bộ Nghìn lẻ một ngày. Nhiều chuyện kể trong hai bộ truyện nói trên ra đời vào thời kỳ đạo Hồi bắt đầu bành trướng mạnh mẽ, dần dần lấn át và thay chân các tôn giáo đa thần đã có cho đến lúc bấy giờ. Rất dễ hiểu tại sao độc giả sẽ có nhiều dịp chứng kiến các phép thần kỳ của Đấng đại tiên tri Mahômêt không ngoài mục đích cổ vũ nhân dân từ bỏ các tín ngưỡng khác và cùng nhau quy theo đạo Hồi. Nhiều nhân vật trong các truyện cổ luôn miệng nhấn mạnh niên đời chỉ có một đấng tối cao, ấy là Thượng đế" là do vậy. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, khuynh hướng "tuyên truyền" cho đạo Hồi rất rõ nét trong nhiều truyện cổ.
Như đã nói, bộ Nghìn lẻ một ngày bắt đầu bằng một truyện dẫn. Nàng công chúa nước Casơmia, sau một cơn ác mộng, đâm ra thù hận đàn ông và dứt khoát không chịu lấy chồng. Bà nhũ mẫu Xutlumêmê hằng ngày kể cho nàng nghe nhiều câu chuyện nhằm mục đích chữa cho nàng khỏi sự ám ảnh bởi định kiến sâu sắc. Qua các truyện kể, bà cố thuyết phục nàng công chúa, trên đời không thiếu những người đàn ông hào hiệp và chung thủy, trước sau rồi nàng cũng sẽ gặp được một chàng trai yêu nàng tha thiết, để nàng yêu lại hết lòng, không sợ bị người ấy lừa dối. Chuyện kể từng đoạn, khớp với thời gian nàng công chúa ở trong nhà tắm, và sao cho thật lôi cuốn, dừng lại ở chỗ gay cấn nhất, để những người nghe không bỏ dở chừng. Sau đợt "tâm lý trị liệu" dài suốt một nghìn lẻ một ngày, nàng công chúa đỏng đảnh và tàn nhẫn của chúng ta được giải thoát  khỏi cơn trầm uất vô căn cứ, rồi đồng ý kết hôn với chàng  hoàng tử trẻ tuổi, đẹp trai nước Ba Tư.
Độc giả không thể không liên hệ công chúa nước Casơmia với tiểu thư Sêhêrazat trong Nghìn lẻ một đêm. Cô gái trẻ ấy buộc phải nghĩ ra những truyện thật hay, thật hấp dẫn để tránh cái chết đang chờ, để được sống thêm một ngày và kể tiếp câu chuyện dang dở. Nỗi lo trước hết cho tính mạng của mình là một động lực kích thích trí tưởng tượng vốn dĩ phong phú của cô gái chưa đến tuổi đôi mươi. Trường hợp bà nhũ mẫu Xutlumêmê có hơi khác.
Động lực của bà là tình thương đối với cô con gái bà cho bú từ ngày thới sinh bằng dòng sữa của mình. Bà biết rõ cô gái quá nhạy cảm này chỉ mắc bệnh tâm lý và tinh thần. chứ chẳng ốm đau gì về thể chất. Chủ đề mọi câu chuyện kể của bà tập trung vào một cái đích, và cuối cùng phát huy hiệu lực thần kỳ đúng như bà tiên đoán.
Ngay trong Lời tựa của mình, F.P. De La Croix đã so sánh ý đồ của hai người kể chuyện. ông không mấy thích nàng Sêhêrazat bởi cho nàng kể chuyện nhằm giữ mạng sống của mình hơn tìm cách thuyết phục bạo chúa Saria, giúp ông nhận ra các đức tính của người phụ nữ. ông nói rõ mình quý bà nhũ mẫu hơn do tính nhân văn đậm đà ở bà. Thật ra, không hoàn toàn như vậy. Tác động của các truyện cổ thông qua những tình tiết phong phú và bất ngờ không nhất thiết lúc nào cũng bộc lộ cho người nghe thấy rõ mục đích bên trong của chuyện. Dù sao, hiệu quả hai người kể chuyện mang lại đều tốt đẹp như nhau. Nhiều nhà nghiên cứu còn chứng minh việc nàng công chúa nước Casơmia qua khỏi cơn stress là Có Cơ sở y học và lịch sử. Thời trung cổ ở Ba Tư vốn lưu truyền khá rộng rãi cách chữa bệnh bằng tâm lý, từ nền y học cổ truyền ấn Độ truyền sang.
Cấu trúc của bộ Nghìn lẻ một đêm dường như có phần chặt chẽ và nhất quán hơn bộNghìn lẻ một ngày. Các truyện kể xen kẽ nhau rất biến hoá, đưa người nghe từ thành phố Cai ro bên bờ sông Nín và kinh đô Batđa bên dòng Tigris trên vùng châu thổ phì nhiêu giữa hai con sông (Lường Hà) ngược lên sa mạc khô cằn Trung á, sang lục địa Trung Hoa mênh mông và bờ biển Inđônêxia cách trở, có khi xuống tận âm ti. Tựu trung có thể phân thành ba chùm rõ rệt:
Chùm đầu gồm các truyện Abucaxem Basri, Ruvansat và Sêhêristani, tể tướng Caversa, vua Tây Tạng và công chúa Nai man, Cướp và Đilara, hoàng tử Fađala, Calap và Turanđoc. Những chuyện ấy xen kẽ vào nhau và sau mỗi truyện những người nghe có cuộc trao đổi về những đức tính cũng như khiếm khuyết của các nhân vật.
Chùm thứ hai có các truyện vua Bêrêtđin-lôlô và tể tướng, Antamuc và Zêlica, Sêyp-en-muluc và Bêđy-an- Giê man, Malec và Sirin, Nhà vua không phiền não, Avixen, cùng hai Chuyến phiêu lưu của người du hành vĩ đại Abunphauari. Chùm này xoay quanh ba nhân vật trung tâm; quốc vương Đamat cùng vị tể tướng và quan đại thần tin cẩn của mình. Quây quần chung quanh là nhiều nhân vật khác họ gặp trên đời. Chùm truyện này ngoài ý nhấn mạnh tính thủy chung trong tình yêu, còn có một ý tứ quán xuyến nữa là, người đời chẳng có ai đạt được hạnh phúc lâu dài và trọn vẹn bao giờ.
Chùm thứ ba gồm các truyện hai anh em thần linh Ađi và Đam, Nerisatđôlê, Abđeraman và Zainep, và truyện nàng Repxima. Chùm truyện này được trình bày dưới dạng  mấy nhân vật kể chuyện hầu hoàng đế Harun-an-Rasit và  nàng cung phi sủng ái của ông.
Các truyện trong Nghìn lẻ một ngày đều toát lên tính nhất quán về mục tiêu mà tác giả thông qua người dẫn chuyện, bà nhũ mẫu Xutlumêmê, đặt ra từ đầu.
Các câu chuyện được phân ra nhiều ngày, thường ngắt đoạn ở nơi đang hấp dẫn, buộc người nghe phải nín thở chờ "hạ hồi phân giải". Cũng như số đêm trong bộ Nghìn lẻ một đêm còn lâu mới đi đến số nghìn, toàn bộ Nghìn lẻ một ngày chỉ có hai trăm ba mươi hai ngày. Như F.P. De La Croix đã thưa trước và giải thích lý do ở đầu tập cuối cùng của bộ truyện, người kể sẽ từ ngày 190 đột ngột chuyển sang ngày 960, để mọi truyện kịp kết thúc đúng ngày 1001. Cũng có thể suy đoán thêm, nếu De La Croix không "bận trăm công nghìn việc khác" và nhất là không có cái chết khá đột ngột của nàng quận chúa Marie- Adélaide vào cữ hai mươi sáu xuân xanh, tác giả có thể sẽ kéo bộ truyện của mình dài gấp đôi, ít nhất thành mười tập, cho tương ứng người anh sinh đôi Nghìn lẻ một đêm. Điều này người đọc có thể thấy thêm qua việc chia ngày: ở mấy truyện cuối, nội dung được kề trong một ngày ngắn hơn nhiều so với các truyện đầu trong bộ sách.
Còn có một cách lý giải khác. Cụm từ "nghìn lẻ một" xưa kia cũng như ngày nay không phải là một con số cụ thể. Nó là một đại lượng nói lên cái nhiều, cái phong phú, đa dạng, lung linh, huyền áo... Bởi vậy chớ nên buồn, bắt bẻ người dịch và người viết saoNghìn lẻ một đêm thực tế chỉ có 252 đêm, và Nghìn lẻ một ngày có 232 ngày mà thôi.
Hạnh phúc, nhân duyên và định mệnh
Khác với phần lớn các chuyện cổ tích phổ biến ở phương Tây, nhân vật chính trong truyện thường là trẻ em, hầu hết các nhân vật trong hai bộ Nghìn lẻ một đêm và Nghìn lẻ một ngày là những chàng trai, cô gái mới bước vào đời Có thể đấy là nhà vua đầy quyền uy hay thương gia giàu có, công chúa cành vàng lá ngọc hoặc cô thôn nữ thật thà, tất cả đều được trời phú cho trí thông minh, đức hạnh và lòng dũng cảm. Con gái xinh đẹp tuyệt trần, con trai tuấn tú khôi ngô . . . không mấy ai không chịu trớ trêu của duyên số. Cuộc sống của bất kỳ ai đều là những chuỗi ngày xen kẽ hạnh phúc và ưu phiền.
Bất hạnh đâu có chừa một ai. Quốc vương Timuatat bị quân xâm lược đánh đuổi khỏi bờ cõi. Chàng trai Culup phải trơn khỏi triều đình nơi chàng đang giữ trọng trách bởi bị nhà vua ngờ vực bất công. Công từ Abuncaxem thừa kế một gia tài giàu có là thế, vì tiêu pha hoang phí chẳng bao lâu trở thành người bần cùng. Cậu Ha xan bị những người chung vốn làm ăn nửa đêm đang tâm ném xuống biển cả. Người đẹp Đacđanê đang tuổi lớn đã bị người mẹ độc ác bán cho phường buôn nô lệ. Vừa lên ngôi báu thay cha, công chúa Nai man bị một âm mưu thoán đạt gạt khỏi ngai vàng, buộc phải trốn ra nước ngoài. Nàng Repxima đức hạnh nức tiếng gần xa vẫn bị vu oan cho tội ngoại tình đến nỗi bị chôn sống... Như lời nhân vật trong truyện than thở: "Cuộc đời con người khác nào một cây sậy không ngừng bị lay động trước cơn gió phương bắc lạnh buốt".

Hạnh phúc thường đến giữa lúc người ta ít chờ đợi nhất. Truyện nào cũng có hậu. Hoàng từ Calap khôi phục lại đất nước bị xâm lăng thời vua cha trị vì. Chàng Abuncaxem đang phải ăn xin sống qua ngày, bỗng dưng gặp một thương gia rất giàu có nhận làm con nuôi và cho kế thừa toàn bộ gia sản. Chàng Ha xan trong cơn tuyệt vọng, dự định tự kết thúc cuộc đời lại phát hiện một kho tàng vô giá ngay ở cành cây cổ thụ chàng buộc dây thắt cổ. Từ thân phận nô tì, nàng Đacđanê trở thành cung phi được sủng ái nhất của hoàng đế Ai Cập. Vào lúc tưởng phải chết tới nơi, công chúa Zêlica được một ông vua hào hiệp cứu sống. Nhờ bị đắm tàu, trôi dạt vào một hòn đảo xa lạ, nàng Repxima oan ức mới trở thành nữ hoàng được ngưỡng vọng của đảo quốc.
Trong đời người, hạnh phúc và hoạn nạn kế tục, xen kẽ vào nhau. Khổ tận cam lai, hết lúc gian nan ngày vui lại đến. Ngược lại, khi hạnh phúc đạt đến cực điểm, hãy coi chừng, tai họa sắp ập xuống đầu anh đấy. Dù gặp gian nan cùng cực đến đâu, con người vẫn không được phép sa vào tuyệt vọng. Hãy tin chắc hết ngày mưa trời lại nắng lên thôi. Quan niệm biện chứng ấy về cuộc sống thường được giải thích dưới góc độ tín ngưỡng: có một đấng tối cao ở đâu đó cầm cân nảy mực, chuyên ban phúc, họa cho con người. Theo những người Hồi giáo, đấng tối cáo ấy không thể ai khác Đức Alah.
Không khuôn vào riêng cuộc đời trần tục, ngay cả ở thế giới thần linh, không ai tránh khỏi hoạ, không ai chỉ gặp phúc. Và dường như mọi sự đã được xếp đặt trước ở chốn thiên tào. Tương tự câu đầu miệng của người phương Đông: vào sự giai do tiền định-muôn sự đều định trước cả rồi.
Tuy nhiên, dù tin vào định mệnh, người không được buông mình phó mặc định mệnh. Con người phải có lòng dũng cảm, dám nghiến răng vượt qua hoạn nạn trong bất cứ trường hợp nào. Niềm tin giúp con người đứng vững trước sóng gió. Niềm tin ấy dù được nhiều nhân vật trong truyện giải thích là niềm tin vào Thượng đế, vào Đấng tối cao, chúng ta có thể hiểu thực chất đấy chính là niềm tin vào cuộc sống, vào sức vượt khó của chính mình. Ai có niềm tin vào cuộc sống, vào con người, sớm muộn sẽ thoát khỏi tai ương, đi tới hạnh phúc. Chung cuộc, sớm hay muộn người lành được thưởng công, kẻ ác phải đền tội.
Niềm lạc quan đậm tính nhân văn quán xuyến toàn thể Nghìn lẻ một ngày.
Tình yêu say đắm là chủ đề nổi trội qua bộ Nghìn lẻ một ngày. Tình yêu là nguyên cớ làm nên hạnh phúc hoặc đưa đến gian truân cho các nhân vật chính trong bộ truyện.
Sắc đẹp người phụ nữ thường được tác giả trình bày dưới hai dạng: hoặc miêu tả chi tiết hoặc chỉ khẳng định bằng đôi lời ngắn gọn. Dù dưới dạng nào, sắc đẹp người đàn bà đều có sức hấp dẫn không thể nào cưỡng lại: Tình yêu thường đến bắt chợt, ngay lần gặp gỡ đầu tiên, gây nên tiếng sét ái tình. vấn đề thú vị là trong xã hội trung cổ theo đạo Hồi, sự phân biệt nam nữ đạt đỉnh cao, người phụ nữ khi bước ra khỏi nhà hoặc đứng trước mặt đàn ông- trừ trường hợp đấy là cha, chồng hoặc anh em trai của mình- buộc phải luôn luôn đội chiếc khăn xùm xụp trên đầu và mang một tấm mạng dày che mặt, làm sao nàng tạo nên tiếng sét đối với chàng trai? Sự tài tình của dân gian thể hiện qua những tình huống khá bất ngờ. Có những sắc đẹp dữ dội, đưa đến cái chết hoặc điên khùng cho những chàng trai nào chẳng may nhìn thấy: công chúa nước Casơmia bỏ mạng che mặt ra những buổi đi săn bắn; công chúa nước Carim qua những buổi ở sân chơi cầu; cô con gái cưng duy nhất của hoàng đế nước Trung Hoa hấp dẫn bao nhiêu hoàng tử nước ngoài lũ lượt đến Bắc Kinh tự nguyện tìm nguy cơ mất mạng, chỉ thông qua một bức họa truyền thần và lời đồn đại về sắc đẹp cá lặn chim sa cửa nàng; thậm chí di ảnh một bà vợ của đại đế Xalomon thời thượng cổ làm vẫn một vị hoàng tử trẻ đời sau mê mẩn đến mức bôn ba qua bốn biển năm châu mong tìm gặp cho bằng được.
Tiếng sét ái tình thường hay xảy ra trong tình huống hất sức ngẫu nhiên. Chàng Abuncaxem nhìn thấy dung nhan người đẹp Đilara trong dinh cơ thâm nghiêm của ngài thống đốc nhờ ngọn gió vô tình một lần vén bức rèm che cửa sổ phòng nàng. Cậu hầu phòng Ha xan nếu không mải vì buồn rầu mà thơ thẩn quá muộn trong vườn ngự uyển, làm sao gặp được công chúa Zêlica giữa đêm khuya thanh vắng. Quốc vương Narixađôlê đi đến phải lòng nàng Zainep chỉ do tội của ông bạn Abđeraman quá khoe khoang sắc đẹp của người yêu mình.
Để cuốn hút người đọc (hoặc người nghe chuyện), phần còn lại do tài năng người kể chuyện quyết định, nhờ nhiều chi tiết khá bất ngờ. Chàng Malec cậy một chiếc hòm gỗ biết bay để chở chàng đến đáp xuống trên nóc biệt thự nàng công chúa được canh phòng cẩn mật không kém một pháo đài. Hoàng tử Hocmo cải trang thành một cậu giúp việc làm vườn bị bệnh chốc đầu thì mới nhìn thấy mặt công chúa nước Carim. Cũng có những trường hợp "đời thường" hơn, như mua chuộc một cô hầu gái, nhờ một viên hoạn nô mang thư từ trao đổi, cải trang thành đàn bà để thâm nhập nơi cung cấm... Giữa bao nhiêu cô gái, cô nào cũng được tác giả mô tá rất đẹp rất xinh, tưởng không còn ai có thể đẹp xinh hơn nữa, bỗng ngôi sao chính xuất hiện. Và chỉ cần nàng cất tấm mạng che mặt, đủ gây nên tiếng sét ái tình. Tấm mạng che mặt hạn chế quyền tự do của người phụ nữ, nhưng nó lại là công cụ hữu hiệu gây nên cú sốc cho các chàng trai khi người đẹp vô tình hoặc cố ý bỏ mạng ra. Tiếng sét đầu tiên tai hại thật đấy, song dù sao cũng mới gây cú sốc ban đầu. Để cho các chàng trai thật sự mê mẩn, người đẹp còn cần có duyên ngầm, giỏi cách ứng xứ, có đức hạnh, đầy thông minh trí tuệ, thậm chí học vấn giỏi giang hơn cả những vị đại học sĩ uyên thâm nhất ở triều đình hoàng đế nước Trung Hoa.
Cuối cùng, cũng như truyện dân gian ở tất cả mọi nơi, tình tiết nàng Kiều tái hồi Kim Trọng không thể nào thiếu. Những người yêu sở dĩ phải trải qua bao gian nan, cách trở ấy là vì duyên số thứ thách sự kiên định và lòng chung thủy đối với người mình trót yêu, "trên đời chỉ nên yêu một lần, và đã yêu thì yêu đến trọn đời", như lời khúc hát của nàng Zêlica. Người xưa vốn ưa chuộng các truyện tình kết thúc có hậu.
Phép thần
Người xưa đều tin có thần linh. Thần linh tồn tại song song với con người, chen vào cuộc sống con người, mang đến cho người bất hạnh hoặc mừng vui. Đấy là đặc điểm của mọi đa thần giáo. Đạo Hồi được xây dựng trên nền tảng nhất thần, chỉ tin vào một Thượng đế tối cao, vẫn chấp nhận mọi thần linh do lịch sử để lại hoặc mới được trítưởng tượng sáng tạo thêm. Nhưng họ đặt mọi thần linh ác cũng như hiền dưới quyền uy của Đấng tối cao, như thể mọi chư hầu, quan lại ở bất kỳ đâu đâu đều phải chịu quy về khuất phục trước uy vũ một đức hoàng đế độc đoán chuyên quyền
Thần linh có quyền . năng vượt quá sức người trần thế song lại sống không máy khác con người. Thần linh cũng yêu thương giận ghét, cũng thù hận hoặc biết ơn người khác y hệt người trần. Nàng công chúa thần linh Sêhêristani không thể không phải lòng hoàng tứ Ruvansat bởi nhìn thấy chàng cực kỳ tuấn tú khôi ngô. Hai anh em thần linh Ađi và Đahy xấu xí dị hình đấy, vẫn dành mấy trăm năm đi tìm cho bằng được những cô gái dưới tuổi hai mươi chịu yêu thương mình. Người nào đeo chiếc nhẫn có dấu ấn đại đế Xalomon, người ấy sẽ được mọi thần linh tuân lệnh, mọi dã thú sợ hãi và tránh xa. Tuy nhiên, đứng  cao hơn tất cả mọi thần là Đấng đại tiên tri Mahômêt của  Đức Alah. Thông qua lời cầu nguyện của Đại tiên tri,  Thượng đế sẽ bắt bão tố sẽ bất thần nổi lên đúng lúc, hoặc  trở lại trời yên biển lặng khi cần.
Bên cạnh thần linh có vai trò các phù thủy. Những người này nhờ dày công tu luyện đã tạo được cho mình quyền năng to lớn. Có phù thủy độc ác thích biến các chàng trai và cô gái thành những con hươu. Lại có những bậc hiền, chỉ lo làm việc thiện, cho phép các con vật hất hạnh ấy lấy lại hình người. Nhờ công phu tu luyện, một tu sĩ già theo đạo Bà La Môn có thể bắt thần linh làm nô lệ hầu hạ mình, hoặc cho một người nhập linh hồn của mình vào một con vật mới chết chưa lâu. Các phép thần là thủ pháp giúp người kể chuyện sáng tạo nên nhiều chi tiết bất ngờ nhất, giúp tác giả gỡ một cách dễ dàng và vui vẻ những cái nút cực kỳ rối rắm trót thắt lại ngay từ đầu. Bao nhiêu câu chuyện diễn ra trong một không gian trải dài từ bờ Địa Trung Hải tới giữa Thái Bình Dương, nếu không cậy đến phép thần, làm sao người kể chuyện có thể xứ lý theo ý muốn? Và rết cuộc, cũng như những con người trần thế, thần linh có đẹp có xấu, có thiện có ác; ai làm điều thiện sẽ được trả công, ai gây cái ác sẽ bị trừng phạt.
Cuộc sống thời Trung Cổ
Ngay tại Lời thưa trước khi trình bạn đọc bộ truyện Nghìn lẻ một ngày, F.P. De La Croix đã nói rõ, ông tự đề ra mục tiêu giới thiệu với độc giả bức tranh sinh động mô tả sinh hoạt người dân Đông phương thời Trung cổ. Các "bậc uyên bác" không còn lý do trách nhà Đông phương học, sao lãng phí thời gian làm nhưng chuyện vớ vẩn như thế" ,bởi các truyện ông kể ra "không chỉ thú vị mà còn bổ ích". Ông thưa: "Tác giả chủ ý ghi chính xác địa danh những nơi diễn ra sự việc, và qua các câu chuyện, mô tả phong tục, tập quán nhiều dân tộc khác nhau ở châu á.. Nếu khung cảnh câu chuyện diễn ra tại xứ Tarta, độc giả sẽ nhận thấy người dân ở đây sinh hoạt khác hẳn người sống ởthành trong nguyên tác của F.P.De La Croix, và có ghi chú thêm đôi điều thiết nghĩ cần thiết cho người đọc Việt Nam ta.
Lời giới thiệu (cũng như phụ lục) có tham khảo một phần tư liệu do Paul Sebag sưu tầm và sắp xếp. Bắt tay dịch bộ Một nghìn lẻ một ngày, chúng tôi cũng lại vấp phải một số khó khăn như khi dịch Một nghìn lẻ một đêm. Đây là những truyện được người đời sau kể lại dựa vào các truyện cổ Ba Tư thông qua các bản dịch tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, và thực hiện theo "phong cách kể chuyện của các tác phẩm văn học Pháp thế kỷ thứ XVIIII" Chúng tôi cố gắng bám sát nguyên tác, tuy đôi khi nghe hơi lạ tai, hy vọng giữ được bầu không khí "ngoại lai" (exotique). Một khó khăn là cách xưng hô. Thông thường người tâu bệ hạ" phải xưng "thần". Dùng lối nhân xưng như vậy suốt cả ngàn .trang sách .sẽ rất nặng nề. Bởi vậy, cũng như với bộ Nghìn lẻ một đêm, người dịch xin phép cho người kể chuyện được xưng "tôi" một cách thoải mái. Về thực chất, các truyện kể không nhất thiết để hầu "bệ hạ" nghe, mà đây là người kể chuyện dân gian thuật lại trước công chúng đông đảo, theo phong cách những người kể chuyện rong thời xưa. Chúng tôi tin, chỉ cần sau vài ba chục dòng, người đọc sẽ quên đi triều đình vua chúa mà bị cuốn hút theo nội dung các câu chuyện dân gian.
Hà Nội, 2004
Phan Quan
Lời tựa
Chúng tôi có được những truyện kể này nhờ tu sĩ Moclet(l), người mà nước Ba Tư tôn vinh là một trong những nhân vật vĩ đại của xứ sở họ. Ngài là vị Trưởng các giáo sĩ thành phố Ispahan. Ngài có mười hai đệ tử cùng bận những tấm áo chùng bằng len trắng giống như nhau.
Các vị quý tộc cũng như dân chúng ai cũng đặc biệt sùng kính ngài vì ngài là hậu duệ trực hệ của đức Mahômêt; mọi người đều cảm thấy ngại ngùng khi đứng trước mặt ngài bởi ngài là một nhà truyền giáo uyên thâm. Ngay bản thân quốc vương Sat-xôliman cũng trọng vọng ngài tới mức mỗi lần tình cờ gặp ngài trên đường, vua đều vội vã xuống ngựa và tiến đến hôn đôi bàn đạp bộ yên cương của ngài.
Thời còn trẻ tuổi, tu sĩ Moclet đã nghĩ tới chuyện dịch ra tiếng Ba Tư những hài kịch ân Độ từng được chuyển ngừ sang tất cả mọi ngôn ngữ Đông phương; ngay trong Thư viện của Hoàng gia ta cũng có lưu trữ một bản dịch tiếng Thổ Nhĩ Kỳ mang nhan đề Al-farage bad al- shidda, có nghĩa là Niềm vui sau nỗi buồn. Nhưng nhà dịch giả tiếng Ba Tư ấy lại muốn công trình mình mang tính độc đáo, ngài đã chuyển các hài kịch ân Độ thành dạng truyện kể và đặt tên là Hezaryec, tức Nghìn lẻ một ngày Ngài ký thác bản viết tay của mình cho ông Pétisde La Croix là người từng giao du thân thiết với ngài tại thành phố Ispahan năm 1675, thậm chí còn cho phép ông được sao chép lấy một bản.

Thoạt nghe tưởng như bộ Nghìn lẻ một ngày chúng là gì khác ngoài một bản rập theo khuôn mẫu bộ Nghìn lẻ một đêm. Quả vậy, hai bộ sách cùng chung một hình thức. Tuy nhiên.ý đồ của.hai bộ. truyện lại có sự.trái ngược, giống như đầu đề của chúng. Nghìn lẻ một đêm là câu chuyện một nhà vua căm ghét đàn bà, còn Nghìn lẻ một ngàylại  là câu chuyện .một nàng công chúa ác cảm với. đàn ông.
Cũng  có thể nghĩ bộ truyện này gợi ý để sáng tác nên bộ truyện kia; song bởi vì các .truyện kể A rập không. hề. ghi niên đại, cho nên khó đoán định rằng các truyện" A Rập được sáng tạo nên trước hay sau các truyện Ba Tư.
Dù thế nào đi nữa, bộ Nghìn lẻ một ngày vẫn có  thể mua vui cho những ai từng cảm thấy thú vị khi đọc bộ  Nghìn lẻ một đêm, bởi hai bộ cùng mô tả những phong tục tương tự như nhau bằng sức tưởng tượng sống động chẳng kém gì nhau. Có điều những độc giả nào đọc bộ truyện A Rập mà nghĩ rằng nàng Sêhêrazat động cơ không được trong sảng cho lắm, vì qua các truyện nàng đặt ra và kể lại để cố thuyết phục vua Sang rằng trên đời có những người phụ nữ chung tình, ấy là vì mục đích kéo dài cuộc sống của nàng là chính, chứ chưa hẳn nhằm giải thoát quốc vương ân Độ khỏi những định kiến sai lầm đối với đàn bà; tôi nghĩ các vị độc giả ấy chẳng tìm được lý do nào để có thể chê trách tu sĩ Moclét về mặt đó. Bà nhũ mẫu Xútlumơmê tự đề ra cho mình từ đầu mục tiêu làm sao khắc phục mối ác cảm của nàng công chúa đối với các đấng mày râu, lúc nào bà cũng chăm chăm hướng vào cái đích ấy Đúng là trong tất cả mọi truyện bà kể, tất cả mọi đức ông chồng hoặc mọi đấng tình quân đều là người chung thủy. Độc giả thấy rõ bà nhũ mẫu luôn nghĩ tới việc chữa cho công chúa Farucna khỏi căn bệnh ngộ nhận, tuy thế bà vẫn không vì sự cần thiết không được rời xa mục tiêu đã định ấy mà làm biến dạng những tình tiết vô cùng phong phú chứa đựng trong các tác phẩm văn chương thuộc loại hình này (2).
Chú thích.
(1) Nguyên bản tiếng Pháp: Mocles.
(2)Tựa của Pétisde La Croix viết năm 1710 (PQ).
Lời thưa
Lời thưa I (*)
Khi đưa in tập đầu bộ truyện kể này, chúng tôi không dịch tiếp nữa. Trước khi cho in thêm các truyện khác, chúng tôi muốn thăm dò thị hiếu công chúng. Sau tất cả những tập truyện kể đã xuất bản từ trước đến nay, chúng tôi ngại không dám mạo muội cho ra thêm, cho dù biết rõ những loại sách ấy lúc nào cũng dễ bán nếu có nội dung vui vui Thành công của tập đầu đã khuyến khích người dịch tiếp tục công việc của mình vào những giờ phút rỗi rãi, thành ra mặc dù ông bận trăm công nghìn việc khác, chúng ta vần hy vọng dịch giả sẽ cung cấp cho bạn đọc mỗi tháng một tập Nghìn lẻ một ngày.
Các bậc uyên bác hẳn sai lầm nếu trách cứ dịch giả sao lại lãng phí thời gian vào những việc vớ vẩn như thế, bởi những câu chuyện này không chỉ thú vị mà bổ ích nữa. Quả vậy, tác giả đã chú ý ghi chính xác địa danh những nơi xảy ra sự việc, và qua các câu chuyện, mô tả phong tục, tập quán nhiều dân tộc khác nhau ở châu á. Chẳng hạn, nếu khung cảnh câu chuyện diễn ra tại xứ Tarta, độc giả sẽ nhận thấy người dân ở đấy sinh hoạt khác hẳn người sống ở Batđa hoặc ở Ai Cập. Món ăn, thức uống, trang phục mỗi nơi đều thể hiện những đặc trưng của từng dân tộc nơi ấy.
Ngoài ra, tất cả đạo lý của Hồi giáo được bàn bạc trong sách. Người đọc có thể hiểu được lý thuyết thần học của họ; hơn nữa người dịch đã cẩn thận chú thích thêm vô số những nhận xét lý thú; dịch giả đã hết sức cẩn trọng, làm sao để được người đọc tha thứ cho cách mua vui của mình, và để trong chừng mực có thể, cứu tác phẩm khỏi sự khinh rẻ của những vị độc giả nghiêm trang nào đó, các vị này không sao chịu đựng nổi các câu chuyện hư cấu cho dù tài tình đến đâu; đối với các vị ấy cuốn sách hay nhất cũng chỉ có thể mang lại niềm vui cho người đọc nếu nội dung của nó bảo đảm đúng sự thật hoàn toàn.
Vậy thì ớ đây không phải là một mớ những ý tưởng lập dị, hay là sự tuỳ tiện trong việc mô tả phong tục tập quán.Nếu sức tưởng tượng của Tu sĩ Môclet đã sáng tạo nên nhiều tình tiết trong các truyện này, thì trí suy đoán của ngài gắn chặt chúng với hình ảnh những điều có thật và cuộc sống bình thường. Tóm lại, cỏ thể coi Nghìn lẻ một ngày như những câu chuyện do những người đi xa về thuật lại, tức là một tác phẩm chứa đựng rất nhiều điều quan sát chân thực, xứng đáng với sự hiếu kỳ của công chúng.
Chú thích.
(*) Lời thưa này được đặt lên đầu tập II bộ Nghìn lẻ một ngày, in năm 1711, bắt đầu vào ngày thứ 37 (PQ).
Lời thưa II (**)
Chắc tu sĩ Moclet từng đặt ra cho mình nhiệm vụ làm sao tác phẩm của ngài vừa lý thú vừa bổ ích cho những người theo đạo Hồi, cho nên ngài đã đưa vào phần lớn các truyện kể nhiều phép lạ của đức Mahômêt, như bạn đọc có thể thấy ớ một vài truyện trong tập này. Chúng tôi không muốn dịch tiếp các phép lạ khác, sợ làm quý độc giả chán.
Cũng có một số chuyện trong đó cách hành xử của nhân vật quá phóng túng, chúng tôi xin phép không dịch nguyên văn. Lối sống ấy, phong tục tập quán của người phương Đông có thể chấp nhận, nhưng lại hoàn toàn không phù hợp với nếp sinh hoạt của chúng ta.
Do vậy, người dịch buộc phải có sự điều chỉnh chút ít so với nguyên tác để giữ được sự tiếp nối của diễn biến câu chuyện. Chúng ta chuyển đột ngột từ ngày thứ 190 sang luôn ngày thứ 960; song sự chuyển tiếp bất thường ấy chỉ có những người thích đếm số thứ tự thời gian mới nhận thấy. Các độc giả khác sẽ không cảm nhận điều ấy, họ sẽ đọc một hơi bộ sách mà không hề nghĩ chưa hẳn bộ Nghìn lẻ một ngày đã dùng hết trọn vẹn nghìn lẻ một ngày.
Chú thích.
(**) Lời thưa này được đặt lên đầu tập V (và cũng là tập cuối) bộ
Nghìn lẻ một ngày, in năm 1714, bắt đầu vào ngày thứ 178 (PQ).

Chương 1: Chuyện nàng công chúa nước Casơmia
Vương quốc Casơmia (Một vương quốc nhỏ nằm giữa nước Ấn Độ và xứ Tây Tạng) ngày xưa có một nhà vua trị vì tên là Tugrun-Bây. Vua sinh hạ một hoàng tử và một công chúa được mọi người đương thời vô cùng ái mộ. Hoàng tử Farucru (Có nghĩa là Ánh sáng tốt lành) thật sự là một vị anh hùng niên thiếu được thần dân tin yêu về đức độ, còn em gái của chàng, công chúa Farucna (Có nghĩa là Niềm kiêu hãnh tốt lành) thì đẹp tựa Hằng Nga giáng trần.
Quả vậy, nàng công chúa ấy vừa xinh tươi vừa sắc sảo đến nỗi bất kỳ người đàn ông nào mà cả gan trộm ngắm dung nhan nàng đều không thể không đem lòng say đắm; nhưng đấy rốt cuộc là mối tình bất hạnh bởi phần lớn các chàng đều trở nên người mất trí hoặc sa vào một nỗi đam mê trầm lặng làm thân thể héo mòn.
Mỗi lần ra khỏi hoàng cung để đi săn bắn, công chúa thường không đeo mạng che mặt; thế là đông đảo dân chúng ùa theo sau, vừa đi vừa reo hò tỏ lòng vui sướng được tự mắt nhìn thấy dung nhan người đẹp. Nàng thường cưỡi một con ngựa thuần chủng Tarta lông trắng như tuyết có điểm những đốm nâu; quây quần quanh nàng một trăm nữ nô lệ ăn mặc lộng lẫy ngồi trên lưng những con ngựa đen tuyền. Tất cả các cô đều không đeo mạng, và phần lớn ai cũng xinh đẹp duyên dáng tuyệt trần; tuy nhiên chỉ có nữ chủ nhân là thu hút về mình mọi đôi mắt của dân chúng theo sau. Bất chấp cả một đội cận vệ đông đảo kiên quyết ngăn chặn, dân chúng ai cũng chen lấn để cố gắng đến được gần nàng hơn chút nữa. Lính tráng gươm tuốt trần lăm lăm ở tay, cũng chẳng sao xua được mọi người tránh xa nàng ra một ít; nhiều binh sĩ còn đang tâm đánh đập thậm chí giết hại những người sán đến quá gần nàng, vậy mà những chàng trai đáng thương ấy đã không lo cho số phận thảm thương có thể đón chờ mình thì chớ, lại dường như tỏ ra thích thú được bỏ mạng ngay trước mắt nàng công chúa mà họ coi là thần tượng của mình.
Quốc vương mủi lòng trước những điều bất hạnh xảy ra cho thần dân do nhan sắc con gái mình gây nên, liền quyết định từ nay không cho phép công chúa xuất hiện lộ liễu trước mắt các chàng trai. Vua cấm nàng ra khỏi cung cấm, thế là dân chúng không còn dịp ngắm nhìn người đẹp nữa. Tuy nhiên tiếng đồn về nhan sắc chim sa cá lặn của công chúa lan truyền khắp các nước phương Đông, khiến nhiều nhà vua không hẹn mà nên, ai cũng chắc chắn tin rằng đấy đích thực là một tuyệt thế giai nhân. Vậy là chẳng bao lâu, nhân dân nước Casơmia hay tin sứ thần tất cả các nước châu Á đang từ nhiều nơi trẩy tới kinh đô tìm các cầu hôn công chúa nước này cho con trai quân vương họ. Nhưng trước khi các sứ giả tới kinh thành, công chúa Farucna một đêm nằm mộng, cơn mộng khiến nàng cho rằng tất cả mọi người đàn ông trên trái đất đều khả ố. Đêm ấy nàng mơ thấy một con hươu đực sa bẫy, con hươu cái tìm mọi cách giúp con đực thoát ra, đến lượt con hươu cái chẳng may cũng sa vào chính cái bẫy ấy, thì lúc này con hươu đực chẳng hề cứu giúp, lại thản nhiên để mặc con cái vướng trong bẫy mà một mình bỏ đi.
Tỉnh dậy, lòng công chúa bị xáo động dữ dội bởi giấc mơ. Nàng không nghĩ đấy chỉ là chuyện mộng mị thường tình mà cho rằng đây hẳn một điềm mà Ngọc hoàng Thượng đế do quan tâm đến số phận của nàng, đã bằng cách báo mộng dạy cho nàng biết, tất cả đàn ông trên trần thế này chẳng qua đều một duộc những tên phản trắc chuyên lợi dụng lòng dạ cả tin của đàn bà con gái mà thôi.
Bị ám ảnh bởi ý nghĩ kỳ quặc ấy, và lo sợ mình rồi có thể sẽ là vật hy sinh cho một vị quân vương nào đấy trong vô số những người đang phái sứ thần lũ lượt đổ về kinh đô Casơmia cầu hôn, nàng vội tìm đến xin gặp vua cha. Không để lộ cho phụ vương biết lòng mình căm ghét đàn ông, nàng chỉ nước mắt giọt vắn giọt dài van xin người chớ vội gả con cho một người đàn ông không hợp ý nàng. Nước mắt đứa con gái yêu làm mủi lòng vua cha Tugrun-Bây. Ông nói: „Không, con gái của cha ơi, cha chẳng bao giờ ép buộc duyên con. Mặc dù lẽ đời đối với con gái, cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy, cha vẫn thề với con trước đức Ngọc hoàng thượng đế rằng không một hoàng tử nào, cho dù đấy là con trai Quốc vương nước Ấn Độ vô cùng hùng mạnh đi nữa, được phép làm bạn với con nếu không được con đồng ý “. Công chúa tin tưởng vào lời thề mà nàng biết thế nào vua cha cũng giữ vẹn, rất hài lòng trở về cung riêng, lòng dặn lòng dứt khoát từ nay chẳng bao giờ đồng ý trao thân cho bất kỳ một hoàng tử nào.
Mấy ngày sau, sứ thần nhiều nước tới kinh thành. Họ lần lượt được Quốc vương Casơmia tiếp kiến. Sứ thần nào cũng khoe khoang về đất nước thịnh vượng của mình và ngợi ca tài năng đức hạnh hoàng tử mình. Quốc vương Tugrun-Bây đãi đằng họ hết sức trọng vọng, song nói rõ với mọi người là công chúa được quyền tự định đoạt hôn nhân, rằng vua đã thề trước Ngọc hoàng Thượng đế không ép duyên con, trái với ý muốn của nàng. Mà nàng công chúa thì chẳng hề ưng thuận một ai, thành ra rốt cuộc mọi sứ thần các nước lần lượt theo chân nhau ra về, ai cũng bối rối trong lòng vì không làm tròn sứ mệnh được giao.
Vua Tugrun-Bây là người khôn ngoan, vua phiền lòng nhìn các sứ giả ra về; ông những lo các nhà vua hùng mạnh bị khước từ việc cầu hôn sẽ nổi cơn thịnh nộ rồi tìm cách trả thù mối nhục chăng. Ông tự trách mình sao dễ dàng thề thốt, để rồi biết đâu chẳng gây nên một cuộc chiến tranh, liền cho gọi bà nhũ mẫu của công chúa Farucna đến gặp.
- Này bà Xutlumêmê (Có nghĩa là Bầu sữa), vua nói-ta nói thật với bà, cách xử sự của công chúa làm ta rất đỗi ngạc nhiên. Ai đã gây nên cho nàng sự chán ghét hôn nhân dường ấy? Bà nói ta nghe, có phải chính bà là người đã gợi nên trong lòng công chúa suy nghĩ lạ lùng kia?
Bà nhũ mẫu đáp:
- Muôn tâu hoàng thượng, không phải tại tôi. Tôi xưa nay đâu có phải người hận thù nam giới, ấy là do một giấc mộng gây nên cho nàng.
Vua ngạc nhiên:
- Một giấc mộng ư? Bà nói gì với ta vậy? –Suy nghĩ một lát vua nói tiếp- Ta không thể tin lời bà. Có giấc mộng nào lại gây ấn tượng mạnh mẽ vào tâm trí con gái ta đến vậy?
Bà Xutlumêmê thuật lại cho vua đầu đuôi câu chuyện, và thưa tiếp:
- Muôn tâu hoàng thượng, đấy chính là giấc mộng đã tác động sâu xa đến công chúa. Qua thái độ con hươu đực, công chúa suy ra mọi đàn ông trên đời này đều vô ơn bội nghĩa không khác nào con vật ấy, cho nên mới khước từ mọi đám đến cầu hôn.
Lời bà nhũ mẫu càng làm tăng thêm sự ngạc nhiên của nhà vua. Không hiểu làm sao chỉ một cơn mộng mị lại đưa công chúa đến nông nỗi ấy, vua nói:
- Này, bà Xutlumêmê thân mến, bà xem chúng ta có cách gì chữa cho đầu óc con gái ta thoát khỏi cái bệnh nghi kỵ đàn ông ? Bà có tin, có thể tìm ra phương sách nào làm cho công chúa phục hồi lý trí?
- Tâu hoàng thượng, -bà nhũ mẫu đáp- nếu ngài cố giao cho tôi nhiệm vụ ấy, tôi hy vọng sẽ có cách làm tròn một cách tốt đẹp.
- Bà làm cách nào? –Vua Tugrun-Bây lại hỏi,
- Tôi thuộc lòng cơ man là câu chuyện thú vị, mang ra kể hầu công chúa có thể vừa giải trí nàng vừa làm cho nàng dần dần gỡ bỏ định kiến nặng nề đối với nam giới. Bằng cách làm cho công chúa tin rằng xưa kia từng có những người tình chung thuỷ, tôi sẽ từng bước làm cho nàng vỡ ra ngày nay trên đời cũng có khối đấng tình quân thuỷ chung như thế. Tóm lại, muôn tâu hoàng thượng, bà vú nói tiếp-xin ngài hãy cho phép tôi được giúp công chúa tự nhận ra mình đã nghĩ không đúng, tôi tin tưởng hoàn toàn có thể đạt được ý nguyện.
Được quốc vương đồng ý, bà nhũ mẫu chỉ còn lo nghĩ cách tìm ra cơ hội thuận tiện nhất để thực thi ý định của mình.
Vì thông thường sau bữa ăn trưa cùng nhà vua, hoàng tử anh trai và các quận chúa trong triều, công chúa bao giờ cũng dành suốt cả buổi chiều để thưởng thức cá nữ tì trong cung cấm đàn ca hát xướng mua vui. Bà Xutlumêmê nghĩ chỉ có các buổi sáng là thời gian thuận tiện nhất. Bà quyết định, nên thực hiện ý đồ của mình vào lúc công chúa đang ở trong nhà tắm. Bởi vậy ngay sáng hôm sau, chờ khi công chúa đã vào trong phòng tắm, bà nhũ mẫu mới ngỏ lời thưa:
Già này biết một câu chuyện có nhiều tình tiết hết sức đặc sắc, nếu công chúa vui lòng cho phép thì già xin được hầu chuyện, tin rằng công chúa nghe rồi, sẽ lấy làm thú vị cho mà xem.
Vậy là nàng công chúa nước Casơmia, có lẽ tự mình thích nghe câu chuyện thì ít, mà để làm hài lòng những cô hầu và người giúp việc đang nôn nóng được nghe kể chuyện hơn, liền đồng ý cho phép bà nhũ mẫu Xutlumêmê kể chuyện. Bà liền cất lời như sau.
Chương 2: Chuyện Abuncaxem Basri
Tất cả các sử gia đều nhất trí cho rằng Hoàng đế Harun An Rasit là nhà vua hoàn hảo nhất thời đại ông, tiếc một điều do vua nắm trong tay quyền lực hùng cường đệ nhất thời bấy giờ, cho nên sinh thói quen dễ nổi cơn thịnh nộ và tính tình kiêu căng không ai chịu đựng nổi. Lúc nào ông cũng một mực cho rằng trên đời này chẳng có vị quân vương nào hào phóng bằng mình.
Giapha, tể tướng sủng ái của vua, không chịu được chuyện hoàng đế cứ tự mình khoe khoang như vậy, một hôm bạo gan thưa với người như sau:
- Muôn tâu hoàng thượng, vị chủ nhân của tôi, đấng chủ soái của toàn trần thế, xin cho phép kẻ nô lệ này được mạo muội thưa với ngài rằng ngài không nên quá tự ngợi khen mình như vậy. Hãy nhường những lời ngợi ca ấy cho thần dân của ngài cũng như cho biết bao người nước ngoài đang chầu chực trong triều đình ngài. Ngài hãy hạ cố để cho thần dân cảm tạ Thượng đế đã sinh ra họ trên các quốc giao thuộc quyền ngài, và để người nước ngoài ai cũng hài lòng mình đã khôn ngoan biết rời bỏ tổ quốc để đến đây hầu hạ dưới trướng ngài.
Harun nổi cơn tự ái vì những lời nói ấy. Vua cao ngạo nhìn thẳng vào mặt tể tướng, và đùng đùng hỏi ông có quen biết người nào có thể sánh được vua về đức hào phóng hay không.
- Muôn tâu có,- tể tướng đáp- tại thành phố Basra (Trong bộ Nghìn lẻ một đêm, phiên âm là Banxora, thành phố ở Nam Irắc) có một chàng trai trẻ tên là Abuncaxem. Mặc dù chỉ là một thường dân, anh ta sống xa hoa lộng lẫy hơn tất cả mọi quân vương, và không một nhà vua nào trên đời này, kể cả ngài, muôn tâu hoàng đế, tính tình hào phóng hơn chàng.
Hoàng đế đỏ mặt, đôi mắt vua long lên vì bực bội. Vua nói:
- Ông nhớ rõ rồi chứ, bất cứ thần dân nào dám nói điều sai với vua đều phải tội chết?
- Tôi đâu dám thưa thốt điều gì không chân thực bao giờ- tể tướng đáp. Trong chuyến đi gần đây về Basra, tôi đã gặp chàng Abuncaxem ấy, tôi đã sống ở nhà chàng ta. Đôi mắt tôi, dù đã quen nhìn các kho báu vật của hoàng thượng, vẫn hết sức ngạc nhiên về sự giàu sang của chàng trai, và tôi vô cùng say mê phong thái hào hoa đại lượng của chàng.
Nghe đến đấy, Harun An Rasit không nén nổi cơn thịnh nộ. Vua quát:
- Ông thật đáng tội chết, Giapha à, sao dám đem một kẻ thường dân ra so sánh với ta. Tội khi quân của ông không thể không bị trừng trị.
Vừa nói vua vừa ra hiệu cho viên tướng chỉ huy đội cận vệ đến gần, và ra lệnh bắt giữ ngay tể tướng Giapha. Tiếp đó, vua đi thẳng tới dinh nàng Zôbêit, chính cung hoàng hậu của người. Thoạt trông vẻ mặt giận dữ của nhà vua, hoàng hậu tái người khiếp đảm. Bà hỏi:
- Có việc gì xảy ra, muôn tâu hoàng thượng? Kẻ nào dám gây cho ngài nỗi bất bình?
Hoàng đế thuật lại cho hoàng hậu nghe câu chuyện vừa xảy ra. Vua nói về Giapha với lời lẽ nặng nề khiến hoàng hậu hiểu ngay ông đang giận tể tướng tới mức nào. Nhưng bà hoàng hậu ấy vốn khôn ngoan, bà khuyên vua hãy tạm nén trận lôi đình, hãy nên phái một người nào đó tới thành phố Basra tìm xem hư thực thế nào; nếu điều Giapha nói là sai, hẵng trừng trị ông ta; ngược lại nếu ông ta nói đúng thì cũng nên cân nhắc, xử phạt ông ta tới mức như xử một tên phạm tội sát nhân e chưa được công minh lắm chăng.
Lời hoàng hậu làm dịu một phần cơn thịnh nộ của Harun. Vua nói:
- Hoàng hâu à, ta chấp thuận lời khuyên của nàng. Ta nhận đúng là cần phải đối xử công minh với một bậc đại thần như Giapha. Ta còn làm hơn thế. Để tránh xảy ra trường hợp người ta phái đi vì không ưa tể tướng mà có thể tâu trình không trung thực chăng, ta muốn tự mình đến Basra, tự mình tìm hiểu sự thật. Ta sẽ làm quen với chàng trai mà mọi người khoa trương sự hào phóng ấy. Nếu điều Giapha nói đúng sự thật, ta sẽ không để tâm về lời nói thẳng mà còn ban thưởng trọng hậu cho ông, nhược bằng ông ta dám dối trá với vua thì ta thề sẽ cho chém đầu ngay tức khắc.
Quyết định như vậy rồi, hoàng đế Harun An Rasit tính chuyện thực hiện ngay không chậm trễ. Một đêm vua bí mật rời hoàng cung. Ông lên ngựa và khởi hành, mà nhất thiết không cho phép bất cứ một ai theo hầu, mặc cho hoàng hậu Zôbêit tìm đủ lời lẽ thuyết phục vua chớ nên mạo hiểm đi một mình. Tới Basra, vua gò cương xuống ngựa ghé vào trạm du khách nhìn thấy trước tiên khi vừa vào thành phố. Người gác cổng là một cụ già. Harun nói:
- Bố ơi, tôi hỏi bố nhé, có phải trong thành phố này có một chàng trai trẻ tên là Abuncaxem, anh ta có thể vượt quá mọi đấng quân vương trên đời về sự giàu sang và đức hào phóng?
- Đúng vậy, thưa ngài- người gác cổng đáp- cho dù già này có đến một trăm cái miệng, và mỗi miệng có một trăm cái lưỡi, thì cũng không thể nào kể hết những hành vi hào phóng ông ấy từng làm.
Lúc này vua Harun đang cần nghỉ ngơi, vua chỉ dùng qua mấy món nhẹ rồi đi nằm.
Sáng hôm sau, vua dậy thật sớm, đi bách bộ trong phố cho tới khi mặt trời mọc. Gặp một hiệu may vừa mở cửa, ông vào hỏi nhà Abuncaxem ở về lối nào. Bác thợ may ngạc nhiên:
Ủa, ông từ xứ nào đến vậy? Hẳn ông chưa một lần tới Basra, cho nên mới không biết dinh cơ ngài Abuncaxem toạ lạc ở đâu. Nhà riêng ông ấy còn được dân tình biết đến nhiều hơn cả cung điện của nhà vua.
Kể đến đây bà nhũ mẫu của công chúa Farucna dừng lời bởi một nữ tì vừa vào, cô này có nhiệm vụ đến báo công chúa biết sắp tới giờ đi cầu kinh trưa. Hễ trông thấy tì nữ này xuất hiện là công chúa ra khỏi nhà tắm, vận lại trang phục. Bà nhũ mẫu lúc này cũng ngừng lời, chờ đến hôm sau, khi công chúa bước vào nhà tắm mới kể nốt câu chuyện. Tu sĩ Moclét khi chuyển ngữ từ tiếng Ấn Độ sang tiếng Ba Tư đã sắp xếp theo cung cách trên các truyện kể trong bộ Nghìn lẻ một ngày. Dịch giả vẫn bám sát nguyên tác, tuy nhiên xin phép được lược bớt những câu đưa đẩy trước và sau mỗi buổi tắm, chúng tôi nghĩ như vậy sẽ đỡ làm chán người đọc; độc giả có thể coi một mạch toàn bộ các câu chuyện mà không bị ngưng ngắt dở chừng.
Như vậy là sang ngày hôm sau, bà Xutlumêmê mới tiếp tục câu chuyện kể dở.

Hoàng đế đáp lời người thợ may:
- Vâng, tôi là người nước ngoài, tôi không quen biết ai trong thành phố này. Tôi vô cùng biết ơn bác nếu bác vui lòng cho người dẫn tôi đến nhà chàng trai ấy.
Bác thợ may sai ngay một chú bé học việc dẫn hoàng đế đến tận dinh cơ của Abuncaxem. Đấy là một dinh thự xây bằng những tảng đá đẽo nguyên khối, cổng làm bằng cẩm thạch có hoa văn từa tựa vân ngọc thạch anh. Nhà vua bước vào sân, ở đấy có vô số gia nhân trẻ tuổi và nô lệ đã được trả lại tự do, họ đang đùa vui với nhau trong khi đợi lệnh chủ nhân. Vua tiến đến gần một người và nói:
- Người anh em ơi, tôi nhờ người anh em vui lòng giúp cho một việc, nhờ anh em vào bẩm với ngài Abuncaxem rằng có một người ngoại quốc mới đến, xin được tiếp kiến ngài.
Nhìn bộ dạng hoàng đế, cậu gia nhân biết ngay đây không phải là một người bình thường, vội chạy đi báo với ông chủ. Chủ nhân thân hành xuống sân đón tiếp vị khách nước ngoài, cầm tay dẫn khách đến một gian phòng rất đẹp. Vào phòng, hoàng đế nói vui từng được nghe danh tiếng tốt đẹp của chủ nhân, do vậy không sao cầm được ước mong được đến đây xin diện kiến ngài. Abuncaxem khiêm nhường từ tạ lời ngợi ca, mời vua ngồi xuống chiếc trường kỷ, rồi hỏi khách từ xứ nào đến, nghề nghiệp là gì, hiện đang nghỉ trọ nơi nao trong thành phố Basra. Nhà vua đáp:
Tôi là một thương nhân thành Batđa, hiện tôi tạm trú tại trạm du khách đầu tiên nhìn thấy khi vừa đặt chân vào thành phố.
Sau đôi ba lời hàn huyên, vua thấy bước vào phòng mười hai gia nhân da trắng, tay bưng những chiếc vò bằng mã não và pha lê khảm hồng ngọc, đựng đầy rượu nhẹ tuyệt vời; theo sau là mười hai nữ nô lệ khá xinh, người thì bê những mâm sứ xếp đầy hoa quả tươi thơm, người thì nâng những chiếc hộp bằng vàng ròng đựng các loại mứt cực ngon.
Các gia nhân đều nếm thử rượu trước khi dâng mời khách. Hoàng đế nhấp mấy thứ, mặc dù quá quen thuộc mọi của ngon vật lạ khắp các nước phương Đông này, vẫn phải thú thật rằng chưa bao giờ mình được uống loại rượu tuyệt vời đến thế. Chẳng mấy chốc đã đến giờ dùng bữa tối, Abuncaxem mời khách sang một căn phòng khác, ở đây đã bày sẵn trên bàn bao nhiêu thứ cao lương mỹ vị đựng trong đĩa bát đúc toàn bằng vàng khối.
Dùng xong bữa, Abuncaxem cầm tay mời khách sang một căn phòng thứ ba, đồ đạc bày biện còn sang trọng hơn hai căn phòng kia. Gia nhân mang đến không biết bao nhiêu là vò rượu bằng vàng khảm ngọc đựng nhiều loại rượu khác nhau, cùng những đĩa sứ cổ bày các loại mứt trái cây khô. Trong khi chủ khách nâng chén thưởng thức các loại rượu ngon hiếm thấy thì nhiều nhạc công và ca sĩ bước vào, cùng cử một khúc hoà tấu hay đến mức làm hoàng đế Harun tựa hồ mê mẩn. Nhà vua tự nhủ: „Trong cung ta có vô số những giọng hát hay, song phải nhận là những người ấy không đáng mang ra so sánh với các ca sĩ này. Ta không hiểu sao một tư nhân lại có điều kiện sinh hoạt lộng lẫy xa hoa dường này“.
Trong khi Harun đang chăm chú nghe một giọng ca êm đềm chưa từng thấy, thì Abuncaxem ra khỏi phòng, lát sau quay trở lại tay cầm một cây nhỏ, thân cây bằng bạc, còn cành lá toàn bằng lam ngọc và các quả là hồng ngọc. Trên ngọn cây đỗ một con công vàng chạm khắc thật tinh xảo, thân chim là một khối hổ phách toát ra hưưong cây lô hội và các mùi thơm khác. Chàng đặt cây bạc xuống chân hoàng đế, rồi cầm chiếc đũa khẽ gõ lên đầu chim. Thế là con công giương đôi cánh, xoè cái đuôi và múa với nhịp điệu khá nhanh, chim múa càng gấp càng làm lan toả ra mọi thứ hương thơm nức cả căn phòng.
Hoàng đế đang mải mê ngắm không biết chán cái cây bạc và con công vàng, chưa kịp ngỏ lời ngợi khen, thì chàng Abuncaxem đã nhấc cả cây lẫn chim bước ra khỏi phòng khá đột ngột. Nhà vua hơi mếch lòng về cử chỉ ấy, ông thầm tự nhủ: „Như thế là thế nào? Chàng trai này hình như chưa biết cách xử sự lịch sự như ta tưởng. Chàng ta cất cái cây và con công đi trong khi ta đang mải ngắm, sợ ta ngỏ lời xin mất vật ấy chăng? Ta e rằng Giapha đã quá lời khi đánh giá con người này hào phóng“.
Vua còn thẫn thờ với ý nghĩ ấy, thì chàng Abuncaxem đã lại bước vào, theo sau có một chú hầu trẻ cực kỳ tuấn tú khôi ngô. Chú bé dễ thương này mặc một chiếc áo gấm dệt bằng kim tuyến có đính nhiều viên ngọc và kim cương, tay dâng một chiếc ly làm bằng một viên hồng ngọc lớn đựng một loại rượu mầu đỏ sẫm. Cậu tiến đến trước nhà vua quỳ lạy rập đầu sát đất và dâng ly rượu. Hoàng đế cúi đỡ chiếc ly, đưa lên miệng uống cạn, và thật diệu kỳ làm sao, uống xong nhà vua trao trả cái ly cho cậu bé thì nhận ra cái ly rượu vẫn đầy tràn. Vua lại đỡ ly rượu, uống tiếp một hơi cạn không còn một giọt. Đưa trả chiếc ly cho cậu bé, vua nhận ra ly rượu đã lại đầy mà không hề nhìn thấy ai rót rượu vào.
Vật kỳ diệu này khiến hoàng đế Harun ngạc nhiên đến mức quên phắt chuyện cây bạc công vàng, và cất lời hỏi do đâu có chuyện lạ lùng đến vậy. Abuncaxem đáp:
Thưa ngài, đấy là công trình sáng tạo của một bậc hiền thời xưa, vị ấy am tường mọi bí quyết trong trời đất.
Vừa đáp xong, chàng đã cầm tay cậu gia nhân, bước ra khỏi phòng cũng vội vã y như lần trước. Hoàng đế cảm thấy bất bình:
- Quái,- vua tự nhủ- xử sự đến thế thì chàng trai này quẫn trí rồi. Chàng ta tự ý mang các vật ấy ra khoe với ta mà chẳng chờ ta nhờ hỏi; chàng phô ra trước mắt ta; và mỗi lần nhận thấy ta lấy làm thú vị về vật ấy thì vội vàng mang đi. Thật chẳng có chi lố bịch và khiếm nhã bằng. Này, hỡi lão Giapha kia, rồi ta sẽ dạy cho lão biết cách đánh giá đúng người đời.
Vua không biết nên nghĩ thế nào về tính khí chủ nhân, hay đúng hơn vua bắt đầu có ý không hay về chàng, thì lần thứ ba chàng trai quay trở lại. Theo sau là một cô nương trang sức đầy ngọc ngà châu báu, mà nhan sắc có một không hai xem ra còn ăn đứt bộ trang phục vô cùng lộng lẫy. Hoàng đế gặp một giai nhân xinh tươi dường ấy, trố mắt nhìn. Nàng cúi đầu rất thấp, xá một xá, rồi bước tới gần vua, bộ điệu duyên dáng khiến khách càng thêm mê mẩn. Vua mời nàng ngồi cạnh mình. Vừa lúc ấy, Abuncaxem gọi mang ra một cây đàn tì bà đã lên dây sẵn. Gia nhân dâng cây đàn làm bằng ngà voi, hổ phách, gỗ mun và trầm hương. Chàng trai chuyển đàn cho cô nương, cô đỡ lấy, so giây và bắt đầu tấu một bản nhạc điêu luyện tới mức vua Harun vốn là người rất sành điệu, cũng không cầm được thốt lên. „Ôi chàng trai trẻ ơi, số phận của chàng thật đáng để người đời ganh tị. Tất cả cá vị vua chúa vĩ đại nhất trên đời này, ngay đến Đấng thống lĩnh các tín đồ đi nữa, cũng chẳng thể nào có được hạnh phúc sánh tày chàng“.
Chàng trai vừa để ý thấy vị khách say mê cô gái trẻ , liền cầm tay dắt vội nàng ra khỏi phòng.
NGÀY THỨ BA
Đấy lại là một điều nhục nữa cho hoàng đế Harun An Rasit. Suýt nữa thì vua nổi trận lôi đình, nhưng người cố nén giận. Chủ nhà quay trở lại ngay tức khắc, và hai người tiếp tục trò chuyện chén tạc chén thù cho đến lúc mặt trời lặn. Harun nói với chàng trai:
- Hỡi chàng Abuncaxem hào phóng, tôi thật quá cảm kích về sự tiếp đãi của ngài đối với tôi, giờ xin cho phép được cáo từ, để ngài nghỉ ngơi.
Không muốn phiền lòng khách, chàng trai thành phố Basra nhã nhặn nghiêng mình. Tránh không làm trái ý vua, chàng lịch sự tiễn người ra tận cổng; trước khi chia tay ngỏ lời mong khách vui lòng lượng thứ cho về việc chủ nhà đã không có cách đón tiếp người trọng thể hơn nữa, cho thật xứng đáng địa vị của người.
Trên đường trở về trạm nghỉ dành cho du khách, vua Harun An Rasit nghĩ thầm. „Ta thừa nhận về mặt giàu sang Abuncaxem vượt xa các vua chúa; song xét về sự hào phóng, tể tướng của ta đã sai lầm khi dám đặt chàng sánh ngang ta, bởi rốt cuộc anh chàng có tặng ta món quà nào đâu? Thế mà mấy lần ta thốt lên ngạc nhiên trước vẻ đẹp cảu cành cây thân bạc lá ngọc, cũng như khi trong thấy cái ly, về tên hầu trẻ tuổi và cô gái xinh tươi, trông ta tỏ ý ngợi ca như vậy, nhẽ ra anh chàng phải tự hiểu và trao tặng ta một món nào trong số ấy chứ. Không, anh chàng này chỉ là một con người chỉ thích khoa trương thôi; cậu chàng ham phô bày vật báu của mình cho khách nước ngoài ca ngợi; để làm gì? để thoả mãn sự kiêu ngạo và bản tính thích khoe khoang của mình. Thực chất, cậu chàng là một tên keo kiệt. Ta không thể nào tha thức cho Giapha về cái tội đã dối trá ta“.
Đang suy nghĩ những điều chẳng lấy gì tốt lành cho vị tể tướng, vua về tới trạm nghỉ của du khách. Làm sao nói hết sự kinh ngạc của người khi thấy bày ra trước mắt bao nhiêu liều trại huy hoàng vừa dựng lên gồm nhiều gian nhà vải, những tấm thảm lụa trải trên nền cùng một số lớn gia nhân và nô lệ đã được trả tự do; bên cạnh đấy nào ngựa nào lừa nào lạc đà, ngoài ra có đủ thân cây cành bạc và con công vàng, chú gia nhân trẻ tuổi cùng chiếc ly rượu của y, cả cô nô tỳ xinh đẹp cầm đàn tì bà ở tay nữa.
Bọn tôi tớ quỳ mọp sát đất chào ông chủ, trong khi cô gái dâng vua một cuộn lụa bạch. Vua mở ra và đọc những dòng như sau:
„Ôi hỡi ngài đồng thực khách mà tôi chưa hân hạnh quen biết; có thể tôi đã không biết cách đãi đằng ngài thật đúng lễ; cúi xin ngài hãy rộng lòng đại xá cho những lỗi lầm thiếu sót mà tôi có thể mắc phải khi tiếp đón ngài, xin ngài chớ làm tôi thêm hổ thẹn mà khước từ mấy món quà nhỏ mọn gửi đến tặng ngài. Cây bạc, con công, chú tiểu đồng, cái ly và cô gái trẻ, những vật mọn ấy đã thuộc sở hữu của ngài vì hình như chúng vừa ý ngài; từ trước tới nay bất kỳ những vật gì các vị đồng thực khách với kẻ này tỏ ý ưa thích thì chúng không còn là tài sản của tôi, mà trở thành vật sở hữu của quý vị“.
Đọc xong bức thư, hoàng đế vô cùng ngạc nhiên về tính tình rộng rãi của Abuncaxem, và đành thừa nhận mình vội suy xét không đúng về chàng trai. Vua thốt lên:“Triệu triệu phúc lành ban cho Giapha. Chính nhờ lão mà ta được biếu tặng hậu hĩnh thế này. Này, hỡi Harun! từ nay chớ có khoe khoang nữa ông là người giàu sang và hào phóng nhất thế gian; một tên thần dân của ông đã vượt xa ông rồi đó. Nhưng- nhà vua nghĩ tiếp – làm sao một tư nhân bình thưưòng lại có thể biếu tặng người khác những vật phẩm quý hiếm mức ấy nhỉ? Nhẽ ra ta phải hỏi anh chàng kiếm đâu ra nhiều tài sản đến vậy. Ta thú nhận mình đã sơ xuất khi không gạn hỏi anh chàng điều ấy. Ta không muốn quay trở về Batđa mà chưa sáng tỏ câu chuyện này. Cũng quan trọng lắm chứ, việc trong đất nước thuộc quyền ngự trị của ta, lại có một người dân thưòng sống cuộc đời còn nhung lụa hơn cả ta. Nhất định ta phải gặp lại anh chàng, ta sẽ khéo léo tìm cách khơi gợi chàng dốc bầu tâm sự cho ta rõ do đâu chàng có được một gia sản khổng lồ dường ấy“.
Quá sốt ruột để thoả mãn sự hiếu kỳ, vua để mặc bọn gia nhân mới trong trạm lưu trú du khách, một mình quay trở lại ngay dinh cơ chàng trai tre. Khi chỉ có mình vua với chàng, vua cất lời hỏi:
- Hỡi chàng Abuncaxem vô cùng đáng mến, các tặng phẩm của ngài cho tôi quá ư to tát, làm sao tôi dám nhận mà không sợ lạm dụng tấm lòng hào hiệp của ngài. Xin ngài vui lòng cho phép tôi gửi trả lại. Sự tiếp đãi trọng hậu của ngài đã đủ làm cho tôi vô cùng cảm kích; trở về đến Batđa tôi sẽ loan truyền cho mọi người biết về sự giàu sang cũng như tính hoà hoa kháng đạt của ngài.
- Thưa ngài quý mến,- chàng trai đáp vớ vẻ bị xúc phạm- chắc hẳn ngài có điều gì phàn nàn về tên Abuncaxem khốn khổ này. Có thể một hành động nào đó của kẻ hèn mọn đã làm ngài không hài lòng, bởi ngài khước từ các tặng vật của tôi. Giá như ngài vừa lòng, hẳn ngài đã không để cho tôi phải bị nhục mạ vì bị khước từ như vậy.
- Không đâu, thưa ngài, - hoàng đế vội phân trần- nói có trời chứng giám, tôi thật quá cảm kích về thái độ lịch sự của ngài, các tặng phẩm của ngài quý giá quá. Những món quà ấy vượt xa tặng phẩm các đấng quân vương trao cho nhau. Xin phép ngài cho tôi được nói ra điều tôi suy nghĩ, nên chăng ngài chớ quá phung phí tài sản như thế, nên suy nghĩ là rồi đến một ngày nào các kho tàng của ngài sẽ cạn kiệt.
Nghe đến đấy, Abuncaxem mỉn cười và cất lời đáp như sau:
- Trình ngài, quả thật tôi rất vui được biết, không phải ngài muốn trừng phạt tôi về một lỗi lầm nào đó nhỡ với ngài trong khi đón tiếp cho nên khước từ tặng vật. Để mong ngài thoải mái chấp nhận cho, xin phép được thưa tôi có thể ngày nào cũng trao tặng những món quà tương tự thậm chí quý báu hơn nhiều mà chẳng có gì phải bận tâm.
Điều tôi vừa thưa hẳn khiến ngài ngạc nhiên- chàng trai nói tiếp- song ngài sẽ không lấy làm lạ nữa nếu ngài vui lòng cho phép thuật lại những điều từng xảy ra trong đời kẻ này. Xin cho tôi được giãi bày tâm sự với ngài.
Nói xong, Abuncaxem dẫn nhà vua vào một căn phòng trang trí bày biện ngàn lần sang trọng hơn những phòng vua đã thấy. Nhiều lư hương toả mùi thơm dìu dịu. Giữa phòng đặt một chiếc ngai bằng vàng ròng, dưới sàn trải nhiều tấm thảm quý. Hoàng đế Harun An Rasit không thể nào hình dung mình đang ở trong nhà một người dân thường mà cứ ngỡ đây là cung điện một bậc đế vương còn hùng mạnh hơn cả mình. Chàng trai trẻ mời vua ngồi lên ngai, chàng ngồi xuống một chiếc ghé bên cạnh, và bắt đầu thuật chuyện đời mình như sau.
NGÀY THỨ TƯ
Tôi là con trai một nhà buôn kim hoàn thành phố Cairo tên là Apđêlazit. Cụ tôi sở hữu quá nhiều tài sản, cụ sợ sự giàu sang của mình có thể làm cho hoàng đế nước Ai Cập, vốn là người keo kiệt sinh lòng đố kỵ nên dời sang lập nghiệp tại thành phố Basra này. Cụ tôi kết hôn cùng người con gái duy nhất của thương nhân giàu có nhất Basra.
Tôi là đứa con một của cuộc hôn phối ấy. Thành ra tôi thừa hưởng tất cả gia sản của cha tôi cũng như của mẹ tôi. Sau khi song thân tôi từ trần, và trở thành một người vô cùng giàu có. Nhưng hồi ấy tôi còn trẻ lắm, tôi ham tiêu pha chơi bời. Tính tôi vốn hào phóng, nói đúng hơn tôi là con người phóng đãng, khi thấy mình có điều kiện rồi, tôi ăn chơi thả giàng, tha hồi ném tiền qua cửa sổ. Do vậy chỉ trong vòng hai, ba năm cả gia tài khổng lồ của tôi tan theo mây khói. Đến lúc này, cũng như mọi người từng hối tiếc về các cuộc truy hoan của mình ngày trứoc, tôi bắt đầu có những suy nghĩ đứng đắn hơn.
Đang có ít nhiều danh tiếng ở thành phố, tôi nghĩ tốt hơn là nên lánh đi khỏi thành phố này, tìm cách kéo lê những ngày tàn đói khổ ở nơi đất khách quê người. Tôi nghĩ sống bần hàn trước con mắt những người chưa hề quen biết dù sao cũng dễ chịu đựng hơn sống nơi mọi người đều rõ mình từng có một thời giàu sang. Tôi bán ngôi nhà, tài sản cuối cùng còn sốt lại. Tôi nhập vào một đoàn nhà buôn, theo họ đến thành phố Muxem, rồi từ đó sang Đamat. Băng qua sa mạc Arabi và dãy núi Pharan, tôi đến thành phố Cairo hùng vĩ.

Phố xá nhà cửa đẹp đẽ, các thánh đường lộng lẫy làm cho tôi rất đỗi ngạc nhiên. Chợt nhớ đây chính là thành phố nơi thân sinh tôi, cụ Apđenlazit ra đời, tôi không thể cầm lòng không rơi nước mắt, thở vắn than dài. „Ôi thân phụ của con ơi- tôi thầm khấn – giá như cha còn sống trên đời, nhìn thấy đứa con trai đáng lẽ giàu sang lại ra nông nỗi này, hẳn cha đau lòng biết bao!“
Bị ám ảnh bởi những suy tư phiền não, tôi đến bên bờ sông Nin và đi dạo một mình. Lúc này tôi đang đứng ở mặt sau của Cung hoàng đế. Bỗng nhiên ở một cửa sổ xuất hiện một phụ nữ mà nhan sắc thoạt trông đã làm tôi ngây ngất. Tôi dừng chân ngắm nàng. Nàng để ý thấy và vội lùi vào trong nhà. Lúc này trời đã tối, mà tôi thì chưa tìm ra nơi nghỉ ổn định, đành vội đi hỏi tìm thuê một nhà trọ quanh vùng.
Đêm hôm ấy tôi chẳng làm sao nghỉ ngơi yên ổn. Bóng dáng người đẹp cứ theo đuổi tâm trí tôi. Tôi nghĩ thầm: „Giá mà trời không xui khiến nhìn thấy và để ý tới nàng, thì ta đã không đến nỗi đắm say một mối tình vô vọng. Mà sao ông trời không cho phép ta được ngắm nhìn nàng lâu hơn ít nữa!“
Ngày hôm sau tôi cố tình đến chỗ hôm qua, nơi có cửa sổ phòng nàng, với hy vọng có thể lại nhìn thấy dung nhan người đẹp. Nhưng chỉ là hy vọng hão huyền mà thôi, nàng không xuất hiện. Điều ấy làm tôi buồn phiền ghê gớm, tuy nhiên tôi không hề nản; hôm sau nữa tôi lại đến, và lần này may mắn hơn. Phu nhân hiện ra bên cửa sổ. Khi thấy tôi chăm chăm nhìn, nàng mắng:
- Này tên vô lễ kia, mày há không biết nghiêm cấm đàn ông dừng chân trước các cửa sổ của dinh thự này? Hãy đi nơi khác ngay tức khắc. Nếu các võ quan của hoàng đế nhìn thấy mày ở đây, họ sẽ giết chết mày.
Không chút lo âu về lời cảnh cáo ấy, tôi phủ phục sát đất rồi ngẩng đầu lên thưa:
- Trình phu nhân, tôi là một người từ nước ngoài mới đến, chưa am tường luật lệ thành phố Cairo ta, nhưng cho dù có biết, cũng không ngăn cản tôi dừng chân chiêm ngưỡng sắc đẹp của bà.
- Tên bạo gan kia, mày không sợ ta sai bọn nô lệ ra trừng trị tội mày hay sao?
Nói xong, nàng biến mất. Tôi lo nàng bất bình về sự táo gan của tôi, chắc đang đi gọi người đến đánh đập.
Tôi chờ đợi lính tráng tay đao tay thước đến bổ nhào vào mình. Tuy nhiên xúc động về cơn giận của người đẹp còn mạnh hơn lo âu vì sự doạ nạt của nàng, tôi chẳng hề cảm thấy hiểm nguy, cứ thản nhiên thả bộ về nhà. Đêm ấy quả là một đêm sóng gió nữa của tôi. Bởi quá chấn động về mối tình, người tôi lên cơn sốt, máu tôi cứ như sôi lên, nhắm mắt chỉ mơ toàn ác mộng.
Tuy nhiên ước mong được nhìn thấy lại người đàn bà, hy vọng được nàng đối xử nương tay hơn một chút, cho dù biết đấy là một niềm hy vọng rất đỗi mong manh, làm cơn sốt của tôi dịu dần. Một sự đam mê điên rồ cuốn hút tôi, ngày hôm sau lôi chân tôi trở lại bên bờ sông Nin, và tôi đứng như trời trồng đúng vào chỗ mấy ngày hôm trước.
Chắc nhác trông thấy tôi, phu nhân ấy tiến đến bên cửa sổ; song vẻ kiêu sa của nàng khiến tôi khiếp đảm. Nàng quát:
- Này, tên khốn khiếp kia, ta đe doạ mày đến thế, mà mày còn dám dẫn xác đến đây nữa sao? Hãy trốn ngay khỏi chốn này, vì thương hại mày mà ta cảnh báo cho một lần nữa; nếu mày không biến ngay tức khắc thì mất mạng là cái chắc.- Thấy tôi chưa chịu đi, lát sau nàng nói tiếp – Cái gì giữ chân mày lại đây, hở tên trẻ tuổi táo gan kia? Hãy sẵn sàng đi, sấm sét sắp giáng xuống đầu mày rồi đó.
Những câu ấy giá như người khác ít đam mê hơn tôi nghe hẳn đã tin ngay, ấy thế mà tôi đáng lẽ bỏ đi lại cứ nhìn nàng một cách âu yếm và đáp:
- Hỡi phu nhân xinh đẹp, nhẽ nào nàng nghĩ một chàng trai bất hạnh đang si mê nàng, đang hết sức ái mộ nàng cho dù vô vọng, lại sợ chết hay sao? Hỡi ôi! Tôi thà chết còn hơn sống trên đời mà không được sống vì nàng.
Người phụ nữ liền đáp:
- Nếu mày đã cứng đầu cứng cổ đến vậy, thì hãy đi vào trong phố chơi cho hết ngày hôm nay đi, tối trở lại dưới của sổ phòng ta.
Vừa nói xong câu, nàng nhanh chóng biến mất, để mình tôi kinh ngạc đứng ngẩn người ra đấy, lòng tràn trề yêu đương và vui sướng.
Nếu cho đến lúc ấy tôi cứ cưỡng lại mọi mệnh lệnh dứt khoát của phu nhân, ngài có thể hiểu lần này tôi lại sẵn sàng tuân thủ; câu chuyện vừa xảy ra làm cho tôi cảm thấy dịu ngọt trong lòng. Trong khi chờ đợi niềm lạc thú mà tôi tưởng tượng nên, tôi thấy tan biến đi mọi điều bất hạnh. Tôi tự nhủ: „Ta chẳng có gì phàn nàn về số mệnh nữa. Thật không ngờ định mệnh hôm nay lại ưu ái ta đến vậy, cũng mãnh liệt như nó từng giày xéo ta thời gian qua“. Thế là tôi trở về nhà, chỉ còn lo mỗi một việc ăn mặc, chải chuốt, ngắm nghía và xức nước hoa thơm phức người.
Đêm hôm ấy, chờ đến lúc thuận tiện để tới nơi tình yêu đang vẫy gọi, tôi mò mẫm đi trong bóng tối. Tôi nhận ra, tại một cửa sổ căn hộ của nàng, có mắc sẵn một sợi dây dòng xuống đất. Tôi bám sợi dây leo lên, vào được trong nhà rồi tôi còn phải qua hai gian nữa mới tới một căn phòng rộng bày biện trang hoàng hết sức lộng lẫy, chính giữa phòng đặt một chiếc ngai bạc.
Tôi chẳng chút quan tâm đến bàn ghế quý giá cũng như mọi thứ khác trong phòng, mắt tôi chỉ dán vào một người phụ nữ. Ôi, thưa ngài, phu nhân ấy mới xinh đẹp làm sao! Không hiểu sao thiên nhiên có thể sẵn đúc một toà tuyệt tác như vậy, hoàn hảo đến vậy và phô ra cho cánh mày râu chúng ta chiêm ngưỡng? Chẳng phải vì tôi đã đam mê nàng, nên sẵn có định kiến nàng là người đẹp cho nên không nhận ra khiếm khuyết nào nơi giai nhân, thành thật tự đáy lòng tôi thấy quả nàng đẹp vô song.
Nàng mời tôi yên vị lên ngai, rồi ngồi xuống bên cạnh, và hỏi tôi là ai. Tôi thuật lại hoàn toàn chân thực câu chuyện đời mình. Tôi để ý thấy nàng chăm chú nghe, và dường như có hơi chút mủi lòng khi thấy định mệnh đưa tôi tới nông nỗi này. Vẻ thương hại từ một trái tim độ lượng hiện lên nét mặt người đẹp càng làm cho tôi thêm say đắm, như chưa từng một người đàn ông đang yêu nào trên đời yêu đắm say đến thế. Tôi nói:
- Thưa phu nhân, cho dù tôi đang trong cảnh bất hạnh đến mức nào, tôi thôi không tự thương thân trách phận nữa, bởi đã được phu nhân hạ cố đem lòng thông cảm.
NGÀY THỨ NĂM

Bất giác cuộc trò chuyện giữa nàng và tôi dần dần trở nên dịu dàng âu yếm, nàng tỏ ra một con người đầy trí tuệ. Nàng thú thật, nếu tôi đã đắm say nàng ngay khi thoạt trông thấy, thì nàng cũng không thể tự ngăn mình chớ để ý đến tôi. Nàng nói tiếp:
Bởi chàng đã cởi mở cho em biết chàng là ai, em không muốn để chàng không hay biết em là con người như thế nào.
Tên em là Đacđanê. Em sinh ra tại thành phố Đamat. Phụ thân em vốn là một trong những vị đại thần của nhà vua đang trị vì ở đấy, quý danh cụ là Bêtru. Bởi thân sinh em là người xưa nay chỉ biết coi niềm vinh quang của nhà vua và lợi ích quốc gia là nguyên tắc dắt dẫn mọi hành vi của mình, người có không ít kẻ thù, họ là những kẻ suy nghĩ và sống theo những nguyên tắc khác. Ấy thế là họ tìm đủ cách xúc xiểm để rốt cuộc nhà vua ghét bỏ người. Quan đại thần Bêtru không may ấy, sau nhiều năm phục vụ hết mình, một hôm thức dậy chợt thấy bị gạt ra khỏi triều đình. Ngài lui về sống ẩn dật tại một ngôi nhà gần cổng thành, và chỉ còn mỗi việc mang hết tâm trí chăm lo giáo dục con cái. Nhưng than ôi! Phụ thân em đâu có được hưởng thụ kết quả công lao nuôi nấng dạy dỗ của mình: người qua đời khi em vẫn còn là một đứa trẻ vị thành niên.
Cha em vừa qua đời, mẹ em liền bán hết gia cư điền sản lấy tiền mặt. Người đàn bà khốn nạn, sau khi bán con gái cho một người chuyên buôn nô lệ, mang theo tiền của theo người tình trẻ cùng nhau lên đường sang nước Ấn Độ. Trong thời gian ấy, nhà buôn kia đưa em cùng một lúc với nhiều thiếu nữ khác ông vừa mua được, sang thành phố Cairo. Ông may sắm cho chúng em áo quần thật sang trọng, rồi chờ khi có dịp đưa chúng em đến ra mắt hoàng đế Ai Cập. Ông dẫn cả bọn vào hoàng cung, đến một gian phòng rộng, ở đó hoàng đế đang ngự trên ngai vàng.
Chúng em lần lượt diễu qua trước mặt vị quân vương, người tỏ vẻ thích thú khi nhìn thấy em. Người bước xuống ngai, tiến đến gần em và nói:
- Con bé này trông dễ thương quá! Hãy nhìn xem đôi mắt, hãy nhìn xem cái miệng nó kìa! Này anh bạn- vua quay lại nói tiếp với nhà buôn- từ ngày ông đi tìm kiếm nữ nô lệ mang về triều đình cho ta chọn, chưa bao giờ ông kiếm được một đứa đẹp bằng con bé này. Không, quả thật không có người phụ nữ nào có thể sánh tày cô gái hôm nay. Này, cần bao nhiêu, ông hãy ra giá đi, đắt đến đâu ta cũng đồng ý mua cô thiếu nữ xinh như hoa này.
Nhà vua khoái chí quá, sai mang trả cho nhà buôn một khoản tiền khá lớn, rồi cho ông cùng tất cả các cô gái khác lui về. Tiếp đó, người gọi viên trưởng hoạn nô đến bảo:
- Này, Kêcabia, ông hãy dẫn tuyệt thế giai nhân này đi và đưa nàng đến ở một ngôi nhà biệt lập.
Viên trưởng hoạn nô tuân lệnh, đưa em đến ngôi nhà này, đúng là một ngôi nhà đẹp nhất trong hoàng cung. Em vừa tới nơi, thì cơ man là nữ tì trẻ có già có, vội theo chân tới. Người thì mang đến cho em nhiều bộ xiêm y lộng lẫy, người thì dân hoa quả và nước giải khát, một số khác mang đàn ra hoà tấu khá hay. Tất cả đều thưa, chúng được hoàng đế phái tới hầu hạ em, mọi người nguyện cố gắng hết sức mình làm tròn nhiệm vụ hoàng đế giao.
Chẳng bao lâu hoàng đế thân hành tới thăm em. Người bày tỏ với em tình yêu bằng lời lẽ nồng nhiệt nhất; những câu chuyện ấy đối với em mới lạ quá, câu trả lời thơ ngây của em chẳng những không làm hoàng đế không hài lòng, mà ngược lại càng khiến người thêm quý mến. Cuối cùng em trở thành cung phi được sủng ái nhất của nhà vua. Tất cả mọi cung tần mỹ nữ tự cho mình đủ nhan sắc để có thể ngồi vào địa vị của em đều rất ganh tị chuyện đó, chàng không sao tưởng tượng hết mọi thủ đoạn chúng bày ra suốt ba năm qua để hãm hại em đâu. Nhưng em bao giờ cũng tỉnh táo đề phòng, thành ra chúng nó dù ma mãnh đến đâu cũng vô ích mà thôi. Chẳng phải tại em hài lòng với số phận của mình; bởi em không thể nào thật lòng yêu hoàng đế và em cũng chẳng loá mắt trước những vinh danh người dành cho mình. Em chỉ ghét bọn tình địch lúc nào cũng tìm đủ mọi cách hạ bệ em, thế cho nên em cố gắng để cho cả bọn thấy chúng chỉ mất công toi thôi. Mong chàng bỏ quá cho chuyện nhi nữ thường tình ấy.
Nàng nói tiếp:
Nỗi buồn phiền của bọn tình địch thua cuộc làm em sảng khoái hơn tình yêu của hoàng đế dành cho em. Cũng phải thừa nhận vị quân vương ấy rất khả ái; nhưng phần thì có phải đâu tình yêu phụ thuộc vào lý trí của mình, phần thì dường như định mệnh đã dành trái tim em riêng chờ chàng đến, bởi chàng là người đàn ông đầu tiên em để mắt nhìn.
Đáp lại lời tỏ tình hiếm hoi làm tăng tiến vận may của mình, tôi hứa với người đẹp sẽ dành cho nàng một tình yêu bất diệt, và tôi thúc giục nàng chớ nên chần chứ sớm ban cho tôi hạnh phúc. Đúng vào lúc trước khẩn khoảng đòi hỏi yêu thương của tôi, nàng Đacđanê sắp xiêu lòng mà ban cho tôi đỉnh cao lạc thú, thì có tiếng đập cửa khá dập dồn và mạnh mẽ. Cả hai chúng tôi đều rụng rời chân tay. Người đẹp thì thầm: „Trời đất ơi, bọn chúng nó đã phản bội em. Chết chúng ta rồi. Đích thân hoàng đế đến đấy.“
Giá như chiếc thừng đã giúp tôi leo lên ở đúng vào gian phòng này, hẳn tôi đã dễ dàng bám lấy nó tụt xuống đất và thoát thân, nhưng nó lại mắc ở gian hiện nay đang có mặt hoàng đế, thành ra chỉ còn mỗi một lối thoát duy nhất là chui xuống trốn dưới gầm chiếc ngai bạc. Nàng Đacđanê ra mở cửa.
NGÀY THỨ SÁU
Nhà vua, theo sau có nhiều hoạn nô cầm đèn soi đường, giận dữ bước vào và quát:
- Con khốn kiếp kia! Có thằng đàn ông nào đang ở đây với mày? Nhiều người thấy nó leo lên qua một cửa sổ căn phòng này, và sợi thừng còn mắc ở cửa sổ ngoài kia!
Nghe vua quát, Đacđanê hoảng hồn, nàng đứng câm như thóc, không thốt nổi một lời. Nàng đã liều lĩnh đến mức ấy, thì bây giờ đến lúc phải trả giá thôi. Hoàng đế phán bảo những người theo hầu:
- Chúng mày hãy lục soát khắp nơi. Không được cho tên khốn kiếp ấy thoát khỏi trừng phạt của ta!
Bọn hoạn nô răm rắp tuân lệnh. Chúng lục lọi khắp nơi. Phát hiện thấy tôi chui dưới gầm ngai, chúng lôi cổ tôi ra, kéo lê đến trước chân nhà vua. Hoàng đế quát:
- Tên khốn nạn kia! Khá khen cho mày to gan lớn mật! Cả thành phố Cairo này hẵn thiếu giống đàn bà cho mày hay sao? Lẽ nào đến hoàng cung của ta, mày cung không kính nễ?
Tôi cũng khiếp đảm chẳng kém nàng cung phi, thiếu chút nữa thì đã lăn ra bất tỉnh nhân sự. Tôi nghĩ giá như câu chuyện ấy diễn ra đối với ngài ở thành phố Batđa, ngài lâm vào cảnh ngộ của tôi khi ngài bị hoàng đế Harun An Rasit vĩ đại bắt chợt (cúi xin ngài lượng thứ cho ý nghĩ vừa rồi), thì tâm trạng ngài hẳn cũng chẳng khác tôi khi ấy. Tôi không đủ sức nói ra lời. Tôi quỳ mọp dưới chân hoàng đế, chỉ còn chờ chết nữa thôi. Nhà vua đã rút gươm sắp sửa chém thì bỗng xuất hiện một bà cụ già lai đen ngăn vua lại. Bà nói:
- Ngài làm gì vậy, muôn tâu hoàng thượng? Sao ngài lại để tay mình vấy dòng máu đê hèn dường ấy? Chúng nó không đáng để mặt đất này vùi thi thể của chúng, một tên dâm phu không biết thế nào là lòng kính trọng hoàng đế, một con dâm phụ đã đang tâm phản bội ngài? Xin ngài hãy ra lệnh ném cả hai đứa xuống dòng sông Nin, để cho tôm cá rứt xác chúng ra.
Hoàng đế nghe theo lời khuyên. Thế là bọn hoạn nô lôi hai chúng tôi đến bên cửa sổ một tháp canh xây nhô ra sông, ném cả hai xuống dòng Nin.
Tuy có bị choáng khi đập thân xuống nước, vốn là một người giỏi bơi lội, tôi bơi sang bờ bên kia, đối diện với hoàng cung. Thoát khỏi một cái chết cầm chắc, tôi nghĩ đến người phụ nữ, mà cơn thất thần trước lưỡi hái thần chết đã khiến tôi quyên lãng. Thế là tình yêu vượt lên nỗi sợ chết, tôi lại lao xuống dòng sông, cũng hăm hở như khi cố sức trèo lên bờ cho thoát nạn. Tôi bơi xuôi theo dòng, và mặc dù đêm tối đen như mực, vẫn cố giương to mắt nhìn khắp chốn mọi nơi, may ra tìm được xác người đàn bà mà tôi đã gây nên cái chết. Hồi lâu thấy sắp đuối sức, tôi lần leo lên bờ để giữ mạng sống, bởi chết lúc này phỏng còn được ích lợi gì.
Tin chắc mười mươi nàng cung phi sủng ái đã mất mạng, tôi đau đớn tự trách mình không sao tả xiết. Thế là mang thêm mối hận gây nên cái chết cho một con người. Tôi khóc như mưa như gió:
- Hỡi ôi! Giá không có ta, không có mối tình sát hại của ta, thì nàng Đacđanê, nàng Đacđanê xinh đẹp lúc này vẫn sống. Tại sao ta lại dẫn xác đến thành phố Cairo này? Tại sao, đã biết là hoạ vô đơn chí, sự bất hạnh này tất kéo theo sự bất hạnh khác, mà ta vẫn cố tìm kiếm tình yêu ở một con người xinh tươi dường ấy?

Quá đau đớn thấy chính mình là nguyên nhân đưa đến cho người mình yêu quý nỗi bất hạnh tuyệt cùng, sau khi đã trót xảy ra chuyện ấy, việc tôi chần chừ nán lại thành phố Cairo chỉ còn là một sự đáng nguyền rủa mà thôi, tôi lên đường đến thành phố Batđa.
Sau nhiều ngày đi đường, một hôm tôi đến chân một ngọn núi, qua bên kia núi sẽ gặp một thành phố lớn. Tôi dừng chân bên một con suối để nghỉ ngơi và quyết định tạm qua đêm ở nơi này. Tôi ngủ thiếp đi cho đến khi mặt trời đã sắp mọc. Chợt vẳng tiếng khóc rên cách chỗ tôi nằm chừng mấy bước, làm tôi tỉnh hẳn giấc. Tôi lắng tai nghe, dường như đấy là tiếng rên la của một người đàn bà đang bị hành hạ. Tôi vội dậy, tiến đến gần chỗ phát ra tiếng khóc rên, và trông thấy một người đàn ông đang đào huyệt bằng một cái cuốc.
Tôi nấp sau bụi cây để quan sát. Thấy anh chàng sau khi đào cái hố, đặt một vật gì xuống đấy, phủ lớp đất mỏng rồi hối hả bỏ đi. Lúc này mặt trời đã mọc, tôi đến gần xem cho rõ sự tình. Tôi moi lớp đất phủ, thấy một cái túi may bằng vải lớn đẫm máu, trong túi đựng xác một người con gái trẻ dường như vừa trút hơi thở cuối cùng. Bộ quần áo cô mặc cho dù dầm dề máu, vẫn cho thấy rõ đây là một con người thuộc giới thượng lưu. Lòng đầy đau xót và kinh tởm, tôi kêu lên:
- Sao có người dã man đến mức đang tâm hãm hại một thiếu phụ lịch sự thế này? Xin trời đất hãy tiêu diệt tên sát nhân!
Người đàn bà tôi tưởng đã chết, nghe tiếng than, liền cất lời:
- Hỡi người anh em tín đồ hồi giáo, xin hãy đem lòng nhân ái cứu giúp tôi. Nếu người biết kính yêu đấng tạo hoá, xin hãy làm phúc cho tôi ngụm nước, cho dịu bớt cơn khát đang dày vò, để cho tôi bớt đau hơn chút ít.
Tôi vội vàng chạy đến giếng, lật chiếc khăn xếp đội trên đầu xuống vục một khăn đầy nước mang đến cho người thiếu phụ. Uống xong, nàng mở mắt nhìn tôi:
- Ôi hỡi chàng trai trẻ vừa kịp thời cứu mạng em, xin hãy tìm cách cầm máu em lại. Em không nghĩ mình bị tử thương. Xin hãy cứu sống em, rồi người anh em chẳng phải hối tiếc đâu.
Tôi xé chiếc khăn đội đầu và rứt một thân tấm áo đang mặc, băng bó tạm vết thương cho nàng. Nàng nói:
- Người đã làm phúc cho em, xin làm đến nơi đến chốn. Hãy tìm cách đưa em về thành phố, để người ta chữa chạy cho em.
- Thưa phu nhân xinh đẹp,- tôi đáp- tôi là một người nước ngoài, không quen biết ai trong thành phố này. Nếu nhỡ có gặp ai và hỏi tại sao tôi mang theo một người con gái vừa bị ai sát hại này, thì tôi biết trả lời ra sao?
- Hãy bảo đây là em gái chàng, còn mọi việc khác chàng không phải lo âu.
Tôi cõng người thiếu phụ trên lưng, đưa vào thành phố, đến một trạm lưu trú dành cho du khách, nhờ sửa soạn cho nàng một chiếc giường. Tôi cho mời một thầy thuốc đến chạy chữa cho nàng. Ông quả quyết các vết thương của nàng chẳng có gì đáng lo ngại. Quả nhiên chỉ một tháng sau nàng bình phục hoàn toàn. Trong thời gian dưỡng bệnh, nàng hỏi lấy giấy bút, ngồi viết một bức thư đặt vào tận tay tôi và nói:
- Anh hãy tìm đến nơi các thương nhân thường tụ họp với nhau, hỏi có vị nào tên là Maya, và trao bức thư này cho ông ấy. Ông ấy đưa thứ gì, anh hãy nhận lấy và mang về đây cho em.
Tôi mang bức thư của nàng đến tìm trao cho Maya. Ông đọc thư rất chăm chú, kính cẩn hôn bức thư rồi đặt lên đầu. Tiếp đó ông lấy ra hai túi lớn đựng đầy những đồng xơcanh (đơn vị tiền cổ) vàng trao cho tôi. Tôi mang về đưa cho thiếu phụ. Nàng nhờ tôi tìm thuê một ngôi nhà. Thuê được nhà rồi, hai chúng tôi dọn về đấy ở. Vừa tới nhà mới, nàng lại viết cho Maya một bức thư thứ hai, lần này ông trao cho tôi những bốn túi đầy xơcanh. Theo lệnh người thiếu phụ tôi đi mua nhiều trang phục cho nàng và cho tôi, cùng mấy tên nô lệ để hầu hạ trong nhà.
NGÀY THỨ BẢY
Đối với bà con trong khu phố, tôi là anh trai thiếu phụ, mà trên thực tế tôi sống đúng như một người anh trai thật, cho dù nàng là một con người khá hấp dẫn. Người đẹp Đacđanê vẫn choán hết tâm hồn tôi. Chẳng những không muốn kiếm tìm những cuộc tình mới, hơn một lần tôi định từ biệt nàng, song nàng khẩn khoản van tôi chớ bỏ nàng mà đi. Nàng nói:
- Hãy chờ cho ít nữa, hỡi chàng trai trẻ, em cần có anh một thời gian nữa. Rồi đây em sẽ nói cho anh rõ em là ai, và em những muốn sẽ đền đáp xứng đáng công ơn anh đã giúp đỡ em trong cơn hoạn nạn.
Vậy là tôi vẫn phải ở cùng nhà với nàng. Tất cả những việc tôi làm cho nàng đều thuần tuý xuất phát từ lòng hào hiệp. Cho dù rất muốn biết do căn cớ nào nàng bị người ta âm mưu sát hại, tôi không có cách nào làm cho nàng hé lời. Nhiều lần tôi tạo ra cơ hội để nàng giãi bày đầu đuôi câu chuyện xảy ra, nàng vẫn một mực lặng im, không chịu đáp ứng lòng hiếu kỳ của tôi. Một hôm, nàng đưa cho tôi một túi đựng đầy đồng xơcanh và bảo:
- Anh hãy vào phố tìm một nhà buôn có tên là Namahran. Hãy nói anh cần mua nhiều vải đẹp. Ông ta khắc bày ra nhiều loại, anh chọn mua mấy tấm mà anh thấy vừa ý, rồi trả tiền không mặc cả. Anh hãy tỏ ra thật lịch sự với ông ta, rồi mang vải về đây cho em.
Tôi tìm hỏi nhà ông Namahran ở đâu. Biết địa chỉ rồi, tôi tìm đến nơi, thấy ông đang ngồi trong hiệu. Đấy là một chàng trai trẻ vóc dáng khá đẹp, mái tóc xoăn đen nhánh hơn hạt huyền. Ông mang đôi hoa tai rất sang, và hai bàn tay ngón nào cũng đeo nhẫn nạm những viên kim cương rõ to. Tôi ngồi xuống cạnh ông, hỏi mua vải. Ông đưa ra cho tôi xem nhiều thứ. Tôi chọn lấy ba tấm. Ông ra giá, tôi đếm đủ tiền ngay, và sau khi lịch sự xin cáo từ, tôi sai một tên nô lệ vẫn theo hầu mang về nhà.
Hai hôm sau, thiếu phụ lại trao cho tôi một túi tiền vàng khác, nhờ tôi đến hiệu ông Namahran hỏi mua thêm nhiều loại vải vóc nữa. Lần này nàng lại dặn:
- Xin anh nhớ là chớ có mặc cả, ông ta đòi bao nhiêu, trả đủ bấy nhiêu cho em.
Nhà buôn ấy vừa trông thấy tôi bước vào hiệu, và hiểu rõ ý của khách, vội vàng phô ra nhiều loại vải đẹp nhất. Tôi chọn mấy thứ vừa ý. Đến lúc trả tiền, tôi ném túi đồng vàng cho Namahran, bảo giá hết bao nhiêu, xin ông hãy đếm và cầm tiền hộ. Ông ta có vẻ rất thú vị trước cách ăn chơi ấy. Ông nói với tôi:
- Thưa ngài cao quý, ngài có thể cho tôi vinh hạnh được một hôm nào đó mời ngài đến dùng bữa tối ở tệ xá?
Tôi đáp:
- Rất vui lòng. Có thể ngay ngày mai, nếu như ngài muốn.
Ông chủ hiệu vải mừng rỡ, được như vậy thì vô cùng vinh hạnh cho ông.
Khi tôi thuật lại với thiếu phụ ông chủ hiệu buôn muốn mời tôi dùng bữa tối ở nhà ông, nàng tỏ vẻ vui mừng khôn xiết. Nàng nói:
- Xin anh chớ quên đến đấy dùng bữa nhé. Sau đấy nói đến lượt anh muốn thiết đãi ông ta, mời ông ta chiều hôm sau tới nhà mình. Em sẽ sai chuẩn bị bữa tiệc.
Tôi chẳng hiểu sao nàng tỏ vẻ vui mừng đến vậy; chắc có ý đồ chi đây. Tuy nhiên tôi chẳng muốn tìm hiểu sâu làm gì. Vậy là ngày hôm sau tôi tới nhà ông chủ hiệu vải. Ông ta đãi đằng tôi hết sức trọng thị. Trước khi chia tay ra về, tôi nói ông rõ nhà chúng tôi ở đâu, và ngỏ lời muốn đến lượt mình mời ông ngày hôm sau đến nhà dùng cơm chiều.
Ông ta đến đúng hẹn. Chúng tôi ngồi vào bàn, và suốt buổi chiều hôm ấy, cùng nhau thưởng thức những loại rượu ngon nhất. Người thiếu phụ không muốn cùng tham dự bữa tiệc, hơn nữa nàng cố tình giấu mặt trong suốt bữa ăn. Trước đó nàng đã hết sức cẩn thận dặn tôi cố hết sức làm vui lòng ông khách, và gắng làm sao chớ để ông ta ra về tối hôm ấy. Thế là tôi khẩn khoản cầm chân ông lại. Chúng tôi lại cùng nhau uống rượu, chơi bời đến tận nửa đêm. Lúc này tôi dẫn ông vào một căn phòng gia nhân đã sửa soạn tươm tất, mời ông tạm nghỉ rồi lui về phòng riêng của mình.
Tôi lên giường nằm và ngủ luôn. Song chưa nghỉ ngơi được mấy chốc đã thấy thiếu phụ đến đánh thức. Tôi thấy nàng tay cầm bó đuốc, tay kia nắm cây dao găm. Nàng nói:
- Hỡi chàng trai trẻ, xin hãy tỉnh dậy, hãy đến xem vị đồng thực khách của anh đang ngập trong vũng máu kia.
Những lời nói nghe mà kinh hoàng làm tôi choàng tỉnh. Tôi vội vàng mặc áo, theo chân thiếu phụ đến căn phòng ông khách nghỉ, thấy anh chàng khốn khổ nằm chết sóng sượt trên giường. Tôi kêu lên:
- Hỡi con người độc ác kia, nàng làm gì vậy? Tại sao nàng nỡ có hành vi đen tối đến thế. Tại sao nàng biến tôi trở thành công cụ cho nàng thực hiện cơn điên?
Chàng trai trẻ ơi, - nàng đáp- xin chớ bực mình đã giúp em trả thù Namahran, nó là một tên phản trắc. Anh sẽ không còn thương hại hắn ta nữa một khi anh rõ tội ác của nó, hay đúng hơn khi anh biết chính hắn là kẻ đã gây nên cho em bao điều bất hạnh, mà em xin thuật lại để anh tỏ tường sau đây.
Nàng nói tiếp:
- Em là con gái nhà vua đang trị vì ở thành phố này. Một hôm trên đường đến nhà tắm công cộng, em nhìn thấy Namahran trong cửa hiệu của y, tự nhiên em xúc động trong lòng. Mặc dù cố ngăn mình, hình ảnh anh chàng luôn hiện diện trong tâm trí em. Em cảm thấy si mê hắn ta, em đã cố xua đuổi đi ý nghĩ ấy vì cảm thấy như vậy thật chẳng xứng đáng với địa vị của mình, và đôi lần những tưởng có thể vượt qua. Nhưng em đã nhầm lẫn. Tình yêu chiến thắng sự kiêu sa. Em trở nên bồn chồn rầu rĩ, căn bệnh ấy ngày một trầm trọng thêm, khiến em ngã bệnh nặng. Chắc em đến chết mất vì căn bệnh tương tư ấy. Tuy nhiên bà quản mẫu của em, vốn quen thuộc các triệu chứng của cơn bệnh tình giỏi hơn các vị ngự y nhiều, bà hiểu rõ căn nguyên. Bà khéo léo dỗ dành để em thú thật là suy đoán của bà quả không sai. Em kể cho bà nghe em trở nên say đắm mối tình này trong trường hợp nào. Nghe xong, bà hiểu ra ngay, rõ ràng em đang mắc bệnh si mê Namahran như dại như điên.
Bà tỏ ra thương hại em. Bà hứa sẽ tìm cách làm cho em đỡ đau khổ. Quả vậy, một hôm bà tìm được cách đưa anh chàng nhà buôn trẻ cải trang thành con gái vào được ngôi nhà em đang ở. Em vui mừng được nhìn lại anh ta, đồng thời cũng nhận ra anh vô cùng tỏ ra diễm hạnh trước tình yêu của em. Sau khi giấu anh chàng nhiều ngày trong một gian phòng để có dịp đi lại với em, bà quản mẫu lại khéo léo tìm cách đưa anh chàng ra trót lọt khỏi hoàng cung, y như lần vào. Thế là lâu lâu anh chàng lại đến với em dưới dạng cải trang ấy. 
NGÀY THỨ TÁM
Chẳng hiểu sao em nảy ra ý định dại dột tự mình tìm đến gặp Namahran. Em muốn đến bất chợt, cho anh chàng thảng thốt vì bất ngờ, nghĩ rằng làm như vậy anh ta sẽ thấy tình yêu của em đối với anh lên đến tuyệt đỉnh. Một đêm, em ra khỏi hoàng cung theo những con đường tắt mà em chẳng lạ gì, đến thẳng nhà anh chàng. Tìm ra ngôi nhà ấy chẳng khó khăn lắm, vì em đã để ý mỗi lần đi ngang qua, trên con đường tới nhà tắm và từ nhà tắm trở về. Em đập cửa, một con nữ tì ra hỏi bà là ai và bà cần gì. Em đáp:
- Ta là một thiếu phụ trong thành phố. Ta có việc muốn gặp ông chủ mày.
- Ông ấy đang bận, - nữ tì nói- lúc này ông đang dở tiếp một bà khác, mời bà tối mai trở lại.
Nghe ba tiếng „một bà khác“, em nổi cơn ghen không sao kiềm chế được. Em như điên lên; đáng lẽ quay trở về, em xộc luôn vào nhà. Thấy một gian phòng có ánh sáng và có vẻ đang có tiệc tùng trong ấy, em bước vào, trông thấy anh chàng thương nhân ngồi dùng bữa với một cô gái trẻ khá xinh. Hai người đang chén anh chén em, và cùng song ca những khúc hát trữ tình say đắm. Cảnh tượng ấy làm em không sao nén được cơn giận, em bổ nhào vào cô gái trẻ rồi cứ thế mà đấm liên hồi kỳ trận; có lẽ em đánh con bé đến chết nếu nó không nhanh chân tìm đường thoát thân. Em không chỉ đánh con tình địch, trong lúc đang hăng tiết, em chẳng chừa mà thẳng tay nện luôn anh chàng Namahran.
Thoạt tiên anh chàng quỳ xuống dưới chân em, xin em vui lòng tha thứ, và hết lời thề thốt từ nay sẽ chẳng bao giờ dám lừa dối em. Cơn giận em dịu dần. Em tin vào những lời thề thốt mặn mà cũng như vẻ an năn khuất phục của anh chàng. Anh chàng còn mời em uống rượu với hắn, và hắn khéo chuốc đến nỗi em say mèm. Khi thấy em đã say khướt, tên phản trắc đâm em nhiều nhát dao. Em ngả xuống bất tỉnh nhân sự. Tưởng em đã chết, hắn cho em vào một cái túi vải lớn, rồi tự mình vác lên vai ra khỏi thành phố, đến cái nơi mà anh bắt gặp em lần trước. Trong khi hắn đào huyệt, em hồi tỉnh và rên lên mấy tiếng; hắn đã không đem lòng thương hại thì chớ, còn nhẫn tâm tới mức không kết liễu cho em chết hẳn mà cứ vậy chôn sống, thậm chí anh chàng như có vẻ thích thú khi hành động dã man đến thế.
Còn về Maya,- nàng kể tiếp- người thương nhân anh từng mang thư tới cho, chính là nhà buôn vẫn đưa vải vóc vào cung cấp cho mọi người trong hoàng cung. Em nói với ông em đang cần tiền, em có kể sơ cho ông biết câu chuyện và yêu cầu ông giữ kín cho tới khi em trả được hoàn toàn mối hận.
Đấy là tất cả câu chuyện của em, hỡi chàng trai trẻ. Trước đây em đã không nói cho anh rõ chuyện ấy, sợ anh ngại ngùng không muốn dẫn tên khốn kiếp ấy về nhà cho em trừng trị chăng. Em tin đến lúc này, anh không còn chê trách hành động của em nữa. Nếu anh là người sẵn có tấm lòng căm ghét những tâm địa phản trắc, hẳn anh phải ngợi khen lòng dũng cảm của em đã dám thọc lưỡi dao vào đúng trái tim phản trắc của tên khốn kiếp Namahran.
Chẳng bao lâu nữa trời sẽ sáng- nàng nói tiếp- anh và em chúng ta cùng nhau đi đến hoàng cung. Phụ vương em lúc nào cũng yêu thương em với tấm lòng trời bể. Em sẽ thú nhận với người tội lỗi của em. Em hy vọng được người tha thứ, và em dám hứa chắc với anh là người sẽ không quên trọng thưởng anh.
Nghe đến đây tôi nói với nàng công chúa:
- Không đâu, thưa bà. Tôi không đòi đền đáp chút gì cái công cứu sống bà. Nói có trời đất chứng dám, tôi chẳng hề hối tiếc chuyện ấy; nhưng xin thú thật với bà tôi thật vô cùng thất vọng sao mình lại phục vụ sự trả thù của bà một cách mẫn cán đến thế. Bà đã lợi dụng lòng nhân ái của tôi để lôi kéo tôi tham gia một vụ lừa dối. Đáng ra bà nên ngỏ lời sớm với tôi và cậy nhờ tôi tìm cách báo thù cho bà. Hẳn tôi đã chẳng ngại ngần đưa mạng sống của mình ra giúp bà trả hận một cách cao thượng hơn.
Tóm lại, thưa ngài, mặc dù nghĩ tên Namahran bị trừng trị là đáng kiếp, tôi vẫn ân hận xiết bao, chính mình đã đưa anh chàng đến cái chết, tôi liền bỏ nàng công chúa mà đi ngay tức khắc, chẳng chút màng những lời hứa hẹn của nàng. Tôi rời ngôi nhà ấy trước khi trời sáng. Mặt trời vừa mọc, tôi nhìn thấy một đoàn lữ hành hạ trại nghỉ đêm trên một cánh đồng cỏ, tôi liền nhập bọn. May mắn sao đoàn đang trên đường về thành phố Batđa, nơi chính tôi cũng đang muốn đến, thành ra tôi khởi hành luôn cùng đoàn.

Tôi tới được Batđa bình yên, tuy nhiên chẳng bao lâu thấy mình lâm vào một tình cảnh đáng buồn. Tôi hết sạch tiền. Tất cả gia sản đồ sộ của tôi ngày trước nay chỉ còn sót lại đúng một đồng xơ canh vàng trong túi. Tôi tính chuyện mang đổi lấy tiền lẻ. Tôi dùng số tiền lẻ ấy mua táo hương, kẹo hạnh nhân, nước thơm và hoa hồng. Ngày ngày tôi mang cái giỏ đựng những thứ vừa mua được ấy đến một quán bán nước fiquaa (Một loại nước giải khát, gần giống bia làm bằng đại mạch, nho và nước), ở đấy nhiều vị quan chức trong thành phố cùng khách khứa đủ hạng hay tới dùng nước giải khát và trò chuyện. Tôi nâng cái giỏ đưa đến từng người. Ai thích thức gì dùng thức ấy, và dĩ nhiên nhiều ít người nào cũng có trả cho tôi một vài đồng lẻ. Thành ra cái việc buôn bán lặt vặt ấy cũng giúp cho tôi sống tạm chẳng đến nỗi nào.
Một hôm, tôi đang mang giỏ hoa quả đến quán giải khát bán thường lệ, mời mọi người mua, chợt có một cụ già đang ngồi trong một góc khuất tôi không nhìn thấy cho nên không mời, gọi tôi lại và hỏi:
- Anh bạn ơi, tại sao bạn không mang giỏ hàng của bạn đến mời lão này mua như mời những người khác? Anh bạn cho già này không thuộc loại người đứng đắn sao? Hay là anh nghĩ trong hầu bao của ông lão chả có đồng xu nào?
- Thưa ngài, tôi đáp- mong ngài bỏ quá cho sự sơ xuất. Tôi xin quả quyết hồi nãy không nhìn thấy ngài. Cả giỏ hàng của tôi đây, xin ngài dùng thoải mái, tôi chẳng dám đòi hỏi gì hơn ở ngài.
Vừa nói, tôi vừa nâng cái giỏ lên trước mắt cụ. Cụ già cầm một quả táo hương, rồi bảo tôi ngồi xuống bên cạnh. Tôi ngồi, cụ già hỏi tôi đủ thứ, nào là tôi là ai, nào họ tên tôi là gì. Tôi thở dài thưa:
- Xin cụ miễn cho cháu phải đáp những điều cụ hỏi. Cháu không thể trả lời những điều cụ muốn biết là không lại làm rớm máu những vết thương đang bắt đầu lành miệng trong tim cháu.
Những lời nói ấy, hay đúng hơn là cái giọng tôi thốt ra, khiến cụ già thôi không thúc ép nữa. Cụ chuyển sang chuyện khác, rồi sau một hồi trò chuyện, lúc đứng dậy ra về cụ lấy ở túi tiền ra mười đồng xơcanh vàng đặt vào tay tôi.
Tôi khá ngạc nhiên về sự hào phóng ấy. Các vị khách sang nhất tôi mời mua hoa quả chưa từng có ai trả cho tôi đến một xơcanh bao giờ, vì vậy không hiểu nỗi cụ già này là người như thế nào. Sáng hôm sau quay trở lại cái quán bán nước đã thấy ông cụ ngồi ở góc ấy. Dĩ nhiên tôi mang giỏ hàng tới mời cụ mua trước tiên. Cụ lấy một ít nước hoa, bảo tôi ngồi xuống cạnh, rồi thúc ép tôi kể chuyện mình, khẩn khoản tới mức tôi không thể không vâng lời.
Tôi thuật lại cho cụ nghe tất cả những gì đã xảy ra trong đời mình. Sau khi nghe tôi giãi bày tâm sự, cụ già nói:
- Ta có quen biết thân sinh anh ngày trước. Ta vốn cũng là một thương nhân ở thành Basra. Ta không có con, mà cũng chẳng còn hy vọng có. Ta có cảm tình với anh, ta nhận anh làm con nuôi. Vậy thì, con trai ta ơi, con hãy quên đi mọi đau buồn trong quá khứ, con sẽ thấy ở già đây một người cha còn giàu có hơn cả phụ thân con, ngài Apđêlazit, khi người còn sống. Cha hứa sẽ hết sức thương yêu con.
Tôi cảm tạ cụ già về vinh hạnh dành cho tôi, và khi cụ đứng dậy ra về, tôi đi theo luôn. Cụ bảo tôi vứt cái giỏ cùng với hoa quả trong ấy đi, rồi dẫn tôi đến một dinh cơ lớn mà cụ đã thuê từ trước. Cụ cho tôi một căn hộ cùng mấy tên nô lệ để hầu hạ. Cụ lại sai người mang đến cho nhiều quần áo sang trọng. Tưởng như phụ thân tôi, Apđêlazit vẫn đang còn sống, và tôi chưa phải lâm vào một cảnh khốn cùng bao giờ.
Khi cụ thương nhân ấy giải quyết xong công việc ở Batđa, nghĩa là bán hết mọi thứ hàng hoá mang từ Basra đến, chúng tôi cùng lên đường trở lại thành phố Basra. Lũ bạn chơi bời ngày trước, những tưởng chẳng bao giờ gặp lại tôi, rất đỗi ngạc nhiên tôi trở thành con nuôi một vị thương nhân được mọi người coi là giàu nhất thành phố. Tôi cố sức làm vui lòng cụ già. Cụ cũng lấy làm cảm kích về chuyện ấy. Thỉnh thoảng cụ lại nói:
- Abuncaxem à, cha rất hài lòng đã gặp con ở thành phố Batđa. Con có vẻ xứng đáng với những gì cha làm cho con.
Tôi rất xúc động về tình cảm cụ dành cho mình, nhưng chẳng bao giờ lạm dụng lòng tốt của cụ, mà tự mình nghĩ ra và làm mọi thứ cho cụ vui lòng. Giờ tôi không chơi bời phóng đãng với bạn bè cùng trang lứa nữa, tôi luôn luôn ở bên cạnh cụ. Hầu như tôi không rời xa cụ một bước.
NGÀY THỨ CHÍN
Một hôm cụ già phúc hậu ấy đổ bệnh, các thầy thuốc chạy chữa thế nào bệnh cũng không thuyên giảm. Thấy mình e tới lúc khó qua khỏi, ông cho tất cả mọi người lui ra và nói riêng với mình tôi:
Con ơi, đã đến lúc cha nói cho con rõ một điều bí mật quan trọng. Nếu cha chỉ để lại cho con cái dinh cơ này cùng với của cải trong đó như con hằng nghĩ, thì cái gia tài cha để lại cho con chẳng đáng bao nhiêu. Nhưng tất cả gia sản mà cha dành dụm được suốt đời, tuy to lớn thật đấy so với kho tàng bí mật, mà cha sẽ cho con biết đây. Cha sẽ không nói rõ với con, kho tàng có ở đây từ thời nào, do ai tạo lập và bằng cách nào, bởi bản thân cha cũng không hay. Tất cả những gì cha biết được, là ông nội cha khi sắp qua đời đã để lại cho phụ thân cha, và phụ thân cha cho đến khi chuẩn bị về thế giới bên kia, mới nói cho cha rõ.
Nhưng,- cụ già nói tiếp,- cha có một lời khuyên cho con, mong con chớ coi thường. Bản tính con vốn hào phóng. Một khi con thấy có điều kiện sống theo sở thích của mình, chắc thế nào con cũng phung phí tài sản của con. Con sẽ biếu tặng mọi người, con sẽ giúp đỡ cho những ai đến tìm con xin cứu giúp. Tính tình ấy, mà cha đánh giá cao nếu biết giữ mức độ, sẽ là nguyên nhân làm cho con bị hãm hại. Con sẽ sống xa hoa đến nỗi gợi nên lòng ganh tị của quốc vương Basra hoặc là sự ghen ghét của các quan đại thần trong triều. Họ sẽ nghi con có cả một kho tàng cất giấu đâu đấy. Rồi họ sẽ chẳng từ nan phương kế nào để chiếm đoạt cho bằng được. Để ngăn ngừa nỗi bất hạnh ấy, con chỉ có việc noi gương cha đây. Cha, cũng như thân sinh và tổ phụ cha ngày trước, luôn lo làm nghề nghiệp của mình và hưởng thụ kho tàng một cách khiêm nhường. Các cụ cũng như chính cha đây, chưa bao giờ tiêu pha món nào to lớn quá để mọi người phải lấy làm kinh ngạc.
Dĩ nhiên tôi hứa hẹn với cụ rằng tôi sẽ noi tấm gương thận trọng của cụ. Cha nuôi tôi liền chỉ cho tôi biết chỗ cất giấu kho tàng, và còn quả quyết là cho dù tôi hình dung kho tàng ấy đồ sộ đến đâu, trí tưởng tượng của tôi chẳng thấm tháp gì so với thực tế đâu.
Quả vậy, sau khi cụ già hào hiệp ấy qua đời, bởi tôi là người thừa kế duy nhất, cử hành xong tang lễ trọng thể cho cụ, tôi trở thành người sở hữu toàn bộ gia sản của cụ, mà toà dinh cơ này chỉ là một phần. Tôi vội đi tìm xem kho báu. Xin thú thật, thưa ngài, là tôi cực kỳ kinh ngạc khi nhìn thấy. Tuy không thể nói rằng kho tàng chẳng bao giờ cạn, ít nhất cũng có thể khẳng định với ngài là cho dù tôi có sống dai hơn tất cả mọi người trên đời, cũng chẳng làm sao tiêu pha hết. Bởi vậy, đáng ra phải giứ lời hứa với cụ già, tôi lại ban phát khắp nơi của cải giàu có của mình. Không một người nào trong thành phố Basra này không được hưởng ân huệ của tôi. Nhà tôi rộng mở đón tiếp tất cả những ai cần đến mình, và ai đã đến thì ra về cũng mãn nguyện. Sao gọi là nắm trong tay cả một kho tàng mà không dám tiêu pha đến nó, tôi nghĩ. Và có cách nào sử dụng kho báu của mình tốt hơn, nếu không đem dùng vào việc giúp những người bất hạnh đỡ khổ, đón tiếp cho trọng thị người nước ngoài, và để hưởng một cuộc đời đầy lạc thú?
Mọi người đều nghĩ rằng tôi sẽ đi đến khuynh gia bại sản một lần nữa cho mà xem. „Ôi dào, cái anh chàng Abucaxem ấy, ngữ ấy mà có trong tay tất cả các kho báu của Đấng thống lĩnh các tín đồ, thì nó cũng làm tiêu tan thôi!“ Ấy nhưng mọi người rất đỗi ngạc nhiên, thấy công việc làm ăn của tôi đã chẳng lụn bại chút nào, mà hình như có vẻ như ngày càng phát đạt hơn. Chẳng ai hiểu được bằng cách nào tôi có thể làm tăng thêm tài sản của mình trong khi cứ phung phí nó.
Tuy nhiên tôi tiêu xài quá rộng, cuối cùng gợi nên lòng ganh tị đối với sự giàu có của tôi, đúng như lời cụ già tiên đoán. Cả thành phố đồn đại rằng tôi bắt được một kho vàng. Chẳng cần có gì hơn nữa để cuốn hút đến cổng nhà tôi những người hám hôi của. Viên quan lo việc cảnh sát thành phố Basra một hôm tìm đến gặp tôi và nói:
- Ta chính là quan Đaroga (Viên quan lo về trật tự trị an) của thành phố này đây. Ta đến đây hỏi cho biết cái kho báu đã giúp anh sống xa hoa như thế, nằm ở đâu?
Nghe hỏi, tôi bối rối chẳng biết nên trả lời thế nào.
Nhìn thấy thái độ lo lắng của tôi, viên Đaroga cho rằng những lời đồn đại loan truyền trong thành phố không phải vô căn cứ. Nhưng y không thúc ép tôi nói rõ kho báu ở đâu, mà chỉ nói tiếp:
- Ngài Abuncaxem thân mến, xưa nay tôi vẫn xử sự với mọi người như một con người có văn hoá. Ngài hãy biếu cho tôi một món quà xứng đáng để tôi giữ kín giùm điều bí mật, và tôi sẽ để ngài yên ổn.
- Ông cần bao nhiêu?- tôi hỏi lại.
Viên cảnh sát đáp:
- Tôi chỉ cần mười đồng xơcanh vàng mỗi ngày.
Tôi nói:
- Như vậy quá ít. Tôi sẽ cho ông một trăm đồng xơcanh mỗi ngày.
Nghe nói, viên Đaroga mừng rơn:
- Thưa ngài, tôi cầu trời cho ngài bắt được một nghìn kho tàng. Ngài hãy yên tâm tận hưởng tài sản của ngài. Chẳng bao giờ tôi quấy rầy ngài về chuyện sở hữu nữa đâu.
Tôi đưa cho y nhận trước một món tiền lớn, thế là y ra về.
Ít lâu sau, quan tể tướng Apbunfata cho người tìm tôi. Ông mời tôi vào phòng làm việc và bảo:
- Hỡi chàng trai trẻ tuổi kia, ta vừa biết anh phát hiện một kho báu. Anh rõ rồi đó, một phần năm của cải bắt được thuộc về Thượng đế, anh phải chia phần ấy cho nhà vua. Vậy thì anh hãy chia ra một phần năm đi, bốn phần còn lại anh yên tâm làm chủ.
Tôi đáp:
- Trình tể tướng, tôi xin thú thật với ngài là tôi quả có bắt được một kho tàng, đồng thời tôi cũng xin thề độc trước Thượng đế là Đấng đã sáng tạo ra ngài cũng như sáng tạo ra tôi, là cho dù tôi có bị phân thây làm bốn mảnh, tôi cũng chẳng hé răng chỉ chỗ có kho tàng. Tuy nhiên tôi sẵn sàng biếu quan lớn mỗi ngày một nghìn đồng xơcanh vàng, với điều kiện sau đấy ngài để yên cho tôi nhờ.
Hoá ra cụ tể tướng Abunfata cũng dễ biết điều như viên cảnh sát quèn mà thôi. Ông sai một người tín cẩn đến gặp người giữ kho báu của tôi, anh này giao luôn ba mươi ngàn xơcanh cho tháng đầu.
Quan tể tướng sợ rồi đây nhà vua sẽ biết chuyện, nghĩ thà tự mình nói ra trước thì hơn. Quốc vương chăm chú nghe tể tướng trình, nhà vua nghĩ vấn đề này đáng được đi sâu hơn nữa, liền ngỏ ý muốn gặp trực tiếp tôi. Nhìn thấy tôi, nhà vua vừa cười vừa phán:
- Này, anh chàng trẻ tuổi kia, tại sao anh không chỉ cho ta biết kho tàng anh ở đâu? Anh nghĩ ta kém công minh đến mức chiếm đoạt tài sản của anh sao?
Tôi thưa:
- Muôn tâu hoàng thượng, cầu Thượng đế ban phúc cho ngài vạn thọ vô cương. Nhưng xin tâu, cho dù kẻ này có bị người lấy kìm nung đỏ mà rứt thịt da ra, cũng chẳng bao giờ hé răng nói lộ kho tàng ở đâu. Tôi đồng ý mỗi ngày nộp cho hoàng thượng hai nghìn đồng xơcanh vàng. Nếu ngài từ chối không nhận mà cho rằng tôi đáng tội chết, xin ngài cứ truyền lệnh, tôi thà chịu muôn ngàn cực hình chứ chẳng bao giờ thoả mãn sự hiếu kỳ của hoàng thượng.
Nghe vậy, nhà vua quay nhìn tể tướng, tham khảo ý kiến của ông. Tể tướng nói:
- Tâu bệ hạ, số tiền anh chàng này nộp hoàng thượng hàng ngày cũng cầm bằng như ta bắt được một kho tàng. Xin hoàng thượng cho phép y ra về, sống cuộc đời xa hoa thường nhật của y, miễn là y phải răm rắp giữ đúng lời đã hứa với hoàng thượng.
Nhà vua nghe theo lời khuyên của tể tướng. Vua cho tôi lui ra, còn phủ dụ thân thiết nữa là khác. Từ hôm ấy trở đi, theo đúng thoả thuận của chúng tôi với nhau, mỗi năm tôi cống nạp một lần và cùng một lúc cho nhà vua, cho tể tướng và cho quan cảnh sát, tổng cộng hơn một triệu sáu trăm nghìn đồng xơcanh vàng.
- Thưa ngài, - chàng trẻ tuổi nói tiếp với hoàng đế Harun An Rasit- đấy là tất cả điều ngài muốn rõ. Giờ chắc ngài không ngạc nhiên nữa về những tặng vật tôi biếu ngài, cũng như về tất cả những gì ngài nhìn thấy trong nhà tôi.
Khi nghe Abuncaxem kể xong câu chuyện của chàng như vậy, hoàng đế rất nóng lòng muốn nhìn tận mắt kho tàng, liền bảo:
- Có thể nào trên đời này tồn tại một kho tàng mà mặc dù ngài hào phóng đến vậy cũng chẳng bao giờ cạn kiệt? Không, tôi chẳng thể nào tin. Thưa ngài, nếu điều tôi nói ra đây không là sự đòi hỏi quá đáng đối với ngài, thì xin ngài bằng lòng cho tôi xem những của cải ngài sở hữu, tôi xin thề một lời thiêng liêng nhất muôn đời không dám vi phạm, rằng tôi sẽ chẳng lạm dụng lòng tin cậy của ngài.
Người con trai của Apđêlazit tỏ vẻ buồn phiền khi nghe hoàng đế bảo vậy. Chàng nói:
- Thưa ngài, tôi quả thật không vui ngài có lòng hiếu kỳ như vậy. Tôi chỉ có thể thoả mãn ngài với những điều kiện không được lịch sự cho lắm.
- Cho dù các điều kiện ấy khắt khe đến thế nào đi nữa,- hoàng đế thốt lên- tôi sẵn sàng tuân thủ mà không lấy làm phiền lòng.
- Những điều kiện ấy là,- chàng trai nói tiếp- ngài vui lòng cho phép tôi bịt mắt ngài, ngài phải bỏ khăn, để đầu trần và không mang theo vũ khí, còn tôi cầm mã tấu ở tay, sẵn sàng chém sả vào ngài hàng ngàn nhát cho kỳ chết, nếu ngài vi phạm luật hiếu khách thoả thuận giữa chúng ta. Tôi hiểu, xử sự thế này có người sẽ cho tôi sao quá khinh suất,- chàng nói thêm- đáng ra tôi không nên chấp thuận ý muốn của ngài, song tôi tin ngài đã đặt toàn bộ lòng kính tín của mình vào những lời thề thiêng liêng; hơn nữa cũng bởi vì tôi không sao để một vị đồng thực khách ra về không hài lòng khỏi nhà tôi.
Hoàng đế nói:
- Vậy thì xin ngài hãy làm ơn thoả mãn mong muốn hiếu kỳ của tôi ngay lúc này.
- Xin vui lòng chờ cho lát nữa. Đêm nay mời ngài nghỉ lại nhà tôi. Đợi đến lúc tất cả gia nhân đi ngủ hết rồi, đích thân tôi sẽ đến tìm ngài và dẫn ngài đi.
Nói đến đây, chàng lớn tiếng gọi người hầu. Dưới ánh sáng vô vàn ngọn nến cắm trên những đế đèn bằng vàng khối do bọn nô lệ cầm ở tay dẫn đường, chàng đưa hoàng đế đến một gian phòng lộng lẫy, rồi lui về phòng riêng. Bọn nô lệ giúp nhà vua cởi áo ngoài, mời vua nằm nghỉ, sau khi để lại những cây nến lên phía trên và dưới chân giường ngủ, cả bọn lui ra. Nến toả mùi hương dìu dịu.
NGÀY THỨ MƯỜI
Đáng ra nên cố ngủ một chốc, đằng này hoàng đế Harun An Rasit nóng lòng chờ đợi Abuncaxem. Chàng đến tìm vua vào lúc nửa đêm, và nói:
- Thưa ngài, tất cả bọn gia nhân của tôi đã ngủ say rồi; giờ đây nhà tôi lặng ngắt như tờ, lúc này tôi có thể mời ngài đi xem kho báu, với những điều kiện như tôi từng thưa với ngài.
Hoàng đế ngồi lên:
- Vâng, chúng ta đi, tôi sẵn sàng đi theo ngài, tôi xin thề trước Đấng tạo hoá và trước Mặt đất, là ngài sẽ không phải hối tiếc vì đã thoả mãn tính hiếu kỳ của tôi.
Chàng con trai Apđenlazit giúp hoàng đế mặc áo, rồi lấy một tấm khăn bịt mắt vua:
- Xin ngài hiểu cho, tôi rất tiếc phải xử sự thế này với ngài; bộ dạng và phong thái của ngài có vẻ đáng cho tôi tin cậy hơn…
- Tôi chấp thuận sự thận trọng của ngài- hoàng đế ngắt lời- tôi chẳng trách ngài về chuyện ấy.

Abuncaxem đưa vua theo một cầu thang bí mật xuống một khu vường rộng, sau khi đi quanh co nhiều đoạn, hai người đến nơi cất giấu kho tàng.
Đấy là một gian hầm ngầm rất rộng rất sâu trong lòng đất, lối vào chỉ được che bằng một phiến đá bình thường. Thoạt tiên họ xuống theo một đường dốc hẹp và tối om, cuối đường gặp một gian phòng rộng được chiếu sáng rực bởi những vật lấp la lấp lánh. Vào trong phòng, chàng trai tháo khăn bịt mắt cho hoàng đế. Nhà vua kinh ngạc nhìn mọi thứ bày ra trước mắt. Chính giữa phòng là một cái bể bằng đá cẩm thạch trắng, chu vi chừng năm mươi bộ và sâu khoảng ba mươi bộ. Bể chứa đầy những đồng tiền vàng lớn, chung quanh có mười hai cây cột đồ sộ bằng vàng khối, đỡ chừng ấy bức tượng tạc bằng đá quý chế tác thật tinh vi.
Abuncaxem dẫn hoàng đế đến gần cái bể và nói:
- Cái bể này sâu ba mươi bộ, ngài đã nhìn thấy những đống vàng trong ấy. Cho đến hôm nay, bể mới vơi bớt chừng hai đốt ngón tay, ngài có nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ tiêu xài hết khoản vàng trong đó?
Hoàng đế chăm chú xem xét cái bể rồi đáp:
- Tôi thừa nhận đấy là những của cải vô biên, nhưng rồi ngài vẫn có thể tiêu hết sạch sành sanh.
- Nếu vậy thì,- chàng trai đáp- chừng nào cái bể này cạn hết vàng, tôi sẽ nhờ đến cái bể khác mà tôi sắp chỉ cho ngài xem đây.
Vừa nói chàng vừa dẫn vua Harun sang một căn phòng khác càng lấp lánh càng sáng rực hơn căn phòng vừa rồi. Trong phòng bày nhiều trường kỷ bọc gấm đỏ có đính cơ man là những viên ngọc báu và kim cương. Chính giữa phòng cũng có một cái bể giống hệt như cái bể ở phòng kia. Trên thực tế cái bể này chẳng rộng chẳng sâu hơn cái bể chứa vàng, song bù lại, nó lại đầy những hồng ngọc, bích ngọc, lam ngọc, cùng đủ các loại ngọc quý khác trên đời.
Chưa bao giờ hoàng đế cảm thấy ngạc nhiên dường ấy. Vua không rõ mình đang tỉnh hoặc đang mơ. Cái bể chứa ngọc này thật đúng là một sự diệu kỳ, vua còn mải ngắm nghía thì chàng con trai của Apđêlazit đã trỏ cho vua thấy trên một bức sập bằng vàng có hai bức tượng mà chàng bảo đấy là những chủ nhân đầu tiên của kho báu này. Tượng một ông hoàng và một bà chúa mang trên đầu những chiếc vương miện bằng kim cương, trông có hồn như người đang sống thật. Hai người nằm dài cạnh nhau trên sập, đầu tựa sát đầu, dưới chân họ có một cái bàn bằng gỗ mua có khắc những dòng chữ vàng như sau:
„Ta đã thu thập suốt cả cuộc đời trường thọ để có tất cả của cải chứa nơi đây. Ta đã từng xâm chiếm và cướp phá bao nhiêu thành quách, lâu đài. Ta đã chinh phục biết bao vương quốc và đánh gục biết mấy kẻ thù. Ta từng là đấng quân vương hùng cường nhất thế gian, nhưng mọi quyền lực của ta đành thúc thủ trước cái chết. Bất cứ người nào mai sau nhìn thấy ta trong khung cảnh này, cần phải biết mở mắt ra cho lớn. Người ấy cần suy nghĩ rằng ta đã từng sống như họ và rồi họ sẽ chết giống như ta. Người ấy hãy biết sử dụng kho tàng này để kiếm thêm bạn bè và sống cuộc đời dễ chịu. Người ấy cần phải biết, mọi thứ của cải trên đời này không thể bảo đảm cho mình thoát ra ngoài số phận chung của mọi người trên trần thế“.
 Sau khi đọc những dòng chữ ấy, hoàng đế Harun An Rasit nói với chàng trai:
- Giờ đây tôi không còn chê trách cách hành xử của ngài nữa. Ngài đã có lý khi sống cuộc đời như ngài đang sống. Tôi phản bác những lời khuyên mà vị thương nhân già đã khuyên răn ngài. Tuy nhiên,- hoàng đế nói thêm- tôi muốn rõ danh hiệu đấng quân vương này. Có nhà vua nào có thể sở hữu bấy nhiêu tài sản? Thật tôi chẳng hài lòng, sao những dòng chữ kia khôgn cho chúng ta biết thêm điều đó nhỉ.
Chàng trai còn dẫn hoàng đế sang một gian phòng khác chứa nhiều đồ vật rất qúy giá, trong đó có những cây thân làm bằng bạc giống hệt như cây chàng trai đã mang biếu hoàng đế. Nhà vua hẳn còn muốn dành cả thời gian còn lại của đêm nay để ngắm nghía các vật chứa trong căn hầm kỳ diệu này, nhưng Abuncaxem sợ bọn gia nhân bắt gặp, đành mời nhà vua lên khỏi hầm ngầm trước khi trời sáng. Vẫn đi lên theo đúng cách như khi đi xuống, nghĩa là nhà vua bị bịt mắt, để đầu trần, trong khi chàng trai lăm lăm cây mã tấu ở tay, sẵn sàng chặt đầu nếu hoàng đế thoáng có ý định đưa tay tháo gỡ giải khăn che mắt.
Hai người băng qua khu vườn rộng, trở lại gian phòng nhà vua nghỉ qua cái cầu thang bí mật. Trong phòng các cây nên vẫn còn cháy sáng. Hai người trò chuyện cho đến khi trời sáng hẳn. Hoàng đế nói:
- Sau tất cả những gì tôi đã thấy, và qua con nữ tì ngài biếu tôi, tôi chắc rằng trong nhà ngài có những người phụ nữ đẹp nhất phương Đông.
- Thưa ngài, - Abuncaxem đáp- quả là tôi có nhiều nữ nô lệ khá xinh, song tôi không thể yêu một đứa nào. Trong ký ức tôi, luôn luôn hiện diện nàng Đacđanê, nàng Đacđanê vô vàn yêu quý của tôi. Tôi luôn luôn tự nhủ rằng nàng đã qua đời, rằng chớ nên nghĩ tới nàng nữa, nhưng hoài công vô ích, khốn nạn thân tôi không làm sao xoá được khỏi tâm can hình ảnh của nàng. Tôi bị hình ảnh nàng theo đuổi đến nỗi sống giữa bấy nhiêu tài sản, mọi công việc đều ngày càng thịnh đạt, mà tôi chẳng hề cảm thấy hạnh phúc. Ôi, tôi thà sở hữu một gia sản tầm thương mà có được nàng Đacđanê, còn hơn sống vô cùng giàu sang mà không có nàng.
Hoàng đế khâm phục mối tình kiên định của chàng trai con nhà thương nhân Apđelazit, tuy nhiên vua khuyên chàng nên hết sức cố gắng để chiến thắng nỗi đam mê phù du ấy. Tiếp đó vua cất lời cảm tạ một lần nữa sự đón tiếp hết sức trọng thị của chàng trai. Cuối cùng, trở về nhà lưu trú, nhà vua lên đường trở lại thành phố Batđa cùng với bọn gia nhân, tên hầu trẻ trang nhã, cô nữ tì xinh đẹp cùng tất cả mọi thứ tặng phẩm của Abuncaxem.
NGÀY THỨ MƯỜI MỘT
Hai ngày sau khi hoàng đế Harun An Rasit ra về, tể tướng Abunfata nghe đồn về việc ngày nào chàng Abuncaxem cũng mang biếu những người nước ngoài đến thăm nhiều tặng vật cực kỳ quý giá; mặt khác ông ngạc nhiên sao anh chàng có thể cống nộp cực kỳ đúng hạn cho ông ta cũng như cho quốc vương và viên quan cảnh sát các khoản tiền lớn như đã hứa, liền quyết tâm tìm đủ cách để moi cho biết cái kho tàng không cạn ấy nằm vào chốn nào. Viên hung thần ấy là một trong số những tên nham hiểm không ngại từ nan một tội ác ghê gớm nào không làm, miễn là thực hiện bằng được ý đồ của mình. Ông ta có một cô con gái vừa tròn mười tám tuổi cực kỳ xinh đẹp. Tên nàng là Banki. Nàng là một con người vừa tốt bụng vừa hết mực thông minh. Hoàng thân Aly, cháu ruột của quốc vương thành Basra, say mê tiểu thư như điếu đổ. Chàng đã ngỏ lời cầu hôn và đã được tể tướng chấp thuận; chẳng bao lâu nữa hai cô cậu sẽ thành gia thất.
Abunfata gọi con gái vào phòng làm việc và bảo:
- Con gái ơi, cha có việc cần nhờ đến con đây. Cha muốn con trang điểm cho thật lộng lẫy vào, rồi tối nay đến nhà chàng Abuncaxem. Con cố sao làm hài lòng chàng trai đấy, hãy tìm đủ mọi cách làm mê mẩn anh chàng, rồi hỏi cho rõ cái kho báu của anh chàng ở đâu.
Cô gái rùng mình khi nghe cha bảo vậy. Sự kinh tởm hiện rõ ngay trên nét mặt khi cô thấy cha ép mình phải vâng lời đi thực hiện một việc trái với đạo lý. Nàng thốt lên:
- Thưa phụ thân, cha sai con gái đi làm việc gì vậy? Cha không thấy cha đang đưa con đến chốn hiểm nghèo hay sao? Xin cha hãy suy nghĩ về nỗi nhục mà con gái cha phải chịu, về vết nhơ không bao giờ phai nhạt trên danh vọng gia đình, về sự xúc phạm mà cha sẽ gây nên cho hoàng thân Aly, nếu chàng không còn được tự hào về mối tình cao quý chàng dành cho con nữa.
- Cha đã suy nghĩ về tất cả những điều ấy,- tể tướng đáp- nhưng chẳng có gì có thể làm cha thay đổi ý định. Cha ra lệnh cho con hãy đi chuẩn bị ngay để thực hiện điều cha vừa bảo.
Nàng Banki bật khóc:
- Nhân danh Thượng đế, cha của con ơi,- nàng nói- xin cha chớ ép con gái đi làm hỏng danh vọng cha. Xin cha hãy nén lòng ham muốn tước đoạt của người khác những tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình. Cha hãy để cho người khác bình yên hưởng thụ sự giàu sang của họ, hơn là tìm cách chiếm đoạt của người ta.
Tể tướng nổi nóng:
- Hãy im mồm, con vô lễ kia! Mày không được phép chê trách ý định của cha. Mày không được cãi. Ta muốn mày đi đến nhà Abuncaxem. Ta thề nếu mày trở về mà chưa nhìn thấy tận mắt kho báu, thì tự tay ta sẽ đâm cho mày một nhát dao vào ngực.
Nàng Banki thấy không còn cách nào lãng tránh một công việc tiềm ẩn đầy hiểm nguy, lui về phòng riêng, lòng buồn bã không thể nào tả xiêt. Nàng chọn mặc những bộ quần áo sang trọng nhất, đeo đầy ngọc ngà châu báu, song chẳng buồn trang điểm, mà thật ra cũng chẳng cần. Sắc đẹp tự nhiên của nàng đủ khiến bất cứ ai nhìn thấy cũng say mê. Chẳng có người con gái nào ngại ngần hay nói đúng hơn lo sợ, được người khác nhìn thấy mình đẹp như Banki lúc này. Nàng sợ mình quá đẹp khi sắp đến gặp Abuncaxem, cũng như bao lần nàng e nhan sắc chưa đủ xinh tươi khi chuẩn bị đến với hoàng thân Aly.
Cuối cùng rồi ngày cũng hết. Lúc này, tể tướng Abunfata cho là đã đến lúc sai con gái đến nhà chàng Abuncaxem. Ông đưa con ra khỏi nhà qua một cửa ngách kín đáo, rồi thân hành dẫn con đến tận cổng nhà chàng trai. Ông để nàng một mình ở đấy sau khi nhắc lại, ông sẽ giết chết nếu nàng quay trở về mà không làm trọn vai trò nhơ nhuốc. Nàng gõ cửa, nói mình muốn gặp chàng trai con cụ thương nhân Apđêlazit. Một nữ tì dẫn nàng vào một căn phòng, ở đấy chàng trai nằm dài trên chiếc trường kỷ rộng, đang hồi tưởng về những nỗi bất hạnh đã qua; và lúc nào cũng vậy, nghĩ đến nàng Đacđanê trên tất cả mọi sự.
Trông thấy nàng Banki bước vào, chàng vội ngồi lên nghênh tiếp. Chàng nghiêng mình chào rất thấp, lễ độ đưa tay cho nàng bắt. Sau khi lịch sự mời nàng ngồi xuống ghế, chàng cất lời hỏi có việc gì nàng ban cho chàng vinh hạnh được gặp mặt. Banki đáp, nghe tiếng chàng là con người hào hoa phong nhã, tự nhiên nàng nảy ra ý ngộ nghĩnh muốn đến vui chơi một tối với chàng. Vừa nói nàng vừa đưa tay lật tấm mạng che mặt, chiến chàng trai ngạc nhiên trước đôi mắt sáng long lanh trên khuôn mặt xinh đẹp tuyệt vời. Mặc dù lâu nay vốn dửng dưng trước đàn bà con gái, lần này chàng không thể nhìn giai nhân mà không cảm thấy xúc động tận đáy lòng. Chàng nói với nàng:
- Thưa phu nhân xinh đẹp, hôm nay đúng ngày tôi gặp số hên cho nên mới vinh hạnh có được sự hội ngộ tuyệt vời. Tôi tự cho mình là người vô cùng hạnh phúc.
Vừa trò chuyện một chốc đã đến giờ ăn. Hai người cùng sang một căn phòng khác, ở đó trên bàn ăn đã bày rất nhiều món. Trong phòng lúc ấy có đông đảo gia nhân và nô lệ; Abuncaxem cho mọi người ra ngoài hết, để người đẹp khỏi phải phô khuôn mặt trần ra trước mắt họ. Rồi tự chàng phục vụ nàng, chàng mời nàng những thức ăn ngon nhất, rót mời nàng một loại rượu tuyệt vời đựng trong chiếc ly vàng nạm ngọc hồng ngọc lam. Chàng cũng nâng ly tiếp nàng, và càng ngắm tiểu thư Banki chàng càng thấy nàng thật đẹp. Chàng nói với nàng đôi chuyện hào hoa, cô gái vừa xinh đẹp vừa bản chất thông tuệ cho nên những câu đối đáp thông minh của nàng làm chàng càng thêm ái mộ. Đến cuối bữa ăn, chàng quỳ xuống dưới chân nàng, đưa cả hai tay xiết chặt bàn tay của nàng, và nói:
- Thưa bà, nếu đôi mắt đẹp của bà đã làm tôi choáng váng ngay từ phút đầu, thì cách chuyện trò của bà khiến cho tôi càng thêm say đắm. Bà đã thổi nên trong trái tim kẻ này một ngọn lửa không bao giờ tắt. Từ nay tôi muốn được làm kẻ nô lệ của bà, muốn được hiến dâng cả cuộc đời cho bà.
Nói xong, chàng hôn tay nàng một cách quá cuồng nhiệt, đến nỗi nàng Banki cảm thấy e rồi có thể xảy ra chuyện không hay, liền biến sắc. Mặt nàng tái nhợt như sắp chết tới nơi. Rồi thấy kkhông thể nào còn vờ vịt tiếp nữa, nàng bỗng trở nên buồn bã, một lát sau nước mắt tuôn ròng ròng. Chàng trai rất đỗi ngạc nhiên:
- Có việc gì vậy, hở nàng? Do đâu nàng đột nhiên trở nên buồn bã? Tại sao lại tuôn nước mắt, làm cho kẻ này chấn dộng tận đáy tâm can? Hay là cách xử sự của tôi có điều gì khiến nàng không vừa ý chăng? Xin nàng hãy nói đi, hãy nói cho tôi rõ ngay bởi căn nguyên nào có sự đổi thay đột ngột ở nàng như vậy?
Nàng Banki nói:
- Thưa ngài, em đã vờ vịt đến đây là quá sức em rồi. Lòng em lúc này vừa ngại ngần vừa sợ hãi vừa đớn đau vừa xấu hổ, bằng ấy điều khuấy động tim gan, em không làm sao chịu đựng thêm nữa. Em sẽ nói hết đây. Hỡi chàng Abuncaxem, em đang lừa dối chàng đây. Em là con gái một nhà vọng tộc. Cha em biết chàng sở hữu một kho báu ở một nơi nào đó, muốn lợi dụng nhan sắc em để rõ nơi cất giấu. Cha em lệnh cho em phải đến nhà chàng, phải tìm đủ mọi cách để chàng cho em thấy kho báu ở đâu. Em đã cố cưỡng lại, song cha em thề sẽ giết chết nếu em trở về nhà mà chưa tường điều bí mật. Mệnh lệnh của cha em mới nghiệt ngã làm sao! Cho dù em quen biết một vị hoàng thân mà em rất mực yêu quý và chúng em sắp làm lễ thành hôn đến nơi, thì em vẫn cứ cho việc làm của cha em thật quá kinh khủng. Thưa ngài, hôm nay em đến với chàng là do vậy, xin thú thật chỉ vì không vượt nổi lòng sợ chết cho nên em buộc phải đến đây thôi.
 NGÀY THỨ MƯỜI HAI
Sau khi nghe cô con gái tể tướng Abunfata giải bày như vậy, chàng Abuncaxem nói:
- Thưa bà, tôi hài lòng bà đã nói thật với tôi. Bà sẽ không phải hối tiếc về sự ngay thẳng ấy. Bà sẽ không phải chết đâu. Tôi sẽ chỉ cho bà nhìn thấy kho báu, và bà sẽ được đối xử lịch sự như bà mong muốn. Cho dù bà xinh đẹp đến đâu, cho dù bà đã gây cho tôi ấn tượng vô cùng mạnh mẽ, giờ đây bà chẳng có gì phải lo sợ nữa, bà sẽ rất an toàn ở nhà tôi. Tôi không còn giữ những tình cảm nảy sinh trong lòng tôi lúc đầu, bởi điều ấy khiến bà không yên tâm. Bà có thể trở về gặp lại vị tình quân diễm hạnh mà chẳng có gì phải hổ thẹn. Vậy xin bà thôi, chớ nên buồn rầu khóc lóc mà chi.
Nghe nói, nàng Banki mừng rỡ thốt lên:
- Ôi, thưa ngài! Chẳng phải không có căn nguyên khi người ta đồn đại ngài là con người hào hiệp nhất thế gian. Em quá tâm phục cách xử sự đẹp của ngài. Em sẽ chẳng bao giờ thôi băn khoăn nếu chưa tìm được cách bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của em đối với chàng.
Chuyện trò đến đấy, Abuncaxem đưa cô gái đến căn phòng chính hoàng đế Harun An Rasit đã nghỉ hôm trước. Chàng ở lại đấy với cô gái cho đến khi mọi gia nhân tôi tớ trong nhà đều đã ngủ im phăng phắc. Lúc bấy giờ chàng mới lấy tấm khăn ra bịt mắt nàng Banki:
- Thưa nàng, mong nàng tha thứ cho tôi phải mạo muội hành động thế này, nhưng tôi chỉ có thể trỏ cho bà thấy kho báu với điều kiện này mà thôi.
Tiểu thư đáp:
- Ngài muốn xử sự thế nào xin tuỳ ý. Em tin cậy tấm lòng độ lượng của ngài, em sẵn sàng đi theo ngài tới bất kỳ đâu như ngài muốn. Giờ em chẳng có nỗi lo nào hơn là không cảm nhận hết sự hào hiệp của ngài.

Abuncaxem cầm tay dắt nàng lần theo cái cầu thang bí mật xuống vườn, đưa nàng vào tận trong hầm ngầm, mới tháo khăn bịt mặt cho nàng. Nếu hoàng đế Harun An Rasit rất ngạc nhiên nhìn thấy bấy nhiêu vàng bạc châu báu, nàng tiểu thư còn kinh ngạc hơn. Nàng thấy bất kỳ vật gì cũng hết sức lạ lùng. Tuy nhiên, cái nàng chú ý nhất, khiến nàng không sao rời khỏi mắt, là hai vị chủ nhân đầu tiên của kho báu. Nàng đọc những câu khắc trên chiếc bàn gỗ mua dưới chân họ. Thấy bà hoàng đeo quanh cổ một chuỗi kim cương mà hạt nào cũng lớn tày trứng chim bồ câu, một lần nữa nàng lại thốt lên kinh ngạc. Thế là chàng Abuncaxem théo chuỗi hạt ra khỏi bức tượng và đeo luôn vào cổ cô gái. Chàng nói rằng như vậy phụ thân nàng sẽ tin chắc nàng quả đã nhìn thấy kho tàng. Để tể tướng chẳng còn gì có thể nghi ngờ nữa, chàng xin tiểu thư hãy lấy thêm nhiều hạt ngọc khác, nàng vâng lời nhận khá nhiều viên ngọc báu mà chàng tự tay chọn cho.
Cô gái cứ ngắm nhìn không biết chán các kỳ vật trong căm hầm, trong khi chàng Abuncaxem sợ trời sáng mất, liền lại lấy khăn bịt mắt nàng, đưa nàng ra khỏi hầm, cùng trở về căn phòng cũ trong dinh cơ của chàng, ở đó hai người đàm đạo cho đến khi trời sáng hẳn. Lúc này, tiểu thư con gái tể tướng Apbunfata sau mấy lần cảm tạ mình chẳng bao giờ quên được thái độ xử sự đúng đắn cũng như tấm lòng vô cùng độ lượng của chàng trai, xin phép cáo từ. Nàng trở về nhà, trình với cha tất cả những điều đã xảy ra đêm hôm qua.
Viên tể tướng, trong lòng lúc nào cũng chỉ tơ tưởng chuyện tiền bạc, rất nôn nóng chờ con gái trở về. Lão chỉ lo con gái mình không đủ nhan sắc và duyên dáng làm say mê chàng trai trẻ. Lòng lão bồn chồn như có lửa đốt. Thoạt trông thấy con gái trở về, cổ đeo chuỗi hạt kim cương, và sau khi nàng phô cho lão thấy thêm những bao nhiêu là châu báu ngọc ngà, lão mừng như điên như dại:
- Thế nào, con gái yêu của cha, đúng là con đã nhìn thấy tận mắt kho báu chứ?
- Đúng thưa cha, - cô đáp- Để cha có ý niệm đầy đủ hơn, con xin thưa là cho dù tất cả mọi đấng quân vương trên trái đất này cùng nhau góp chung tài sản của họ lại, cũng không sao sánh tày gia sản của Abuncaxem. Nhưng mặc cho anh ta giàu có đến vậy, con vẫn tâm phục phong thái đàng hoàng và tấm lòng hào hiệp của chàng hơn mọi thứ của cải chàng sở hữu.
Nàng kể cho phụ thân nghe tất cả những gì đã xảy ra. Lão tể tướng chẳng chút quan tâm thái độ tự kìm chế đứng đắn của chàng trai. Lão muốn giá mà cô gái được chàng ân ái với thì tốt hơn là được nhìn thấy tận mắt mà không biết rõ kho báu chính xác cất giấu ở chốn nào.
Trong thời gian ấy, hoàng đế Harun An Rasit đang trên đường trở về kinh thành Batđa. Vừa về tới hoàng cung, nhà vua ra lệnh trả tự do ngay cho tể tướng Giapha và nói rõ vua vẫn hết lòng tin cậy ông. Sau khi thuật lại cho tể tướng nghe tất cả những chuyện đã xảy ra trong chuyến đi của mình vừa rồi, vua hỏi ông:
- Giapha à, bây giờ ta nên xử sự sao đây? Ông biết rồi đấy, theo đạo lý ở đời, lòng biết ơn của các đấng hoàng đế phải vượt trội lên niềm vui thú người khác mang đến cho mình. Cho dù ta có tặng chàng Abuncaxem hào hoa kia những của vật quý nhất có trong kho báu của ta, những thứ ấy vẫn chẳng là gì đối với chàng, có nghĩa vẫn không có giá trị ngang những thứ chàng đã biếu ta. Ta làm sao đây để tỏ ra mình hào hiệp hơn chàng trai ấy?
Tể tướng đáp:
- Muôn tâu hoàng đế, nếu Đấng thống lĩnh các tín đồ chuẩn y lời trình của tôi, thì xin đề nghị ngài ngay hôm nay viết một bức thư gửi quốc vương thành Basra, truyền cho ông ấy nhường ngôi cho chàng Abuncaxem trẻ tuổi. Chúng ta sẽ cho người khẩn cấp truyền lệnh ấy ngay tức khắc, và trong vài hôm tới đích thân tôi sẽ mang chiếu chỉ hoàng đế sang phong vương cho nhà vua mới.
Hoàng đế chấp thuận lời khuyên:
- Ông có lý đấy, tể tướng à. Đấy là cách ta trả món ân huệ của chàng Abuncaxem, cũng là sự trừng phạt quốc vương Basra và viên quan đầu triều của y, đã giấu giếm không chịu tâu ta rõ những khoản tiền khổng lồ mà chúng bòn rút ở chàng trai. Sẽ công bằng nếu ta trừng trị sự cưỡng bức mà hai kẻ ấy đã gây nên đối với chàng trai; những loại người như chúng nó chẳng đáng nắm quyền trị dân.
Ngay lập tức hoàng đế hạ chiếu phế truất quốc vương Basra, rồi sai người mang đi tức khắc. Tiếp đó, nhà vua sang cung hoàng hậu Zôbêit, thuật lại cho bà nghe đầu đuôi những chuyện xảy ra suốt chuyến vi hành của mình. Vua tặng hoàng hậu tên hầu trẻ, cái cây thân bạc cùng với con công kỳ diệu. Vua còn biếu hoàng hậu luôn cô nữ tì xinh đẹp. Hoàng hậu thấy con bé này đáng yêu quá, mỉm cười nói với hoàng đế rằng bà vui sướng nhận cô gái hơn tất cả mọi tặng phẩm quý giá khác. Hoàng đế chỉ giữ lại riêng cho mình cái ly rượu ngọc. Còn lại bao nhiêu, ban thưởng hết cho tể tướng Giapha. Và như vua đã quyết, vị tể tướng chuẩn bị mọi việc để có thể lên đường ngay vài ngày sau.
NGÀY THỨ MƯỜI BA
Phái viên của hoàng đế vừa tới thành phố Basra, trình ngay chiếu chỉ cho quốc vương xem. Ông này đọc chiếu mà không nén được vẻ vô cùng đau tiếc. Ông chuyển bức chiếu cho tể tướng cùng đọc, và hỏi:
- Này Abunfata, ông hãy xem đây, Đấng thống lĩnh các tín đồ vừa truyền cho ta một mệnh lệnh tai hại dường này. Ông hãy nghĩ xem, ta có thể không chấp hành chiếu chỉ được không?
Viên đại thần đáp:
- Được chứ, tâu hoàng thượng. Xin ngài chớ vội lo phiền. Chúng ta phải thủ tiêu ngay tên Abuncaxem. Tôi sẽ tìm cách, không cần giết chết anh ta, mà chỉ loan truyền cho mọi người tin là anh ta đã chết. Tôi sẽ giấu hắn kín tới mức chẳng bao giờ có ai nhìn thấy hắn. Bằng cách ấy ngài vẫn ngự trên ngai vàng, mà ngài lại sở hữu tất cả kho báu của hắn ta, bởi khi đã bắt được hắn rồi, ta sẽ dùng đủ mọi nhục hình, hắn không chịu nổi sẽ để khai cho ta rõ kho báu giấu ở nơi nào.
- Ông muốn làm gì thì làm- nhà vua phán- nhưng rồi ta biết tâu trình sao đây với hoàng đế?
- Xin hoàng thượng hãy tin cậy vào tôi. Đấng thống lĩnh các tín đồ rồi cũng sẽ bị mắc lừa như mọi người khác mà thôi. Xin ngài hãy để cho kẻ này thực hiện ý đồ mà tôi đang nghiền ngẫm, xin chớ lo âu gì về các việc khác.
Thế là Abunfata, có mấy triều thần vốn không hiểu rõ mưu đồ của lão cùng đi đến tìm gặp Abuncaxem. Chàng đón tiếp họ vô cùng trọng thị vì đấy là các vị đại thần cao nhất trong triều. Chàng đãi đằng họ thật sang trọng. Chàng mời tể tướng ngồi lên ghế danh dự, hết lời ngợi ca lão, trong lòng không mảy may ngờ vực mưu đồ đen tối của lão cáo già.
Trong khi mọi người đang cùng nhau dùng tiệc, cùng nhau uống những loại rượu tuyệt vời, thì tên Abunfata phản trắc ấy khéo léo bỏ vào ly rượu của chàng Abuncaxem mà không để những người khác trông thấy, một loại bột có độc tính làm người uống lăn ra mê man bất tỉnh. Người bị ngấm chất độc đổ vật xuống ngay, ai nhìn cơ thể người bị nạn lúc này sẽ tưởng nhìn thi hài một người đã qua đời đâu từ mấy hôm về trước.
Quả vậy chàng trai vừa nâng ly rượu lên môi nhấp một ngụm là lảo đảo ngay tức khắc. Gia nhân vội tiến đến đỡ, nhưng chỉ trong nháy mắt chàng đã biểu hiện dấu hiệu như người đã chết hẳn rồi. Bọn gia nhân vội bế chàng đặt nằm trên trường kỷ và hoảng hốt thốt lên những tiếng kinh hoàng. Các vị thực khách cũng thảng thốt không kém. Ai nấy đều cực kỳ kinh ngạc. Còn lão Abunfata thì thật khó hình dung lão vờ vịt tài tình tới mức nào. Không chỉ bằng lòng biểu lộ một nỗi đau sâu đậm, lão còn tự cấu rách áo quần, làm cho mọi người cũng đâm lây nỗi buồn của lão. Lão ra lệnh bọn gia nhân hãy chuẩn bị một cỗ quan tài đẹp bằng ngà voi và gỗ mun. Trong khi mọi người mải lo việc ấy thì lão truyền tịch biên tất cả gia sản của chàng trai, tạm ký gửi vào kho tàng trong cung điện nhà vua.
Trong thời gian ấy, tin đồn về việc chàng trai đột ngột qua đời lan truyền khắp thành phố. Tất cả mọi người dân, nam cũng như nữ đều để tang, rồi lũ lượt để đầu trần đi chân đất đến viếng trước dinh cơ của chàng. Từ các cụ già đến những người trai tráng, từ các bà lão đến các em thiếu nữ, ai cũng lớn tiếng thở than khóc lóc. Người này nói vậy là coi như mình vừa mất đi đứa con trai độc nhất, người thì bảo như thể vừa quá cố một người anh em thậm chí một người chồng yêu quý. Người giàu như người nghèo, ai ai cũng xúc động về cái chết của chàng trai. Những người giàu tiếc thương một người bạn vẫn thường xuyên mời họ đến đãi đằng. Những người nghèo cảm thấy từ nay không còn nữa một vị ân nhân làm phúc chẳng bao giờ biết nản. Thật là một sự đau buồn chung cho toàn thành phố.
Tiến hành xong lễ khâm liệm trọng thể chàng Abuncaxem đáng thương, nhân dân thành phố Basra theo lệnh của chính tể tướng Abunfata, đưa quan tài chàng ra ngoài thành phố đến một nghĩa trang lớn, ở đó có một phần mộ chung cực kỳ sang trọng và rộng rãi trong đấy quàn thi hài thân sinh lão tể tướng cùng một số người khác trong gia đình lão.
Đến tối, mọi người ra về hết, chỉ còn lại tể tướng cùng với hai tên nô lệ của lão. Chúng khoá trái cổng ngăn lối dẫn xuống phần mộ. Rồi chúng đốt đèn lên, cho nước vào một cái chậu bằng bạc đun nóng. Sau khi đưa chàng trai ra khỏi quan tài, chúng dùng nước nóng rửa ráy cho chàng. Chàng trai dần dần tỉnh lại. Mở mắt nhìn, chàng nhận ra Abunfata:
- Ôi, chúng ta đang ở chốn nào vậy, hỡi ngài? Tại sao tôi lâm vào thảm cảnh này?
Tể tướng đáp:
- Tên khốn kiếp kia, hãy biết rằng chính ta gây nên cho mày nỗi bất hạnh này. Ta sai đưa mày đến đây để mày rõ quyền lực của ta. Ta sẽ dùng đủ mọi nhục hình để mày khai ra cho ta rõ mày giấu kho báu ở đâu. Ta sẽ phân thây rứt xác mày ra. Mỗi ngày ta sẽ ch mày nếm nhiều trận đòn mới, cho mày không sao chịu đựng nổi. Ta sẽ chẳng ngừng tay hành hạ mày kỳ cho đến lúc mày chịu cung khai và chuyển cho ta bao nhiêu là của cải từng cho phép mày sống xa hoa lộng lẫy hơn các nhà vua.
- Ông muốn làm gì cứ làm- Abuncaxem nói- tôi sẽ chẳng bao giờ hé răng nói lộ kho báu ở nơi nào.
Chàng trai chưa dứt lời, tên Abunfata đốn mạt đã sai hai tên nô lệ giữ chặt lấy chàng, rồi lão rút từ dưới tấm áo chùng ra một sợi roi da tết bằng da sư tử có gai sắc và bắt đầu đánh chàng, đánh vừa dữ vừa lâu đến nỗi chàng đau đớn ngất xỉu.
Thấy chàng trai trong tình cảnh ấy, lão tể tướng lệnh cho hai tên nô lệ đặt chàng trở lại quan tài, để nguyên như cũ trong gian phần mộ, rồi khoá chặt cửa ra về.
Sáng hôm sau lão vào triều tâu trình nhà vua những việc đã làm:
- Tâu hoàng thượng- lão nói- hôm qua tôi nhận thấy tên Abuncaxem khá cứng đầu, nó vẫn còn ngang bướng, nhưng tôi tin rồi nó không chịu đựng nổi những trận đòn mới tôi dành cho nó đâu.
Nhà vua vốn cũng là người dã man không kém, nói:
- Tể tướng à, ta lấy làm hài lòng về ông. Ta hy vọng rồi đây tên ấy sẽ khai cho chúng ta rõ kho báu ở đâu. Tuy nhiên lúc này ta cần cho sứ giả của hoàng đế trở về, không thể chậm trễ hơn nữa. Ông bảo ta nên viết những gì trình Đấng thống lĩnh các tín đồ?
- Xin ngài hãy tâu với hoàng đế, vừa nghe tin sắp được phong vương, tên Abuncaxem vui mừng quá đỗi, vội mở hội vui chơi trác táng sa đà với bạn bè, rồi vì quá chén hắn ta đã lìa đời.
Nhà vua cho tể tướng nói phải, vội viết thư trả lời, giao sứ giả mang về trình hoàng đế.
Lão tể tướng độc ác chắc nẫm nội trong ngày hôm nay chàng Abuncaxem thế nào cũng phải mở miệng khai ra cho lão biết chỗ giấu kho tàng, vội vã lên đường ra ngoài thành phố, quyết tâm tra khảo chàng ác hung tợn hơn nữa. Đến phần mộ, lão rất ngạc nhiên thấy cổng gian mộ mở toang hoang. Lão xộc vội vào, chẳng nhìn thấy chiếc quan tài đựng chàng trai đâu, lão bối rối tưởng chừng đến mất trí. Lão hấp tấp trở lại hoàng cung, tâu vua rõ. Kinh hoàng, tên vua nói:
- Này, ông tể tướng ơi, rồi thân phận chúng ta sẽ ra sao? Anh chàng ấy trốn thoát, chắc chúng ta mất mạng. Thế nào nó chẳng lên đường về kinh đô Batđa, tìm cách tâu trình hoàng đế.
NGÀY THỨ MƯỜI BỐN
Về phần mình, lão tể tướng cũng thất vọng và lo âu không kém. Tuy nhiên lão vẫn nói cứng với nhà vua:
- Giá mà trời bắt tội tên ấy chết đi, vua tôi ta đã không đến nỗi phải lo âu thế này! Dù sao xin chớ vội tuyệt vọng. Nếu nó chạy trốn, mà có thể tin mười mươi như vậy, chắc nó cũng chưa thể đi đâu xa. Cần huy động tất cả lính tráng trong đội vệ binh của triều đình, cho lùng xục khắp vùng phụ cận thành phố, tôi tin rằng chúng ta sẽ lại tóm được nó thôi.
Nhà vua ra lệnh thực hiện ngay lập tức cuộc lùng xét vô cùng quan trọng cho số phận y. Mọi quân sĩ được tập trung lại, chia làm hai mũi, một mũi giao tể tướng chỉ huy, một đội đích thân vua cầm quân, thế là quân sĩ được rải ra lùng xục khắp nơi mọi chốn trong vùng nông thôn.
Trong khi hai đội binh sĩ này đang lục lọi khắp làng mạc rừng rậm núi cao, thì tể tướng Giapha đã từ kinh đô Batđa khởi hành đi Basra. Trên đường ông gặp sứ giả của hoàng đế trở về. Sứ giả nói:
- Trình ngài, nếu việc của Abuncaxem là nguyên nhân chính khiến ngài phải cất công thực hiện chuyến công du này, thì xin ngài chớ nên mệt sức đến tận Basra làm chi. Chàng trai đã qua đời. Tang lễ chàng vừa diễn ra mấy hôm trước. Chính tôi tận mắt chứng kiến cảnh tượng buồn đau ấy.
Tể tướng Giapha vốn rất náo nức được tự mình gặp vị tân vương và giao chiếu chỉ cho ông, nghe vậy buồn rầu vô hạn. Ông tuôn rơi nước mắt, rồi nghĩ sự tình đã thế thì chẳng cần mất công đi tiếp nữa, liền quay ngựa trở về kinh đô.
Vừa đến nơi, tể tướng vội vã cùng sứ giả vào luôn hoàng cung. Nhìn thấy vẻ mặt sầu não của hai người, hoàng đế nghĩ chắc sắp được tâu trình tin không vui đây:
- Ồ, tể tướng Giapha, sao ông trở về nhanh vậy? Ông có gì tâu với ta đấy?
Muôn tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ,- tể tướng đáp- chắc hẳn ngài chẳng chút chờ đợi tin buồn tôi sắp trình đây. Chàng Abuncaxem không còn nữa. Chàng đã qua đời sau khi hoàng thượng rời khỏi thành Basra.
Hoàng đế Harun An Rasit vừa nghe đến đấy, đã bổ nhào khỏi ngai vàng. Vua ngã vật ra đất, ngất xỉu. Mọi người vội xúm vào cấp cứu. Tỉnh dậy, nhìn thấy viên sứ giả, nhà vua sai đưa ông xem bức thư của quốc vương Basra. Cầm bức thư, vua đọc rất chăm chú. Sau đó nhà vua lui về thư phòng riêng cùng với tể tướng Giapha. Vua trao bức thư phúc đáp của quốc vương Basra cho ông này cùng xem. Sau khi đọc đi đọc lại nhiều lần, hoàng đế phán:
- Ta thấy chuyện này chẳng bình thường chút nào. Vua Basra và viên tể tướng của y thật đáng nghi. Đáng nhẽ thi hành lệnh của ta, chúng nó đã tìm cách hãm hại Abuncaxem.
Đến lượt tể tướng Giapha nói:
- Muôn tâu hoàng đế, bản thân tôi cũng nghi ngờ giống như ngài. Tôi nghĩ ta nên ra lệnh bắt giữ cả hai tên.
Hoàng đế nói:
- Do vậy, ta quyết định đây: ngay lập tức ông lấy mười nghìn người ngựa trong đội vệ binh của ta thẳng Basra. Hãy bắt giữ ngay hai tên thủ phạm và dẫn về đây cho ta. Ta muốn trả thù cho con người hào hiệp nhất thế gian.
Vâng lời, tể tướng Giapha chọn luôn mười nghìn kỵ sĩ rồi hối hả lên đường.
Giờ chúng ta hãy quay trở lại với chàng Abuncaxem của chúng ta. Người thuật chuyện xin được nói rõ tại sao khi quay trở lại nghĩa trang, viên tể tướng Abunfata không nhìn thấy chàng, mà chính lão đã nhốt và khoá trái lại trong ấy. Hoá ra chàng trai trẻ của chúng ta, sau khi ngất xỉu hồi lâu, bắt đầu hồi tỉnh khi cảm thấy có những cánh tay mạnh mẽ nâng mình ra khỏi quan tài, đặt nằm xuống đất. Chàng vẫn tưởng đấy là lão tể tướng cùng hai tên nô lệ trở lại hành hạ mình. Chàng nói:
- Này những tên đao phủ kia, nếu chúng mày còn có chút nào lòng thương xót thì hãy giết chết ta ngay đi; chớ có tra khảo thêm nữa, vô ích mà thôi. Ta thề cho dù có dùng nhục hình đến đâu, chúng mày cũng chẳng cạy được miệng ta.
Một người nào đó đáp:
- Xin chớ lo sợ nữa, hỡi chàng trai, chẳng phải chúng tôi đến tra khảo chàng đâu, mà chính để cứu giúp chàng.
Nghe vậy, Abuncaxem mở mắt, nhìn những người đến giải thoát mình, và nhận ra trong số ấy có cả cô tiểu thư mà chàng đã trỏ cho xem kho báu. Chàng thốt lên:
- Ôi, thưa bà, chính nhờ có bà mà kẻ này được cứu sống chăng?
- Đúng vậy thưa ngài,- nàng Banki đáp- chính em đây, chính em cùng với hoàng thân Aly tình quân của em, người ngài nhìn thấy kia. Biết rõ tấm lòng hào hiệp của ngài, chàng muốn chia sẻ cùng em niềm vui được giải thoát ngài khỏi cái chết.
- Quả đúng như vậy,- hoàng thân Aly tiếp lời- tôi thà nghìn lần xông pha hiểm nguy, còn hơn chịu để cho một con người đại lượng như ngài lâm nạn.

Chàng trai con thương nhân Apđêlazit hoàn toàn hồi sức sau khi được những người đến cứu cho uống một loại thần dược nào đó, vội vàng bày tỏ với tiểu thư Banki và hoàng thân Aly những lời cảm ơn sâu đậm nhất. Chàng hỏi làm sao họ biết chàng còn sống. Nàng Banki đáp:
- Thưa ngài, thì em là con gái tể tướng Abunfata mà. Em làm sao mắc lởm những lời đồn đại về cái chết của ngài. Em ngờ chính cha em đã gây nên những chuyện ấy. Em đã gạn hỏi một tên nô lệ, y thú nhận với em tất cả mọi sự. Tên ấy là một trong hai đứa đã ở lại trong phần mộ hôm ấy với cha em. Nó lại là người được giao giữ chìa khoá, thành ra nó sẵn sàng trao ngay chìa khóa mộ cho em. Em vội báo tin cho hoàng thân Aly biết. Chàng đến ngay lập tức cùng với mấy gia nhân tin cẩn nhất. Chúng em cấp tốc chạy đến đây, ơn trời không đến nỗi quá muộn.
- Ôi, lạy Thượng đế!- Abuncaxem thốt lên- làm sao một tên khốn kiếp dường ấy lại sinh hạ được một người con gái nhân hậu dường này!
Hoàng thân Aly nói:
- Ngài ơi, chúng ta chớ để mất thời gian. Tôi tin chắc sáng mai, khi tể tướng đến đây và không trông thấy ngài trong phần mộ, ông sẽ cho lùng xục tìm kiếm khắp mọi nơi. Vậy tôi sẽ đưa ngài về nhà tôi, ở đó ngài sẽ bình yên vô sự. Chẳng ai nghi tôi là người có thể giúp cho ngài nơi ẩn náu.
Thế là hoàng thân đưa một cái áo nô lệ cho Abuncaxem mặc. Sau đó mọi người cùng ra về, cứ để phần mộ mở toang như vậy. Nàng Banki trở về nhà trao trả chiếc chìa khoá cho người nô lệ, trong khi hoàng thân lui về nhà mình cùng với Abuncaxem. Hoàng thân giấu chàng một nơi kín đáo, khiến các kẻ thù của chàng chẳng sao hay biết.
NGÀY THỨ MƯỜI LĂM
Abuncaxem sống trong nhà hoàng thân Aly. Chàng được đối xử rất tử tế, cho đến khi nhà vua và viên tể tướng của y thất vọng không sao tìm thấy chàng nữa, cho rút quân ra về. Lúc này hoàng thân Aly cấp cho chàng một con ngựa tốt, lại cho chàng một số lớn đồng xơcanh vàng cùng nhiều viên ngọc quý, và bảo:
- Bây giờ ngài có thể trốn đi. Chẳng có ai ngăn cản ngài trên đường nữa. Kẻ thù của ngài chẳng rõ ngài đã biến mất đâu. Giờ ngài muốn đi đến chốn nào, xin tuỳ ý.
Chàng Abuncaxem cảm tạ hoàng thân về những nghĩa cử của ông, khẳng định với hoàng thân suốt đời chẳng bao giờ chàng quên ơn này. Hoàng thân ôm hôn chàng, còn đứng nhìn chàng trai ra đi và thầm cầu mong Thượng đế dắt dẫn cho chàng. Abuncaxem lên đường đến Batđa, và may mắn sau mấy ngày đường chàng tới được kinh thành.
Việc đầu tiên của chàng khi đến kinh đô là tìm tới nơi các nhà buôn vẫn thường tụ họp với nhau. Chàng hy vọng có thể gặp lại ở đây vị thương nhân mà chàng từng đãi đằng những ngày nào ở Basra để thuật lại bao nhiêu điều bất hạnh xảy đến cho mình sau lần gặp ấy, coi đấy sẽ là niềm an ủi duy nhất. Chàng hết sức buồn phiền chẳng sao tìm được. Chàng đi khắp nơi trong thành phố, gặp ai cũng có nhìn xem có nét gì hao hao giống vị thương nhân hôm nào chăng. Khi đã quá mệt, chàng dừng chân ngồi nghỉ trước cung của hoàng đế. Tên hầu trẻ tuổi mà chàng đã biếu nhà vua, hôm ấy tình cờ đến bên cửa sổ, nhìn xuống đường trông thấy và nhận ra chàng. Nó vội chạy tìm gặp hoàng đế Harun An Rasit và nói:
- Muôn tâu, tôi vừa nhìn thấy ông chủ cũ của tôi hồi ở Basra.
Thoạt tiên hoàng đế không tin:
- Chắc mày nhầm đấy. Abuncaxem không còn nữa. Hẳn mày trông thấy ai đó mà mày ngỡ là chủ cũ của mày.
- Không phải thế đâu, tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ. Tôi xin quả quyết là chính ông chủ, tôi đã nhận ra ông.
Mặc dù không tin, hoàng đế cũng muốn làm rõ. Vua sai một võ quan theo tên hầu trẻ xuống đường ngay, xem thử con người ấy có đúng là chàng con trai của thương nhân Apđêlazit ngày trước hay không. Họ trông thấy chàng vẫn ngồi yên ở chỗ ấy, bởi chính chàng cũng vừa nhìn thấy tên hầu trẻ, chàng chờ may ra nó còn quay trở lại bên cửa sổ lần nữa.
Biết chắc đây là ông chủ Abuncaxem rồi, tên hầu trẻ vội quỳ mọp dưới chân chàng. Abuncaxem đỡ nó dậy, hỏi bây giờ nó được vinh dự hầu hạ hoàng đế hay sao. Tên hầu đáp:
- Vâng, đúng vậy. Bởi người mà hôm nào ngài tiếp đãi ở Basra chính là Đấng thống lĩnh các tín đồ. Chính ngài mang cháu ra làm tặng vật biếu hoàng đế ấy mà. Xin mời ngài hãy đi theo cháu, chắc hoàng đế sẽ vui lòng gặp lại ngài.
Nghe vậy, chàng trai cực kỳ kinh ngạc. Chàng khấp khởi đi theo viên võ quan và tên hầu, chẳng mấy chốc đến tận phòng hoàng đế Harun. Lúc này vua đang ngự trên ngai. Người có vẻ vô cùng xúc động trông thấy Abuncaxem. Hoàng đế vội vàng bước xuống khỏi ngai vàng, tiến lên mấy bước đón chàng trai, rồi hết sức vui mừng ôm chặt lấy chàng hồi lâu. Sau khi đã qua cơn xúc động, hoàng đế ngỏ lời nói với chàng:
- Này, hỡi chàng trai trẻ, hãy mở to mắt ra mà nhìn người đồng thực khách diễm hạnh của anh hôm nào. Ta chính là vị thương nhân đã may mắn được anh đãi đằng nồng hậu. Anh đã biếu ta nhiều tặng vật quý hiếm hơn cả tặng phẩm của các nhà vua.
Nghe nói, Abuncaxem bối rối không thể nào tả xiết. Lúc mới bước vào, chàng không dám nhìn thẳng vào hoàng đế, giờ chàng ngước mắt ngó cho kỹ, và nhận ra ngay người thực khách. Chàng kêu lên:
-         Ôi, đấng chúa tể của tôi, vị đế vương của toàn thế giới! Có thật chính ngày đã từng hạ cố đến tận nhà kẻ nô lệ của ngài?
Vừa nói, chàng vừa phủ phục dưới chân hoàng đế, mặt úp sát đất. Hoàng đế đỡ chàng đứng lên, cho phép ngồi xuống một chiếc trường kỷ, bên cạnh mình. Rồi hoàng đế hỏi:
-         Có thể nào anh vẫn còn sống trên đời này?
Vậy là Abuncaxem bắt đầu thuật lại hầu hoàng đế đầu đuôi câu chuyện, kể ra mọi tội ác của lão Abunfata, cũng như bằng cách nào chàng may mắn thoát khỏi bàn tay độc ác của lão già. Hoàng đế lắng nghe rất chăm chú, rồi bảo chàng:
-         Chính ta là nguyên nhân dẫn đến mọi nỗi bất hạnh của anh. Trở về Bátđa, ta muốn đền đáp cho anh món ân huệ. Ta đã phái sứ giả đến Basra, truyền cho nhà vua bên ấy hãy trao lại ngôi báu cho anh. Đã không chịu thi hành chiếu chỉ của ta, chúng nó còn đang tâm tìm cách hãm hại anh. Anh nên biết rằng, sau khi bị đánh thuốc mê, chẳng bao lâu nữa lão Abunfata sẽ giết anh. Sở dĩ lão còn để cho anh sống, chính vì lão hy vọng có thể dùng nhục hình ép anh khai ra nơi cất giấu kho báu vật. Nhưng rồi đây anh sẽ được báo thù. Ta đã sai tể tướng Giapha mang một đạo quân lớn tới Barsa, đã lệnh cho ông bắt giữ ngay những kẻ đã hành hạ anh và áp giải chúng về đây. Trong thời gian này, anh hãy ở ngay trong cung của ta. Anh sẽ được mọi người trong hoàng cung phục dịch như chúng hầu hạ chính ta vậy.
Nói xong vua đứng lên, cầm tay dẫn chàng trai xuống một khu vườn ở đó có những loài hoa cực hiếm. Xen giữa hoa tươi có nhiều cái bể xây bằng cẩm thạch, hoàng thạch, vân thạch. Trong bể các đàn cá tung tăng bơi lội. Chính giữa vườn là một khu nhà trống, chung quanh dựng mười hai cây cột rất cao bằng cẩm thạch đen tuyền, trên cùng là một mái vòm bằng gỗ trầm hương và gỗ lô hội. Nối liền các cột có hai lớp lưới đan bằng những sợi vàng ròng, tạo thành một cái lồng chim khổng lô trong đó vô vàn các loại sơn ca, hoàng anh, bạch yến… cùng muôn loài chim chóc khác lông cánh sặc sỡ đủ màu thi nhau bay lượn và cất tiếng hát líu lo.
Hóa ra nhà tắm của hoàng đế Harun An Rasit xây ngay dưới mái vòm này. Hai người cùng xuống tắm. Sau đó các kẻ hầu mang đến những chiếc khăn tắm bằng vải mịn nhất, chưa dùng lần nào. Họ mặc cho Anbuncaxem trang phục sang trọng nhất. Tiếp đó, hoàng đế đưa chàng trai tới một căn phòng, cho phép chàng cùng ngồi dùng bữa với mình. Các nô tì mang đến dâng nước ép thịt cừu cùng các loại sản phẩm làm từ sữa. Rồi nào các quả lựu trồng ở xứ Amlat và xứ Ziri, tạo đặc sản vùng Êhan, nho nguyên chủng ở Mêlat và Xêvi, lê thành phố Ispahan. Sau khi dùng nước thịt ép và các loại trái cây, họ được dâng một loại rượu nho tuyệt diệu. Sau bữa, hoàng đế đích thân dẫn chàng trai đến chào hoàng hậu Zôbêit.
Hoàng hậu bấy giờ đang ngữ trên chiếc ngai vàng trong cung riêng dành cho bà, hai bên tả hữu các nô tì xinh đẹp xếp hành ngay ngắn. Những người này đệm trống cơm, những người kia thổi sáo trúc, những người khác nữa chơi đàn dây. Tuy nhiên lúc này họ chưa tấu nhạc. Tất cả đang đứng im lắng nghe một cô gái xinh đẹp nhất trong số nô tì có mặt ở đấy hát một bài ca, mà đại ý là: Trong đời chỉ nên yêu một lần, song đã yêu thì yêu đến trọn đời. Trong khi cô ấy hát, người nữ tì mà Abuncaxem từng dâng tặng hoàng đế hôm gặp nhau ở Basra đệm nhạc bằng cây đàn tì bà làm bằng gỗ lô hội, ngà voi, trầm hương và gỗ mun đen tuyền.
Nhác thấy hoàng đế cùng chàng con trai vị thương nhân Apđêlazit bước vào, hoàng hậu vội xuống ngai nghênh đón. Nhà vua nói:
-         Thưa bà, xin được giới thiệu với hoàng hậu ông chủ trẻ từng tiếp đón ta hôm nọ ở thành phố Basra.
Chàng trai vội phủ phục dưới chân hoàng hậu, mặt úp sát đất. Trong khi chàng đang quỳ mọp như vậy thi có sự rối loại trong đám thị tì. Hóa ra cô gái vừa hát dở bài ca lúc nãy, chợt nhìn thấy Abubcaxem, liền ngả xuống đất bất tỉnh nhân sự.
NGÀY THỨ MƯỜI SÁU
Hoàng đế và hoàng hậu cùng quay lại nhìn cô gái. Chàng Abuncaxem sau khi đứng lên cũng quay sang nhìn. Vừa trông thấy nàng, chàng trai cũng ngất xỉu luôn chàng. Mắt nhắm nghiền, mặt chàng tái xanh tái xám, tưởng như sắp chết tới nơi. Hoàng đế vội vã đỡ chàng trai, ôm chặt vào người, nhờ vậy chàng dần dần hồi tỉnh.
Khi tỉnh trí được rồi, chàng thưa với hoàng đế:
-         Muôn tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ, ngài đã biết rõ chuyện từng xảy ra với tôi hồi ở thành phố Cairo. Người nữ tì ngày ngài đang nhìn thấy kia chính là cung nhân đã bị ném xuống dòng sông Nin năm nào, đấy chính là nàng Đacđanê.
-         Có thể nào như vậy chăng? – Hoàng đế thốt lên – muôn vàn lần tạ ơn trời đất đã xui khiến nên cuộc hạnh ngộ kỳ diệu này.
Trong thời gian ấy, cô nữ tì được các bạn cứu giúp cũng dần hồi tỉnh. Nàng định phủ phục dưới chân hoàng đế. Nhà vua vừa kịp ngăn lại, và hỏi bởi phép thần nào nàng còn sống sau khi đã bị ném xuống giữa dòng sông Nin. Nàng đáp:
-         Muôn tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ, may mắn sao hôm ấy em rơi vào chiếc lưới của người ngư phủ, đúng lú người ấy đang kéo lưới lên. Ông ta rất ngạc nhiên sao minh đánh được vật lạ thế này. Nhận thấy em còn thoi thóp, ông vội đưa em về nhà cứu chữa. Em thuật lại cho ông nghe đầu đuôi câu chuyện. Ông tỏ ra kinh hãi lắm, sợ hoàng đế nước Ai Cập nhỡ ra biết rõ ông đã cứu sống em. Lo sợ nếu cưu mang em thì có thể mất mạng sống của chính mình, ông vội vàng bán em cho một nhà buôn nô lệ sắp lên đường tới thành phố Batđa. Nhà buôn ấy mang em đến kinh đô, ít lâu sau dâng trình hoàng hậu Zôbêit, và vinh hạnh em được hoàng hậu nhận mua.
Trong khi cô gái thuật chuyện, hoàng đế chăm chú quan sát cô. Vua thấy cô ta quả có sắc đẹp tuyệt vời. Chờ nàng kể xong, hoàng đế nói với Abuncaxem:
-         Chàng trai à, giờ ta không còn lấy làm ngạc nhiên nữa, tại sao anh cứ một lòng thương nhớ không nguôi người đẹp này. Ta cảm tạ trời đất đã dun dủi cho cô ấy đến đây, giúp ta có cơ hội trả cái ơn ta chịu ở anh. Từ giờ phút này, Đacđanê không còn là nô lệ nữa, cô ấy đã trở thành người tự do. Thưa hoàng hậu, - hoàng đế quay sang nói với bà Zôbêit – ta tin bà không phản đối việc ta trả lại tự do cho cô ấy.
-         Không những em không phản đối, tâu hoàng đế, - bà nói – em còn rất vui mững được đồng tình với ngài. Em chúc cho đôi tình nhân này được hưởng chọn mọi lạc thú một cuộc hôn nhân lâu dài và hạnh phúc, sau khi bị chia lìa mỗi người một phương bấy nhiều điều bất hạnh.
-         Chưa phải chỉ có thế mà thôi,- hoàng đế nói tiếp- ta muốn rằng hôn lễ sẽ được cử hành ngay tại cung điện của ta, và cho phép nhân dân kinh thành Batđa mở hội vui chơi trong ba ngày liền. Bởi ta chẳng biết cách nào đối xử trọng hậu hơn với ông chủ từng hào hiệp đón tiếp ta.
Abuncaxem một lần nữa lại phủ phục dưới chân hoàng đế:
-         Ôi, muôn tâu Đấng thống lĩnh các tín đồ, ngài không chỉ là bậc đế vương cao cả hơn mọi vị vua chúa trên đời, ngài còn là con người hào hiệp nhất trên thế gian. Xin cho phép tôi được trình với ngài nơi cất giấu kho báu, tất cả vàng bạc châu báu trong kho từ nay không thuộc sở hữu của tôi nữa, tôi xin được hiến dâng hoàng đế.
-         Không đâu,- hoàng đế đáp- anh hãy yên tâm hưởng thụ mọi tài sản anh có, thậm chí ta còn khước từ quyền tối cao của ta trong vụ nay, ta chúc hai người có cuộc sống thật dài lâu để tiêu pha cho hết của cải trong kho tàng.
Hoàng hậu Zôbêit truyền cho chàng con trai  thương nhân Apđêlazit và nàng Đacđanê tường thuật đầy đủ mọi câu chuyện từng xảy ra với hai người. Bà sai sử thần chép lại bằng chữ vàng lưu giữ trong văn khố. Tiếp đó, hoàng đế ra lệnh tiến hành hôn lễ cho hai người. Đám cưới cử hành rất huy hoàng. Nhân dân kinh thành còn đang hội hè vui chơi mừng đôi nam nữ, thì chợt thấy tể tướng Giâph rầm rộ kéo quân trở về, áp giải theo viên quan độc ác Abunfata bị trói gô. Còn quốc vương từng trị vì thành phố Basra, vì quá lo âu không lùng bắt được Abuncaxem, đã khiếp đảm mà bỏ mạng trước rồi.
Sau khi tể tướng Giâph tâu trình xong mọi chuyện với hoàng đế, người ta cho dựng lên một đoạn đầu đài và dẫn tên Abunfata độc ác đến đấy. Dân chúng trong kinh thành, biết rõ mọi tội ác của lão, tuyệt nhiên không ai thương hại mà ai ai cũng nóng lòng chứng kiến cuộc hành hình. Đao phủ đã bước tới, mã tấu lăm lăm cầm tay, sắp sửa thi hành mệnh lệnh, thì chàng Abuncaxem vội vã phủ phục dưới chân hoàng đế Harun van xin:
-         Muôn tau Đấng thống lĩnh các tín đồ, cúi xin ngài hãy chấp nhận lời cầu khẩn của tôi cho Abunfata khỏi bị gia hình. Xin ngài hãy cho y được sống, cho y được tận mắt nhìn thấy hạnh phúc của chúng tôi, được tận mắt nhìn thấy mọi ân huệ ngài ban cho tôi, như vậy há chẳng phải là sự trừng phạt nặng nề nhất cho y rồi sao
Hoàng đế thốt lên:
-         Ơi anh chàng Abuncaxem quá đỗi rộng lượng, anh thật xứng đáng làm vua. Hạnh phúc thay cho nhân dân thành phố Basra được anh trị vì!

- Muôn tâu, tôi còn muốn được cầu xin hoàng thượng ban cho một ân sủng nữa. Xin ngài hãy ban cho hoàng thân Aly chiếc ngai vàng ngài đã hạ cố dành cho tôi. Để hoàng thân có cơ hội cùng với nàng tiểu thư đã hào hiệp cứu mạng sống của tôi khỏi sự hung ác của cha nàng. Đôi uyên ương ấy quả xứng đáng với ân huệ của ngài. Về phần tôi, được Đấng thống lĩnh các tín đồ quý mến và che chở, như vậy là tôi đã quá hạnh phúc rồi, như vậy còn quý hơn cao sang hơn tất cả mọi quân vương khác trên đời.
Hoàng đế chấp thuận. Để thưởng công hoàng thân Aly về những việc chàng đã làm cho con trai thân thương Apđêlazit, hoàng đế sai mang chiếu chỉ sang phong cho hoàng thân làm vua thành Basra. Tuy nhiên nhận thấy Abunfata phạm nhiều tội ác quá nặng nề không thể vừa tha cho tội chết vừa cho y được tự do, hoàng đế sai giam lão trọn đời trong ngục tối. Khi nhân dân thành phố Batđa hay tin đích thân người bị hại đã đứng ra xin hoàng đế ân xá cho kẻ làm hại mình, mọi người hết lời khen ngợi Abuncaxem.
Chẳng bao lâu sau, chàng lên đường trở về Basra cùng với nàng Đađanê yêu quý của mình, có sự hộ tống của một đội quân trong đạo vệ binh của hoàng đế cùng nhiều võ quan.
Kể đến đấy, bà nhũ mẫu Xutlumêmê ngừng câu chuyện về chàng Abuncaxem người thành phố Basri. Tất cả người hầu của công chúa nước Casơmia đều dồn dập vỗ tay hoan hô. Những người này ca ngợi vẻ hào hoa và lòng hào hiệp của chàng trai người Basri; những người khác quả quyết hoàng đế Harun An Rasit đại lượng chẳng thua kém chàng. Những người khác nữa, quan tâm nhiều hơn đến tình yêu chung thủy, lại cho rằng quý hơn hết thảy trên đời, là chàng Abuncaxem tỏ ra một tình nhân thật sự chung tình. Đến lúc này công chúa Farucna mới ngỏ lời nói lên quan điểm của mình như sau:
-         Tôi không đồng ý với ý kiến của các người. Cho dù nàng Danki đã không làm cho Abuncaxem lãng quên được nàng Dacđanê, tôi vẫn muốn rằng một chàng trai đang yêu, nhỡ khi người yêu mình chẳng may qua đời, sẽ chẳng bao giờ còn cảm thấy rung động trước một tình yêu khác mới chớm nở. Nhưng trên đời này, bói đâu ra người đàn ông kiên trì và chung thủy đến vậy.
-         Xin công chúa thứ lỗi – bà Xutlumêmê lên tiếng- vẫn có những đấng nam nhi mà vẫn sự chung tình trải qua muôn vàn thử thách. Công chúa sẽ tin chắc điều đó, nếu như nàng vui lòng nghe tôi kể câu chuyện giữa quốc vương Ravansat với công chúa Sêhêristani.
- Ừ thì nghe,- công chúa Farucna đáp- ta cho phép bà kể đấy. Được lời, bà nhũ mẫu bắt đầu kể chuyện mới sau đây.
Chương 3: Chuyện quốc vương Ruvansat và công chúa Sêhêristani
Ngày xưa, ở nước Trung Hoa có một nhà vua tên là Ravansat. Một hôm trong khi đi săn, vua chợt bắt gặp một con hươu cái lông trắng điểm những đốm xanh và đên, chân đeo những chiếc khuyên vàng, trên lưng phủ một tấm satanh vàng có thêu hoa văn bằng ngân tuyến rất tinh vi.
Thấy một con mồi đẹp đến vậy, nhà vua hết sức mong bắt được nó, vội thúc ngựa đuổi theo. Con hươu trắng tinh khôn bỏ chạy nhanh chóng và nhẹ nhàng đến mức chẳng bao lâu khuất bóng thậm chí không nhìn thấy cả làn bụi đất chân nó làm tung lên khi chạy trốn. Nhà vua buồn rầu thấy bỏ lỡ mất cơ may bắt sống con thú, đang bực mình thì đột nhiên thấy con hươu cái lại xuất hiện. Nó nằm trên bãi cỏ non cạnh một đầm nước, như thể đang nghỉ ngơi cho lại sức sau một hồi bị săn đuổi. Nhà vua thúc ngựa tiến đến  gần, nhưng lần này cũng lại không may. Thoáng thấy có người tới, con hươu nhẹ nhàng đứng lên, rồi chỉ cần hai bước nhảy, nó kịp lao luôn xuống đầm, chẳng làm sao nhìn thấy tăm hơi đâu nữa.
NGÀY THỨ MƯỜI BẢY
Vua nước Trung Hoa vội vàng xuống ngựa. Chàng không ngừng chạy tới chạy lui quanh quẩn bên bờ đầm, lùng xục mọi ngóc ngách, rung cây đẩy lá làm xao động mạnh nước trong đầm, cố tìm cho ra con mồi, song tuyệt nhiên chẳng thấy dấu vết. Nhà vua khá ngạc nhiên về chuyện vừa xảy ra. Viên tể tướng cũng như cả đoàn tùy tùng đều cho là chuyện lạ. Suy đi nghĩ lại, vua tin chắc con hươu cái này chẳng phải là một con vật bình thường như mọi con thú vẫn sống trong rừng. Đây hẳn là một nữ thủy thần thỉnh thoảng hiện lên dưới dạng ấy để trêu tức những người đi săn. Các triều thần đều nhất trí với suy đoán của quốc vương.
Trong thời gian ấy, đôi mắt của vua Ruvansat cứ chăm chăm không rời mặt đầm, và chẳng hiểu do đâu nhà vua chốc chốc lại thở dài. Vua nói với tể tướng:
-         Nhất định ta nghỉ qua đêm hôm nay ở chốn này. Ta hiếu kỳ muốn quan sát nữ thuỷ thần ấy. Ta có linh cảm thế nào cũng nhìn thấy nàng xuất hiện trở lại và trồi lên khỏi mặt nước.
Quyết định như vậy rồi, vua cho tất cả mọi người trở lại kinh thành, chỉ giữ riêng tể tướng để cùng nghỉ qua đêm với mình. Hai người ngồi xuống bãi cỏ, tiếp tục đàm đạo về chuyện con hươu cái cho đến khi trời tối hẳn. Lúc này nhà vua cảm thấy mệt mỏi sau cuộc săn, muốn nghỉ ngơi chốc lát. Vua bảo viên triều thần:
-         Tể tướng Muêzin này, ta buồn ngủ quá. Ông hãy thức canh trong khi ta ngả lưng nhé. Ông phải luôn luôn nhìn kỹ mặt đầm, nếu trông thấy có vật gì xuất hiện, nhớ đánh thức ta dậy ngay.
Tể tướng cùng mệt mỏi lắm, nhưng để làm hài lòng quốc vương, vẫn cố thức, song cuối cùng không chịu nổi, ngủ thiếp luôn.
Tuy nhiên chẳng ai nghỉ được lâu. Hai người cùng choàng tỉnh khi nghe vẳng lại đâu đấy một nhạc điệu du dương khá gần với nơi họ đang nằm. Hai người còn kinh ngạc hơn nữa, khi cùng nhìn thấy xa xa một toà lâu đài tráng lệ đèn đuốc sáng chưng, một toà nhà mà bàn tay người trần chắc hẳn không thể xây dựng nên. Nhà vua thì thầm với tể tướng:
-         Ông Muêzin à, ta chẳng hiểu thế này là thế nào. Những điệu hoà tấu tai chúng ta nghe kia xuất phát từ đâu? Toà lâu đài của ai hiện ra trước mắt chúng ta thế này?
-         Tâu bệ hạ- tể tướng đáp- tất cả những thứ ấy thật chẳng bình thường chút nào. Chắc hẳn có bùa ma phép quỷ chi đây. Cầu trời giúp cho chúng ta mau chóng rời xa cái đầm. Toà lâu đài kia chắc chắn là cái bẫy mà một tên ma thuật nào đấy chăng ra để hãm hại hoàng thượng.
-         Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa,- nhà vua nói- ông chớ nghĩ ta sẽ khựng lại vì sợ hãi. Chúng ta hãy đến tận toà lâu đài- vua vừa nói vừa đứng lên- xem thử có những người nào đang sống trong đó. Thôi ông chớ có mang tai vạ vịt ra nhát ta. Ông càng tô vẽ ra nhiều chuyện hiểm nguy, càng thôi thúc ta nôn nóng dấn thây vào đấy.
Thấy nhà vua kiên quyết như vậy, tể tướng chẳng dám can ngăn nữa. Hai người cùng tiến đến lâu đài. Đến nơi thấy cổng đã mở sẵn hai người bước qua cổng đi vào một cái sân rộng. Qua khỏi sân vào một gian phòng khoáng đãng, sàn lát toàn bằng gạch men sứ Trung Hoa, trang trí nhiều bức gấm thêu lộng lẫy và bày sẵn nhiều chiếc trường kỷ có bọc đệm quý. Một làn hương nhè nhẹ lan toả khắp căn phòng. Họ đi qua suốt gian phòng rộng ấy mà chẳng gặp một ai. Từ đó sang một phòng khác. Tới đây hai người nhìn thấy một phu nhân trẻ tuổi đang ngự trệ chiếc ngai vàng, sắc đẹp của nàng khiến nhà vua cũng như tể tướng vô cùng kinh ngạc. nàng có vẻ đang chăm chú theo rõi dàn nhạc bằng đàn dây. Tất cả các cô đều ăn vận như nhau những chiếc áo lụa hồng có đính nhiều hạt ngọc. Họ đang trình diễn cho thiếu phụ ngồi trên ngai thưởng thức. Quốc vương Ruvansat cả đời chưa từng nghe những giọng hát mượt mà cũng như tiếng đàn tài hoa đến vậy. Tuy nhiên chàng chẳng mấy quan tâm những thứ ấy. Mắt chàng chỉ đăm đăm dán vào người thiếu phụ ngự trên ngai, người mà đôi mắt có mãnh lực sao lớn lao đến thế.
Nghe nói, thiếu phụ mỉm cười và đáp:
-         Tôi chỉ là một con hươu cái có khả năng thuần phục sư tử. Tôi chính là con mồi mà chàng đã săn đuổi suốt ngày hôm nay, buộc nó phải lao xuống đầm nước.
-         Ôi, thưa phu nhân, tôi biết nghĩ sao đây về những sự thay hình đổi dạng ấy?- nhà vua nói- Tim tôi đang lo lắng đây. Không rõ lúc này có phải nàng hiện lên dưới một dạng chỉ nhằm đáng lừa tôi chăng?
-         Không phải vậy đâu, thưa ngài. Lúc này em đang giữ nguyên dạng của mình. Đúng là em có thể hiện ra dưới bất kỳ hình dạng nào em thích; em có phép để cho người trần nhìn được hoặc không nhìn được thấy em. Những chuyện ấy chẳng phải bùa ma chước quỷ gì đâu. Đấy là một phép thần thông mà em được trời phú cho từ khi cha mẹ mới sinh ra.
Nói đến đây, thiếu phụ rời ngai vàng bước xuống, tiến đến cạnh nhà vua, cầm tay dẫn nhà vua sang một căn phòng khác, ở đó đã bày một cái bàn dọn đủ thứ của ngon vật lạ. Nàng mời quốc vương an toạ, rồi tự mình ngồi xuống giữa nhà vua và tể tướng. Ông này đang lo nẫu ruột gan. Ông nghĩ những chuyện diễn ra trước mắt kia chẳng phải điềm lành, và sẵn sàng chờ đón một sự kiện đáng buồn nào đó sẽ xảy ra.
Đối với quốc vương, lúc này chàng chỉ biết mỗi chuyện là mê mẩn tâm thần trước người đẹp. Vua chẳng buồn quan tâm suy nghĩ điều gì khác có thể làm giảm bớt diễm hạnh được ngắm nghía dung nhan nàng. Vua muốn gắp thức ăn mời nàng cùng dùng với mình, nhưng nàng bảo:
-         Xin mời các vị cứ tự nhiên cho. Đối với chúng tôi, hằng ngày chỉ cần ngửi hương hoa và mùi thơm toả lên từ thức ăn là đủ sống rồi.
NGÀY THỨ MƯỜI TÁM
Nhà vua và tể tướng vừa dùng bữa xong, hai tiểu thư mang đến hai chiếc ly bằng mã não đựng đầy rượu đỏ, mời hai người cạn, rồi đứng cạnh nhờ rót tiếp cho hai ly lúc nào cũng đầy. Người thiếu phụ cũng được dâng rượu, song nàng không động đến một giọt mà chỉ dùng mũi ngửi. Ấy thế mà dường như mùi rượu vẫn tác động đến nàng chẳng khác hơi men đã làm quốc vương bắt đầu cảm thấy người lâng lâng. Hai người chuyện trò ngày càng thắm thiết. Nhà vua thầm thì với thiếu phụ bao lời dịu dàng âu yếm làm nàng không giấu nổi sự xúc động thật sự. Cuối cùng nàng ngỏ lời nói với chàng như sau:
-         Cho dù chàng là người trần thế, tức thuộc một loài không được cao bằng thần tiên chúng em, em vẫn không thể ngăn nổi không đem lòng yêu mến chàng. Để chàng thấy mình vừa chiếm đoạt được một mối tình cao quý dường nào, em không thể chần chừ lâu hơn nữa mà không thưa để chàng rõ ngay em là ai. Thưa chàng, chính giữa biển cả mênh mông có một quốc đảo tên là Sêhêristan. Đất nước ấy chỉ có các vị thần cư trú mà thôi, không có người trần thế. Mênutsê là danh xưng nhà vua trị vì quốc đảo ấy. Em là con gái duy nhất của quốc vương, vì vậy tên em là Sêhêristan.
Cách đây ba tháng, em đã từ giã triều đình vua cha. Bởi vì hiếu kỳ muốn được nhìn tận mắt các quốc gia của người trần thế, em đi du ngoạn đó đây. Em đã đi chu du khắp mọi miền trên thế giới. Em sắp trở về quốc đảo của mìn thì hôm qua, đi ngang qua quý quốc, tình cờ em chợt bắt gặp chàng đang săn bắn. Em dừng chân lại xem, nhìn thấy phong thái của chàng em đột nhiên cảm thấy lòng mình rung động; mỗi lần đưa mắt đi nơi khác để không còn thấy hình dáng chàng trước mắt, tự nhiên em trở nên mơ màng trầm uất. Bất giác em thở dài. Em tự lấy làm hổ thẹn về việc ấy, không hiểu sao cho dù không cố ý, mình vẫn không thôi tơ tưởng tới chàng. Em ngượng ngùng đến đỏ bừng mặt. Có nhẽ nào, em tự hỏi, một con người trần thế lại có thể gây nên nỗi trăn trở trong tâm can ta đến vậy? Nhẽ nào một nam nhi người trần mắt thị lại có thể thắng được sự kiêu sa của ta là con gái một nhà vua cai quản các thần linh? Xấu hổ về sự yếu đuối của mình, em những muốn rời xa chàng ngay tức khắc, nhưng chẳng hiểu do đâu chân em cứ khựng lại, tựa hồ con người em đã mất hết mọi sinh lực rồi. Thế là ngả theo tình cảm đắm đuối, em chỉ còn cách làm sao cho anh say đắm. Em hiện thân thành một con hươu trắng cứ vỡn vờ trước mắt chàng cho chàng chú ý. Chàng đã phóng ngựa đuổi theo em. Sau khi lao xuống ẩn mình trong đầm nước. Thế là trong khi chàng ngủ, em sai xây dựng nên toà lâu đài này để nghênh đón chàng. Các vị thần linh vẫn hầu hạ em đã hoàn tất việc tạo lập cung điện này trong chốc lát.
Tiểu thư còn muốn tiếp tục nói chuyện nữa, đột nhiên một cô gái chạy xộc và phòng, vẻ mặt hốt hoảng. Công chúa thoạt nhìn mặt cô gái đã hiểu rõ ngay cái tin không lành cô mang tới cho mình lên đau đớn thét lên một tiếng. Tiếp đó nàng tự đấm vào mặt, và tuôn nước mắt như mưa. Quốc vương nước Trung Hoa vô cùng bối rối trước cảnh tượng ấy. Hết sức cảm thông nỗi buồn của công chúa, vua thấy mình khó có thể chịu đựng lâu hơn nữa nếu không tìm hiểu rõ căn nguyên. Nhà vua định cất lời hỏi, thì vừa lúc cô gái vừa xộc vào lúc nãy, tiến lên mấy bước và thưa với công chúa:
-         Ôi, thưa bà hoàng của em, bà biết rõ rồi đấy, cho dù các vị thần linh có trường thọ hơn người trần thế rất rất nhiều, rốt cuộc chẳng thể khác người trần, thần linh cũng sẽ đến lúc phải xa lìa cuộc sống. Phụ vương bà vừa qua đời. Người đã từ cuộc đời có sinh có tử bước vào cõi vĩnh hằng. Nhân dân cả nước đang xôn xao hỏi công chúa lúc này ở đâu. Mọi người trông đợi bà về ngay cho, để kịp tiến hành lễ tấn phong bà lên ngôi báu kế vị phụ vương. Vậy mời bà hãy trở về nước ngay cho, để ra mắt thần dân trong quốc đảo, và để cho mọi người bớt nôn nóng đòi triều đình cử hành luôn những nghi lễ cần thiết để đất nước mau chóng có tân vương. Ngài đại tể tướng phụ thân của em sai em đi tìm, mời bà khẩn cấp trở về ngay quốc đảo chúng ta.
-         Thôi đủ rồi, em Maimôna ạ, chị đã hiểu thấu và đánh giá cao sự mẫn cán nhiệt tình của phụ thân em cũng như tình cảm quý báu của em đối với chị. Chị sẽ cùng em lên đường về nước ngay tức khắc. Xin vĩnh biệt, hỡi quốc vương,- công chúa quay lại thưa với vua nước Trung Hoa. Vừa nói nàng vừa chìa ra cho chàng nắm bàn tay xinh đẹp, chàng vội đỡ lấy nâng lên môi hôn thật nồng nàn.- Em phải xa chàng đây. Nhưng chàng hãy tinh chắc chúng ta có ngày tái ngộ. Nếu em nhận thấy mai sau chàng vẫn một lòng yêu em chung thuỷ, thì nhất quyết em sẽ kết duyên với chàng chứ không phải bất kỳ ai khác.
Nói đến đây, công chúa biến mất luôn. Thế là bao nhiêu đèn đuốc đang sáng rực cung điện bỗng nhiên cùng tắt ngấm. Nhà vua và tể tướng thấy mình đang đứng giữa đêm đen dày đặc, ngửa bàn tay ra nhìn không thấy. Họ đành chờ đợi trong tình cảnh ấy cho đến khi trời rạng. Một điều nữa làm nhà vua và tể tướng thêm một lần kinh ngạc không thể nào hiểu nổi, ấy là giờ chẳng hề nhìn thấy đâu lâu đài cung điện, ngược lại hai người chỉ thấy mình đang đứng giữa cánh đồng hoang vu, ngó khắp chung quanh tuyệt nhiên chẳng thấy bóng dáng một căn nhà dù bé tẻo teo. Quốc vương nước Trung Hoa nói với viên đại thần của mình:
-         Này, tể tướng Muêzin, có nên xem tất cả những gì vừa xảy ra với chúng ta đêm qua chỉ là một giấc mộng?
Chắc không, tâu bệ hạ- tể tướng đáp.- Theo như tôi nghĩ, đêm qua chắc chắn có phép quỷ bùa yêu. Người thiếu phụ chúng ta gặp hẳn là một mụ yêu tinh dày công tu luyện. Để làm cho hoàng thượng đem lòng yêu thương mà lâm nạn, mụ hiện hình dưới dạng nữ thủy thần duyên dáng. Và tất cả bọn con gái đã đàn ca xướng hát rất hay đêm hôm qua, theo tôi nghĩ, tất cả chẳng qua đều là một duộc quỷ cái chịu khuất phục trước quyền uy con yêu tinh nham hiểm.
Những điều tể tướng Muêzin vừa nói nghe cũng có lý phần nào, song nhà vua quá đắm say nàng công chúa để có thể tin lời ông. Không muốn để tan biến hình ảnh và niềm tin của mình, nhà vua vội vàng lên ngựa quay trở về hoàng cung, quyết giữ mãi trong lòng một kỷ niệm vô cùng dịu dàng và mãnh liệt.
Quả nhiên, cho dù không hề được tin tức gì thêm về nàng công chúa con vua đảo quốc toạ lạc chẳng rõ nơi đâu giữa mênh mông biển cả, trong khi vị tể tướng vẫn không ngớt thuyết phục quốc vương hãy tin cách lý giải của ông, thì nhà vua trở nên tương tư trầm lặng. Vua bỏ hết mọi cuộc chơi, như chẳng hề tìm thấy lạc thú ở bất kỳ hội hè nào ngoài việc săn bắn; mà chủ yếu cũng chỉ săn bắn quanh quẩn vùng có con hươu bạc từng xuất hiện hôm nào, lòng thầm mong có ngày sẽ duyên may gặp lại.
Gần một năm trôi qua từ khi mắc bệnh tương tư, nhà vua vẫn hy vọng người mình từng ngỏ lời yêu đương không phải là một hình bóng mơ hồ trong tưởng tượng. Tuy nhiên dần dà vua cũng bắt đầu ngờ vực, có lẽ những điều trông thấy rốt cuộc chỉ là bùa yêu phép quỷ chăng. Vua nảy ra ý muốn đi du ngoạn một mình, thầm mong cứ tự mình đi đó đây, may ra những hình ảnh sâu đậm hôm nào rồi sẽ nhạt nhoà dần trong ký ức. Vua bèn giao phó toàn bộ việc cai quản đất nước cho tể tướng Muêzin. Mặc cho ông hết lời khuyên can, xin vua chớ nên mạo hiểm du hành đơn độc, không cho bất kỳ ai được theo hầu, quốc vương vẫn khăng khăng giữ ý định của mình. Một đêm, vua một mình một ngựa lặng lẽ lên đường. Con tuấn mã thắng bộ yên cương bằng vàng khảm hồng ngọc, bích ngọc. Trang phục của nhà vua thật sang trọng. Ở thắt lưng vua đeo một thanh đại đao, vỏ đao nạm kim cương lấp lánh.
Sau khi đi qua nhiều vương quốc khác nhau, nhà vua đặt chân đến xứ Tây Tạng. Chỉ còn cách thủ phủ xứ ấy chừng hai ngày đường nữa thôi là đến, vua chợt nhìn thấy bên đường cái một cây cổ thụ lớn toả bóng mát xum xuê. Vua dừng ngựa định nghỉ ngơi chốc lát dưới gốc cây, bỗng trông thấy ở gốc một cây cổ thụ khác không xa, có một người thiếu phụ tuổi có lẽ chưa quá mười chín đôi mươi. Nàng ngồi yên như tượng ở đấy, mặt úp vào lòng hai bàn tay, có vẻ như đang mơ màng suy ngẫm. Nhìn dáng bộ rầu rĩ của người phụ nữ trẻ, nhà vua nghĩ chắc nàng vừa trai qua điều bất hạnh chi đây. Bộ áo quần nàng bận rách tả tơi, dù vậy vẫn có thể nhận ra đấy là một người con gái xinh đẹp tuyệt trần, bộ dạng xem ra không phải thuộc hạng dân dã. Vua Ruvansat tiến đến gần, hỏi thiếu phụ có gì cần được giúp đỡ hay không, rồi hỏi nàng tên họ là chi. Nàng đáp: Tôi là con gái của vua và hoàng hậu vợ vua. Tôi là bà vua, nhưng giờ đây tôi không còn là tôi.
NGÀY THỨ MƯỚI CHÍN

Quốc vương Trung Quốc phân vân  không biết nên nghĩ sao về người đàn bà này. Vua ngỡ nàng mất trí, liền nói tiếp:
- Thưa bà, xin bà hãy bình tâm trở lại. Tôi sẵn sàng giúp đỡ bà hết lòng trong phạm vi khả năng của mình.
Người thiếu phụ đáp:
- Thưa ngài, em chẳng chút ngạc nhiên khi thấy chàng coi em như một con điên. Những câu em vừa nói tuồng như vô nghĩa, nhưng cúi mong ngài rộng lòng tha thứ cho, sau khi ngài nghe thuật lại sau đây bao nhiêu nỗi bất hạnh em trải qua thời gian vừa rồi. Em xin kể lại đầu đuôi nhằm đền đáp sự quan tâm hào hiệp của ngài.
Chương 4: Chuyện nhà vua trẻ xứ Tây Tạng và công chúa Naiman
Thiếu phụ nói tiếp:
- Tôi là con gái một nhà vua người bộ tộc Naiman. Phụ thân tôi qua đời, không có con trai nối dõi, trừ mình tôi là con gái, lúc này mới lên bốn tuổi. Các vị bô lão và toàn thể nhân dân trong bộ tộc tấn phong tôi làm hoàng hậu. Trong khi chờ đợi tôi đến tuổi trưởng thành để có thể tự mình chăm lo công việc quốc gia, các cụ bô lão ủy thác cho tể tướng Aly Ben Haytam làm phụ chính đại thành, trong nom mọi việc triều đình. Ông là chồng bà nhũ mẫu từng nuôi nấng tôi, một người ai ai cũng thừa nhận có năng lực và công tâm. Vị đại thần ấy còn được giao thêm việc giáo dục tôi nữa.
Đến khi tôi bắt đầu khôn lớn, tể tướng truyền dạy cho nghệ thuật trị vì đất nước. Tôi vừa quen dần các đại sự quốc gia, thì định mệnh vốn có quyền định đoạt trao vương miện cho ai hoặc phế truất người đó khỏi ngôi báu, bỗng nhiên hắt nhào tôi từ trên ngai vàng cao sang xuống đáy vực thẳm khủng khiếp.
Một người anh em của phụ thân tôi tên là hoàng thân Muaphac, mà mọi người ngỡ đã qua đời từ lâu, bởi xưa nay trong nước vẫn loan truyền tin ông tử trận trong một trận chiến chống lại người Mông Cổ, bỗng nhiên một hôm xuất hiện tại lãnh địa tộc người Naiman chúng tôi. Nhiều vị đại thần trong triều vốn là bạn cũ của ông, xuất phát từ lợi ích riêng của họ, hưởng ứng tham vọng của hoàng thân muốn chiếm đoạt ngai vàng. Họ cùng nhau mưu đồ dây lên một cuộc phiến loạn, nhằm đặt hoàng thân lên ngôi. Tể tướng ra sức dẹp loạn, nhưng chẳng những không dập được ngay từ đầu và còn để cho sự biến lan rộng, bởi bọn độc ác có đủ thời gian phỉng phờ và lôi kéo dân chúng đứng về phe Muaphac.
Sau khi lên ngôi, tên thoán đạt muốn bắt giữ và giết hại tôi ngay để ngừa hậu họa, vì cũng có một số bạn bè còn ủng hộ chúng tôi, e rồi đến lúc nào đấy họ sẽ tìm cách giành lại ngôi báu cho tôi chăng. Nhưng tể tướng Aly và phu nhân, tức bà nhũ mẫu của tôi kịp nhận ra ác ý, đã mau chóng tìm cách giúp tôi thoát thân. Một đêm, họ lén đưa tôi ra khỏi hoàng cung, rời kinh thành, theo những con đường quanh co hiểm trở tới được xứ Tây Tạng.
Chúng tôi lánh ở thủ phủ xứ ấy, tể tướng trong vai một họa sĩ người Ấn Độ, còn tôi là con gái đẻ của ông. Hồi trẻ ông có học môn hội họa, và thật sự có tài. Chẳng bao lâu ông nổi tiếng trong toàn xứ Tây Tạng là một nghệ sĩ tài hoa. Mặc dù chúng tôi có mang theo được không ít ngọc ngà châu báu, có thể nhờ đó tiếp tục sống cuộc đời nhung lụa, song chúng tôi cố ý sinh hoạt khiêm nhường, làm như thể cả gia đình chỉ sống nhờ vào mỗi cây cọ của họa sĩ Aly. Chúng tôi e sợ bọn thám tử của Muaphac lần ra tung tích, cho nên cố sức sao cho mọi người chung quanh ai cũng tin đây thật sự gia đình một nghệ sĩ nghèo.
Chúng tôi sống được hai năm trong cảnh trốn tránh ấy. Dần dà tôi cũng quên đi những cảnh tráng lệ huy hoàng mà có thời mình từng được hưởng, bắt đầu quen cuộc sống tằn tiện của dân nghèo, rồi dần dà đến chỗ ngỡ mình từ khi sinh ra đã là con gái một thường dân. Tôi cũng chẳng buồn nhớ mình từng có lúc ngự trên ngai vàng. Cuộc sống thanh bình thường nhật giúp tôi quên đi quá khứ hoàng kim. Nếu thỉnh thoảng tôi sực nhớ mình có mang trong người dòng máu vua chúa, thì cũng coi chuyện ấy như một gánh nặng mà thôi. Chẳng màng quyền uy tối thượng của vua chúa nữa, tôi tha thứ cho định mệnh đã truất bỏ vương miện của mình. Than ôi! Giá mà trời cứ để cho tôi được yên lành sống những ngày còn lại của cuộc đời trong cảnh nghèo nàn nhưng hạnh phúc ấy! Nhưng biết làm sao! Đành phải tuân theo số mệnh thôi. Phàn nàn than thở vì những bất hạnh mình đang gặp hoặc muốn tìm cách phòng tránh nỗi bất hạnh, ắt đều phí công vô ích như nhau.
Vị nguyên tể tướng vẽ một số tác phẩm được toàn thành phố Tây Tạng ngợi ca. Nhà vua xứ ấy nghe tiếng, muốn tới xem tranh. Vua thân hành đến tận nhà Aly, được họa sĩ mời xem mấy bức tranh mới vẽ. Nhà vua vô cùng thú vị về các tác phẩm, cũng như cách đàm đạo của nghệ nhân. Trong khi hai người đang trò chuyện, chẳng hiểu vì sao tôi nảy ra sự tò mò muốn nhìn mặt nhà vua, liền bước vào phòng. Tôi nghĩ mình đang mang bộ dạng con gái một người nghệ sĩ nghèo, thì còn gì phải sợ nhà vua để ý hay không. Tôi đã nhầm. Vua chăm chú nhìn tôi, thậm chí có vẻ xúc động nữa là khác, tôi cũng nhận ra điều đó và vội vàng lui ngay. Tuy nhiên, nhà vua làm ra vẻ chẳng quan tâm đến tôi, tiếp tục trò chuyện với tể tướng, có điều lúc này ăn nói hay ngập ngừng bối rối, có khi có vẻ băn khoăn lo lắng nữa là khác. Thấy thế, tôi chẳng khó khăn gì không hiểu mình để lại ấn tượng nào đó ở chàng trai. Quả vậy, ngay ngày hôm sau nhà vua đã trở lại thăm Aly, rồi những ngày tiếp đó lại đến nữa. Lấy cớ tìm chọn tranh để mua, vua xộc vào tất cả các phòng, và khéo léo sắp xếp sao mà lần nào cũng xáp mặt tôi. Thực ra, vua chưa hề thốt với tôi một lời, nhưng qua đôi mắt quá đắm đuối của chàng, tôi hiểu ra ngay tình cảm chàng đối với mình.
Một hôm, nhà vua cho biết định tặng tể tướng một căn hộ ngay trong hoàng cung, cùng một khoản bổng thường xuyên khá lớn, lấy cớ muốn lưu giữ lâu dài ở đất nước mình một họa sĩ tài hoa. Chẳng khó khăn gì ông Aly không đoán ra được nguyên nhân sự mời tặng ấy. Suy nghĩ về những hậu quả có thể xảy ra từ việc ấy, ông nói với tôi:
-         Thưa bà, tôi nhận quốc vương xứ này đem lòng yêu quý bà rồi đấy. Trong chuyện nhà vua tặng nhà và cấp bổng cho gia đình ta, ái tình chiếm phần lớn hơn nghệ thuật rất nhiều. Chúng ta dời nhà vào sống trong khuôn viên hoàng cung, chắc chắn rồi đây ngày nào nhà vua cũng tìm đến gặp bà và bày tỏ chuyện yêu đương. Xin bà luôn luôn nhớ đến dòng dõi cao sang của mình, bà chớ nên để xiêu lòng trước những lời ngọt ngào năn nỉ của chàng trai, bà phải dũng cảm cưỡng lại, nhó chịu thua cuộc một cách chẳng vinh quan chút nào. Nếu nhà vua yêu quý bà tới mức nâng bà lên vai hoàng hậu, thì lúc ấy bà hẵng thuận tình, nhược bằng nhà vua có những mưu đồ khác, chúng ta sẽ tìm ra cách lẩn tránh.
Tôi hứa với tể tướng sẽ nhất nhất nghe theo mọi lời khuyên bảo của ông. Tôi không hé cho ông rõ, là tôi cũng có nhận thấy mối tình si ở nhà vua chẳng khác gì ông, cũng như không để lộ mối tình ấy có tác động gì đến tôi hay chưa. Thật tình, nhà vua xứ ấy trẻ, đẹp trai, phong thái cao sang, tôi không sao ngăn được lòng mình cũng có gợn lên tình cảm nào đó chẳng mấy khác những gì tôi gây nên trong lòng chàng trai.
NGÀY THỨ HAI MƯƠI
Tuy nhiên, tôi tự hào cho dù đem lòng ái mộ nhà vua xứ Tây Tạng đến đây chăng nữa, tôi cũng sẽ cố che giấu tình cảm của mình, nếu chàng chỉ nhằm mỗi một mục đích lợi dụng nhan sắc của tôi mà thôi. Nhưng chàng không để cho tôi phải tự nén lòng quá lâu. Chúng tôi vừa dời nhà vào trong hoàng cung, thì nhà vua đã đến tỏ tình đúng theo cách mà tôi mong ước. Chàng nói:
-         Nàng đã làm cho lòng tôi chao đảo ngay từ giờ phút đầu tiên được nhìn thấy nàng. Tâm tưởng tôi lúc nào cũng hướng về nàng. Tôi nghĩ mình không thể sống thiếu nàng. Nhưng cho dù ước vọng của tôi có mãnh liệt đến đâu, xin nàng chớ vội nghĩ tôi có ý định đối xử với nàng như với một nữ tì. Tôi hết mực kính trọng nàng, y như tôi kính trọng đích thân công chúa hoàng đế Trung Hoa vậy. Tôi đã nhất quyết, xin thề với nàng, là sẽ tấn phong nàng làm hoàng hậu xứ Tây Tạng.
Tôi cảm tạ quốc vương về ý định cao quý ấy. Và muốn nhân cơ hội này để nhà vua rõ tôi là ai, tôi thuật lại cho chàng nghe hết mọi sự tình. Nhà vua tỏ ra xúc động lắm, chàng thốt lên:
-         Thưa bà hoàng yêu quý của tôi, đúng là trời đất dành cho tôi vinh hạnh được là người sẽ đứng ra giúp nàng báo mối hận, bởi trời đã giun giủi cho nàng đến lánh nạn tại xứ Tây Tạng tôi. Vâng, tên Muaphac nham hiểm kia thế nào rồi cũng phải bị trừng trị đáng tội, vì dám thoán đạt vương miện của nàng. Xin nàng hãy cho phép tôi được làm lễ thành hôn với nàng ngay hôm nay, và xin nàng tin chắc cho, nội nhật ngày mai tôi sẽ phái sứ thần sang báo cho tên thoán nghịch ấy biết, sẽ không tự nguyện trao trả lại ngôi báu cho nàng, tôi sẽ lập tức tuyên chiến với y.
Tôi cất lời cảm tạ quốc vương một lần nữa và thú thật với chàng, lần đầu tiên hai người trông thấy nhau, nếu tôi đã gây cho chàng chút ấn tượng nào đó, thì cũng chẳng phải tôi nhìn chàng mà không cảm thấy rung động trong lòng.
Nhà vua rất cảm kích về lời thú nhận ấy. Chàng nắm bàn tay tôi, đưa lên môi hôn nồng nàn, rồi hứa sẽ yêu tôi đến trọn đời. Nhà vua cưới tôi ngay trong ngày hôm ấy. Hôn lễ chúng tôi đựoc cử hành với nhiều cuộc hội hè vui chơi của nhân dân toàn thành phố.
Sáng hôm sau, đúng như lời đã hứa với tôi, nhà vua cử ngay sứ thần nước của người bộ tộc Naiman. Sứ thần tức tốc khởi hành. Vua đặt chăn tới triều đình của Muaphac, xin được triều kiến ngay. Được chấp nhận, sứ thần Tây Tạng thông báo cho Muaphac rõ quốc vương xứ họ đã cưới và phong tôi làm hoàng hậu, đòi Muaphac trả lại ngôi báu đã thoán đạt lại cho tôi, nếu khước từ ngay lập tức sẽ xảy ra chiến tranh giữa hai nước.
Cho dù tự lượng sức mình khó địch nổi xứ Tây Tạng, Muaphac vẫn một mực kiêu căng. Các sứ giả buộc phải trở về tâu lại với nhà vua rằng kẻ thoán đạt dám khước từ không chấp nhận đòi hỏi của nhà vua. Thế là xứ Tây Tạng được lệnh động binh ngay. Một đạo binh lớn huy động từ khắp xứ về, hội quân tại kinh thành. Tuy nhiên đại quân chưa kịp lên đường sang đánh vua Muaphac, thì một phái đoàn đại biểu cho tộc người Naiman cấp tốc đến Tây Tạng tỏ lòng thần phục, và báo cho biết kẻ thoán đạt đã bỏ mình sau mấy ngày lâm bệnh nặng.
Được tin, vua xứ Tây Tạng ra lệnh lui binh, và quyết định cử tể tướng Aly về xứ Naiman thay tôi trị vì. Vị đại thần đã sẵn sàng lên đường về nước, chợt bị cầm chân lại do một sự kiện mà tôi không chút chờ đợi mới xảy ra.
Một buổi tôi đang ngồi trong phòng riêng, đọc máy chương Kinh Coran. Đọc xong, tôi đi sang phòng vua, chàng đã đi nghỉ trước. Chợt có một con ma khủng khiếp hiện ra trước mặt, ngăn tôi lại, sau đó biến mất ngay. Tôi kinh hoàng thét lên một tiếng, làm nhà vua bừng tỉnh giấc, chạy vội sang gặp tôi. Vua hỏi có chuyện gì phải thét lớn như vậy. Tôi kể lại nguyên nhân. Sự có mặt của nhà vua hẳn làm tôi bình tâm trở lại, tôi nghĩ chuyện ma quái ấy làm gì có, chẳng qua nảy ra trong trí tưởng tượng của mình, có lẽ dù việc đọc kinh gây nên. Nhà vua lắng nghe rất chăm chú. Không những không giúp tôi vượt qua sự sợ hãi, vua còn nói:
-         Hoàng hậu à, ta cũng đang bối rối chẳng kém bà. Ta không hiểu vì sao bà cùng một lúc vừa ở bên phòng ta lại vừa có mặt tại đây.
-         Tâu hoàng thượng,- tôi đáp- quả thật em chưa hiểu ngài định nói gì. Xin ngài vui lòng nói rõ hơn.
-         Nếu vậy thì mời bà đến gần chiếc giường hơn ít nữa, bà sẽ nhìn thấy một sự kỳ lạ nhất trần đời,-vua nói.
Tôi tiến đến cạnh chiếc giường ngủ, và ôi, kinh ngạc xiết bao, ngài chẳng thể nào tưởng tượng nổi đâu, thưa ngài, tôi nhìn thấy đang nằm trên giường một phụ nữ hoàn toàn giống tôi. Vóc dáng cũng như khuôn mặt người đàn bà ấy chẳng khác tôi một tí nào.
Nhìn thấy cảnh tượng ấy, tôi thét lên:
-         Ôi trời đất! Có vật gì trên giường tôi vậy? Tại sao có chuyện kỳ dị thế này?
-         Này, có mẹ độc ác kia!- người đàn bà ấy ngắt lời tôi, giọng nói của mụ giống hệt giọng nói tôi, chẳng sai một ly- mày hẳn đốn mạt lắm cho nên mới dám hiện hình dưới dạng ta? Con yêu tinh kia, mày âm mưu điều gì? Hẳn mày nghĩ rằng hoàng thượng phu quân ta kia có thể nhầm lẫn trước hình dạng mày giống ta, mà lệnh cho ta ra khỏi giường, để cho mày nằm thay vào chỗ này chắc? Thôi đi, mọi mưu đồ của mày đều tốn công vô ích thôi. Cho dù mày có phép yêu, phu quân ta cũng biết rốt cuộc mày chỉ là con mụ phù thủy khốn kiếp mà thôi.
Thưa lang quân quý mến,- mụ quay sang nói tiếp với nhà vua xin hoàng thượng hãy ra lệnh bắt giam ngay con mụ điêu ngoa này, ngài hãy truyền giam ngay mụ vào hầm tối, rồi sáng mai cho mụ chết mất kiếp trên giàn hỏa thiêu!
NGÀY THỨ HAI MƯƠI MỐT
Bà hoàng hậu người Naiman kể tiếp:
Nếu sự giống nhau hoàn hảo giữa người đàn bà ấy với tôi đã làm tôi ngạc nhiên, thì tôi còn quá đỗi kinh hoàng hơn nữa khi nghe mụ thốt ra những lời vừa rồi. Tôi chẳng cách nào đối đáp với mụ theo giọng lưỡi ấy, tôi chỉ còn biết khóc mà thưa với nhà vua:
-         Tâu hoàng thượng, em nghĩ đời em tai qua nạn khỏi rồi. Em những tưởng khi số phận em được gắn bó với cuộc đời chàng, mọi nỗi bất hạng của em đã chấm dứt. Nhưng than ôi! Có ngờ đâu một con quỷ cái ghen tuông hạnh phúc của em lại đến quấy đảo đời em lần nữa. Mụ ta lấy hình dạng của em, mụ muốn chàng tưởng nó là em, và nó đã thành công rồi đấy. Chàng không còn nhận ra đâu là vợ chàng nữa. Xin chàng hãy nhìn thẳng vào em. Nếu em vẫn là người vợ yêu quý của chàng, thì chắc chắn trái tim chàng có thể phân biệt được ai thành thật ai điêu ngoa. Em nói có trời đất chứng giám, thì em là hoàng hậu người Naiman.
Một lần nữa con mụ nằm trên giường lại ngắt đứt lời tôi:
-         Thôi đi, mày chớ dối trá nữa, mày là một con vô đạo, chừng ấy thôi đủ rõ mày là ai. Quân phản trắc bao giờ chẳng mạnh miệng thề thốt, đứa nào chẳng khóc lóc thở than khi thực hiện mưu đồ xấu xa của chúng.
-         Lúc này nhà vua lên tiếng:
-         Thôi hãy im đi, các bà chớ cãi nhau nữa, các bà càng làm ầm ĩ bao nhiêu càng làm cho ta thêm rối trí bấy nhiêu. Ta chẳng biết ai đúng là hoàng hậu của ta. Một trong hai bà nhất định là một con yêu tinh tìm cách mê hoặc ta. Giờ đây ta chưa phân biệt rõ nên chưa quyết, sợ chẳng may trừng trị nhầm người vô tội chăng.
Nhà vua không sao phân biệt được người nào là vợ mình, liền gọi viên trưởng hoạn nô đến, lệnh đưa giam hai chúng tôi vào hai căn phòng biệt lập. Chúng tôi ngủ qua đêm mỗi người mỗi nơi. Sáng hôm sau, vua cho mời vợ chồng tể tướng Aly đến, thuật lại cho nghe câu chuyện xảy ra. Ông bà xin được gặp cùng lúc tôi cùng con mụ kia, tin chắc dù nhà vua quả quyết vậy, làm sao họ chẳng nhận ra ai là con gái mình. Nhưng cả tể tướng và bà nhũ mẫu cũ của tôi cũng chẳng cách nào phân biệt ai đúng ai sai. Ngay bà nhũ mẫu, sực nhớ từ khi tôi mới ra đời đã có một cái bợt son nơi đầu gối, lại một lần nữa ngạc nhiên thấy hai người cùng có một bợt son giống hệt như nhau và ở cùng một chỗ. Chưa nản lòng, họ tạch con mụ và tôi hai nơi, hỏi chuyện riêng rẽ từng người. Kỳ lạ quá, con mụ nhất nhất trả lời mọi câu họ hỏi giống hệt như lời tôi. Tuy nhiên bà nhu mẫu của tôi dường như có linh cảm, khẳng định đích thị hoàng hậu.
Mặc dù vậy, những người khác không đồng tình với bà. Toàn thể các vị đại thần trong triều được triệu đến, ai cũng cho rằng người đàn bà đã nằm trên giường vợ chồng tôi hẳn là hoàng hậu, còn người kia là yêu tinh, và đi đến kết luận nên mang thiêu sống tôi.
Nhà vua không chấp nhận ý kiến của triều thần, e rằng chẳng may lầm lẫn mà đi thiêu sống bà vợ thật của mình chăng. Vua chỉ ra lệnh đuổi tôi ra khỏi triều định. Thế là người ta lột bộ xiêm y tôi đang mặc, vận cho tôi áo quần rách như xơ mướp, đuổi tôi ra ngoài thành phố. Tôi còn sống sót và lê chân được tới đây nhờ có thức ăn những người nhân hậu bố thí cho. Thưa ngài, đấy là câu chuyện của tôi bà hoàng người Naiman nói với nhà vua Trung Quốc. Bây giờ thì tôi hy vọng ngài nhận rằng câu trả lời của tôi lúc nãy hẳn không phải không có lý: Tôi là con gái của vua và là hoàng hậu vợ vua. Tôi là bà vua nhưng giờ đây tôi không còn là tôi.
Quốc vương Trung Quốc thấy hoàng hậu xứ Tây Tạng kể đến đây ngừng lời, liền nói với nàng như sau:
-         Thưa bà, xin bà hãy tạm khuây nguôi. Bà chịu nhiều bất hạnh đến mức ấy là cùng cực rồi. Hãy tin rằng bĩ cực thái lai. Bà hãy nghe lời một nhà thi sĩ của chúng ta ngày xưa từng viết: Bất kỳ sự vật gì đạt tới cực điểm cao thì bắt đầu xuống dốc; nỗi bất hạnh nào đến tận cùng là sắp tới hồi hạnh phúc. Nhà thơ ấy còn nói: Hãy sẵn sàng mà chịu hạn đi, khi ngươi tự cho ngươi đang trăm phần hoàn hảo. Hãy chờ đợi để đón niềm vui, chừng nào người cảm thấy đau khổ tột cùng. Thiên tào đã định sự đời dưới trần thế này như vậy. Thưa hoàng hậu, để bà tin chắc hơn nữa những tôi vừa kể, tôi xin kể bà nghe sau đây chuyện tể tướng Cavecsa.
Chương 5: Chuyện tể tướng Cavecsa

Ngày xưa ở nước Hiêccani có một nhà vua danh hiệu Côđaven. Vua có một vị tể tướng tên là Cavecsa. Quan đại thần này là một người tinh thần cao cả, am tường thế sự. Một hôm, tể tướng muốn đi tắm. Đứng cạnh bồn nước, ông tháo chiếc nhẫn đeo ở ngón tay, vừa tháo vừa đùa, chẳng may làm rơi luôn vào bồn. Chiếc nhẫn lại không chìm xuống đáy bồn mà cứ trôi nổi trên mặt nước.
Giặt mình trước hiện tượng kỳ lạ, tể tướng vội truyền cho gia nhân mau chóng thu dọn mọi của cải trong nhà, mang đến một nơi khác cất giấu. Ông nói trước với mọi người, chắc nhà vua sắp xuống lệnh tống giam ông. Quả nhiên, những người giúp việc chưa kịp chuyển hết đồ đạc đi, đã thấy viên quan chỉ huy quân cấm vệ kéo cả một đội quân lính đến nhà. Ông này nói, vua lệnh cho ông bắt trói tể mang về giam vào ngục tối.
Tể tướng đứng yên cho bắt, trong khi lính tráng lục soát và tịch thu tất cả của cải còn lại trong nhà. Vị đại thần ấy sở dĩ gặp nạn, vì vua Côlaven nghe lời sàm tấu của bọn triều thần bất lương ghen ghét ông. Cavecsa bị giam nhiều năm trong ngục. Ông chịu đối xử hết sức tàn tệ. Ông không được phép gặp bạn bè đến thăm. Mọi yêu cầu nhỏ nhặt của ông đều bị bác bỏ. Thậm chí mỗi ngày lại có thêm một lệnh nào đó của vua ban xuống đày đọa ông tồi tệ hơn.
Đã lâu, ông thèm ăn món romanasi. Ngày nào cũng hỏi xin nhưng lần nào cũng bị từ chối. Người ta không cho chỉ cốt làm ông thêm phiền muộn. Một hôm, một người canh ngục đem lòng thương hại, lén mang vào cho một đĩa. Tể tướng mừng quá, lấy ra sắp sẵn ăn, bỗng có hai con chuột cắn nhau đâu từ ngoài, rượt nhau chạy vào nhà giam, rồi cả hai con nhảy luôn vào đĩa thức ăn ông vừa đặt tạm xuống đất, quần nhau trong ấy. Thế là đành bỏ cả đĩa romanasi đi, vì bị chuột vấy bẩn mất rồi. Nhìn thấy cảnh ấy, ông nhờ người nhắn tin cho người nhà, bảo đi lấy đồ đạc từ nơi cất giấu mang về như cũ. Ông nói vua sắp xuống chiếu tha tội và phục chức cho ông.
Mọi sự diễn ra đúng như dự đoán. Ngay trong ngày hôm ấy, quốc vương truyền tha tội cho tể tướng, mời ông vào triều và tuyên bố:
-         Ta đã nhận ra tể tướng chẳng có tội tình tình gì. Ta đã trừng trị bọn ghen ghét muốn hãm hại ông. Ta phục nguyên chức tể tướng cho ông. Ta vẫn tin cậy ông như ngày trước.
Các bạn bè của Cavecsa biết đầu đuôi sự việc, ai cũng tìm hỏi tể tướng do đâu ông biết trước mình sắp bị tống giam, cũng căn cứ vào điều gì mà tin mình sắp được vua tha tội và phục chức. Tể tướng giảng giải như sau:
-         Khi tôi nhìn thầy chiếc nhẫn không chìm xuống đáy bồn lại nổi lên mặt nước, tôi hiểu mình đã đạt tới cực điểm vinh hoa phú quý, phúc nhà tôi tột cùng rồi, đến đây không thể nào tăng thêm nữa; như luật trời đã định, hết phúc rồi, sắp gặp họa lớn tới nơi. Khi ở trong ngục thất, tôi chỉ ngỏ lời xin có món romanasi mà xin hoài không được, tôi hiểu tai họa mình chưa tới lúc qua. Đến khi có người thương hại mang cho, lại bị hai con chuột phá không sao đụng đũa tới món ăn ấy được nữa, tôi hiểu sắp tới hồi khổ tận cam lai.
Kể đến đây, quốc vương nước Trung Hoa nói tiếp với bà hoàng:
-         Vậy cho nên, thưa bà, xin bà chớ vội tuyệt vọng. Số phận sắp mang hạnh phúc đến cho bà rồi đấy. Bà hãy theo gương tôi, hay luôn luôn nuôi niềm hy vọng trong lòng. Than ôi! Chính lòng tôi lúc này cũng đang phân vân, không rõ mình có phải là nạn nhân của một mụ phù thủy tương tự trường hợp của bà, hay con người mà tôi hằng đem lòng thương nhớ kia chỉ là một con yêu tinh đáng kinh tởm.
Nói xong, nhà vua nói thật cho bà hoàng xứ Tây Tạng rõ mình là ai, tiếp đó thuật lại cho bà nghe đầu đuôi, bắt đầu từ chuyện về con hươu cái trắng.
Nhà vua hầu như vừa ngừng lời, cả hai người bỗng để ý một chàng trai trẻ đang phi  ngựa tới. Chàng trai người gần như trần truồng, còn con ngựa thì phi nước đại. Người cưỡi ngựa chạy như bay, phi ngang qua trước mặt họ, cũng khá gần. Người phụ nữ nhận ra và kêu lên thảng thốt:
-         Trời đất! Chính vương phu tôi đấy.
Nhưng chàng trai ấy có vẻ đang hết sức kinh hoàng, chẳng để ý đến nàng, cứ thúc ngựa phóng như điên, thỉnh thoảng quay đầu nhìn lại phía sau, ý chừng sợ có người đuổi riết.
NGÀY THỨ HAI MƯƠI HAI
Bà hoàng hậu xứ Tây Tạng và nhà vua Trung Quốc cùng đưa mắt dõi theo người cưỡi ngựa. Bỗng lại thấy một kỵ sĩ khác đang ra sức thúc ngựa phi nhanh tới. Chàng trai này mặc áo quần rất sang trọng, tay cầm một thanh đại đao vấy máu. Nhìn bộ dạng ấy, đủ rõ chàng đang ra sức đuổi bắt cho được người cưỡi ngựa chạy trước. Tuy nhiên điều lạ lùng nhất là chàng kỵ sĩ này giống như in người cưỡi ngựa kia, đến mức bà hoàng hậu nhác trông, lại không thể không kêu lên:
- Ôi trời đất! Lại cũng chính vương phu tôi đấy!
Chàng kỵ sĩ mải mê đuổi, thành ra chẳng để ý đến nàng. Nhà vua Trung Quốc ngạc nhiên:
- Thưa bà, thật chẳng có gì kỳ quặc hơn thế.
Bà hoàng hậu tiếp lời vua:
- Vâng, thưa ngài, qua những điều trông thấy trước mắt, hẳn ngài không cho câu chuyện tôi vừa kể hầu ngài là bịa đặt
Trong khi hai người chưa hết ngạc nhiên về những gì vừa xảy ra, chợt xuất hiện một kỵ sĩ thứ ba. Người này cho dù cũng thúc ngựa chạy như bay chẳng kém hai người trước, vẫn kịp để ý thấy hoàng hậu cùng quốc vương đứng cạnh nhau. Kỵ sĩ thứ ba này chính là tể tướng Aly Ben Haytam. Ông và bà hoàng cùng lúc nhận ra nhau. Tể tướng vội vàng xuống ngựa, đến quỳ xuống trước mặt bà hoàng và thưa:
-         Ôi, thưa hoàng hậu! Có đúng là mắt tôi được nhìn bà đây chăng? Tạ ơn trời đấy đã giữ cho bà bình yên vô sự. Nếu có lúc nào trời từng để cho cái ác tạm thời có cơ lấn loát cái thiện, và người vô tội có khi cam chịu hàm oan, ấy là đẻ rồi sau đấy mọi người càng thấy rõ hơn luật trời bao giờ cũng hết sức công minh. Quả vậy, con mụ kẻ thù nguy hiểm của bà đã chết mất kiếp. Chính tay quốc vương đã trừng trị mụ; thanh long đao của người còn vấy máu mụ kia. Và để trả hoàn toàn mối hận lớn, hoàng thượng đang đuổi theo sát tên khốn nạn dám đội lột vua. Tôi muốn có nhiều thời giờ hơn mới có thể thuật lại hầu bà mọi sự xảy ra trong triều kể từ ngày bà buộc phải rời bỏ hoàng cung ra đi, vậy xin gác việc ấy lại chờ một dịp khác. Hoàng thượng đã đi xa chúng ta quá rồi, mời bà hãy mau mau lên ngựa, chúng ta phải theo ngay mới kịp người.
Nhà vua Trung Quốc vội ngăn:
-         Không nên, thưa ngài, xin chớ làm hoàng hậu phải mệt sức. Ngài hãy ở lại đây cùng bà. Tôi xin đảm đương việc theo kịp quốc vương và mời nhà vua trở lại chốn này.
Nói xong, vua Trung Quốc nhẹ nhành bay lên mình ngựa và nhanh chóng thúc ngựa đuổi theo nhà vua xứ Tây Tạng, chẳng buồn nghe hết những lời chúc tụng và cảm tạ của bà hoàng. Nhà vua đi khỏi, tể tướng hỏi hoàng hậu chàng trai trẻ ấy là ai. Ông hết sức ngạc nhiên được biết chính nhà vua cả nước Trung Hoa đấy. Bà hoàng nói thêm:
-         Giờ xin tể tướng hãy cho tôi được rõ, bằng cách nào con mụ phù thủy ấy bị lột mặt na?
-         Giờ xin tể tướng hãy cho tôi được rõ, bằng cách nào mụ phù thủy ấy bị lột mặt nạ?
-         Thưa bà,- tể tướng đáp- vương quân của bà, sau khi nghe triều thần ai nấy đều quả quyết người đàn bà kia đúng là hoàng hậu Naimani, vua đã sống chung với người đàn bà ấy hoàn toàn hòa hợp. Vài hôm trước, vua cùng người mà vua ngỡ là vợ mình đến nghỉ tại tòa lâu đài mà bà đã rõ, cách kinh đô chừng chín, mười dặm. Sáng hôm nay, hoàng thượng và tôi định đi săn, chỉ cho mỗi tên nô lệ theo hầu. Chúng tôi đi cũng đã khá xa, chợt hoàng thượng sực nhớ là quên dặn hoàng hậu một điều gì đó rất quan trọng. Chúng tôi liền quay trở lại. Đến cổng tòa lâu đài, nhà vua xuống ngựa, bảo tôi chờ, rồi theo cầu thang phụ lên thẳng phòng riêng. Lát sau, tôi thấy từ đấy hớt hãi chạy bổ xuống một người đàn ông gần như trần truồng, đầu không đội khăn, mặt mũi trông giống như in nhà vua chúng ta. Tôi ngỡ đấy chính là quốc vương nên vô cùng thảng thốt:
-         Ôi, tâu hoàng thượng, do đâu ngài ra nông nỗi này?
Người ấy không buồn đáp lời tôi, mà chạy vội đến nhảy lên lưng ngựa, trông có vẻ hốt hoảng lắm. Tôi vẫn nghĩ chắc có một tai nạn gì ghê gớm lắm vừa xảy ra nên trong lòng như có lửa đốt. Tôi định thúc ngựa theo, cố gắng bắt kịp để hỏi cho tường, chợt nghe có tiếng gọi đằng sau:
-         Hãy chờ, tể tướng, hãy chờ ta!
Lập tức tôi kìm cương dừng ngựa, quay lại nhìn, thấy quốc vương đang từ tòa lâu đài chạy bổ xuống, đôi mắt nảy lửa, long đao tuốt trần cầm ở tay. Vua chạy vội đến, vừa chạy vừa nói với tôi:
-         Tể tướng à, chúng ta đã sai lầm khi đuổi bà hoàng hậu thật đi, và giữ lại một con mụ khốn nạn đã dùng yêu thuột đội lốt bà hoàng. Ta vừa giết chết con mụ khốn khiếp ấy, giờ ta phải lấy đầu thằng khốn nạn dám đội lốt ta đây. Hãy trao con ngựa của mày cho ta- hoàng thượng bảo tên nô lệ theo hầu- ta muốn đuổi theo tên súc sinh ấy, nó đừng hoàng thoát khỏi tay ta.
Vừa nói, vừa nhảy phóc lên mình ngựa của tên nô lệ, theo dấu chân con ngựa trước, rược đuổi đến tận chốn này.
Trong thời gian hoàng hậu nghe tể tướng thuật chuyện thì vua Ruvansat đã thúc ngựa đuổi kịp vua Tây Tạng, đuổi hăm hở chẳng kém lần trước, khi bén gót theo con hươu cái trắng. Về phần mình, trong lòng thội thúc bởi hận thù, quốc vương Tây Tạng không ngừng ra roi thúc con tuấn mã. Bởi vua là tay kỵ sĩ thành thạo hơn nhiều người đang bị vua đuổi, thành thử chẳng mấy chốc đã bắt kịp. Vua vung đao chém một nhát vào vai tên khốn kiếp, nó ngã lăn xuống đất. Lập tức nhà vua cũng xuống ngựa định kết liễu đời kẻ thù, nhưng tên khốn nạn ấy đã kịp ngỏ lời cầu van, xin tha mạng sống. Vua nói với hắn:
-         Ta chấp nhận, với điều kiện mày thưa rõ mày là ai, tại sao và bằng cách nào mày dám đội hình dạng ta; nếu mày không làm sáng tỏ được tất cả những điều ta muốn biết thì mày mất mạng.
- Thưa ngài, - tên khốn nạn đáp – bởi hoàng thượng đã tha cho tội chết, tôi đâu dám giấu diếm điều gì. Tôi xin thành thật tâu trình ngài rõ tất cả mọi sự. Để ngài tin chắc, trước hết tôi xin được lấy lại hình dạng tự nhiên ban đầu của mình.
Nói xong hắn rút chiếc nhẫn đeo ở ngón tay ra, ngay lập tức nhà vua chỉ còn thấy một lão già xấu xí khủng khiếp.
NGÀY THỨ HAI MƯƠI BA
Quốc vương xứ Tây Tạng khá ngạc nhiên trước sự đổi hình thay dạng ấy, càng hiếu kỳ muốn rõ ngay những điều lão già sắp kể. Tên khốn nạn ấy nói:
- Thưa ngài, đây chính là hình dạng nguyên của tôi như bình thường. Xin phép cho tôi được thuật lại hầu ngài từ đầu chí cuối toàn bộ câu chuyện cuộc đời tôi.
Tôi là con trai một người thợ dệt thành phố Đamat. Mocben là tên tôi. Thân sinh tôi ngày trước khá giàu và là người tằn tiện, chỉ sinh hạ có mỗi tôi, thành ra sau khi cụ qua đời, tôi thừa hưởng một khoản tài sản khá lớn so với những người cùng địa vị chúng tôi. Đáng ra phải noi gương cần kiệm của cha, hay ít cũng chớ nên tiêu xài quá đáng, đằng này tôi lại nghĩ đến chuyện chơi bời. Tính tôi vốn thích đàn bà; sau khi cha mất, sớm chiều tôi chỉ lo có mỗi việc là làm sao lấy lòng người thiếu phụ bên nhà hàng xóm. Người đàn bà ấy xinh đẹp và khôn ngoan nhưng cũng là một con người gian xảo, có nhiều nết xấu. Không ít đàn ông theo đuổi thị; anh chào nào cũng ngỡ thị yêu mình hơn hết thảy, bởi thị biết cách đối xử với bất kỳ chàng trai nào cũng có vẻ như mình quý trọng đặc biệt mỗi một người ấy. Tôi cũng bị thị lừa như nhiều người khác. Thế mà đầu óc mê muội, tôi cứ tưởng cô nàng yêu đương mình hơn cả, chỉ có mình là người may mắn nhất trong cả lũ; còn tất cả bọn tình địch kia đều bị thị lừa dối tất. Ý nghĩ ấy càng làm tăng thêm sự si mê của tôi, khiến tôi tiêu xài phung phí khủng khiếp. Ngày nào cũng như ngày nào, tôi đều mang biếu Đinuzê một tặng vật mới – Đinuzê là tên của thị, thưa ngài. Tôi cho thị rất nhiều tặng phẩm đắt tiền đến nỗi chỉ sau có ba, bốn năm, tôi hoàn toàn khánh kiệt. Các tình địch của tôi vẫn đua nhau đổ tiền của cho thị để được thị yêu thương; bằng cách đó con mụ giàu sụ lên trên sự khánh kiệt của tất cả bọn tình nhân chúng tôi.
Sau khi làm tiêu tan hết tài sản của mình. Tôi nghĩ sắp bị thị ruồng bỏ tới nơi, và rất buồn vì thực lòng tôi vẫn rất yêu thương thị. Mặc dù Đizunê xưa nay là một con người thích làm dáng và chỉ biết vụ lợi, một hôm thị nói với tôi:
- Mocben ạ, chắc hẳn anh nghĩ rằng em sắp đuổi anh khỏi nhà em, bởi anh không còn có điều kiện cho em tặng vật nữa. không, không phải thế đâu, anh yêu ạ. Anh là người si mê em nhất trong tất cả bọn tình nhân, và bởi anh là người bị khánh kiệt sớm nhất, em muốn đến lượt mình, tỏ cho anh thấy em cũng là con người hào hiệp. Em có ý định chia sẻ với anh tất cả những gì em sẽ nhận được từ các tình địch của anh, và trả lại cho anh sòng phẳng những gì tình yêu của anh đối với em đã khiến anh tiêu pha không tiếc của.
Quả vậy, đã không để cho tôi phải thiếu thốn vật dụng hằng ngày, thị còn cho tôi thêm bao nhiêu là vàng bạc. Thành thử tôi có vẻ như giàu có hơn cả ngày trước. Ngoài ra, thị lại tin cậy ở tôi hoàn toàn, thị không làm việc gì mà không hỏi ý kiến tôi. Chúng tôi chung sống hòa thuận với nhau theo cung cách ấy trong nhiều năm.
Mặc dù chẳng để ý, Đizunê dĩ nhiên mỗi ngày một già đi. Thế là số tình nhân của thị mỗi ngày mỗi giảm bớt. Và cuối cùng, thời gian đã không để lại cho thị một mảnh tình nào. Với một người đàn bà lúc nào cũng thích có đàn ông cặp kè bên cạnh, chuyện ấy thật đau đớn buồn bã xiết bao! Đizunê chẳng thể nào khuây nguôi khi thấy mình bị tất cả các chàng trai rẻ rúng. Thị tâm sự với tôi:
- Này, anh Mocben ạ, em thú thật cái già không sao chịu đựng nổi. Từ thuở bé, em đã quen được bọn con trai vuốt ve nuông chiều. Bây giờ em không sao chịu đựng nổi chúng nó dè bỉu. Bây giờ chỉ còn cách hoặc là em chết đi để tự giải phóng khỏi nỗi buồn sâu sắc đang dày vò, hoặc là em phải đi đến tận sa mạc Pharan, tìm cho được bà pháp sư Bedra. Đấy là bà thánh có pháp thuật cao cường nhất châu Á. Cả trái đất này đều cúi đầu khuất phục trước các phù phép của bà. Bà đã muố thì sông cũng phải chảy ngược dòng; nghe tiếng bà mặt trời cũng phải tái mặt mà đi thụt lùi, còn mặt trăng thì ngừng lại giữa bầu trời. Em quyết tìm gặp cho được bà ta. Em đã rõ chỗ bà ấy ở trong sa mạc. May ra bà ấy sẽ bày cho em một bí quyết nào đó để làm sao cho dù già nua, em vẫn được cánh đàn ông bám theo quý yêu chiều chuộng.
Tôi đáp:
- Em nghĩ thế là phải. Anh sẵn sàng theo em, nếu em muốn.
Thị nhờ tôi cùng đi với thị. Chúng tôi chuẩn bị mang theo thức ăn nước uống cùng một vài tặng phẩm dâng thánh Bêdra, rồi dắt nhau tìm đường đến vùng sa mạc khô cằn.

Tới nơi, chúng tôi còn phải đi trên đồng cát suốt hai ngày trời. Lúc này, Đinuzê mới chỉ cho tôi nhìn thấy đằng xa có một quả núi, bảo rằng bà thánh sống ở đấy. Chúng tôi tiếp tục đi nữa cho đến tận chân quả núi. Chúng tôi nhận ra một cái hang rất rộng, rất sâu, từ trong hang bay ra cả ngàn con chim xấu xa kinh dị, hay đúng hơn những con quỷ biết bay mang nhiều khuôn mặt khác nhau. Chúng vút cao tận mây xanh, vừa bay vừa rít lên những tiếng kêu tang tóc. Đến sát cửa hang, chúng tôi nhìn vào, thấy dưới ánh sáng một ngọn đèn bằng thép rọi xuống cái hang, có một cụ già bé nhỏ ngồi trên một tảng đá lớn. Đấy chính là bà thánh Bêdra. Bà pháp sư ấy đang đọc dở một cuốn sách lớn đặt trên đầu gối. Trước mặt có cái lò bằng vàng, trên lò đặt một cái chảo bằng bạc đựng đầy một chất trông như đất đen cứ sôi sùng sục dù chẳng thấy có lửa đốt trong lò.
Chúng tôi hiểu ngay đã gặp được người mình cần gặp. Chúng tôi rón rén bước vào hang, tiến đến gần bà cụ và cất lời chào hết sức kính cẩn. Chúng tôi dâng tặng bà những vật phẩm mang theo. Rồi Đinuzê thưa với bà những lời như sau:
- Kính thưa bà thánh Bedra quyền lực vạn năng, con đến đây cầu xin sự cứu giúp của mẹ. Con chẳng cần phải nói điều gì đã xui con đến đây, bởi với pháp thuật cao cường mẹ đã rõ hết tất cả.
NGÀY THỨ HAI MƯƠI BỐN
Sau khi nghe Đinuzê trình bày như vậy bà pháp sư bảo:
- Thôi thôi, chẳng cần con phải nói, ta đã rõ hết rồi.
Nói xong bà già đứng lên lấy hai cái lọ thủy tinh mang ra ngoài hang đặt xuống đất và bỏ vào trong mỗi lọ một chiếc nhẫn vàng. Trong khi cụ già làm phù phép, chúng tôi nhìn thấy tự nhiên có ngọn lửa bùng lên từ một cái lọ thủy tinh, còn từ cái lọ kia một ngọn khói dày đặc bốc cao lên trời, gây nên một cơn sấm sét dữ dội. Nhưng trận sấm sét ấy tan nhanh. Lúc này nhìn vào, không thấy có gì bốc lên từ hai cái lọ thủy tinh nữa. Thế là bà Bedra rút từ hai lọ ra hai chiếc nhẫn, lấy một cái đeo vào ngón tay của Đinuzê và bảo thị:
- Đi đi, hỡi người đàn bà, từ nay con hãy tha hồ vui thú, lời ước của con đã được thực hiện. Cái nhẫn mà mẹ trao cho con đây, chừng nào con còn đeo ở ngón tay, thì con có quyền năng muốn mang hình dáng bất kỳ người phụ nữ nào con muốn. Con chỉ cần bày tỏ ước mong mình được giống cô gái này hay người đàn bà nọ, ngay lập tức con sẽ trở thành giống hệt như người ấy đến mức không ai có thể phân biệt người này với người kia. Còn anh, hỡi Mocben. – cụ già quay về phía tôi nói tiếp – ta muốn tặng con cái nhẫn kia, nó cũng có quyền năng giúp con hiện lên dưới vóc dáng bất kỳ người đàn ông nào con muốn mình giống hệt như người ấy.
- Nói xong bà già đeo vào ngón tay tôi chiếc nhẫn kia.
Chúng tôi cảm tạ thánh Bedra về những món quà quý giá, rồi xin phép cáo từ. Chúng tôi nôn nóng không đợi trở về đến thành Đamat mới dùng thử những chiếc nhẫn thần kỳ, mà nôn nóng thí nghiệm quyền năng của chúng ngay khi còn đang ở giữa sa mạc. Chúng tôi bày tỏ ước mong được mang hình người này người này người nọ mình quen biết, và ngay lập tức chúng tôi trở thành giống như in người mình ước.
Vừa trở về đến Đamat, Đinêzu vốn là con người nồng nhiệt, muốn lúc nào cũng có nhiều đàn ông nịnh hót chiều chuộng, chẳng chịu để cho cái nhẫn của mình không có việc làm. Thị đội luôn hình dạng một vài phu nhân đẹp nhất trong thành phố, rối tìm đến những người tình của họ, tìm cách mồi chài để chàng trai ấy biếu tặng cho nhiều khoản tiền lớn hoặc vật có giá. Về phần mình, để giải trí cho vui và thỉnh thoảng cũng để trộm tiền của ngưới khác, tôi cũng đôi khi mang cái nhẫn của mình ra làm phép. Khi tôi hiện lên dưới hình dạng người đàn ông này, khi thì đôi lốt một chàng trai khác. Sau khi chung sống với nhau một thời gian theo cách ấy ở  thành phố Đamat, chúng tôi nảy ra ý thích muốn đi du lịch đó đây.
Chúng tôi sang Ai Cập, rồi từ nước ấy đi lang thang hết thành phố này đến thành phố nọ, đi đến tận xứ sở của người bộ tộc Naiman. Đến đấy, chúng tôi hay tin vừa có một nàng công chúa trẻ tuổi, hay đúng hơn một đứa trẻ con mới lên làm vua; và tể tướng Ali Ben Haytam đang làm phụ chính đại thần cai quản công việc quốc gia. Ông này có quyền uy lớn, và do đó làm cho không ít người ghen tị, bất bình. Nhiều người mong hoàng thân Muaphac chú bà vua trẻ, tức là em trai của quốc vương quá cố, trở về nước. Nhưng mọi người đều nghe tin hoàng thân đã bỏ mình từ lâu trong một trận đánh chống lại người Mông Cổ; từ hồi xảy ra chiến sự ấy đến nay, chưa bao giờ có ai gặp hoàng thân. Nghe lỏm những câu chuyện ấy. Đinuzê bảo với tôi:
- Đây thật đúng là một cơ hội tốt cho hai ta làm ông vua bà hoàng. Chỉ cần anh hiện ra giống y nguyên hình dạng hoàng thân Muaphac cho em.
Chẳng khó khăn gì tôi không đóng được vai trò ấy. Tôi tìm hiểu hoàn cảnh xứ này hồi có chiến tranh chống lại người Mông Cổ. Tôi dò hỏi những người vốn là các đại thần thời trước, họ toàn là bạn tốt của Muaphac. Cuối cùng, khi đã biết rõ tất cả những điều cần thiết ấy, tôi ngỏ lời ước được mang hình hoàng thân. Ngay lập tức tôi trở thành một người giống ông ta như đúc. Dưới hình dạng ấy, tôi tìm gặp những người mà người ta bảo trước đây rất trung thành gắn bó với Muaphac. Mọi người hết sức mừng vui thấy tôi trở về. Tôi vừa hé cho họ hay mình có ý định đoạt lại ngôi báu, họ đều cam kết sẽ dùng tất cả uy tín và ảnh hường giúp tôi thực hiện ý đồ. Những lời hứa hẹn của họ quả không phải vô ích. Người Naiman, một bộ tộc sống bên bờ sông Amo, nghe lời khuyến dụ của các vị đại thần bạn của Muaphac, bắt đầu nổi loạn chống lại bà vua và ủng hộ hoàng thân. Những ai xưa nay vốn căm ghét tể tướng Aly còn tiếp tay giúp sức thêm. Thế là cuộc biến loạn lan nhanh như lửa cháy ra toàn vương quốc. Nhân dân kinh đô tự mở cổng thành nghênh đónkhi chúng tôi kéo tới. Sau khi tôi được dân chúng suy tôn làm vua xứ Naiman, mọi người đều thề sẽ tuân lệnh vua mới và thực hiện tất cả những gì tôi phán bảo. Ngay lúc ấy, tôi muốn bắt và tống giam luôn bà vua trẻ tuổi hoặc mang giết đi để phòng hậu họa, nhưng tể tướng Aly đã kịp thời cứu sống nàng và bí mật đưa nàng trốn khỏi vương quốc.
Vậy là tôi yên vị trên ngai vàng và trị vì với quyền uy tuyệt đối. Tôi thưởng công cho tất cả những ai đã góp phần đưa mình đạt tới địa vị này. Tôi giao cho họ những chức vụ quan trọng nhất trong triều; giá mà hoàng thân Muaphac đích thực ở vào địa vị tôi; ông cũng không thể nào sử dụng quyền uy một cách tốt hơn thế. Tôi sống như vậy khá hài lòng cùng với Đinuzê, lúc này thị đội hình dáng một phu nhân trẻ đẹp, xem cũng ra dáng bà hoàng. Tôi cho loan truyền rằng thị vốn là công chúa con vua, sau khi thất trận tôi đã tìm đến lánh nạn tại vương quốc thân sinh thị, và nhà vua nước ấy đã gả con gái cho để an ủi một vị hoàng thân trong cơn bất hạnh. Thị được cấp riêng một ngôi nhà lộng lẫy trong hoàng cung, cùng với không biết bao nhiêu nữ tỳ khả ái, tất cả đều tìm cách làm hài lòng và mua vui cho hoàng hậu.
Thưa ngài, chúng tôi đang sống đầy lạc thú như vậy, chợt nhận được tin các sứ thần của ngài đến thông báo, ngài đã cưới nàng công chúa xứ Naiman làm vợ, và đã quyết định sẽ tuyên chiến nếu tôi không chịu trả lại cho bà chiếc vương miện mà tôi chiếm đoạt. Tôi đã trả lời sứ giả ngài một cách kiêu ngạo, làm như thể tôi coi thường mọi sự đe dọa, nhưng trong thâm tâm vô cùng lo sợ. Vừa cho các sứ thần của ngài ra về, cả hai người: Đinuzê và tôi, chúng tôi bắt đầu suy nghĩ và bàn bạc cách đối phó làm sao bây giờ.
Sau khi trao đổi hồi lâu, chúng tôi đều hiểu xứ Naiman quá yếu, làm sao kháng cự nổi quân đội của ngài, đành phải rời bỏ thôi chiếc ngai vàng không có cách nào giữ được. Nhưng chúng tôi quyết định phải báo thù ngài cùng bà hoàng hậu người xứ Naiman, như thể các vị đã gây cho chúng tôi một sự bất công lớn nhất trên đời. Sau đây là cách chúng tôi thực hiện sự báo thù.
NGÀY THỨ HAI MƯƠI LĂM
Mocben kể tiếp:
- Tôi lại phải nhờ đến chiếc nhẫn. Tôi giả vờ ốm nặng mấy ngày, rồi để cho dân chúng tin hẳn ràng tôi đã chêt, tôi mang hình dạng một tử thi. Người ta làm lể tang cho tôi, đưa tôi đi chôn cất. Ngay đêm hôm ấy, Đinuzê đến mở cửa ngôi mộ quàn xác tôi. Chúng tôi trồn khỏi kinh thành dưới dạng của mình ngày trước. Chúng tôi tìm đướng đến thủ phủ nước Tây Tạng. Vừa tới nơi chúng tôi đã thấy phái đoàn các bô lão người Naiman đến gặp bà công chúa nay đã trở thành hoàng hậu của ngài, báo tin hoàng thân Muaphac đã qua đời, và khẳng định họ thừa nhận bà này là nhà vua hợp pháp đất nước họ. Được tin ấy, ngài cho lui các đạo binh vừa đã tập trung về thủ phủ, và quyết định phái tể tướng Aly trở về ngay xứ sở người Naiman thay mặt hoàng hậu cai trị xứ ấy.
Trong thời gian đó,  Đinuzê dưới hình dạng của một nữ tì trẻ của hoàng hậu, và tôi đội lốt một viên hoạn nô, một đêm chúng tôi xâm nhập vào hoàng cung. Chúng tôi vào đến tận phòng ngủ của ngài, và chẳng khó khăn gì không thực hiện được ý đồ của mình. Lúc ấy ngài đã đi nghỉ, còn hoàng hậu đang đọc sách trong một căn phòng bên. Đinuzê dùng thuật biến hình cho giống hoàng hậu rồi leo lên giường nằm cạnh ngài. Khi người vợ đích thực của ngài định rời phòng đọc sách để sang phòng ngài, tôi liền hiện lên trước mặt bà dưới dạng một con ma khủng khiếp. Bà sợ hãi thét lên một tiếng, tôi biến luôn. Thưa ngài, sau đó xảy ra những việc gì ngài đều đã biết rõ cả rồi, xin miễn cho tôi phải trình thêm. Giờ tôi chỉ còn có việc thưa nốt để hoàng thượng rõ, tại sao ngày hôm nay tôi đội lốt của chính ngài. Sáng sớm nay, vừa trông thấy ngài ra khỏi lâu đài đi săn, tôi lẻn vào phòng ngài dưới dạng viên trưởng hoạn nô. Đinuzê đang nằm ngủ trên giường. Trông thấy tôi, thị bảo:
- Anh Mocben à, hãy cởi đồ ra rồi lấy dạng nhà vua, đến đây nằm cùng với em.
Tôi làm theo lời thị, lên giường ngủ với thị. Bỗng thấy cửa phòng ở cầu thang phụ mở ra, và ngài đột ngột xuất hiện. Ngài rút long đao định chém tôi, may sao tôi tránh thoát. Nhưng có lẽ trời đất không muốn để tôi ác của chúng tôi không bị trừng phạt, đã bắt tôi chịu tội trước ngài.
Vâng, thưa ngài, tôi nhận rằng tội tôi đáng chết. Nếu hoàng thượng sau khi nghe tất cả những chuyện không hay ho gì trong suốt cuộc đời tôi như tôi vừa kể, mà hối tiếc vì sao đã hứa tha tội cho kẻ bất lương này, thì tôi chấp nhận ngài rút lui lời hứa, để ngài có thể rảnh tay trừng trị một tên khốn nạn đã chính nó nhận ra mình không đáng sống.
Nhà vua xứ Tây Tạng đáp:
- Đúng là đáng ra, ta phải đối xử với mày như đã đối xử với con mụ đồng lõa khốn nạn của mày. Đáng ra ta phải làm cho trái đất này sạch bớt đi một con quỷ sứ như mày. Nhưng bởi ta đã hứa tha tội chết, thì ta giữ lời. Ta chỉ cần thu chiếc nhẫn ở tay mày, đấy chính là công cụ giúp mày thực hiện bao nhiêu tội ác. Để từ đây, mày chẳng thể nào làm hại nhân loại được nữa, và để cho sự già nua sẽ trở lại là nỗi khổ của mày.
Vua xứ Tây Tạng nói đến đấy thì nhìn thấy quốc vương Ruvansat đang phóng ngựa đến như bay. Qua trang phục của chàng, vua biết đây không phải là một con người bình thường, nhìn rất chăm chú. Tới nơi, Ruvansat xuống ngựa chào nhà vua và nói:
- Thưa quốc vương, tôi đến báo cho ngài một tin tốt lành; hoàng hậu của ngài, nàng công chúa người Naiman hiện nay còn sống. Mặc dù bà bị đuổi ra khỏi thủ phủ xứ Tây Tạng một cách bất công, mặc dù bà đã phải chịu đựng bao nhiêu khổ ải kể từ ngày hôm ấy, tôi có thể thưa để ngài biết chắc bà vẫn còn sống trên đời. Giờ chỉ còn tùy ý ngài, nếu ngài muốn, ngài có thể gặp bà ngay lúc này.
- Trời đất ơi! Tôi có dám tin hay không những điều vừa nghe nói? – vua xứ Tây Tạng thốt lên – Có thể nào hoàng hậu còn sống được sau bấy nhiêu khổ ải? Nhưng thưa ngài, - vua nói tiếp với quốc vương xứ Trung Hoa – ngài tỏ ra am tường mọi sự kiện lạ lùng từng diễn ra trong gia đìng tôi, xin ngài làm ơn cho biết ngài là ai, và cho tôi làm gì đây để tạ ơn ngài.
- Tôi là một người nước ngoài – Ruvansat đáp – tôi sẽ nói rõ với ngài họ tên tôi vào một dịp khác. Sự tình cờ đã xui tôi gặp được bà hoàng. Bà đã kể cho tôi nghe những chuyện bất hạnh của bà, và cũng không phải tôi chưa rõ những gì vừa xảy ra sáng hôm nay. Tể tướng Aly vừa cho tôi biết hết mọi chuyện. Hiện ông ta đang cùng hoàng hậu ở một nơi, tôi đã hứa với họ là sẽ dẫn ngài tới đó.
Tin vui đó làm cho nhà vua trẻ xứ Tây Tạng mừng rỡ khôn cùng. Quá nôn nóng gặp lại được người vợ đích thực của mình, nhà vua tức tốc lên ngựa cùng quốc vương Ruvansat quay trở lại, bỏ mặc đó tên khốn nạn Mocben sau khi đã đoạt chiếc nhẫn ma quái của nó.
NGÀY THỨ HAI MƯƠI SÁU
Hai nhà vua vừa trở lại chỗ tể tướng Aly Ben Haytam đang cùng hoàng hậu chờ. Vua xứ Tây Tạng vội vàng xuống ngựa. Vua đón vào đôi tay mình bà hoàng yêu quý, bà vừa trông thấy vua cũng vội bước tới để ngả vào lòng chàng.
- Thưa hoàng hậu, - nhà vua nói – từ nay làm sao bà có thể nhìn mặt một người chồng đã hành hạ mình đến vậy? Nhưng nàng ôi! Cho dù tôi có hành động quá đáng đến mức nào, xin nàng hiểu cho, chớ vì vậy căm ghét kẻ này, bởi trong khi hành tội nàng, tôi cứ ngỡ làm vậy để trả thù cho nàng.
Hoàng hậu đáp:
- Thưa hoàng thượng, chúng ta hãy quên đi quá khứ. Sự sai lầm của ngài đủ là lời tạ lỗi, tại sao thời gian qua ngài đối xử với em như vậy. Phép lạ trời xui khiến cho chúng ta được gặp lại nhau hôm nay là một lý do nữa để em bỏ qua sự sai lầm của ngài.
- Không thưa hoàng hậu, - nhà vua đáp – tôi thấy sai lầm ấy làm sao bỏ qua được. Chính tôi cũng chẳng bao giờ tha thứ cho mình. Cho dù giữa bà và con khốn nạn đội hình dáng bà có giống nhau đến bao nhiêu, lẽ ra qua rung động của con tim cũng bằng như trí tuệ, tôi phải cảm nhận được ai mới đúng là hoàng hậu của mình chứ.
Sau nỗi mừng vui bất ngờ được gặp lại nhau, hoàng hậu hỏi chồng, bằng cách nào vua nhận ra chân tướng con mụ mà vua ngỡ là vợ mình trong bấy nhiêu lâu. Nhà vua đáp:
- Sáng nay, tôi lên phòng riêng của hoàng hậu bằng cầu thang phụ. Vừa mở cửa phòng tôi đã nhìn thấy một người đàn ông đang nằm cùng mụ ấy; giận điên tiết, tôi rút long đao tiến đến, định kết liễu cuộc đời cả đôi gian phu dâm phụ. Nhưng tên đàn ông khéo léo tránh được nhát đao, chạy xuống cầu thang. Trước khi đuổi theo nó, tôi muốn khuất mắt không còn phải nhìn thấy một người vợ thiếu chung thuỷ. Người ấy đã đứng lên giơ hai tay xin tôi tha tội. Lúc ấy tôi quá giận dữ chẳng buồn nghe; tôi đưa một nhát đao chặt đứt bàn tay có đeo nhẫn. Bàn tay vừa lìa khỏi thân, thế là khuôn mặt xinh đẹp của thị biến mất luôn, và hiện ra trước mắt tôi chỉ còn một mụ già nhăn nheo xấu xí đến khủng khiếp. Mụ già ấy nói:
- Tâu hoàng thượng, khi chặt đứt bàn tay tôi, ngài đã huỷ hoại cái phép thần từng lừa dối đôi mắt mọi người. Bởi do quyền năng của chiếc nhẫn ấy, tôi mới có thể mang dáng vóc và khuôn mặt hoàng hậu. Người đàn ông vừa chạy thoát khỏi tay ngài kia cũng nhờ có một cái nhẫn nữa mới có thể đội hình dong của chính ngài. Xin tha tội chết cho tôi; tôi tự thấy mình quá khốn nạn khi dám xúc phạm đến ngài.

Tôi quát lên:
- Này con khốn khiếp kia! Mày chớ hy vọng hão. Chớ nghĩ rằng có thể kêu gọi lòng độ lượng của ta. Không đâu, tội ác của mày làm sao tha thứ được. Giá như mày chỉ xúc phạm đến ta thôi, có thể ta thương hại mà tha tội chết cho mày. Nhưng mày đã phá hoại cuộc sống hoà hợp của vợ chồng ta. Chính mày là nguyên nhân khiến cho ta đối xử với hoàng hậu bất công đến vậy. Ta đã đuổi nàng ra khỏi hoàng cung, và rồi đây chắc sẽ chẳng bao giờ nhìn lại nàng được nữa. Bởi ta tin, chắc vì quá buồn đau và không chịu nổi đày đoạ, nàng đã tìm cách tự kết liễu số phận đáng thương của mình rồi.
Nhà vua kể tiếp:
- Tôi vung thanh đại đao chặt đầu mụ già độc ác. Sau đấy, không để mất thời gian, tôi cấp tốc đuổi theo tên khốn nạn kia.Tạ ơn trời đất đã không cho nó kịp thoát khỏi sự trừng phạt xứng đáng của tôi.
Sau khi vua xứ Tây Tạng thuật lại cho hoàng hậu hay mọi điều như vậy, vua lại kể tiếp những gì xảy ra giữa Mocben và vua thời gian trước đó. Vua thuật lại đầy đủ những thủ đoạn tên khốn nạn ấy đã cùng với Đinuzê mưu đồ để chiếm đoạt ngai vàng của xứ người Naiman ra sao, và bằng cách nào ít lâu sau đó, chúng lại phải rời bỏ ngôi báu dắt nhau trốn chạy. Hoàng hậu và tể tướng Aly lắng nghe câu chuyện ấy rất ngạc nhiên và chăm chú.
Kể xong, vua xứ Tây Tạng quay lại, hướng về Ruvansat trịnh trọng nói:
- Thưa vị khách nước ngoài cao quý, ngài đã đóng góp hào hiệp xiết bao cho việc khôi phục hạnh phúc của chúng tôi, giờ ngài muốn chúng tôi tạ ơn ngài bằng cách nào? Xin ngài hãy nói ra, xin hãy vui lòng cho biết những gì ngài cần. Xin ngài tin cho, tôi thực hiện mọi yêu cầu của ngài.
Ruvansat định đáp thì bà hoàng hậu trẻ vội ngắt lời, nói với chồng:
- Thưa hoàng thượng, ngài chưa biết vị khách nước ngoài ngài đang thưa chuyện đây, chính là hoàng đế nước Trung Hoa.
Vừa nghe bà hoàng nói vậy, vua xứ Tây Tạng vội vàng quỳ xin Ruvansat thứ lỗi vì mình không biết nên không đối xử với nhà vua theo đúng lễ tiết. Vua Trung Hoa ngắt lời, không để chàng nói tiếp. Hai vị quân vương ôm hôn nhau nhiều lần. Sau đấy tất cả mọi người cùng trở về toà lâu đài vua xứ Tây Tạng. Quốc vương Ruvansat nghỉ lại đấy mấy hôm. Vua được đãi đằng vô cùng trọng thể. Rồi chàng từ biệt mọi người, lên đường trở về nước.
Chương 6: Chuyện quốc vương Ruvansat và công chúa Sêhêristani (phần cuối)
Trở về cung điện của mình, nhà vua Trung Quốc không quên kể lại cho tể tướng Muêzin nghe câu chuyện dịu kỳ giữa hoàng hậu và nhà vua Tây Tạng. Tể tướng Muêzin rất ngạc nhiên, và nhân cơ hội này một lần nữa nói với vua rằng Sêhêristani chẳng qua cũng là một mụ phù thuỷ, đúng hơn một người đàn bà đại loại như Đinuzê, làm cho Ruvansat cũng dần dần đâm ra phân vân, không hiểu nên nghĩ thế nào.
Một sáng, tất cả triều thần đã tề tựu đông đủ ở hoàng cung. Mọi người chờ nhà vua xuất hiện theo lệ thường tại chính điện, thì có người đến báo không hiểu hoàng đế đi đâu mất rồi. Tối hôm truớc, sau khi cho mọi người hầu lui ra, nhà vua nằm nghỉ trên sập, thế mà sáng nay chẳng ai nhìn thấy vua tại phòng riêng hoặc bất kỳ một nơi nào khác trong hoàng cung. Mọi người chia nhau tìm kiếm khắp nơi song đều vô ích. Rồi nhiều ngày nữa trôi qua, vẫn chẳng ai hay biết nhà vua hiện đang ở đâu hay ra sao rồi. Tấ cả các quan trong triều bắt đầu lo lắng buồn phiền. Một số người lấy phẩm vàng bôi lên mặt và khóc lóc thở than. Những người khác mang hoa hồng xuống rải mặt đất trước ngai vàng để tỏ lòng mong nhớ.
Tể tướng Muêzin càng buồn rầu hơn ai hết. Ông rất quý mến quốc vương. Trong cơn đau đớn, ông thốt lên:
- Ôi, hỡi hoàng thượng của tôi, ngài đang ở đâu lúc này? Tôi biết nghĩ sao về sự vắng mặt của ngài? Phải chăng ngài đang  làm một cuộc du hành mới? Hay là một quyền lực thần linh nào đấy đã đưa ngài xa rời nhân dân mình? Hay ngài tự ý rời bỏ trăm dân? Chúng tôi biết, ngài tin tưởng vào lòng trung thành và sự mẫn cán của triều thần chúng tôi lắm, sao ngài nỡ để chúng tôi buồn phiền lo âu đến vậy. Hay là có bùa ma phép quỷ nào đang hãm hại ngài?
Trong khi tể tướng cũng như trăm dân nước Trung Hoa lo âu như vậy, thì nhà vua may mắn ấy lại đang hưởng hạnh phúc trên đảo quốc Sêhêristani. Nàng công chúa Sêhêristan đã phái thần linh sang Trung Hoa đón vua về đấy. Nàng công chúa ấy, sau khi được tôn vinh là hoàng hậu lên ngôi trị vì đất nước, thời gian đầu mải bận chăm lo công việc quốc gia. Nàng cố sao giữ cho cuộc sống đất nước dưới triều đại mình vẫn được thanh bình, vinh quang như ngày trước, khi vua cha còn tại vị. Nhưng một hôm nàng nhận ra mình vẫn thương nhớ quốc vương Trung Quốc; hơn nữa cũng lấy làm hài lòng thấy chàng vẫn chung thuỷ với mình, nàng quyết định giữ lời đã hứa với vua buổi chia tay. Thế là nàng sai người sang Trung Quốc rước nhà vua về cung điện của mình.
Thoạt trông thấy bà hoàng nước Sêhêristan, nhà vua Trung Quốc thốt lên:
- Ôi, hỡi nàng công chúa thần linh, vậy ra mãi đến bây giờ tôi mới được phép gặp lại nàng! Hỡi ôi! Tôi đã ngỡ không sao còn hy vọng, ngỡ nàng đã quên hẳn tôi rồi.
- Chẳng phải vậy đâu, thưa hoàng thượng, - công chúa Sêhêristani đáp, - Sự xa cách chẳng gây nên hậu quả ở các thần linh giống như ở người trần thế. Dù xa xôi cách trở đến bao nhiêu, tình yêu của thần linh chúng tôi vẫn luôn kiên định.
- Thì sự xa xôi cách trở lâu ngày cũng đâu có làm suy giảm tình cảm của tôi? - quốc vương Trung Hoa đáp, - Cho dù tôi chỉ là một người trần, tình yêu của tôi vẫn vững bền chẳng thua kém các vị thần linh. Ôi, hỡi hoàng hậu quý yêu! – vua thở dài nói tiếp - Quả là thời gian chúng ta xa cách nhau vừa qua quá đỗi lâu dài!
Bà hoàng nói:
- Em rất hài lòng về ngài, bởi đúng là ngài vẫn yêu thương em rất mực. Vì vậy, em muốn thực hiện lời hứa với ngài ngay từ giờ này. Nội nhật hôm nay, chúng ta có thể hài hoà hai số phận chúng ta làm một.
NGÀY THỨ HAI MƯƠI BẢY
Quốc vương Trung Quốc cảm tạ nàng Sêhêristani, và thề sẽ giữ vẹn tình yêu bất diệt đối với nàng. Tiếp đó, theo lệnh bà hoàng, tất cả các vị đại thần trong triều và đông đảo nhân dân quốc đảo tề tựu trước cung điện. Bà hoàng cất lời nói với mọi người như sau:
- Hỡi các vị thần linh đang nghe tôi nói, các vị đã thề sẽ tuân lệnh tôi khi các vị tôn vinh tôi lên nối nghiệp phụ vương tôi. Các vị đã trao cho tôi quyền uy tối thượng. Nay tôi tuyên cáo tôi sắp thành hôn với hoàng đế nước Trung Hoa Ruvansat. Tôi truyền cho mọi người từ nay hãy coi vị quân vương ấy là chúa tể của các người.
Nói xong bà hoàng cho mời quốc vương ra giới thiệu với mọi người.
Tất cả các thần linh quan cũng như dân có mặt lúc ấy đều lớn tiếng hoan hô và ngợi ca sự lựa chọn của nàng Sêhêristani. Cho dù quốc vương Trung Hoa là một người trần thế, các thần linh do quý yêu bà hoàng của mình, không vì thế mà không nhất tề tôn vinh ông là vua quốc đảo Sêhêristani.
Lễ tấn phong chưa kết thức, nhiều người đã nghĩ chuyện chuẩn bị hôn lễ. Tuy nhiên, nàng Sêhêristani giữ mọi người lại và trịnh trọng nói với vua Ruvansat:
- Thưa ngài, xin ngài hứa với tôi một điều. Tôi đòi hỏi ở ngài lời hứa ấy vì hạnh phúc chung của đôi ta. Rất cần thiết ngài công khai bày tỏ lời hứa ấy, và càng cần thiết hơn là ngài phải giữ trọn lời. Nếu mai đây chẳng may ngài quên lời nguyền, chắc chắn chúng ta sẽ gặp những chuyện hết sức buồn lòng.
Nhà vua Trung Quốc vội ngắt lời:
- Xin đừng bắt tôi chờ đợi lâu hơn nữa, thưa hoàng hậu. Bà cần tôi hứa hẹn điều gì, xin vui lòng cho biết, tôi sẵn sàng thực hiện mọi điều đúng như bà mong muốn.
- Điều em chờ đợi ở chàng đây, - bà hoàng nói tiếp - hết sức khó khăn, em e chàng không đủ khả năng giữ trọn. Bởi em sinh ra là thần linh và ngài là một con người trên trần thế, tính tình của chúng ta khắc có nhiều chỗ khác biệt nhau. Thần linh chúng tôi xử sự khác người trần. Thần linh chúng tôi có những luật lệ và phong tục tập quán riêng. Nói ngắn gọn, hai ta không thể sống hoà hợp lâu dài với nhau nếu ngài không luôn luôn tin tưởng mọi việc em làm.
- Thế nào, thưa bà, bà cho đấy là một việc hết sức khó khăn ư? Và bà lo tôi không có khả năng thực hiện? Xin bà hãy nghĩ khác đi về những người đàn ông trên trần thế. Xin bà hãy tin rằng đối với tôi, bà lúc nào cũng là người có quyền uy tuyệt đối; từ nay trở đi xin hứa tôi chẳng bao giờ làm điều gì khác với ý định của bà.
Bà hoàng nói tiếp:
- Nếu vậy thì, thưa hoàng thượng, xin ngài hãy long trọng hứa rằng: Cho dù mai sau em có một hành động nào đó có thể không hài lòng ngài hoặc làm ngài ngạc nhiên, thì ngài vẫn không chê trách, vẫn không ngăn cản em.
- Vâng, thưa bà hoàng của tôi, - nhà vua nói to – không những tôi sẽ không chê trách bất kỳ hành động nào của bà, mà tôi thề sẽ chấp nhận mọi việc bà làm. Tôi sẽ hạnh phúc suốt đời bởi tin tưởng ở tình yêu của bà đối với tôi và sự tin cậy hoàn toàn của tôi đặt vào bà. Sẽ là một sự xúc phạm đối với tôi nếu bà không cùng nghĩ như vậy.
- Thế là đủ - công chúa Sêhêristani nói – Em tin vào lời thề. Vậy thì mai sau, cho dù em có hành động mà chàng cho là kỳ quặc đi nữa, em mong ngài sẽ vẫn cứ lặng im. Cầu xin ngài chớ nghĩ rằng em đã có một đòi hỏi quá đáng. Xin hiểu cho các vị thần linh không bao giờ làm việc gì không suy tính. Sau này mỗi lần chàng nhìn thấy em có làm việc gì đó chàng cho là vô lý thì xin chàng hãy tự nhủ: nàng làm như vậy chẳng phải không có lý do.
Nhà vua Trung Quốc một lần nữa hứa sẽ không có ý kiến về bất kỳ hành động nào của nàng công chúa sau này, thế là mọi người đều vui vẻ. Lúc này còn lo chuyện tổ chức hôn lễ nữa mà thôi.
Bà hoàng mời quốc vương Ruvansat ngự lên ngai vàng, mình ngồi xuống bên cạnh. Tất cả các vị đại thần trong triều xếp hàng trước mặt hai người. Các nữ quan vẫn hầu hạ công chúa thì dàn hàng đôi hai bên ngai. Các quan đại thần cúi lạy và chúc tụng nhà vua. Tiếp theo đó là lễ cáo yết đấng tạo hoá và các vị tiên tổ các thần linh.
Nhân dân đảo quốc mở hội vui chơi suốt ba tháng liền. Quốc vương Trung Hoa đắm say trong hạnh phúc, chỉ nghĩ tới chuyện làm vui lòng bà hoàng của mình. Vua cùng bà tham dự mọi cuộc vui chơi và hội hè trong mấy tháng. Một thời gian dài, hầu như vua quên bẵng đất nước Trung Hoa.
Một năm sau, nàng Sêhêristani sinh hạ một hoàng tử xinh tươi rực rỡ như ánh sáng ban ngày. Các thần linh trên đảo lại mở hội mừng vui. Quốc vương Trung Quốc hài lòng có một con trai với nàng công chúa, không ngớt lời tạ ơn trời đất. Hôm ấy vua đang dở một cuộc săn. Được tin bà hoàng sinh nở, vua quay trở về cung ngay lập tức để nhìn mặt cậu con trai. Bà hoàng lúc này ẵm đứa bé trên tay, đang ngồi cạnh một đống lửa lớn. Vua Ruvansat đón cậu hoàng tử bé nhỏ, hôn rất nhẹ nhàng, rồi đưa trở lại hoàng hậu. Bà hoàng đón con và ném luôn vào đống lửa. Ôi, thật diệu kỳ! Cả đống lửa cùng cậu bé sơ sinh đều biến mất.
NGÀY THỨ HAI MƯƠI TÁM
Cảnh tượng lạ lùng gây nên cho nhà vua một nỗi buồn khôn tả. Nhưng cho dù có đau đớn đến đâu vì mất đứa con trai, vua vẫn nhớ lời hứa của mình với hoàng hậu. Vua cố nén buồn, lặng lẽ lui về phòng riêng, đóng cửa than một mình.
- Ta thật là người bất hạnh. Trời vừa ban cho một đứa con trai kháu khỉnh thế, mà tự mắt ta lại nhìn thấy người mẹ sinh ra nó ném con vào đống lửa. Vậy mà ta không được phép chê trách hành động độc ác ấy! Ôi sao có người mẹ bất nhân đến vậy! Nhưng ta vẫn phải lặng im thôi, vua lại tự bảo mình. Ta không nên làm xúc phạm hoàng hậu nếu ta tỏ ra phiền muộn. Ta hãy tự nén lòng, chớ nên bất bình trước hành động ấy của nàng, mà ngược lại hãy cố tin rằng hoàng hậu hành động như vậy không phải không có lý do.
Vậy là nhà vua không hề hé răng nói với hoàng hậu một lời nào, cho dù thâm tâm vua vẫn còn trách nàng sao nỡ gây nên cái chết của con trai.
Một năm sau, bà hoàng lại sinh hạ một công chúa bé con còn xinh xắn hơn cả hoàng tử. Công chúa được đặt tên là Banki. Lần này nữa, các thần linh trên đảo cũng không quên mở hội suốt ba ngày liền mừng công chúa ra đời. Nhà vua vô cùng thích thú trước vẻ xinh xắn của con gái. Vua nhìn con hầu như không biết chán. Nhờ đó cũng tạm khuây nguôi chuyện không hay năm trước về hoàng tử bé bỏng. Nhưng niềm vui của người cha bất hạnh ấy chẳng được bao lâu. Vài ngày sau khi bà hoàng sinh nở, chợt có một con chó cái lớn lông trắng há cái mõm to tướng chạy xộc vào cung. Hoàng hậu Sêhêristani trông thấy con chó, gọi đến và bảo nó:
- Hãy ngoạm lấy cháu bé gái kia cùng cái nôi của cháu.
Thế là con chó cái tiến đến gần, ngoạm cái nôi cùng cháu gái sơ sinh vào mồm và biến mất.
Thật không có lời nào diễn tả nổi, cảnh tượng ấy làm vua Ruvansat đau đớn tới mức nào. Cho dù nể bà hoàng đến đâu và đã từng thề thốt với bà, suýt nữa vua không nén nổi cơn giận và bật ra những lời bất nhã. Vua đành phải lui vội về phòng riêng, sợ còn ở đấy e không nén nổi sự bất bình. Vua đóng cửa một mình trong phòng riêng, vừa nhớ lại số phận đáng thương của cậu con trai năm ngoái, vừa không thôi chấn động bởi điều mắt vừa nhìn thấy hôm nay.
- Hỡi Sêhêristani! Sao bà vô nhân đạo đến vậy! Sao bà đối xử theo cách ấy với những đứa con chính bà sinh ra? Quả là các vị thần linh thích thú những hành động ngược với tự nhiên. Thế mà họ không ngớt khoe khoang về ưu thế giống loài họ. Ta căm ghét phong tục, luật lệ thần linh. Phong tục tập quán của người trần dù sao cũng đúng mực hơn. Nhưng, như hoàng hậu từng nói với ta, hẳn là các thần linh không làm việc gì không tính toán trước. Nàng đã dặn ta chớ nên bất bình vì những chuyện ấy, nàng đã khuyên ta nên tự nhủ, thần linh hành động như vậy không phải không có lý do. Nhưng làm sao họ không thể phạm sai lầm? Rồi đây ta phải làm sáng tỏ điều bí ẩn này. Ta phải tìm hiểu đâu là nguyên nhân gây nên niềm bất hạnh của ta. Phải chăng luật pháp các thần linh quy định, khi có ai kết hôn với người trần thế, thì phải giết chết ngay những đứa con ra đời từ cuộc hôn nhân ấy? Đấy chính là điều làm ta không hết ngạc nhiên. Ôi, hỡi nàng công chúa, hỡi bà hoàng độc ác! Làm sao nàng cứ nghĩ ta có thể mãi mãi chấp nhận điều kiện này? Không, cho dù ta yêu quý nàng đến bao nhiêu, ta cũng không thể nào làm quen luật lệ dã man của thần linh các người.
Mặc dù vua Ruvansat cực kỳ đau khổ về việc mất hai đứa con, đến lúc này vua đủ sức tự kiềm chế chẳng hề hé răng phàn nàn một lời với hoàng hậu. Nhưng việc lưu lại lâu hơn nữa trên đảo quốc Sêhêristan giờ đây đối với vua trở nên không còn chịu đựng nổi. Nhà vua quyết định trở về Trung Hoa. Một hôm, Vua lựa lời nói với hoàng hậu Sêhêristani:
- Hoàng hậu à, ta muốn trở về vương quốc Trung Hoa của ta. Nàng hãy cho phép ta trở lại với thần dân của mình. Mọi người đều mong muốn được gặp lại ta lâu lắm rồi.
Hoàng hậu đáp:
- Em đồng ý, chàng nên đáp ứng mong muốn của nhân dân quý quốc. Hơn nữa sự có mặt của ngài tại đất nước lúc này rất cần thiết cho đại sự quốc gia. Em biết người Mông Cổ đang cất một đạo binh hùng mạnh mưu đồ xâm chiếm Trung Hoa. Ngài hãy ra đi, hãy trở về bảo vệ vương quốc của ngài. Trăm dân nước ngài thật dũng cảm kiên cường. Dù sao được ngài thân chinh cầm quân, mọi người sẽ chiến đấu ngoan cường hơn. Chẳng bao lâu nữa thôi, em sẽ sang bên áy thăm chàng.
Nói đến đấy, hoàng hậu cho gọi một thần linh đến và bảo:

- Ông hãy đưa nhà vua trở về ngay cung điện của người ở nước Trung Hoa.
Vị thần linh tuân lệnh, thế là tự nhiên vua Ruvansat thấy mình đang ở trong cung điện tại kinh đô.
Tể tướng Muêzi nhìn thấy vua, vui mừng khôn xiết. Ông phủ phục trước vua, mặt úp sát đất, rồi ngẩng lên than:
- Ôi, muôn tâu bệ hạ! quả là trời đất đã chấp nhận lời cầu xin của tôi. Trời đã đưa ngài trở về với thần dân của ngài đúng lúc. Trong thời gian ngài vắng mặt, tôi đã cố gắng trông nom mọi công việc quốc gia. Trăm dân mất hết hy vọng được ngài trở về, đã đưa tôi tạm lên ngôi. Nhưng hôm nay tôi được gặp lại nhà vua vị chúa tể kính yêu của mình, kính xin ngài hãy trở lại ngôi báu. Một kẻ nô lệ của ngài đã tạm ngồi lên đấy quá lâu rồi.
Nhà vua thuật lại cho tể tướng nghe tất cả những điều đã xảy ra, vị đại thần ấy vô cùng kinh ngạc.
Trong thời gian ấy, người Mông Cổ đã đưa một đạo quân lớn tiến đến sát biên giới Trung Hoa. Họ tiến quân, chiếm được một phần đất nước, và thề sẽ chinh phục toàn bộ vương quốc này. Được tin cấp báo, quốc vương Ruvansat ra lệnh tập trung cao độ binh lực, rồi tự mình cầm quân tiến lên đón đánh quân thù.
Quân Mông Cổ lúc này đang hạ trại giữa một đồng bằng rộng lớn, ở đấy có điều kiện tự cung ứng lâu dài và đầy đủ quân lương. Vua Ruvansat hạ trại cách quân địch không xa, ở một vùng không được thuận lợi cho lắm. Nhưng chẳng bao lâu, đã chở tới mặt trận trên lưng lạc đà vô vàn lương thực, thực phẩm. Đặc biệt có nhiều lương khô, trái cây, thức ăn đóng hộp, cùng cơ man là thùng gỗ lớn chứa rượu nho và các loại nước giải khát. Đoàn lạc đà tiếp tế đặt dưới quyền chỉ huy của một đại thần của vua Ruvansat, tên là Vêly. Ông này dẫn đầu đội quân dắt lạc đà chở thực phẩm vừa đến cánh đồng, thì công chúa Sêhêristani bỗng xuất hiện, theo sau có nhiều vị thần linh. Theo lệnh nàng, các vị thần ấy lôi mọi thứ còn trên lưng lạc đà lừa ném xuống đất, thi nhau đập nát lương khô, hoa quả, thực phẩm đóng hộp, cũng chọc thủng các thùng rựơu, tóm lại đập phá tan tành và làm rơi vãi mọi đồ ăn thức uống xuống đất, chẳng còn gì có thể sử dụng được nữa.
NGÀY THỨ HAI MƯƠI CHÍN
Vêly rất ngạc nhiên không hiểu sao quân lương mình chở tới bỗng dưng bị đổ nát tan tành và vung vãi khắp nơi như vậy. Chợt bà hoàng xuất hiện và bảo:
- Ông hãy đến tâu với quốc vương ông rằng chính hoàng hậu đã gây nên mọi chuyện ấy.
Thượng thư Vêly vội vàng đến lều của quốc vương Ruvansat:
- Muôn tâu, thế là quân đội của chúng ta mất hết quân lương nữa rồi.
Ông kể cho vua nghe tất cả mọi chuyện. Nhà vua hết sức thất vọng. Cái chết của hai đứa con đối với vua dù sao cũng có thể tha thứ hơn việc gây nên thảm hoạ này. Vua đang nổi cơn thịnh nộ, không sao kiềm chê được thì chợt công chúa Sêhêristani hiện ra trước mắt. Vua nóng nảy thốt lên:
- Hoàng hậu à, ta thật không thể nào im lặng được nữa. Bà làm ta mất hết kiên nhẫn rồi. Bà đã ném con trai ta vào đống lửa, bà đã bỏ con gái ta cho một con chó cái ngoạm. Cho dù buồn lòng về những chuyện ấy xiết bao, ta vẫn nén đau không hề hé răng với bà. Nhưng hành động của bà vừa rồi không chỉ gây nguy hại cho tính mạng của ta mà còn dập tắt quang vinh cả triều đại, ta không thể nào không phàn nàn. Hỡi người đàn bà vô ơn bạc nghĩa, bà đền đáp tình yêu chung thuỷ của ta bằng cách đó sao? Ý đồ của bà là gì? Thế là quân ta không còn có quân lương. Đại quân đội ta rồi sẽ ra sao? Bà hãy nói đi! Và cả ta nữa ta sẽ ra sao đây? Hẳn bà muốn, quân đội không còn sức chiến đấu nữa, ta sẽ phải sa vào tay quân địch? Có thể nào ta chịu đựng quá mức ấy sao?
Hoàng hậu buồn bã đáp:
- Thưa hoàng thượng, nhẽ ra lần này nữa, nếu ngài vẫn lặng im thì tốt biết bao. Ngài đã mở lời không đúng lúc. Nhưng đã nhỡ mất rồi, ngài đã phạm sai lầm, giờ thật vô phương cứu chữa. Thế là thôi, chẳng còn cách tránh khỏi nỗi bất hạnh mà em hằng lo sợ, bởi điều không may nhất đã xảy ra rồi. Ôi, hỡi nhà vua yếu đuối và bất cẩn! Sao ngài không đủ nghị lực giữ mồm giữ miệng? Ngài có biết, ngọn lửa mà em ném con trai ngài vào năm nào là ngọn lửa gì không? Đấy là một con kỳ ngông thần, mà em giao phó cho việc nuôi dạy hoàng tử. Còn con chó cái mà ngài từng trông thấy ấy là một bà tiên đã vui lòng đảm trách việc giáo dục con gái chúng ta mọi hiểu biết và đức hạnh cần thiết cho một công chúa thần linh. Con kỳ ngông thần và bà tiên tốt bụng đã làm đúng như em chờ đợi, họ đã nuôi nấng hoàng tử và dạy dỗ công chúa một cách tuyệt vời. Lát nữa ngài sẽ được nhìn thấy tận mắt các con. Nào, quân đâu, - nàng bảo những thần linh theo hầu – hãy đưa đến đây ngay con trai và con gái của ta.
Công chúa vừa dứt lời, đã thấy hiện lên dưới lều trại của vua Ruvansat hoàng tử nước Sêhêristan và cô em gái, công chúa Banki. Thật ra, chỉ mỗi một nhà vua nhìn thấy thôi, còn tất cả những người khác có mặt trong lều lúc ấy chẳng ai trông thấy gì cả.
Nhà vua nước Trung Hoa, mặc dù đang lâm vào cảnh quân đội cạn lương thực, vẫn không nén nổi mừng vui được gặp hai con. Vua lần lượt ôm hôn hoàng tử và công chúa, lòng vô cùng xúc động, cũng như tất cả mọi người cha gặp lại những đứa con nghìn trùng xa cách. Hoàng hậu Sêhêristani nói tiếp:
- Tâu hoàng thượng, giờ đây em sẽ thưa để ngài rõ tại sao em đập phá tan tành thực phẩm của quân đội ngài. Nhà vua Mông Cổ , muốn hãm hại ngài ông ta muốn chinh phục toàn bộ đế quốc Trung Hoa. Để thực hiện mưu đồ ấy một cách dễ dàng, ông ta đã dùng một số tiền khá lớn mua chuộc viên thượng thư Vêly của ngài. Tên quan khốn nạn ấy, chỉ vì mười vạn đồng xơcanh vàng, đã đang tâm mưu đồ sát hại toàn bộ đạo binh của ngài và cả bản thân ngài nữa bằng thuốc độc. Bởi tên khốn khiếp ấy được ngài giao phó cho việc tiếp tế quân lương, y đã cho vào lương khô và rượu nho một loại thuốc độc rất mạnh, có hiệu lực ngay tức khắc nhỡ ai động vào. Có nghĩa là tất cả các tướng sĩ của ngài sẽ mất mạng nếu em không kịp thời sai đập nát toàn bộ số quân lương ấy. Nếu ngài chưa tin lời em nói, thì cũng dễ có cách thuyết phục ngài thôi. Xin hoàng thượng cho gọi viên thượng thư Vêly đến, bảo y thử ăn trước mặt ngài một miếng lương khô, ngài sẽ thấy ngay điều gì xảy ra sau đó.
Nhà vua rất bối rối nghe những lời nói ấy của hoàng hậu. Vua truyền triệu Vêly đến ngay, đồng thời sai người mang đến cho vua một ít thử lấy trong số quân lương vừa bị phá nát. Người ta đưa đến ngay một hộp mứt còn nguyên, trên nắp hộp vẫn còn dấu ấn của thượng thư Vêly. Nhà vua sai mở hộp mứt, lệnh cho tên phản trắc thử dùng mứt trong hộp. Vêly nói:
- Muôn tâu hoàng thượng, quả thực lúc này tôi không đói, khi nào cảm thấy cần ăn, tôi xin dùng.
- Ngươi phải ăn ngay tức khắc, - nhà vua quát - nếu không ta cho chém đầu.
Thượng thư thấy cách nào cũng khó tránh khỏi cái chết, đành phải vâng lời. Y cho vào miệng một chút mứt khô, và ngay lập tức lăn đùng xuống đất rẫy đành đạch và tắt thở trước mắt tất cả mọi người có mặt trong lều trại của nhà vua lúc bấy giờ.
Lúc này hoàng hậu mới nói với Ruvansat:
- Tâu hoàng thượng, giờ đây ngài chẳng còn gì phải nghi ngờ nữa về sự phản trắc của viên quan này; và hẳn ngài đã tin chắc, các thần linh không làm việc gì không có lý do.
- Vâng, thưa bà, - nhà vua nói – tôi thừa nhận đã sai khi không tuân theo một cách chuẩn xác lời bà khuyến cáo tôi phải theo. Nhưng thật tôi không thể nào không lo sợ. Bây giờ quân đội tôi cạn hết quân lương, và rồi sớm muộn tất cả cũng sẽ chết đói hoặc bị quân địch tàn sát, có khác chi chết vì thuốc độc.
- Chẳng đến nỗi vậy đâu, tâu hoàng thượng, - hoàng hậu đáp – Quân lương ngài chẳng thiếu. Sáng mai quân ngài sẽ có đầy đủ mọi thứ cần thiết. Tối nay, xin ngài xua quân tấn công quân địch, chắc chắn ngài sẽ đánh tan tành đạo quân Mông Cổ, quân đội ngài sẽ tước đoạt quân lương của chúng, và ngài sẽ kéo đại quân trở lại kinh thành trong chiến thắng và vinh quang.
Điều hoàng hậu nói diễn ra đúng y như lời. Vào đúng nửa đêm hôm ấy, bà hoàng hậu cùng với tất cả các thần linh theo hầu bà, dẫn đầu toàn bộ đạo quân Trung Quốc nhất tề tấn công quân Mông Cổ. Sau một hồi kháng cự, quân Mông Cổ bỏ chạy tán loạn. Các vị thần linh và quân của vua Ruvansat tha hồ tiêu diệt. Đích thân nhà vua Mông Cổ là người thân chinh chỉ huy trận đánh ấy cũng chẳng thể thoát thân. Ngày hôm sau, khi mặt trời mọc, mọi người nhìn thấy cả một cánh đồng ngổn ngang xác chết. Quốc vương Ruvansat càng hài lòng hơn về trận chiến thắng, bởi về phía mình chỉ tổn thất có dăm ba binh sĩ. Quân đội của nhà vua đoạt được rất nhiều chiến lợi phẩm. Tất cả mọi thứ quân trang, quân dụng của người Mông Cổ, cũng như toàn bộ thực phẩm họ mang theo hoặc vừa cướp bóc tại chỗ, nhiều không kể xiết, đều bị những người chiến thắng thu nhận.
Lúc này công chúa Sêhêristani mới ngỏ lời nói với vương phu của mình.
- Vậy là quân thù của chàng đã bị đánh tan. Chiến tranh đã kết thúc. Giờ đây, ngài có thể chiến thắng trở về cung điện tại kinh đô ngài, sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc. Về phần em, xin vĩnh biệt chàng, chúng ta chia tay và từ nay chẳng bao giờ còn gặp lại nữa. Ngài sẽ chẳng còn nhìn thấy em, cũng như em sẽ chẳng còn nhìn thấy chàng. Xảy ra sự tình ấy, tâu hoàng thượng quý yêu của em, ấy là lỗi tại ngài. Sao ngài không giữ vẹn lời ngài hứa hẹn với em?
- Ôi trời đất ơi, ta vừa nghe gì vậy! – nhà cua thốt lên – Nhân danh Ngọc Hoàng Thượng Đế, xin bà hảy từ bỏ ý định không hay của bà. Ta rất hối tiếc đã không giữ được trọn lời nguyền; xin bà hãy tha thứ. Ta xin quả quyết từ nay trở đi, bà chẳng bao giờ có gì phải phàn nàn về ta. Cho dù sau này bà có hành động thế nào đi nữa, xin hãy tin rằng ta sẽ lặng im, sẽ chẳng bao giờ ngỏ ý không đồng tình với bà.
- Quá muộn mất rồi. Lời thề của ngài lần này không còn giá trị -  hoàng hậu nói. - Luật pháp thần linh buộc em phải xa rời ngài mãi mãi. Không ai có thể cưỡng lại luật lệ thiêng liêng. Xin ngài đừng mong ngăn trở em. Than ôi! Nếu chỉ tuỳ thuộc ở em, thì em sẵn lòng tha thứ hết cho chàng. Nhưng điều đó đâu có thụôc quyền lực của em. Xin vĩnh biệt,  hỡi quân vương yêu quý – hoàng hậu vừa khóc vừa nói tiếp - thế là chàng vừa mất con vừa mất mẹ và em mất chồng. Chàng từng mong muốn được nhìn thấy con, thì hôm nay chúng đã trở về thăm ngài rồi đấy.
Nói đến đây hoàng hậu biến mất cùng một lúc với hoàng tử Sêhêristan và công chúa Banki.
NGÀY THỨ BA MƯƠI
Xiết bao đau đớn cho quốc vương Trung Hoa trước sự mất mát những con người thân yêu đến vậy! Không còn lời nào diễn tả nổi. Giả sử nhà vua thua trận bản thân sa vào tay quân Mông Cổ, thì chàng cũng không đến nỗi buồn rầu đến vậy. Nhà vua tự cào cấu mặt mũi mình, bôi đất bẩn lên đầu, làm mọi hành vi như một con người mất trí. Trong tình trạng ấy, vua truyền lệnh cho quân đội trở lại kinh thành.
Vừa vào đến hoàng cung, vua mời tể tướng Muêzi đến và nói:
- Tể tướng à, ta giao phó cho ông trông nom quốc sự, ông hãy cai trị vương quốc ta. Tự nay, ông thấy cần làm gì thì cứ làm theo ý muốn của mình.Quyền quyết định ở ông. Về phần ta, từ nay ta không lo việc nước nữa. Ta chỉ còn có việc thương khóc hoàng hậu và các con của ta thôi. Ta đã đánh mất họ chỉ vì sự bất cẩn và thiếu nghị lực của mình. Từ nay trở đi, ta không muốn gặp bất kỳ ai ngoài ông. Hơn thế, ta chỉ đồng ý để ông đến thăm và trò chuyện với ta với điều kiện là chẳng bao giờ bàn về công việc quốc gia. Từ nay về sau, ông chỉ có thể nói với ta về hoàng hậu Sêhêristani và các con của ta thôi. Ta muốn những ngày còn lại của ta chỉ nghĩ suy về mỗi một nỗi đau ấy.
Quả đúng như lời, từ đấy quốc vương Ruvansat một mình đóng cửa phòng riêng, không cho phép bất kỳ ai ngoài tể tướng Muêzi được vào. Ngày nào vị đại thần ấy cũng đến thăm vua. Ngày nào ông cũng tìm cách làm vui lòng chúa tể của mình, với hy vọng rằng thời gian sẽ dần dần làm vua khuây khoả. Nhưng ngược lại, mỗi ngày vua càng buồn phiền đau khổ hơn. Cuối cùng không chịu nổi ưu phiền, vua lâm bệnh. Đến lúc sắp qua đời, vua chợt thấy hoàn hậu đột nhiên xuất hiện trong cung và nói với vua như sau:
- Tâu hoàng thượng, em đến đây hôm nay để chấm dứt mọi phiền não của chàng, để trả lại cho chàng cuộc sống mà chàng gần như sắp đánh mất. Luật lệ thần linh chúng em đòi hỏi, để trừng phạt một người đàn ông không giữ được lời hẹn ước, vợ phải xa cách chồng trong suốt mười năm. Hơn thế, luật lệ thiêng liêng sẽ vẫn không cho phép vợ trở lại gặp chồng, trừ phi trong suốt thời gian ấy người chồng vẫn một lòng chung thuỷ. Chính vì vậy, khi từ biệt chàng mười năm trước đây, em đã tưởng chẳng bao giờ còn gặp lại. Em tự nghĩ, người trần thế chẳng ai có khả năng giữ được mối tình chung thuỷ lâu dài đến vậy. Chẳng bao lâu sau khi chia tay, rồi chàng sẽ quên em thôi. Tạ ơn trời đất, em đã nhầm. Giờ đây em thấy rõ còn có những người đàn ông trên trần thế có thể yêu chung thuỷ trọn đời. Vì vậy, em trở lại đây với chàng, tâu hoàng thượng. Còn vui hơn thế, em trở lại đây cùng với các con của chúng ta.
Hoàng hậu vừa dứt lời, hoàng tử Sêhêristan và công chúa Banki đã bước vào cuối lạy quốc vương Ruvansat, làm vua sung sướng vô cùng. Người cha yêu quý và người chồng chung thuỷ ấy phục hồi sức khoẻ chỉ trong thời gian ngắn. Bốn con người, vợ, chồng, con trai, con gái sống hạnh phúc bên nhau trong rất nhiều năm.
Sau khi nhà vua và hoàng hậu qua đời vì cao tuổi, hoàng tử Sêhêristan lên ngôi báu trị vì toàn nước Trung Hoa. Công chúa Banki trở về giữ ngai vàng quốc đảo Sêhêristan. Sử sách chép rằng, về sau công chúa Banki trở thành vợ của nhà tiên tri Salomon vĩ đại(1).
Sau khi bà nhũ mẫu Farucna kể xong chuyện ấy, những người hầu của công chúa nước Casơmia xưa nay vốn thích thú các câu chuyện về thần linh và phép lạ, đều cho rằng chuyện này hay hơn hẳn chuyện chàng Abuncaxem ngừơi thành phố Basri. Nhưng lại có nhiều người khác ý kiến ngược lại, và quả quyết rằng chuyện chàng trai thành Basri thú vị hơn. Công chúa Farusna nói lên ý kiến của mình:
- Về phần tôi, tôi rất chê trách quốc vương Trung Hoa đã không giữ trọn lời hứa với công chúa Sêhêristani. Bởi nàng đã từng nói trước cho vua hay rằng các vị thần linh không làm việc gì không suy tính cơ mà. Điều ấy chứng tỏ mọi ngừơi đàn ông trên đời chẳng biết giữ trọn lời hứa bao giờ.
Bà nhũ mẫu Xutlumêmê nói:
- Trình công chúa, trên đời vẫn có nhiều chàng trai giữ trọn lời hứa với người yêu, cho dù có phải vì thế mà bỏ mình. Tôi sẽ chứng minh để mọi người thấy điều ấy, nếu được công chúa cho phép thuật hầu bà câu chuyện về chàng Culup và nàng Đilara.
- Ta đồng ý, - công chúa đáp – ta muốn nghe, nhất là ta nhận thấy mọi người ở đây đều tỏ ra thích thú muốn được nghe câu chuyện ấy.
Được lời, bà nhũ mẫu liền bắt đầu kể chuyện như sau về chàng trai Culup và người đẹp Đilara ở thành Đamat.
Chương 7: Chuyện chàng trai Culup và người đẹp Đilara
Ngày xưa tại Đamat có một thương gia lớn tuổi tên là Abđala. Ông ta được coi là người giàu nhất trong số các nhà buôn ở thành phố ấy. Song ông lại không được vui vì sau gần cả cuộc đời bôn ba khắp nơi mọi chốn trên thế giới, trải qua hàng ngàn hàng vạn nổi hiểm nguy để làm giàu, cuối cùng lại không có con. Tuy nhiên, ông không từ nan bất cứ việc gì để có thể có người nối dõi. Ông mở rộng cửa cho những người nghèo trú ngụ, không ngừng làm phúc cho các nhà tu hành, mời họ đến nhà cầu nguyện Thượng Đế ban cho một mụn con trai. Ông còn lập nhiều nhà thương, xây tu viện, dựng không ít thánh đường. Nhưng tất cả mọi công việc ấy hầu như vô ích. Abđala vẫn không thể nào trở thành một người cha. Dần dà ông đi đến chỗ hầu như mất hết hy vọng.
Một hôm, có người đưa đến nhà giới thiệu với ông một vị thầy thuốc người Ấn Độ mà ai cũng hết lời ca ngợi tài năng. Vị thương gia mời ông thầy thuốc dùng bữa, sau khi đãi đằng trọng thị, nói với ông:
- Thưa bác sĩ, đã từ lâu lắm, tôi tha thiết mong ước có được một đứa con trai.
Vị thầy thuốc Ấn Độ đáp:
- Việc ấy tuỳ thuộc vào ân sủng của Thượng đế, thưa ngài. Tuy nhiên, người đời cũng có thể cố gắng tìm cách để có con.
- Vậy xin thầy hãy bảo cho biết tôi cần phải làm những gì để đạt được mục đích ấy. Thầy dạy thế nào, tôi xin làm đúng như lời thầy.
Thầy thuốc truyền:
- Việc trước tiên là ông hãy mua một cô nô lệ cao lớn và người thẳng như cây bách. Khuôn mặt cô phải khả ái, đôi má cô phải đầy, đôi mông cô phải nở. Thứ hai, giọng nói của cô phải dịu dàng, vẻ mặt của cô phải luôn luôn tươi cười; ai chuyện trò với cô đều thấy vui thú. Hơn nữa, tôi muốn ngài và cô ấy phải thật sự yêu đương nhau. Ngoài ra, trước khi động phòng với cô nô lệ, ngài phải trai giới suốt bốn mươi ngày. Trong thời gian ấy, trí óc ngài không được bận bịu lo âu bất kỳ một công việc gì khác. Suốt bốn mươi ngày ấy, ngài chỉ được dùng mỗi một món thịt cừu đen, và chỉ uống rượu nho cất giữ lâu năm. Nếu ngài chịu khó thực hành đầy đủ tất cả những điều tôi vừa nói, thì hy vọng rồi đây ngài sẽ sinh hạ một cậu con trai.
NGÀY THỨ BA MƯƠI MỐT
Nghe lời ấy, Abđala tìm mua luôn một nữ nô lệ xinh đẹp. Và quả nhiên, thực  hành đúng chế độ người thầy thuốc đề ra, chẳng bao lâu cô nàng sinh hạ cho ông một cậu con trai, được đặt tên là Culup. Để mừng việc sinh con trai, thương gia Abđala mời tất cả bạn bè đến nhà mở tiệc chiêu đãi, rồi làm phúc bố thí rất nhiều tiền của, tạ ơn trời đất đã đoái thương cho mình đạt được ước mong.
Gia đình hết lòng chăm nom nuôi dạy Culup. Cậu bé lớn lên đủ sức hiểu biết đến mức nào thì được học hành thêm bấy nhiêu kiến thức ngang hoặc hơn mức lứa tuổi ấy. Cậu có nhiều gia sư. Và cậu cũng tỏ ra khá thông minh, đủ sức tiếp thu những lời dạy bảo. Cậu học ngôn ngữ Hêbrơ, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ. Cậu không chỉ đọc được mà còn viết thành thạo các văn tự ấy. Người ta không chỉ dạy cho cậu thuộc lòng Kinh Coran, còn cho cậu đọc thêm nhiều sách thuyết minh và chú giải Thánh Kinh. Cậu đặc biệt am tường môn suy đoán số phận tiền định con người. Cậu hiểu sâu thuyết Âm Dương, lý giải sáng tỏ cái Mơ hồ và cái Hiển hiện. Cha cậu cũng không muốn để cậu không biết lịch sử các bộ tộc Arập, lịch sử nước Ba Tư cũng như mọi biên niên sử về các triều vua trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, cậu còn được dạy luân lý, triết học, y học, khoa thiên văn. Chưa tròn mười tám tuổi, ngoài những kiến thức như vừa nói, cậu còn hiểu biết sâu nhiều điều khác. Cậu làm thơ rất hay và cũng là một nhạc công thuần thục. Hơn nữa, cậu giỏi các môn võ nghệ và chăm rèn luyện thân thể. Chưa từng có ai bắn cung hoặc sử dụng đao thương một cách hùng dũng và điêu luyện như cậu Culup. Tóm lại, đấy là một chàng trai tài năng toàn diện.
Hạnh phúc xiết bao một người cha có được một cậu con trai quý như vậy. Vị thương gia Abđala yêu quý con trai hơn cả bản thân mình. Lúc nào ông cũng muốn có con ở bên cạnh. Tuy nhiên, trên đời dù ai giàu có hạnh phúc đến bao nhiêu, rốt cuộc làm sao tránh khỏi đến lúc phải rời bỏ cõi trần. Nhà buôn già rồi cũng đến lúc lâm bệnh nặng. Khi thấy mình chẳng còn sống được bao lâu nữa, ông cho gọi con trai Culup đến bên giường bệnh, dành những giờ phút cuối cùng trối trăn với cậu những lời khuyên bảo khôn ngoan.
Sau khi ông qua đời và lễ tang đã được cử hành trọng thể, chàng con trai đương nhiên trở thành người sở hữu tất cả tài sản của cha để lại.
Nhưng một khi vừa trở thành ông chủ, chàng thanh niên bắt đầu tiêu xài không tiếc của, chẳng bao lâu làm tiêu tan cả gia tài. Chàng cho xây dựng cả một toà dinh cơ sang trọng, tìm mua nhiều cô nô lệ xinh đẹp. Sau đấy, tìm kiếm một số bạn bè cùng trang lứa để đánh bạn với nhau nhữnh lúc ăn chơi trác táng. Chàng suốt ngày chơi bời với đám bạn trai ấy. Chàng mời họ đến nhà dùng những món ăn ngon nhất, uống những loại rượu tuyệt hảo hạng. Trong nhà chàng lúc nào cũng chỉ thấy tiệc tùng, múa hát, đàn ca.
Chàng trai sống theo cung cách ấy nhiều năm, làm như thể nguồn của cải cung ứng cho mình hưởng lạc thú chẳng bao giờ cạn kiệt. Dĩ nhiên, tất cả gia tài cha để lại chẳng bao lâu bị chàng trai cùng bè bạn tiêu xài hết. Đành phải bán toà dinh cơ cùng các cô nô lệ. Lúc này chàng trai chợt nhận ra mình là một người không tài sản. Tình cảnh ấy làn cho những ai xưa nay vốn không ưa cậu rất hả dạ.
Đến lúc này, chàng trai mới hối tiếc sự hoang phí của mình. Chàng lần lượt tìm đến tất cả những người bạn từng cùng với mình chơi bời chè chén thả giàn, làm cho chàng mau khánh kiệt, buồn rầu nói với họ:
- Các bạn của tôi ơi, các bạn từng nhìn thấy tôi sống trong phồn hoa phú quý, giờ đây các bạn thấy tôi đang lâm vào cảnh nghèo hèn. Tôi đến đây cầu mong sự giúp đỡ của các bạn. Các bạn hãy giúp vực tôi lên khỏi chỗ sa cơ thất thế. Mong các bạn hãy nhớ lại, hồi chúng ta hàng ngày chén tạc chén thù với nhau ở nhà tôi, các bạn từng hứa hẹn khi nào tôi cần gì, các bạn sẽ  giúp đỡ tôi đủ mọi thứ. Bây giờ chính là lúc tôi đang cần. Tôi không nghi ngờ gì, các bạn sẽ thông cảm cảnh ngộ tôi, mà cùng nhau giúp tôi mỗi người một ít cho tôi sơm thoát khỏi cảnh không may.
Chàng Culup đáng thương bằng cách ấy cố gắng gợi lên lòng nhớ ơn của bạn bè, khích lệ họ cứu mình. Nhưng thật ra lúc này chàng đang nói chuyện với những người điếc. Trong lớp bạn cũ này, nhiều người đáp lại họ rất buồn phiền thấy chàng lâm vào cảnh ngộ đáng thương, và sẽ xin hết lòng cầu nguyện Thượng đế hãy đoái thương đến bạn. Những người khác không những vô ơn còn tàn nhẫn. Họ quay lưng lại với chàng trai, chẳng buồn có lấy một lời an ui. Culup than:
- Hỡi những tên bạn bè giả dối! Thái độ tàn nhẫn và bất nghĩa của chúng mày chính là sự trừng phạt ta sao đã quá cả tin, lúc nào cũng tưởng chúng mày chơi thân do quý mến ta thật lòng.
Chàng con trai của cố thương gia Abđala vô cùng đau buồn vì bị bọn bạn bè giả dối lừa bịp và lợi dụng mình để được chơi bời trác táng, còn hơn là phiền não về chuyện gia tài khánh kiệt, liền quyết định rời bỏ thành phố Đamat, là nơi mọi người đều nhìn thấy sự phá sản của mình. Chàng lên đường lên phía bắc, đi đến vùng những người Kêrait, từ đó vào kinh đô Caracorom. Hồi ấy Hãn Caban đang làm vua trị vì cả miền rộng lớn ấy. Chàng trọ tại một khu dành cho khách vãng lai lưu trú. Nhờ còn giữ được và mang theo một ít tiền, chàng sắm luôn một chiếc áo dài, thửa một chiếc khăn đội đầu bằng vải Ấn Độ khá sang. Ngày nào chàng cũng đánh bộ ấy vào và dạo chơi từ sáng tới chiều trong thành phố. Chàng đến khắp các chợ búa, vườn hoa xem mọi điều hay vật lạ. Đến đêm lại trở về nghỉ trong trại du khách.
Một hôm, có tin đồn đại nhà vua xứ Kêrait đang gấp rút chuẩn bị chiến tranh. Chả là vua hai nước lân bang, từ trước tới nay vẫn chịu cống nạp hàng năm cho triều đình Kêrait một khoản tiền khá lớn, nay định trở mặt không chịu cống nạp như xưa nữa. Hai nước ấy liên kết với nhau và bắt đầu động viên quân đội, hẹn cùng nổi lên chống lại Hãn Caban. Quân hai nước sắp tiến vào xâm chiếm đất đai xứ Kêrait. Hay tin ấy, chàng Culup tìm đến xin gặp nhà vua, tự nguyện phục vụ trong quân đội, dưới trướng hoàng gia. Chàng trai trẻ ấy quả nhiên nổi bật qua cuộc chiến tranh bởi những chiến công xuất sắc của mình. Nhờ vậy, quân sĩ ngợi ca chàng, các võ quan khác quý trọng chàng, đến hoàng tử Miagiêhan con trai nhà vua xứ Kêrait cũng đem lòng yêu mến.
Sự tình không chỉ dừng lại đấy. Theo gương vua hai nước lân bang kia, một số sứ quân khác trong vùng trước đây vẫn tuân phục và thường xuyên cống nạp cho triều đình, nay cũng bắt đầu nổi loạn. Hãn Caban buộc phải đưa quân đánh dẹp những kẻ thù mới này. Rốt cuộc họ đều phải cầu hoà. Đấy chính là những cơ hội rất tốt cho chàng trai con của thương gia Abđala làm cho mọi người chú ý. Chàng lập thêm nhiều chiến công xuất sắc nữa, đến mức hoàng tử Miagiêhan ngỏ ý muốn chàng trở thành người thân cận nhất của mình.
Culup được hoàng tử quý, ban cho chàng nhiều bổng lộc, giao thêm một số công việc, nhất nhất tỏ ra tin cậy ở khả năng của chàng. Một thời gian sau đó, Hãn Caban qua đời. Hoàng tử lên nối ngôi cha. Vừa yên vị trên ngai vàng, nhà vua đã ban cho Culup thêm nhiều ân huệ, coi chàng như một sủng thần của mình.
Đến lúc này, chàng trai Culup nhận thấy cuộc đời đã hoàn toàn đổi thay, chưa bao giờ chàng có danh vọng và được sung sướng như ngày nay. Chàng thầm nhủ:
Đúng là mọi việc trên trần gian đều đã được trời đất tiên định cả rồi. Hồi ta còn sống những ngày đầy lạc thú ở thành phố Đamat, có đâu ngờ rồi có lúc sẽ sa vào cảnh khốn cùng? Và khi ta lê bước đến Caracorom, ta đâu dám mơ tưởng có ngày được như ta ngày hôm nay? Đúng là trong đời người, phúc hay hoạ đều tự nó diễn ra, chẳng ai có cách gì phòng tránh. Vậy thì ta hãy cứ theo sở thích ta mà sống, để rồi chấp nhận số phận của mình, đến đâu hay đến đấy, chẳng có gì phải lo âu.
Suy ngẫm vậy rồi, chàng con trai của thương gia Abđala cứ tuân theo đạo lý ấy mà sống. Chàng buông thả, ăn chơi, tuỳ sở thích chẳng việc chi làm chàng ngần ngại. Một hôm, vừa ra khỏi khu vực hoàng cung, nơi chàng có một căn nhà trong ấy, Culup gặp một bà cụ già khoác tấm áo choàng may bằng vải Ấn Độ đắt tiền, có đính nhiều dải lụa đẹp. Bà cụ đeo một chuỗi ngọc ở cổ, tay chống gậy trúc, có năm nữ nô tỳ đeo mạng theo sau. Chàng tiến đến gần, hỏi có phải cụ đưa những cô nô lệ kia đi bán hay không. Bà cụ đáp đúng. Chàng liền lật mạng che mặt các nữ nô lệ ấy lên xem, nhìn thấy họ đều trẻ đẹp; trong số ấy có một cô nhìn rất khả ái. Chàng liền nói với bà cụ:
- Xin cụ hãy bán cho tôi cô gái này, tôi thích nó.
- Không,- bà cụ đáp- già chưa muốn bán cô ấy cho ngài. Trông ngài có dáng một người hoà hoa, chàng nên mua người đẹp hơn nữa kìa. Già có rất nhiều nữ nô lệ ở nhà, ngửoi đủ mọi nước. Già có các thiếu nữ người Thổ Nhĩ Kỳ, người Hy Lạp, người Nga, người Êtiôpi, người Đức, người Casơmia, người Trung Hoa, người Acmêni, người Gruzia…Già sẽ sai đưa ra hết cho ngài chọn, trông đứa nào thích mắt hơn cả, lúc bấy giờ ngài hẵng mua. Giờ đây ngài chỉ có việc đi theo già.
Nói xong bà cụ bước đi, chàng Culup vội đi theo bà. Đến trước cổng một thánh đường, bà cụ bảo:
- Chàng trai ơi, hãy đợi già một lát ở đây, già quay trở lại ngay.
Culup đợi ở đấy gần một tiếng đồng hồ, đã bắt đầu sốt ruột thì nhìn thấy bà cụ già trở lại, mang theo một cô gái ôm một cái bọc. Dở bọc ra có một tấm mạng trùm mặt và một chiếc áo choàng của phụ nữ, bà cụ bảo chàng trai khoác áo, đeo mạng vào. Bà nói:
- Thưa ngài, chả là gia đình chúng tôi đều là con nhà tử tế. Nếu cứ để cho đàn ông lạ mặt vào nhà, thì coi sao được.
- Thưa cụ,- chàng đáp- cần gì cụ cứ truyền bảo, con sẵn sàng làm mọi điều cụ muốn.
Thế là chàng khoác tấm áo choàng phụ nữ lên người, đeo lên mặt tấm mạng nữa rồi đi theo bà cụ. Bà dẫn đến một khu phố chàng chưa từng đặt chân tới bao giờ. Ba người cùng vào một ngôi nhà lớn, trông có vẻ một dinh thự thì đúng hơn, bởi cảnh vật bên trong khá tráng lệ và mọi vật bày biện đều sang trọng. Sau khi đi qua một cái sân rộng lát bằng cẩm thạch có vân xanh, họ vào một phòng khách cực kỳ rộng rãi, chính giữa xây một cái bể bằng đá quý chứa đầy nước, có nhiều con vịt con đang bơi lội tung tăng trong bể; chung quanh lại có nhiều lồng chim đan toàn bằng sợi thép mạ vàng, hàng nghìn con chim đủ loại đang thi nhau hót ríu ra ríu rít trong lồng.
NGÀY THỨ BA MƯƠI HAI
Trong khi chàng Culup đang chăm chú ngắm các con chim ấy và các đồ vật khác trong phòng khách trông có vẻ vui nhộn kia, thì một cô gái trẻ vừa cười vừa tiến đến. Nàng cúi chào chàng rất thấp. Sau khi chàng đáp lễ, nàng cầm tay chàng mời ngồi lên một chiếc gối thêu gấm vàng, đặt trên chiếc sập cũng bọc đệm gấm. Chàng ngồi xuống, nàng lấy một chiếc khăn tay bằng vải thật mịn màng cẩn thận lau mặt mũi cho chàng. Cô gái vừa làm công việc ấy vừa tủm tỉm cười, thỉnh thoảng lại liếc mắt đưa tình, làm chàng trai chẳng bao lâu tưởng như ngớ ngẩn.
Chàng thấy cô này rất vừa ý, sắp ngỏ lời muốn hỏi mua thì xuất hiện một cô gái khác, có mái tóc vàng uốn lượn phủ xuống đôi vai để trần, nhìn còn đẹp hơn cô gái vừa rồi. Nàng duyên dáng tiến đến cạnh chàng trai, nâng bàn tay chàng đưa lên môi hôn, rồi cúi xuống lấy nước đựng trong một cái chậu bằng vàng định rửa chân cho chàng. Chàng không để cho làm. Thấy cô nàng quá đẹp, chàng đứng lên định cúi xuống ôm luôn đôi chân, và nhất quyết chon mua cô này. Nhưng đột nhiên chàng trai đứng im như phỗng, tưởng như mình đã mất hết mọi giác quan khi vừa nhìn thấy bước vào một lúc những hai mươi cô gái trẻ, cô nào cũng xinh tươi duyên dáng chẳng kém cô nào. Dẫn đầu hai mươi cô gái là một tiểu thư còn đẹp hơn và ăn mặc trang điểm sang trọng hơn tất cả, trông ra dáng bà chủ. Chàng Culup ngỡ như đang nhìn thấy mặt trăng đêm rằm, quây quần chung quanh là bao nhiêu ngôi sao sáng. Cảnh tượng ấy khiến chàng trai hưng phấn quá, ngất xỉu luôn.
Các cô gái vội vàng xúm đến cứu giúp. Sau khi chàng trai tĩnh tâm lại được rồi, nàng tiểu thư xinh đẹp và sang trọng nhất cất lời vừa cười vừa nói với chàng như sau:
- Xin hoan nghênh chàng trai, trông chàng lúc này thật giống một con chim non khốn khổ đang bị ai đó túm lấy đôi chân.
Culup cúi hôn mặt đất và buông ra một tiếng thở dài. Chàng được mời ngồi lên sập. Trong thời gian ấy, nước quả ướp lạnh đựng trong chiếc ly bằng vàng nạm ngọc được mang tới. Cô tiểu thư uống trước rồi trao phần còn lại cho chàng trai. Chàng dùng xong, nàng ngồi xuống bên cạnh. Nhìn thấy chàng có vẻ lúng ta lúng túng đến mức không thốt nên lời, nàng hỏi:
- Tại sao chàng bối rối đến vậy? Thôi đi, đừng có để âu sầu lộ ra đôi mắt. Phải chăng chàng vừa mới đến đã chán chúng em? Chàng không thích có chúng em cùng làm bạn hay sao?
Chàng trai trìu mến nhìn cô gái trẻ và đáp:
- Hỡi phu nhân xinh đẹp! Xin nàng hãy thôi, xin làm ơn chớ trêu chọc tôi thêm nữa. Nàng thừa biết không ai có thể nhìn nàng mà không bị chấn động sâu xa. Tôi xin thú thật tôi không còn tự chủ nữa. Chẳng hiểu sao đầu óc tôi cứ như quay cuồng chao đảo.
Tiểu thư ngắt lời:
- Hãy vui lên, hãy nghĩ là chàng đến đây chỉ để tìm mua một con nô lệ. Nào chúng ta hãy cùng nhau ngồi vào bàn và trò chuyện. Hy vọng chúng em có thể mua vui cho chàng.
Nói xong nàng cầm tay Culup, dẫn chàng sang một căn phòng khác. Tất cả mọi người cùng theo và ngồi quanh chiếc bàn dài. Trên bàn có đặt nhiều giỏ làm bằng gỗ trầm hương, đựng đầy bánh ngọt và mứt khô, nào là mứt Mamuny, táo Tanuri, lê Guzina, cam Laphizina, bưởi Sêkêrina và nhiều loại thứ hoa quả đặc sản khác. Dùng xong trái cây, mọi người đứng lên. Người ta mang vào một cái chậu bằng vàng cùng một cái gáo múc nước cũng bằng vàng. Các cô gái lần lượt rửa tay với bột hạnh nhân Cusa, xà phòng Rica, nước hoa Batđa và xoa bột lô hội Cômari. Sau khi lau tay bằng những chiếc khăn lụa hồng, tất cả cùng kéo sang phòng khác dùng rượu.
Đây là một căn phòng nhỏ xinh xắn được trang trí rất nhiều thùng nước thơm, lại có cơ man là hoa hồng cùng các loại hoa tươi khác đặt chung quanh một cái bể bằng đá cẩm thạch chứa đầy nước trong veo. Bể nước ấy dùng để làm lạnh rượu.Cùng với hơi mát của nước và hương thơm của các loài hoa, gian phòng trở thành một nơi mát mẻ thơm tho tuyệt diệu. Tất cả các cô gái lần lượt mời chàng Culup dùng rượu, các cô cũng cùng uống, thành thử khi cả bọn quay trở lại phòng khách thì đầu ai cũng hơi ngây ngất vì hơi men.

Trở lại phòng khách, một số cô gái bắt đầu múa hát, các cô khác thì chơi đàn. Có đàn dây trông giống như đàn ghita gọi là đàn Canun, rồi đến phong cầm Aganun, vĩ cầm Babô…Nhưng cho dù họ sử dụng các nhạc cụ ấy thành thạo đến bao nhiêu, chẳng thể nào sánh được với nàng tiểu thư từng làm chàng trai con của thương gia Abđala mê mẩn khi thoạt gặp. Tiểu thư nâng một cây đàn Aut so dây và biểu diễn với tài nghệ phi thường. Rồi sai đưa đến các loại đàn khác, nàng chơi nhiều điệu thức, cứ mỗi loại đàn là một thức nhạc khác. Nàng lần lượt sử dụng mười hai loại đàn và biểu diễn hai mươi bốn nhạc thức khác nhau. Nàng cũng cất tiếng hát nữa, giọng hát của nàng làm anh chàng si tình Culup cũng say mê không kém khi nghe nàng đàn.
Anh chàng hứng chí quá, không sao tự chủ được nữa, thốt lên:
- Bà hoàng của tôi ơi, bà làm tôi rối loạn cả đầu óc lên rồi, tôi không sao cầm lòng được nữa. Xin bà cho phép tôi hôn đôi bàn tay xinh đẹp của bà, cho phép tôi đặt đầu tôi vào đôi chân bà.
Vừa nói chàng trai si tình quỳ xuống đất như một con người mất trí, rồi cầm bàn tay của người đẹp đưa lên môi hôn thật nồng nàn âu yếm. Nhưng nàng tiểu thư dịu dàng khả ái ấy, bất bình vì sự bạo gan của chàng trai, đột ngột đẩy chàng ra với thái độ kiêu sa và bảo:
- Cho dù anh là ai đi nữa, hãy dừng lại ngay, không được vượt qúa ranh giới sự khiêm nhường. Ta là một cô gái con nhà. Anh đừng hy vọng hão có thể tán tỉnh ta theo cách ấy, chẳng bao giờ được đâu. Từ nay anh không được phép nhìn thấy ta nữa.
Nói đến đây nàng đứng lên ra khỏi phòng. Tất cả các cô gái khác theo gương, cùng làm y như bà chủ.
NGÀY THỨ BA MƯƠI BA
Chàng trai con của thương gia Abđala thất vọng vì mình vừa có một cử chỉ khiếm nhã đối với nàng tiểu thư mình đem lòng yêu mến ngay từ đầu, ngồi lặng đi trong phòng, đầu óc rối bời. Bà cụ già lúc nãy dẫn chàng đến đây bước ra và bảo:
- Anh đã làm gì vậy, hỡi chàng trai? Tại sao anh không thể kiềm chế sự đam mê? Cho dù ta có nói với chàng, ở đây ta có nhiều nữ tì từ nhiều quốc gia khác nhau đến, nhưng nhìn thấy sự tráng lệ của dinh cơ này, qua cung cách người ta tiếp đón anh như thế, anh phải hiểu ra đây không phải là một nhà chuyên buôn bán nô lệ chứ. Phu nhân mà anh vừa xúc phạm ấy là con gái của một trong những vị đại thần lớn nhất triều đình. Lẽ ra anh phải biết kính trọng bà ấy chứ.
Lời bà cụ già làm tăng thêm nỗi băn khoăn của Culup. Chàng càng tiếc rẻ sao mình khờ khạo, trong một phút chốc bốc đồng làm cô gái phật lòng bỏ đi. Chàng đang hết sức buồn phiền, cực kỳ thất vọng chắc chẳng còn cơ may gặp lại nàng thì chợt trông thấy nàng tiểu thư ấy quay trở lại. Lần này cô gái diện bộ quần áo khác và trang điểm càng lộng lẫy hơn lúc nãy, kiêu sa bước vào, theo sau vẫn cả đoàn gái đẹp kia. Nhìn thấy chàng trai rầu rĩ mơ màng, nàng phá ra cười:
- Ta thấy anh chàng đã biết hối hận về lỗi lầm của mình. Ta vui lòng tha thứ, với điều kiện là từ giờ trở đi phải biết điều hơn, và trước hết anh phải nói ta rõ anh là ai.
Thật là cơ hội tuyệt vời cho chàng trai để trở lại lấy lòng nàng tiểu thư xinh tươi. Chàng liền vội xưng tên mình là Culup, mình là sủng thần của nhà vua. Thế là tiểu thư lịch sự cất lời:
- Thưa ngài, đã từ lâu tôi nghe danh ngài. Tôi thường thấy mọi người nói đến ngài một cách trọng vọng nên đã có lần tôi ước mong được diện kiến ngài. Tôi hài lòng vì hôm nay có dịp thoả mãn lòng mong ước. Nào chúng ta hãy tiếp tục đàn ca múa hát đi, các em – nàng quay lại nói với các cô gái khác. Chúng ta hãy cố gắng hết sức mình để giải trí vị thực khách quý của chúng ta.
Tất cả các cô gái trở lại nhảy múa và chơi đàn. Cuộc vui kéo dài cho đến tối. Lúc này người ta thắp lên vô số ngọn nến làm căn phòng sáng rực. Trong khi chờ đợi bữa ăn tối, nàng tiểu thư và chàng trai chuyện trò riêng với nhau. Nàng hỏi chàng về nhà vua Miagiêhan; vị quân vương ấy có nhiều người đẹp trong cung hay không. Culup đáp:
- Thưa bà, có nhiều. Nhà vua có nhiều nô tỳ rất xinh đẹp. Hiện nay, vua đang yêu quý nhất một người tên là Gulemđam. Đấy là một cô gái trẻ đẹp nhất trần gian nếu tôi không được gặp bà. Nhưng bây giờ được nhìn thấy bà rồi, tôi thấy bà xinh đẹp hơn cô ấy muôn phần. Không thể nào mang cô ấy ra so sánh với bà.
Lời tán dương ấy không phải không làm nàng Đilara vui lòng. Đilara chính là tên gọi tiểu thư ấy. Nàng cho biết mình là con gái thượng thư Boyruc, một vị đại thần nước Kêrait. Hiện người không có mặt ở Caracorom. Nhà vua Miagiêhan đã phái thượng thư sang kinh đô Samacan nước Tactari thay mặt vua chúc mừng Hãn Uzbec vừa mới được tấn phong làm quốc vương nước ấy. Thừa lúc vắng mặt cha, thỉnh thoảng tiểu thư Đilara chèo kéo một vài bạn trai về nhà- cũng chỉ để giải trí với nhau cho vui thôi; mỗi lần có anh chàng nào bắt đầu tỏ ra vẻ thiếu lễ độ, nàng biết cách làm cho chàng trai ấy phải giữ đúng phép tắc ngay.
Tiểu thư tỏ ra khá hài lòng khi nghe Culup nói nàng còn đẹp hơn cả người nhà vua yêu quý nhất. Được tán dương, cô gái càng thêm thoải mái tự nhiên. Trong bữa ăn, nàng nói bao nhiêu điều dí dỏm thông minh khiến vị khách càng say sưa mê mẩn. Chàng trai về phần mình cũng tỏ ra không kém sắc sảo. Được khuyến khích bởi đôi mắt và thái độ ân cần của người đẹp, thỉnh thoảng chàng lại xen vào đôi ba câu chuyện vui đầy trí tuệ.
Tuy nhiên, rồi cũng đến lúc thấy cần phải ra về. Chàng Culup quỳ xuống trước mặt Đilara và nói:
- Cho dù có được ở lại đây cả một trăm năm, tôi vẫn ngỡ như mình vừa gặp nàng trong chốc lát. Mặc dù vô cùng thú vị được trò chuyện với nàng, giờ xin phép cho tôi cáo từ để nàng nghỉ ngơi. Ngày mai, nếu được nàng rộng lòng cho phép, tôi sẽ quay trở lại.
- Tôi đồng ý,- tiểu thư đáp.- Chiều mai ngài chỉ cần đến trước cổng thánh đường như hôm nay, sẽ có người đến mời ngài về nhà.
Nói xong, nàng sai mang ra một cái túi bằng lụa có thêu kim tuyến bảo tự tay mình khâu, trong túi đựng mấy vật trang sức có giá trị, đặt vào tay chàng trai và nói:
- Thưa ngài Culup, xin ngài vui lòng nhận món quà nhỏ bé này. Nếu ngài khước từ, chúng ta sẽ chẳng bao giờ gặp lại nhau nữa.
Chàng con trai thương gia Abđala nhận cái túi, cảm tạ cô gái và bước ra khỏi phòng khách. Đến sân chàng gặp bà cụ già tốt bụng lúc nãy đang chờ, bà mở cổng và chỉ cho con đường trở về hoàng cung.
Về tới nhà, chàng trai vào luôn phòng ngủ đi nằm. Nhưng suốt đêm hôm ấy, đầu óc lúc nào cũng nhìn thấy cô tiểu thư xinh đẹp, chàng không sao chợp mắt. Sáng hôm sau chàng dậy thật sớm, vào cung ra mắt nhà vua. Suốt ngày hôm qua vua không trông thấy chàng, nhiều lần hỏi, và hiện vẫn băn khoăn về sự vắng mặt của viên sủng thần. Vừa trông thấy chàng, nhà vua hỏi luôn:
- Ông từ đâu về vậy, hở ông Culup? Ông làm gì suốt ngày hôm qua? Sao ta chẳng thấy ông vào chầu?
- Tâu hoàng thượng,- Culup đáp- nếu ngài cho phép tôi kể lại những chuyện xảy ra với tôi ngày hôm qua, ngài sẽ không ngạc nhiên sao tôi dám vắng mặt.
Nói xong, chàng thuật lại tất cả những chuyện đã xảy ra ngày hôm trước. Vua Miagiêhan lắng nghe, có vẻ thú vị. Vua hỏi:
- Lẽ nào có người đàn bà xinh đẹp đến mức như ông vừa tả? Ông nói say sưa quá, làm ta nghi ông khen hơi quá lời.
- Tâu hoàng thượng, tôi chẳng dám nói quá chút nào. Tôi quá thể quả quyết nàng còn đẹp hơn nhiều so với những gì tôi mô tả. Vâng, đúng thế, giả sử nhà hoạ sĩ chuyên vẽ chân dung nổi tiếng toàn nước Trung Hoa là Many có dịp hoạ chân dung nàng, tôi vẫn có lý do để ngại, tranh của hoạ sĩ tài năng ấy đẹp đến đâu vẫn không sao sánh bằng con người thật.
- Thế là đủ- nhà vua nói.- Ông ca ngợi, làm ta nảy ra mong ước được nhìn tận mắt người phụ nữ mà đẹp chim sa cá lặn ấy. Ta rất muốn được đi theo ông, chừng nào ông trở lại thăm con người ấy.
Sự hiếu kỳ của nhà vua trẻ làm Culup khá băn khoăn. Chàng lo rồi sẽ xảy ra hậu quả không hay cho mối tình vừa chớm nở của mình, vội thưa:
- Ôi làm sao tôi có thể mời bệ hạ đến nhà tiểu thư ấy? Tôi biết nói với họ ngài là ai.
Nhà vua đáp:
- Không sao. Ta sẽ cải trang, đóng vai một tên nô lệ của ông. Ta cùng ông vào trong nhà; rồi ta sẽ nấp ở một góc và quan sát.
Chàng trai đâu dám cưỡng lại ý muốn của nhà vua. Thế là chập tối hôm ấy, vua Miagiêhan khoác luôn một chiếc áo nô lệ, và hai người cùng đến chờ trước thánh đường. Chẳng bao lâu sau, đã thấy bà cụ già hôm qua xuất hiện. Bà bảo chàng Culup:
- Chẳng cần mang theo tên nô lệ này đâu. Ngài hãy cho nó quay trở về.
NGÀY THỨ BA MƯƠI TƯ
Nhà vua rất phiền lòng khi nghe bà cụ già nói vậy. Nhưng Culup đã nhanh trí đỡ lời:
- Thưa mẹ yêu quý của con, xin hãy để cho tên nô lệ này theo hầu chúng ta. Chú này rất thông minh và có lắm tài mọn. Chú có khả năng ứng khẩu thành thơ, chú lại có tài hát hay đặc biệt. Con tin bà chủ sẽ chẳng phật ý đâu, khi con giới thiệu chú ấy với bà.
Bà cụ không nói gì thêm. Culup khoác lên mình chiếc áo choàng của phụ nữ y như ngày hôm qua, còn vua Miagiêhan vẫn trong bộ quần áo nô lệ, ba người cùng đi về ngôi nhà hôm trước. Họ lại qua cái sân rộng, từ đấy vào phòng khách. Khách sảnh lúc này đã được chiếu sáng bởi cơ man là đèn nến toả khói thơm lừng.
Tiểu thư Đilara hỏi:
- Sao hôm nay ông lại cho một nô lệ đi cùng?
- Tôi nghĩ nên đưa chú ấy đến đây để giải trí hầu bà – chàng trai đáp. –Chú ấy biết nhiều thứ lắm. Chú vừa là anh hề vừa là nhà thơ vừa là ca sĩ. Tôi hy vọng bà sẽ hài lòng về chú ấy.
Tiểu thư đáp:
- Nếu quả đúng vậy thì hoan nghênh. Nhưng chú mày à,- nàng quay sang bảo nhà vua- chú mày phải biết vâng lời, phải nhũn nhặn, cư xử phải lễ độ khiêm nhường, nhất là không được sàm sỡ với các cô người nhà ta, nếu không chú mày sẽ phải hối hận đấy.
Nhà vua thấy mình lâm vào thế phải đóng vai anh hề, liền bắt đầu nói vui. Vua pha trò cũng khá giỏi, khiến tiểu thư Đilara bảo chàng Culup:
Quả là chàng có một chú hầu rất vui tính, rất thông minh. Tôi còn nhận thấy ở chú ta một nét gì đấy cao quý và hào hoa nữa là khác. Vậy chúng ta hãy cho phép chú làm người hầu rượu tối nay; tôi bắt đầu thấy có cảm tình với chú.
- Bởi người giúp việc của tôi vinh dự làm bà hài lòng,- chàng trai đáp- từ giờ phút này nó không còn là người của tôi nữa, nó thuộc sở hữu của bà, thưa bà.
Chàng quay lại nói tiếp với nhà vua:
- Chú Cantapan à, từ nay ta không còn là ông chủ của chú nữa; tiểu thư đây mới là chủ nhân của mày.
Nghe nói vậy, nhà vua tiến gần đến tiểu thư quỳ xuống hôn tay nàng và nói:
- Thưa bà, giờ đây tôi đã là nô lệ của bà, xin hứa tận tuỵ hầu hạ bà, có gì xin bà dạy bảo.
Tiểu thư chấp nhận vua Miagiêhan là nô lệ của mình, nhưng lại nói với chàng Culup:
- Tôi đồng ý coi chú này thuộc quyền sở hữu của tôi. Nhưng xin phép ngài cho tôi tạm gửi nó ở nhà ngài. Chú cứ ở đấy và hầu hạ ngài, mỗi lần đến đây chơi, ngài hẵng cho chú đi theo. Tôi không thể giữa nó luôn trong nhà tôi, bởi mọi người đã biết nó là nô lệ của ngài. Nếu người ta thấy có một người giúp việc của ngài nay lại đến phục dịch ở nhà tôi, e có thể sinh lời dị nghị. Danh vọng gia đình buộc tôi phải giữ gìn không để xảy ra bất kỳ điều tiếng nào.
Sau khi chuyện trò hồi lâu với nhau, chàng Culup và nàng Đilara cùng ngồi vào bàn ăn tối. Nhà vua đứng hầu trước mặt họ. Ông vua trẻ ấy biết cách làm lắm trò khá thú vị. Tiểu thư nói với chàng Culup:
- Xin ngài cho phép chú này được cùng ngồi dùng bữa với chúng ta tối nay.
Culup đáp:
- Thưa bà, bình thường ở nhà nó không được phép ngồi chung bàn với tôi.
- Chớ nên khắt khe quá vậy, thưa ngài, tiểu thư nói- Xin ngài một lần hạ cố cho chú ấy được cùng nâng ly với chúng ta tối hôm nay, như vậy càng vui chúng ta càng thêm ngon miệng.
- Chú Cantapan à, bà đã muốn vậy thì cho phép chú ngồi xuống đây,- chàng trai nói với nhà vua.
Người nô lệ hờ không chờ đợi gì hơn, ngồi luôn xuống giữa chàng Culup sủng thần của mình và nàng tiểu thư xinh tươi con gái thượng thư Boyruc. Rượu được mang đến, tiểu thư rót một ly đầy đưa cho nhà vua và bảo:
- Hãy cầm lấy, Cantapan; chú hãy cạn chén này chúc mừng sức khoẻ của ta.
Nhà vua hôn bàn tay đưa rượu cho mình, uống một hơi cạn. Sau đấy, rượu được tiếp vào ly tất cả mọi người, đang ngồi quanh bàn ăn. Mở đầu, nàng Đilara cạn ly mình, hàm ý làm gương, để mời mọc mọi thực khách hãy cùng cạn chén và vui chơi thoải mái, không có gì phải giữ gìn hôm nay. Nàng lại rót tiếp một ly rượu đầy tràn, hướng về chàng trai con của thương gia Abđala và nói:
- Thưa ngài Culup, ly rượu này tôi xin cạn, chúc mừng tình cảm của chàng đối với cung nhân yêu quý của nhà vua, nàng Gulemđam xinh đẹp.
Chàng trai đỏ bừng mặt, vội chống chế:
- Ấy chết, thưa bà, làm sao tôi dám cả gan tơ tưởng đến nàng quý phi của chúa tể tôi. Lòng tôi luôn luôn hết sức ngưỡng vọng đức vua, tôi đâu dám…
- Thôi, xin ngài chớ có giả vờ,- tiểu thư vừa cười vừa ngắt lời chàng.- Tôi nhớ tối hôm qua ngài nói về nàng Gulemđam nồng nhiệt say sưa đến thế, ngài không xưng tôi vẫn hiểu ra lòng ngài đang đam mê người đẹp. Dứt khoát ngài yêu cô ấy rồi. Hãy thành thật thú nhận đi, ngài ơi! Và chắc nàng cũng chẳng ghét bỏ chi chàng, có đúng vậy không? Cho nên thỉnh thoảng hai người cũng có hẹn hò để cùng nâng ly nhấp với nhau chút đỉnh.
Nghe nàng tiểu thư nói vậy, chàng trai hiểu rồi đây thế nào xảy ra những hậu quả không hay, hết sức lo âu bối rối ra mặt:
- Xin bà làm ơn, chớ nên đùa chuyện ấy. Tôi chưa gặp riêng bà cung phi của đức vua bao giờ.
Vẻ bối rối của chàng trai làm nàng Đilara càng phá ra cười to hơn nữa:
- Ngài không nên làm ra vẻ quá nghiêm trang như vậy, mà hãy thuật lại cho chúng tôi nghe đôi ba chuyện gì thú vị giữa hai người. Chú Cantapan này,- nàng quay sang nói với anh nô lệ hờ- chú hãy thưa với chủ nhân của chú, ngài cần tỏ ra tin cẩn chúng ta nhiều hơn nữa.
Nhà vua liền nói với chàng trai:
- Đúng vậy, thưa ngài Culup, xin ngài làm hài lòng phu nhân đây. Bà yêu cầu ngài thiết tha đến vậy cơ mà. Ngài hãy kể cho bà nghe tình yêu của ngài với bà cung phi nảy nở ra làm sao, rồi từng bước tiến triển như thế nào…Ngài hãy dốc bầu tâm sự, ngài từng gặp bà Gulemđam ở đâu, bằng cách nào hai người có thể qua mắt đức vua…Kính trình bà, -nhà vua lại nói với tiểu thư Đilara- tôi cũng hiếu kỳ không kém muốn được biết chuyện ấy. Cho dù tôi vẫn được ngài Culup chủ nhân tôi coi là một chú hầu kín miệng, xin thưa thật với bà, ông chủ tôi chưa bao giờ để lộ với tôi cũng như với bất kỳ ai về mối tình của ngài đối với bà cung phi được sủng ái nhất của đức vua ta.
Câu nói của vua Miagiêhan càng làm vị sủng thần vô cùng lo lắng. Chàng nhận thấy những câu đùa cợt của Đilara đã không khỏi gây ấn tượng sâu sắc đến đầu óc nhà vua. Tuy nhiên, mọi người vẫn tiếp tục bình thản cụng ly. Dần dà, ngây ngất bởi hơi men, nhà vua quên khuấy đi mình đang đóng vai nô lệ. Vua nói với tiểu thư:
- Thưa nàng công chúa, nàng hãy hát tôi nghe đi, tôi van nàng đấy, hãy hát một bài gì hay hay đi. Người ta bảo nàng hát cực hay cơ mà.
Câu nói ấy cho dù với giọng hơi đùa cợt, lúc này cũng chẳng làm phật lòng tiểu thư con gái quan thượng thư. Không những thế nàng còn phá ra cười:
- Rất sẵn sàng, chú Cantapan mình à. Chú đã thỉnh cầu, sao ta nỡ không chấp thuận.
Nàng gọi mang ra một cây đàn đã lên dây, bắt đầu chơi một điệu ira vô cùng tình tứ, vừa đàn vừa hát. Tiếp đó, nàng cầm chiếc trống cơm, vừa nhịp trống vừa hát một bài vui vui theo điệu busêlic.
Nhà vua chưa từng nghe ai vừa hát vừa đàn và đệm trống cơm điêu luyện đến vậy, rất lấy làm thú vị. Vua quên hẳn mình đang thủ vai tên nô lệ theo hầu. Vua thốt lên:
- Tiểu thư ơi, cô hát thật tuyệt vời. Ông Culup từng ca ngợi tiểu thư hết lời rồi đấy, nhưng ông nói vẫn chưa đủ đâu.
Chàng trai con thương gia Abđala cố gắng ra hiệu bảo vua im đi, nhưng chẳng có cách nào. Nhà vua cứ thao thao:
- Đúng thế, ngay đến tay Isac Musêly ca sĩ hạng nhất trong hoàng cung ta, mà ai cũng khen có giọng hát tuyệt vời, anh ta cũng chẳng sao vừa hát vừa đàn tuyệt diệu như tiểu thư.
Nghe câu nói ấy, nàng Đilara hiểu ra ngay, người đàn ông mà nàng vẫn ngỡ là một tên nô lệ kia đích thị quốc vương Miagiêhan rồi, không thể ai khác. Nàng đứng phắt dậy, chạy vội đi tìm một tấm mạng choàng lên mặt và khẽ nói với các người hầu.
- Chết chúng ta rồi, các em ơi. Người đi cùng với ngài Culup ấy không phải nô lệ đâu, chính đức vua chúng ta đấy.
Bảo cho mọi người biết xong, nàng quay trở lại phòng ăn, nhưng bây giờ không dám ngồi cạnh vua nữa. Vua Miagiêhan bảo:
- Tiểu thư ngồi xuống đi, chính tôi đây mới là người phải đứng hầu chứ. Chẳng phải tôi là nô lệ của bà hay sao? Giá lúc này bà không có lời truyền cho phép được ngồi, thì tôi đâu dám. Tôi dám ngồi xuống đây, bởi nhất nhất mọi việc nô lệ phải tuân theo lệnh chủ nhân truyền.
Nghe vua nói vậy, tiểu thư con gái thượng thư Boyruc sợ quá, bật ra khóc nức nở và quỳ mọp dưới chân vua:
- Ôi tâu hoàng thượng anh minh, em khép nép van xin ngài hãy thương hại em. Em chỉ là một đứa trẻ con không có chút kinh nghiệm. Ngài đã nhìn thấy mọi lỗi lầm của em, cúi xin hoàng thượng rộng lòng tha thứ cho.
Nhà vua cúi đỡ tiểu thư đứng dậy, an ủi nàng, bảo chẳng có gì phải lo sợ. Vua hỏi nàng là ai. Nàng vội trình bày đầy đủ nhân thân của mình. Lát sau, vua Miagiêhan cùng chàng Culup ra về, quay trở lại hoàng cung.
NGÀY THỨ BA MƯƠI LĂM
Những câu đùa cợt nàng Đilara nói với chàng Culup về cung nữ Gulemđam quả nhiên gây nhiều hậu quả phiền hà. Vua Miagiêhan ngờ nàng cung phi sủng ái của mình và chàng trai con của thương gia Abđala đã tư thông với nhau. Vua nghĩ hai người đã không hàm ơn mình đã ban cho bao nhiêu bổng lộc, lại dám đi lại vụng trộm với nhau ngay trong cung của mình. Dĩ nhiên, giá như vua chỉ cần để ý quan sát chàng Culup cũng như nàng Gulemđam, thì đủ biết ngay sự ngờ vực của mình vô căn cứ. Nhưng thói thường đã ghen thì bao giờ người ta cũng chỉ nghe có tiếng nói của ghen tuông. Thế là nhà vua một mực tin vào ấn tượng đầu tiên, và nghĩ chẳng cần phải làm sáng tỏ hơn nữa. Bởi vậy, ngay ngày hôm sau, không chờ kiểm tra sự ngờ vực của mình xem có căn cứ không, vua sai người đến nói với chàng Culup, từ nay cấm chàng không được bén mảng vào hoàng cung, và lệnh cho chàng nội nhật hôm nay phải ra đi khỏi kinh đô Caracorom.
Vị sủng thần hoàn toàn hiểu rõ nguyên nhân do đâu mình bị thất sủng. Chàng tự nghĩ chẳng có gì đáng chê trách, và mình cũng có khả năng chứng minh sự vô tội nếu chịu tìm cách sao để vua lắng nghe trình bày, song chàng chẳng làm những việc ấy. Chàng vui lòng tuân theo số phận. Tuân lệnh vua, chàng ra khỏi nhà, rồi tháp tùng một đoàn lữ hành lớn đang chuẩn bị lên đường tới nước Tactari. Chẳng bao lâu sau, cùng đoàn đến thủ đô Samacan.
Xưa nay vốn tin chẳng ai có thể cầu xin cái phúc hay ngăn ngừa cái hoạ, lần này chàng không lấy cơn đại hạn mình đang gặp làm buồn. Trước đây, chàng chẳng đã từng lâm vào tình cảnh khốn cùng, và như đã nói, chàng hiểu rõ hơn ai hết mọi việc đều do tiền định. Mọi điều phúc, hoạ xảy ra trong đời, con người chẳng có cách gì đón trước hay phòng tránh.
Vậy là chàng ở lại kinh đô Samacan, sống thoải mái như không có việc gì xảy ra. Chừng nào trong túi còn có tiền, thì chàng trai cứ ăn ngon mặc đẹp, chơi bời thoải mái. Đến khi hết nhẵn không còn đồng xu dính túi, thì chàng tìm một góc trong thánh đường ngồi ở đấy. Các tu sĩ trông nom thánh đường trông thấy hỏi chàng theo đạo nào; sau khi biết rõ chàng này cũng là một người thông hiểu giáo lý đạo Hồi, liền vui lòng bố thí cho một khoản đủ sống qua ngày. Họ cho chàng mỗi ngày hai chiếc bánh cùng một bình nước. Với chừng ấy thôi, đủ cho chàng Culup hào hoa của chúng ta sống khá hài lòng.
Một hôm, có một đại thương gia tên là Muzaphe đến thánh đường cầu nguyện. Nhìn thấy anh chàng Culup ngồi trong một góc, vị thương gia ấy gọi đến và hỏi:
- Hỡi chàng trai, anh là ai, tại sao anh có mặt ở thành phố này?
Con trai đại thương gia Abđala đáp:
- Trình ngài, tôi vốn là con một gia đình ở thành Đamat. Vì muốn đi đó đi đây tôi đến xứ Tactari. Chỉ còn cách kinh đô Caracorom có mấy dặm đường thôi, thì chẳng may gặp một bọn cướp, chúng giết hết gia nhân tôi và cướp bóc sạch tài sản của tôi.
Vị thương gia nghe Culup trình bày vậy, liền bảo:
- Anh chớ nên lấy thế làm buồn. Khổ tận cam lai mà. Anh sắp có chuyện để mừng vui rồi đấy. Hãy đứng lên, đi theo ta về nhà.
Chàng con trai của Apđala nghe bảo sao làm vậy. Tới nhà thương gia Muzaphe, chàng nhận ra ông ta là một con người cực kỳ giàu có. Cửa hàng của ông ta chất đầy vải vóc tốt, bài trí nhiều bàn ghế đồ đạc sang trọng, trong nhà lăng xăng rất nhiều tôi tớ. Chàng trai quả không nhầm, nhà thương nhân Muzaphe này sở hữu vô vàn của cải.
Nhà buôn ấy mời chàng trai ngồi vào bàn ăn, ngay bên cạnh mình, gọi người trước hết mang nước trái cây ướp lạnh đến cho chàng giải khát. Tiếp đó người ta dọn ra nhiều loại phomat cùng các món ăn tuyệt ngon. Xong bữa ăn tối, hai người chuyện trò một lát, sau đó Muzaphe tiễn chàng trai ra về kèm theo một vài tặng vật.
Ngày hôm sau, vị thương gia lại đến cầu kinh trong thánh đường ấy. Ông lại gọi chàng Culup hỏi chuyện và dẫn chàng về nhà, rồi lại đãi đằng như ngày hôm trước. Trong nhà lần này có thêm một vị, tự xưng là tiến sĩ Đalitmen. Sau bữa ăn tối, ông tiến sĩ này gọi Culup ra riêng một nơi và nói với chàng như sau:
- Chàng thanh niên người ngoại quốc à, ngài Muzaphe chủ nhân của ngôi nhà này, đang có một ý đồ quan trọng muốn ngỏ lời nhờ anh giúp đấy. Anh nên thực hiện đầy đủ mọi ý kiến của ông ta, rồi anh sẽ vui mừng vì mau chóng thoát cơn hoạn nạn cho mà xem. Tôi nói để anh biết, ngài Muzaphe có một cậu con trai độc nhất tên là Tahe, tính tình chàng trai cũng hơi nóng nảy. Cậu Tahe mới lấy vợ cách đây mấy hôm, cưới con gái một đại gia người nước ngoài. Do bản tính phần nào thô bạo, mới được vài hôm anh chồng đã đánh đập chị vợ, chị không chịu thua mà đối đáp đầy khinh bỉ và kiêu căng, làm cho cậu Tahe không sao chịu nổi liền đuổi luôn ra khỏi nhà. Sau đấy cậu ta hối hận ngay, bởi đấy là một cô gái thật xinh tươi, mà cậu vẫn yêu rất tha thiết. Nhưng theo luật pháp ở đây, khi một người chồng đã nhỡ đuổi vợ đi rồi thì không thể nào gọi trở lại về nhà làm vợ mình như cũ nữa, trừ phi sau khi xảy ra chuyện ấy đã có một người đàn ông khác nhận cưới người vợ ấy rồi lại đuổi ra khỏi nhà. Chính vì vậy ngài Muzaphe muốn nội nhật hôm nay anh cưới người phụ nữ vốn là dâu của ngài, đêm nay anh chung sống với nàng, rồi sáng sớm mai anh đuổi người ấy đi. Nếu anh bằng long làm như vậy thì ngài thương gia sẽ biếu anh năm mươi đồng xơcanh vàng. Anh không thấy, được như vậy là hết sức thú vị sao?
Chàng Culup đáp:
- Rất vui lòng. Tôi sẵn sàng làm giúp vị thương gia công việc ấy. Ông đã tiếp đón tôi tử tế thế, làm sao tôi có thể khước từ việc nhỏ ông nhờ. Vả chăng tôi cảm thấy cái việc ông muốn tôi làm giúp ấy thì có chi mà ngại ngần.
- Tôi cũng nghĩ như anh,- tiến sĩ Đalitmen đáp- Ngay trong thành phố này có biết bao nhiêu chàng trai hết sức mong muốn được ngài thương gia chọn làm hula trong dịp này, cho dù chẳng cần phải trả cho họ năm mươi đồng xơcanh. Bởi vì cô vợ của cậu Tahe là một phụ nữ xinh đẹp hoàn hảo. Người cô thẳng như một cây bách. Khuôn mặt cô hình trái xoan, đôi lông mày cô cong tựa hai cánh cung, còn cái liếc đưa tình của cô sắc như mũi tên tẩm thuốc độc. Da cô trắng như tuyết, miệng cô nhỏ bé xinh xinh thêm đôi môi mọng đỏ au chẳng khác chi một đoá hoa hồng hàm tiếu.
NGÀY THỨ BA MƯƠI SÁU
Tiến sĩ Đalitmen nói tiếp:
- Nói vậy anh khắc hiểu, trong thành phố Samacan này, cần bao nhiêu hula mà chẳng có. Nhưng người ta lại muốn chàng hula này nên là một người nước ngoài xa lạ, bởi loại công việc này làm sao giữ cho càng kín đáo càng tốt. Ngài Muzaphe đã để mắt đến anh. Ta chính là vị phó quan của cụ chánh án trông nom mọi công việc án từ, hộ tịch thành phố này. Do đó, ta có đầy đủ thẩm quyền chứng kiến cho anh kết hôn cùng với người đàn bà xinh tươi ấy. Ngay từ giờ phút này, nếu anh ưng thuận, anh có thể trở thành chồng của người ấy.
- Tôi ưng thuận,- chàng trai con thương nhân Abđala đáp- Chỉ mới nghe ngài phác hoạ chân dung cô ấy thôi, tôi đã muốn cưới ngay nàng làm vợ.
- Tốt- viên phó quan nói- Nhưng với một điều kiện, là anh phải hứa ngay sáng sớm mai, đuổi người phụ nữ ấy đi, coi như đuổi vợ ra khỏi nhà. Và ngay lập tức sau việc ấy, cầm số tiền người ta thưởng công cho anh và đi ra khỏi thành phố Samacan này không chần chừ một phút. Gia đình ngài Muzaphe sẽ không thoải mái chút nào nếu sau câu chuyện ấy, anh vẫn còn nấn ná ở thành phố này.
- Tôi sẽ chẳng ở lại đây lâu đâu,- Culup đáp.- Nếu ông coi tôi hứa như vậy chưa đủ, thì tôi xin thề. Tôi thề sáng mai, sau khi làm xong công chuyện, tôi sẽ đuổi người đàn bà ấy đi, nếu tối hôm nay ngài kịp làm thủ tục cho tôi kết hôn cùng nàng.
Chàng trai cất lời thề xong, viên phó chánh án vội báo cho thương gia Muzaphe biết, chàng trai trẻ người nước ngoài nọ sẵn sàng chấp nhận đóng vai hula:
- Anh ta ưng thuận mọi điều kiện tôi đã thay mặt ngài nói với anh. Bây giờ chỉ còn có việc làm thủ tục hôn lễ cho anh chàng cưới người dâu cũ của ngài.
Không chút chậm trễ, thương gia Muzaphe cho gọi cậu con trai Tahe và mọi người trong gia đình tề tựu đông đủ. Trước mặt cả gia đình, viên phó chánh án làm lễ cho Culup cưới vợ, nhưng người ta không cho chàng rể được nhìn thấy mặt cô dâu, bởi cậu cả Tahe nhất quyết đòi như vậy. Hơn thế, mọi người quyết định đêm nay ông chồng hula phải ở trong phòng riêng với người vợ mới cưới tuyệt không đèn không đóm, sợ để chàng nhìn thấy mặt nàng, e sáng hôm sau sẽ chẳng dễ dàng trong việc đuổi nàng đi chăng.
Thế là đêm hôm ấy, người ta dẫn chàng Culup vào phòng tân hôn. Trong phòng lúc này hoàn toàn không đèn lửa, chỉ có người đàn bà nằm sẵn trên một cái giường có đệm phủ gấm thêu. Anh chàng khoá trái cửa lại thật chặt, cởi áo quần ngoài, mò mẫn tìm ra được cái giường trèo lên nằm cạnh người đàn bà. Người phụ nữ ấy lúc ấy không ngủ được. Cho dù dĩ nhiên không nhìn thấy mặt ông chồng hờ, mà thông thường người rất xấu trai, bởi cô thừa biết bao giờ người ta cũng chọn những anh chàng đàn ông khốn khổ nhất cho làm nhiệm vụ hula, nhưng không phải vì vậy mà nàng không hồi hộp. Về phần chàng Culup, bởi viên phó quan đã hết lời khoe khoang sắc đẹp của cô dâu, cũng lấy làm phiền lòng vì không có được niềm vui nhìn thấy khuôn mặt thật của nàng. Hơn nữa người ta ca ngợi sắc đẹp của nàng quá lời, cho nên anh chàng càng thêm tò mò muốn biết có đúng thế hay không, cô vợ mình thân hình mặt mũi thật ra sao. Chàng nói với người phụ nữ:
- Thưa bà, cho dù đêm hôm nay đối với tôi là một đêm lạc thú, tôi vẫn không sao thưởng thức trọn vẹn niềm vui ấy. Tôi luôn luôn mong ước được nhìn thấy sắc đẹp của bà. Vì quá ước mong đến nỗi lúc này tôi chẳng có cách gì ăn nằm với bà được. Vậy mà sáng sớm mai, tôi đành phải xa bà rồi. Hạnh phúc của tôi như vậy ngắn ngủi quá chừng. Ít ra người ta cũng cho tôi được nhìn thấy dung nhan bà chứ.
Nói đến đây, chàng trai dừng lại để lắng nghe xem người phụ nữ sẽ đối đáp ra sao. Chàng khá ngạc nhiên người đàn bà không trả lời thẳng vào câu hỏi lại thốt lên:
- Hỡi người đàn ông mà cậu Tahe đang tìm cách nhờ tái lập cuộc hôn nhân bị phá hỏng bởi bản tính thô bạo của anh ta. Cho dù người là ai đi nữa, xin hãy nói cho tôi rõ tên họ. Tôi cảm thấy hình như giọng nói của người không phải xa lạ đối với mình, và không hiểu sao tôi không thể nghe giọng nói ấy mà không nôn nao trong dạ.
Culup cũng giật mình khi nghe giọng người phụ nữ. Chàng nói:
- Thưa bà, xin bà hãy cho tôi hay trước, bà là con cái nhà ai? Giọng nói của bà nghe quen lắm, và cũng làm cho lòng tôi hết sức xốn xang. Tôi ngỡ như đang nghe giọng một tiểu thư người Kêrait mà tôi từng hân hạnh quen biết. Trời đất! Nàng có phải là…Nhưng chẳng phải đâu- chàng nói tiếp- Nhẽ nào nàng có thể là tiểu thư con gái ngài thượng thư Boyruc…
Người đàn bà vội kêu lên:
- Ôi chàng Culup, có phải chàng đang nói chuyện với em đấy ư?
- Đúng Culup đây, hỡi bà hoàng của tôi. Culup đây. Làm sao tai tôi có thể tin đang nghe giọng nói của chính nàng Đilara?
- Xin hãy tin đi,- người đàn bà lại nói tiếp- Chàng hãy tin em đúng là con bé Đirala khốn khổ ấy từng có dịp tiếp đón chàng ở nhà mình cùng với đức vua Miagiêhan. Những lời nói hớ hênh của em đã khiến nhà vua đâm ra ngờ vực chàng. Sau chuyện ấy, hẳn chàng phải coi em như một kẻ tử thù, bởi em chính là nguyên nhân gây nên sự thất sủng của chàng.
- Thưa bà, xin bà hãy thôi xin đừng nhắc đến chuyện ấy nữa làm tôi thêm phiền lòng. Trời đã muốn vậy, tôi đâu dám oán trách ai. Hơn nữa, tôi tạ ơn trời đất đã dun dủi cho tôi, sau câu chuyện bất hạnh ấy, có được lần tái ngộ đêm nay. Nhưng hỡi nàng Đilara xinh đẹp, - chàng nói tiếp- làm sao cô tiểu thư con gái ngài thượng thư Boyruc lại có thể trở thành vợ cậu Tahe, con trai ngài đại thương gia Muzaphe?
- Hãy lắng nghe đây, - nàng đáp- Em xin thuật tóm tắt chàng hay.
Phụ thân em trong thời gian đi sứ ở kinh đô Samacan này, thường nghỉ tại nhà ngài đại thương gia Muzaphe, mà cha em đã quen biết từ trước. Hai người thoả thuận với nhau về cuộc hôn nhân giữa em với cậu Tahe. Sau khi xong việc trở về Caracorom, cha em cho một đoàn tuỳ tùng đông đảo đưa em sang Samacan. Em buồn rầu hết sức trước một cuộc hôn nhân mà em chẳng hề được hỏi ý kiến, hơn nữa, em xin thú thật, hỡi chàng Culup, nhất là bởi vì em đã trot đem long yêu thương chàng, cho dù trước đây chưa từng nói ra điều ấy. Nhưng, nói có trời chứng giám, khi chàng bị thất sủng, em đã khóc hết bao nhiêu nước mắt. Đến nay, cho dù đã kết hôn với Tahe, em vẫn chưa thôi thương nhớ chàng. Cậu Tahe ấy là một anh chồng thô bạo, càng làm cho em luôn nghĩ đến chàng. Em vẫn linh cảm tình yêu và sự may mắn rồi một ngày kia cho chúng ta tái ngộ, vì vậy em luôn nuôi hy vọng được gặp lại chàng. Niềm hạnh phúc hôm nay vượt quá mọi mong chờ, bởi trời xui khiến cho em gặp lại người yêu trong vai anh hula chồng hờ. Ôi làm sao có chuyện diệu kỳ đến vậy, biết có nên tin hay không.
NGÀY THỨ BA MƯƠI BẢY 
Chàng Culup sau khinghe nói vậy không còn chút nghi ngờ mình đang sống với tiểu thư con gái của ngài Boyruc. Chàng thốt lên lòng tràn ngập mừng vui và yêu dấu:
- Hỡi nàng Đilara kiều diễm, sự ngẫu nhiên này may mắn làm sao! Thật là chuyện thần kỳ, trời giúp cho tôi đạt đến ước vọng bao lâu của mình. Sao? Người ta bảo tôi phải làm hula cưới chính nàng đó ư? Nàng, con người mà bình ảnh xinh tươi luôn khắc sâu trong trái tim tôi! Mà tôi những ngỡ không bao giờ còn được nhìn thấy lại! Ôi, nếu nàng đã từng phàn nàn cho thân phận người con trai của cụ Abđala, nếu sự thất sủng của tôi từng làm nàng rơi bao nước mắt thì giờ đây xin hãy chia sẻ với tôi hạnh phúc tuyệt vời. Ai dám nghĩ rằng khi quốc vương Kêrait đuổi tôi ra khỏi triều đình, là trời muốn bắt tôi trải qua cơn bất hạnh để đến lúc này cho tôi trở thành con người hạnh phúc nhất thế gian?
Nàng Đilara cũng như chàng Culup không thể nào nén nổi tình cảm của mình, họ sống trông hạnh phúc đêm hôm ấy cạnh nhau. Tưởng vừa sống cùng nhau trong chốc lát, bỗng nghe có tiếng đập cửa ầm ầm. Một tên nô lệ của thương gia Muzaphe đến đập cửa phòng gọi to:
- Nào, hỡi ngài hula kia, xin ngài hãy thức dậy đi thôi, trời sắp sáng rồi.
Chàng Culup chẳng buồn đáp lại tiếng đập cửa, cứ tiếp tục chuyện trò với nàng con gái thượng thư Boyruc. Dù sao niềm vui của chàng cũng tiêu tan trước tiếng đập cửa. Hết sức buồn rầu, chàng nói:
- Tôi nghe tiếng ai gọi vậy, hỡi bà hoàng của tôi. Người ta muốn chia rẽ chúng ta rồi đấy. Ngài Muzaphe sốt ruột muốn được có nàng trở lại gia đình ông. Còn cậu con trai chắc đang ghen tị hạnh phúc đôi ta, cậu không thể chờ đợi lâu hơn nữa. Và cả ánh sáng ban ngày nữa, hẳn cũng về hùa với các đối thủ của chúng ta, cho nên thôi thúc chúng ta chia tay nhau nhanh nhẩu vậy. Hỡi ôi, tôi vừa được gặp lại nàng, thì tôi lại phải mất nàng cho dù chúng ta yêu thương nhau đến bao nhiêu, bởi tôi đã trót thề đuổi nàng đi ngay sáng nay.
Nàng Đilara ngắt lời:
- Vậy là chàng nghĩ có thể giữ vẹn lời thề khủng khiếp ấy hay sao? Trước đây, khi thốt lời thề ấy, chàng đâu có biết chàng sẽ đuổi chính em đây? Vì vậy, chàng chẳng bị ràng buộc phải giữ một lời thề như vậy, và Đilara này chẳng đáng để chàng chối bỏ một lời thề sao? Ôi, hỡi chàng Culup- nàng vừa nói vừa khóc- hoá ra chàng chẳng yêu em, bởi chàng còn cân nhắc giữa tình yêu và lý trí.
- Nhưng thưa bà, - chàng nói- điều ấy đâu có tuỳ thuộc ở tôi hay ở bà? Cho dù tôi có vi phạm lời thề, bà có nghĩ tôi, một người nước ngoài không nơi nương tựa, không có chút của cải trong tay, có thể đương đầu nổi ngài Muzaphe danh tiếng ấy sao?
- Được chứ,- con gái thượng thư Boyruc đáp. – Có thể lắm chứ. Chàng hãy coi thường những lời doạ nạt của lão ta. Chàng hãy khước từ những gì lão ta đưa tặng. Luật pháp đứng về phía chàng. Nếu chàng đủ nghị lực, chàng có thể phá tan mọi mưu đồ và nỗ lực của họ muốn chia lìa chúng ta.
- Nếu vậy thì, thưa bà hoàng của tôi, bà sẽ được hài lòng- chàng trai cũng bốc lên mà nói.- Lời thề của tôi quả là quá nặng nề, tôi biết rồi suốt cuộc đời sẽ chẳng lúc nào thanh thản nếu tôi giữ vẹn lời thề ấy. Nhất quyết rồi, tôi sẽ không đuổi nàng đi, bởi vì tôi đủ sức tự bảo vệ. Đấy là quyết định của tôi. Giờ thì tôi thách thức ngài Muzaphe cũng như toàn thể trái đất này ai có thể làm tôi thay đổi ý định.
Trong khi chàng trai trấn an bà vợ như vậy thì cậu Tahe, mà đêm qua là một đêm dài dằng dặc, đích thân đến đập cửa phòng và hét:
- Này, anh hula kia, trời sắp sáng rồi đấy. Người ta đã gọi anh dậy đến mấy lần rồi, hãy khẩn trương lên chứ. Gia đình người ta chờ anh lâu lắm rồi, để còn cảm ơn anh và trả đủ cho anh số tiền như đã hứa. Hãy nhanh lên, mặc áo quần vào, chúng ta phải nhanh chóng kết thúc vụ đổi chác này; ngài phó chánh án sẽ có mặt đây ngay trong chốc lát.
Chàng Culup dậy ăn mặc tử tế và ra mở cửa phòng. Cậu Tahe sai một tên nô lệ đưa chàng đến nhà tắm. Khi chàng tắm rửa xong, tên nô lệ ấy trao cho chàng áo quần mới và một chiếc áo dài sạch sẽ, rồi dẫn chàng đến một căn phòng ở đấy đã có mặt thương gia Muzaphe cùng cậu con trai và phó chánh án Đalitmen. Mọi người đứng dậy chào ông hula, chàng đáp lễ. Tiếp đó mọi người cùng ngồi vào bàn dùng điểm tâm. Trong số các thức ăn, không thể thiếu món cháo nấu với nước ép thịt cừu.
Sau bữa ăn lót dạ, viên phó chánh án mời Culup ra riêng một nơi, trao cho chàng năm mươi đồng xơcanh vàng cùng một chiếc khăn đội đầu rất đẹp để trong một cái gói và nói với chàng:
- Chàng trai trẻ ơi, hãy cầm lấy những thứ này. Đó là quà ngài Muzaphe tặng anh. Ngài cảm ơn anh đã giúp ngài một việc. Ngài mong anh chớ nên chần chừ lâu hơn nữa ở kinh đô Samacan này. Vậy anh hãy lên tiếng chính thức đuổi vợ anh đi, rồi rời ngay khỏi thành phố này. Nếu có người nào đó hỏi anh: cậu có nhìn thấy con lạc đà không, thì hãy đáp là không. (Câu phương ngôn người phương Đông dùng khi cần dặn nhau giữ bí mật một điều gì đó).
NGÀY THỨ BA MƯƠI TÁM
Viên phó chánh án cứ nghĩ là tay hula này, được thương gia Muzaphe trả công hậu hĩnh cho như vậy, sẽ vội vàng tuôn ra những lời cảm tạ. Y hết sức ngạc nhiên khi nghe chàng Culup trả lời như sau:
- Quái lạ! Tôi cứ tưởng ở kinh đô Samacan này,- chàng vừa nói vừa ném túi đựng quà và tiền xơcanh ra xa- là nơi công lý, đạo đức và tôn giáo hằng ngự trị, nhất là từ ngày Hãn Uzbec vĩ đại của chúng ta lên ngôi trị vì nước Tartari. Nhưng tôi vừa nhận ra tôi bị lừa, hay đúng ra người ta đang lừa đức vua. Hoàng thượng chẳng hay biết, ngay ở kinh đô nơi đóng triều đình của ngài, mà người ta vẫn ngang nhiên làm tội làm tình những người từ nước khác tới. Thế này là thế nào nhỉ? Tôi đến thành phố Samacan, một thương gia tới ngỏ lời với tôi, mời tôi về nhà cùng ông dùng bữa tối; ông ta khích lệ vỗ về tôi rồi bảo tôi cưới một người phụ nữ làm vợ phù hợp với luật lệ ở đây. Tôi làm những việc đó với tất cả niềm tin của một tín đồ Hồi giáo; thế mà sau khi mọi việc tiến hành xong xuôi đâu vào đấy, người ta bảo tôi phải đuổi ngay bà vợ của tôi đi! Thưa ngài phó chánh án, xin ngài hãy chớ nói nhiều hơn nữa, xin ngài đừng khuyên tôi có một hành động chẳng xứng đáng chút nào với một con người trung hậu. Nếu không, tôi sẽ đội túi đất bẩn lên đầu (theo phong tục cũ, khi người dân có việc cần kêu oan với vua), tôi sẽ vào tận triều đình phủ phục dưới chân đức Hãn Uzbec tâu xin người phán xét cho. Rồi lúc ấy chúng ta sẽ cùng được nghe đức vua phán bảo việc này ra sao.
Nghe chàng trai nói vậy, viên phó chánh án gọi riêng thương gia Muzaphe ra một nơi và bảo ông:
- Ngài chọn anh chàng ngoại quốc này giúp ngài làm hula, ngài đã xét người quá nhầm lẫn rồi đấy. Giờ đây anh ta khước từ không chịu tuyên bố đuổi vợ đi. Tôi nghĩ đây là một anh chàng láu cá, y chừng nó muốn ép ngài cho nó một khoản nữa đáng giá hơn.
Muzaphe nói:
- Tưởng gì, nếu chỉ có thế thôi, thì hắn ta sẽ được vừa lòng. Ông hãy cho hắn ta một trăm đồng xơcanh vàng, và bảo hắn ngay tức khắc ra khỏi thành phố này thật nhanh chóng và giữ thật kín mồm kín miệng cho tôi.
Chàng Culup thoáng nghe thương gia nói vậy, vội chen vào:
- Không, không phải vậy đâu, thưa ngài Muzaphe. Ngài có tăng gấp đôi gấp ba số tiền thì cũng vô ích thôi. Cho dù ngài trao cho tôi cả một vạn đồng xơcanh, cùng với tất cả vải vóc quý trong cửa hàng của ngài, tôi vẫn chẳng chối bỏ một sự cam kết thiêng liêng khi làm lễ thành hôn với vợ tôi.
Viên phó chánh án Đalitmen thấy sự tình đến thế, liền nhẹ nhàng khuyên bảo:
- Này anh chàng trẻ tuổi ơi, trong vụ làm ăn này, anh đỏi hỏi có hơi quá đáng rồi đấy. Ta thành thực khuyên anh nên nhận một trăm đồng xơcanh vàng ngay đi, rồi nhanh chống ngỏ lời đuổi vợ anh đi. Nếu anh cố tình làm cho vụ này ồn ào lên, rồi đến phải đưa nhau đến cửa công, thì anh sẽ phải hối hận. Ta nói trước cho anh biết.
- Tôi chẳng có gì phải sợ hãi những lời hăm hoạ của ngài,- chàng trai con nhà thương gia Abđala cứng cỏi.-Ngài không được phép buộc tôi huỷ bỏ một cuộc hôn nhân đã được pháp luật bảo hộ.
Cậu Tahe nóng tính, nãy giờ cố nén giận lắng nghe, đến lúc này không chịu nổi nữa. Cậu quát:
- Thế là quá quắt. Chúng ta hãy dẫn tên khốn nạn này lên toà trình với quan chánh án, quan sẽ cho trị nó thật đúng tội. Rồi chúng ta sẽ cùng xem, quan đâu chịu để cho nó lật lọng, lừa dối những người tử tế, sau khi nó đã hứa hẹn với người ta đủ điều.
Đalitmen và Muzaphe vẫn kiên trì thuyết phục chàng hula hãy vui lòng chấp nhận các điều kiện họ đề nghị, chàng trai vẫn một mực không nghe. Thế là mọi người đành cùng nhau kéo lên dinh quan chánh án. Sau khi nghe thương gia và viên phó chánh án trình bày, quan chánh án tin họ đã trình hẳn đúng sự thật, liền nhìn thẳng vào chàng Culup và nghiêm nghị phán:
- Chàng trai trẻ người ngoại quốc kia, người mà cả thành phố này chẳng một ai quen biết, người từng sống bằng của bố thí như một kẻ ăn xin trong thánh đường, anh mất trí rồi hay sao mà đi tưởng tượng có thể bình chân như vại thụ hưởng một bà từng là phu nhân của cậu cả Tahe đây? Lẽ nào anh tin, câu con trai cả của vị đại thương gia giàu có nhất kinh đô Samacan này khoanh tay đứng nhìn một anh chàng chẳng ai biết nguồn gốc đâu ra ôm ấp bà vợ mà cậu hết lòng thương quý, mà cậu nôn nóng muốn được đón trở lại nhà? Hãy bình tâm lại, chàng trẻ tuổi kia, anh hãy suy nghĩ kỹ và tỏ ra biết điều hơn một chút. Địa vị xã hội của anh làm sao sánh được bà vợ anh. Nói giả dụ, cho dù địa vị của anh còn sang hơn địa vị cậu Tahe đi nữa, riêng mỗi một việc anh không có đủ tài sản cai quản cơ ngơi một gia đình giàu sang như vậy, chừng ấy thôi đủ cho ta quyết định không cho phép anh được chung sống với vợ. Vậy thì, anh hãy bỏ đi ngay cái hy vọng hão huyền, vì nó mà anh vi phạm lời thề. Anh hãy nhận món quà của ngài Muzaphe, hãy tuyên bố đuổi người vợ của anh đi, rồi tìm đường trở về ngay xứ sở của mình. Nhược bằng anh cứ cứng đầu cứng cổ không chịu nghe lời ta truyền, thì hãy chờ đấy, ngay tức khắc ta cho đánh anh đúng một trăm roi.
Lời quan chánh án thốt ra, cho dù với giọng chắc nịch của một vị quan toà, vẫn không đủ sức lay chuyển chàng trai. Anh lạnh lùng chịu trận đòn đúng một trăm roi. Chờ thi hành xong cuộc xử phạt, quan chánh án truyền:
- Hôm nay thế là đủ. Ngài mai ta sẽ tăng gấp đôi liều lượng. Nếu đến vậy rồi mà vẫn chưa chữa được cái bệnh cứng đầu cứng cổ của nó, thì ta sẽ có nhiều phương sách cứng rắn hơn. Hôm nay, tạm cho nó ngủ thêm một đêm nữa với vợ. Ta hy vọng sáng mai, cậu chàng sẽ tỏ ra biết điều hơn.
Cậu Tahe muốn ngay trong ngày hôm nay, quan cho đánh đòn chàng hula chí tử hơn nữa, chứ đừng để đến hôm sau. Nhưng quan toà không chấp nhận. Thành thử vị thương gia Muzaphe và cậu cả Tahe đành phải lủi thủi về nhà, dắt theo cả ngài hula cứng đầu cứng cổ. Chàng trai này, cho dù toàn thân đang ê ẩm bởi trận đòn đau, vẫn cắn răng chịu đựng, coi việc người ta cho mình được tự do gặp lại nàng Đilara yêu quý đủ là một liều thuốc giảm đau rất thần hiệu.
NGÀY THỨ BA MƯƠI CHÍN
Vị thương gia Muzaphe khôn ngoan thấy đối xử với chàng trai cứng không được thì quay sang mềm vậy. Ông ta hứa hẹn với chàng đủ thứ. Ông bảo nếu ngay lúc này chàng chịu tuyên bố đuổi cô gái con quan thượng thư Boyruc đi, thì ông ta xin biếu luôn ba trăm đồng xơcanh vàng. Trong khi người cha đang cố gắng thuyết phục chàng hula, thì cậu Tahe lén xộc vào phòng riêng bà vợ cũ.
Lúc này lòng dạ nàng đang như có lửa đốt. Nàng nôn nóng muốn biết sự tình diễn ra thế nào ở toà án. Nàng băn khoăn lo lắng chờ chàng Culup quay trở lại. Mặc dù tin chắc ở tình yêu sắt đá của chàng, nàng không thể không lo âu, e chàng không đủ nghị lực chịu đựng. Vừa trông thấy người chồng cũ, nàng đã tin sự thể đã diễn ra đúng như mình nghĩ rồi. Chàng Culup hẳn không chịu nổi cực hình đã đành chấp nhận thua cuộc. Nàng rùng mình, cứ tưởng ông chồng cũ đến báo cho biết tin khủng khiếp ấy. Thế là mặt nàng tái nhợt như người chết đuối, và thiếu tí nữa thì ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự. Nhìn thấy cảnh ấy, cậu cả Tahe ta càng hiểu lầm. Cậu nghĩ chắc có ai đó đã nói cho nàng rõ, anh chàng hula kia không chịu làm cái việc tuyên bố đuổi nàng đi, và nàng đang hết sức xốn xang bực bội chính vì chuyện ấy. Cậu nói:
- Nàng ơi, xin nàng chớ quá phiền muộn làm chi. Chưa đến nỗi phải thất vọng. Đúng là tên khốn nạn ta đã chọn nhầm làm hula ấy không muốn trả nàng cho ta, nhưng nàng chớ nên vì vậy mà buồn. Hôm nay, anh chàng đã chịu trận đòn đúng một trăm roi, ngày mai trận đòn còn gấp đôi thế, nếu nó cứ khăng khăng không chịu làm như nó từng thoả thuận với quan phó chánh án. Ngay ngài chánh án cũng đã doạ sẽ cho nó nếm những cực hình ghê gớm nhất. Vậy nàng hãy tạm khuây nguôi đi, bà hoàng của ta ạ. Hãy cố gắng chịu đựng thêm một đêm nay nữa thôi với anh chàng hula ấy, sáng mai chúng ta sẽ trở lại thành vợ thành chồng. Tôi đến đây khẳng định với nàng điều ấy. Nàng hãy kiên nhẫn. Tôi chắc nàng chẳng mấy quan tâm nếu anh chàng khốn nạn ấy bị đòn đau hơn nữa.
- Thưa ngài, - nàng Đilara ngắt lời- Đúng vậy, thái độ của anh hula chính là nguyên nhân làm tôi lo âu. Đời tôi từ nay có được thanh thản hay không, tuỳ thuộc vào câu chuyện ấy. Hỡi ôi! Tôi e vụ này rồi sẽ kết thúc không được như mình mong muốn.
Cậu Tahe vội đáp:
- Xin nàng thứ lỗi cho tôi. Và đừng lo âu nữa. Tôi rất cảm kích trước tấm lòng của nàng. Nàng có thể tin chắc, nội trong sáng mai cuộc hôn nhân của chúng ta sẽ tái lập.
Nói xong, cậu bước ra khỏi phòng người vợ cũ. Lát sau, chàng Culup bước vào.
Vừa nhác thấy chàng trai con của thương gia Abđala, nàng Đilara đang âu sầu bỗng chuyển sang mừng rỡ. Nàng dang rộng đôi tay đón người yêu vào lòng:
- Ôi, người chồng yêu quý của em! Hãy để cho em trả ơn về sự kiên định của chàng. Có đúng là chàng thà chịu đựng cực hình bất công hơn là tuyên bố khước từ Đilara này? Đích thân Tahe vừa cho em biết những gì diễn ra tại toà án. Em vô cùng xúc động trước thái độ kiên quyết của chàng. Bản thân em cũng đau đớn như đang chịu đòn cùng chàng. Thậm chí em không thể nghĩ đến mà không kinh hoàng những cực hình mai đây chàng còn phải chịu.
- Nàng ơi, -chàng Culup đáp- cho dù họ hành hạ tôi đau đớn bao nhiêu, lòng tôi vẫn không bao giờ lay chuyển. Mọi cực hình, cũng như mọi lời hứa hẹn của lão Muzaphe tặng cho nhiều tiền bạc, chẳng mảy may tác động đến tôi, chẳng làm tôi lo sợ. Chưa biết tới đây trời sẽ định đoạt thế nào số   phận chúng ta. Chưa biết trời muốn bắt tôi phải chết hay trời cho tôi được sống cùng nàng. Ít ra thì trời chẳng nỡ bắt tôi từ bỏ người vợ yêu quý của mình.
Nàng Đilara nói:
- Chẳng lẽ trời vừa cho chúng ta tái ngộ một cách diệu kỳ như vậy, để bây giờ buộc chúng ta phải chia lìa sao. Em không nghĩ trời bắt chàng phải chết. Bởi trời xui em nghĩ ra một cách đánh lừa kẻ thù chung của chúng ta. Chàng đã nói để quan chánh án rõ chưa, chàng từng là sủng thần của quốc vương Kêrait?
- Chưa. Bởi vì quan đã bịt miệng tôi lại ngay từ đầu. Ông nói trước, cho dù tôi xuất thân là người thế nào đi nữa mà hiện nay trong tay không có chút tài sản nào, thì cho dù xuất thân là ai vẫn không được phép giữ nàng làm vợ.
- Đã vậy thì- nàng Đilara tiếp,- chàng hãy làm đúng theo lời em đây. Sáng sớm mai, khi người ta dẫn chàng ra trước toà, chàng chớ ngần ngại xưng ngay mình là con trai của thương gia Maxaut. Ông ta là một đại phú thương giàu có bậc nhất của thành phố Côgien, của cải không để vào đâu cho hết. Chàng cứ nói ông ta là thân sinh mình. Chàng cứ bạo dạn quả quyết, chẳng bao lâu nữa mọi người sẽ biết điều chàng nói hoàn toàn đúng sự thật.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI
Culup hứa sẽ làm theo lời nàng Đilara. May ra như vậy sẽ tránh được trận đòn mới. Lòng chàng lại loé lên hy vọng, biết đâu những lời nói ấy khiến quan chánh án và những người kia để cho hai người được chung sống với nhau. Hai người tạm quên đi chuyện trước mắt; lúc này chỉ còn nghĩ chuyện yêu đương cho thoả thích. Suốt phần ngày còn lại và cả đêm hôm ấy, hai người sống bên nhau như một đôi vợ chồng hạnh phúc. Nhưng trời chưa rạng sáng, đã có kẻ đến khuấy động niềm vui. Người toà án phái đến, do đích thân Tahe dẫn đường, xộc đến đập cửa phòng ầm ĩ và quát tháo:
- Hãy dậy đi, dậy đi ngay, hỡi ông hula kia! Đã đến lúc phải ra trước toà rồi đấy. Hãy dậy ngay.
Nghe gọi, chàng trai buồn bã thở dài, còn cô gái thì bật ra khóc. Nàng nói:
- Tội nghiệp chàng Culup của em, chàng phải trả giá quá đắt cho người vợ này.
- Nàng ơi, xin hãy lau khô nước mắt, tôi không sao chịu nổi nhìn thấy nàng khóc. Chúng ta chớ vội tuyệt vọng. Hãy tin tưởng trời sẽ đoái thương. Trời sẽ cứu giúp chúng ta qua cơn hoạn nạn. Nhờ tin có trời phù hộ, từ trước đến nay tôi chưa hề lo sợ trước bất kỳ hiểm nguy nào.
Chàng trai vừa nói vừa mặc vội áo quần, mở cửa phòng bước ra, theo anh lính đến trình diện quan chánh án. Vị thương gia Muzaphe và cậu con trai theo sau, trông hai người đều tỏ ra rất băn khoăn:
Vừa trông thấy Culup quan chánh án hỏi ngay:
- Thế nào, hỡi anh chàng hula kia, bây giờ anh tính thế nào? Liệu có biết điều hơn ngày hôm qua? Liệu có phải đánh đòn thêm nữa không để anh tuyên bố khước từ người vợ? Ta tin chắc chẳng cần. Chắc anh đã suy nghĩ kỹ. Anh thừa hiểu một người cầu bơ cầu bất chẳng ra cái thớ gì như anh, làm sao cứ một mực đòi giữ một người phụ nữ từng là phu nhân cậu Tahe đây.
Chàng Culup đáp:
- Lạy quan lớn, cầu Thượng đế cho ngài trường thọ. Nhưng xin mạn phép ngài cho tôi được trình, tôi không thuộc hạng người cầu bơ cầu bất. Tôi xuất thân con nhà danh gia vọng tộc. Để ngài rõ hơn, tôi xin được trình, tên tôi là Rucnêtdin, con trai độc nhất của một đại thương gia người thành phố Côgien tên là Maxaut. Thân sinh tôi còn giàu có hơn cả ngài Muzaphe đây. Nếu thân sinh tôi biết tôi vừa cưới vợ, tôi tin người khắc sai mang đến cho tôi ngay một đoàn lạc đà chở đầy vàng bạc, khiến cho tất cả các cô gái trong thành phố Samacan này ghen tị hạnh phúc của người tôi vừa cưới làm vợ. Chỉ vì mỗi một nỗi là khi gần đến thành phố này, tôi bị bọn trộm cướp đoạt hết tài sản, buộc phải vào trong thánh đường xin của làm phúc để sống tạm qua ngày, mà ngài đã vội kết luận tôi làm một người cầu bơ cầu bất chẳng ra cái thớ gì! Trình ngài, chẳng bao lâu nữa, ngài sẽ thấy ra ngài đã nhầm. Tôi sẽ viết thư cho thân sinh tôi ngay lập tức đây. Nhận được tin, chắc chắn cụ sẽ cho chuyển hoả tốc đến thành phố này vô vàn của cải.
Quan chánh án hỏi lại:
- Anh vừa bảo anh là con trai độc nhất của một thương gia giàu có thành phố Côgien, chỉ vì chẳng may gặp một tai nạn như anh vừa kể, khiến cho anh lâm vào cảnh khốn cùng?
- Hoàn toàn đúng như vậy, thưa ngài chánh án,- chàng trai con của thương nhân Abđala quả quyết. Rồi ngài sẽ thấy ngay, trình quan lớn, rằng tôi chẳng phải là một người khốn khổ từ khi sinh ra vẫn sống trong cảnh bần hàn.
- Này chàng trai trẻ kia,- quan chánh án dịu giọng- tại sao anh không bảo cho ta biết điều ấy ngay từ sáng hôm qua? Thì ta đã không cho anh phải chịu trận đòn?
Quay lại phía thương gia Muzaphe, chánh án nói tiếp:
- Thưa ngài Muzaphe, điều anh hula kia vừa trình bày trước toà án làm thay đổi sự tình mất rồi. Bởi anh ta là con trai duy nhất của một vị đại thương gia, luật pháp không cho phép chúng ta ép anh ta đuổi vợ đi.
Cậu cả Tahe nóng nảy ngắt lời quan:
- Bẩm ngài chánh án, lẽ nào ngài tin vào lời khai của tên dối trá kia? Nó xưng bừa nó là con trai của thương gia Maxaut là để tránh khỏi trận đòn hôm nay và tranh thủ thêm thời gian đó thôi.
Quan chánh án đáp:
- Ta chẳng thể xử trí theo cách khác. Cho dù anh ta nói dối hoặc nói đúng sự thật thì ta vẫn không được phép bỏ qua lời khai của bên bị. Tất cả những gì ta có thể làm giúp gia đình cậu lúc này là buộc chàng hula kia phải chứng minh được điều anh ta vừa nói:
Thương gia Muzaphe vội nói:
- Bẩm ngài chánh án, chúng tôi chẳng đòi hỏi gì hơn thế. Thậm chí tôi có thể chịu mọi chi phí để phái một người nhà hoả tốc tới ngay thành phố Côgien tìm hiểu cho rõ đen trắng. Tôi có quen biết ngài Maxaut ấy, vì có mấy lần gặp ông ấy ở đấy. Tôi biết ông là một thương gia giàu có. Nếu quả đúng anh hula này là con trai của ngài Maxaut, thì gia đình chúng tôi thuận để cô Đilara vẫn làm vợ anh ta.
- Vâng, cậu Tahe nói.- Nhưng trong khi chờ đợi người chúng tôi phái đi kịp trở về, tôi nghĩ cần bắt đôi vợ chồng ấy sống riêng mỗi người một nơi.
Quan chánh án đáp:
- Luật pháp không cho phép như vậy. Vợ phải sống chung với chồng. Chúng ta không thể ép vợ chồng người ta sống xa nhau mà không vi phạm luật pháp. Vậy, gia đình ngài Muzaphe hãy sai một người đi ngay Côgien, thành phố ấy chỉ cách đây bảy ngày đường. Như vậy nội trong mười lăm ngày, chúng ta sẽ biết rõ anh chàng hula này nói đúng hay sai. Nếu anh ta quả thật là con trai ngài Maxaut, thì anh ta có quyền không chối bỏ vợ. Nhược bằng không đúng vậy thì ta thề, nói có thánh địa Mêcca thiêng liêng chứng giám, nếu anh ta lừa dối toà, thì ta sẽ bắt kẻ nói dối phải chịu mọi cực hình đau đớn nhất, rồi cho treo cổ ngay.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI MỐT
Sau lời phán quyết của chánh án, hai bên nguyên bị ra về. Thương gia Muzaphe và cậu con trai vội sai một người nhà đi cấp tốc đến thành phố Côgien, với lệnh phải tìm hiểu rõ ràng những điều toà muốn biết, và trở về đây càng nhanh càng tốt. Về phần mình, chàng Culup cũng vội vã quay trở về phòng riêng, thuật lại cho nàng Đilara hay sự tình diễn ra như thế nào tại toà án. Nàng vui mừng khôn xiết:
- Ôi, hỡi chàng yêu quý, thế là tốt rồi. Chúng ta không còn gì phải lo âu nữa. Trước khi người được phái đến Côgien kịp quay trở lại, thậm chí cả khi người ấy chưa tới nơi ấy, hai ta phải tìm cách trốn khỏi chốn này. Một đêm nào đấy, chúng ta sẽ tìm cách rời khỏi thành phố Samacan, sang thành phố Bôcara càng nhanh càng tốt. Rồi hai ta sẽ chung sống ở đấy bằng khoản tiền hồi môn mà em có. Bọn thù của chúng ta chẳng thể đến tận đấy quấy rối.
Culup tán thành ý kiến của Đilara. Họ bàn cách trốn. Nhưng ở ngôi nhà này, họ bị canh chừng chặt chẽ quá, làm sao thực hiện được ý đồ? Họ tính chuyện trước hết phải dời đi ở một nơi khác. Họ sẽ nói với thương gia Muzaphe mình muốn đi ở nơi khác; trường hợp ông ta không thuận, thì họ sẽ đến thẳng toà, xin phép quan chánh án. Vợ chồng bàn bạc xong, chàng trai con của thương gia Abđala vội tìm gặp ông Muzaphe cùng cậu con trai Tahe, báo cho họ biết nội nhật hôm nay hai vợ chồng muốn thay đổi chỗ ở. Chàng Culup nói, theo luật pháp, người chồng là ông chủ, chồng có quyền muốn đưa vợ đến nơi đâu tuỳ thích. Dĩ nhiên, vị thương gia và cậu con trai phản đối. Nhất là cậu cả Tahe. Cậu quả quyết chẳng bao giờ chấp thuận cho nàng Đilara ra khỏi nhà mình. Culup cũng không chịu thua. Thành thử lại phải kéo nhau đến cửa quan.
Quan chánh án hỏi, tại sao hai vợ chồng muốn rời khỏi nhà ông Muzaphe. Culup đáp:
- Bẩm quan lớn, thân sinh tôi cụ Maxaut nhiều lần dạy tôi, nếu ta đang sống cùng một nhà với kẻ thù của mình, thì phải nhanh chóng rời bỏ ngôi nhà ấy ngay càng sớm càng tốt. Vì vậy, trong khi chờ đợi tin tức từ thành phố Côgien, tôi muốn được đi nơi khác ở. Vợ tôi cũng mong muốn giống như tôi.
Cậu Tahe quát:
- Đồ dối trá! Nàng Đilara vợ tôi đang than khóc, nàng Đilara vô cùng đau khổ từ khi bị tên khốn nạn này làm chồng, thế mà hắn ta dám cả gan nói với toà rằng cô ấy không thích ở nhà chúng tôi.
- Đúng, tôi đã nói như vậy. Culup đáp- và bây giờ tôi nói lại cũng đúng như vậy. Người vợ yêu quý của tôi, cũng như tôi, cô ấy không mong muốn gì hơn được cùng tôi ra khỏi nhà anh ngay. Nếu sự thật không đúng như vậy, nếu nàng tỏ ý yêu thương anh, thì tôi sẵn sàng đuổi nàng ra ngay lập tức.
Cậu Tahe nắm lấy cơ hội, thưa với quan chánh án:
- Bẩm quan lớn, ngài nghe rõ rồi đấy, chúng tôi cũng nghe rõ từng lời điều anh hula này vừa nói. Xin quan hãy truyền cho gọi Đilara đến ngay đây, và cho phép cô ấy được bày tỏ ý kiến của mình.
Chánh án nói:
- Ta chấp thuận. Quan phó à,- ông nói với Đalitmen lúc ấy cũng đang có mặt tại toà. Ông hãy đến nhà ngài Muzaphe đây, nói với bà Đilara rằng tôi muốn nói chuyện với bà. Ông hãy dẫn bà đến đây, chúng ta khắc biết rõ bà nghĩ như thế nào. Nếu bà công khai nói khác lời anh hula kia vừa quả quyết, thì ta quyết định ngay lập tức bà ấy có thể rời bỏ anh chàng.
Viên phó chánh án nhanh nhảu làm nhiệm vụ. Ông dẫn nàng Đilara đến trước toà. Nàng vừa đến nơi, quan chánh án hỏi:
- Bà có muốn ra khỏi nhà thương gia Muzaphe không? Có đúng là bà quý anh hula này hơn người chồng trước của mình?
Chàng Tahe chắc mẩm vợ sẽ đứng về phía mình, vui mừng không tự chủ nổi, nhanh nhảu nói:
- Bà ơi, bà hãy nói lên đi, chỉ cần nói ra bà thực sự quý yêu ai, tôi hay chú hula kia, bà sẽ được giải thoát ngay lập tức khỏi con người bà căm ghét ấy.
Nàng Đilara không chờ người khác thúc giục nhiều hơn:
- Nếu được mọi người bảo đảm cho sẽ thực hiện đúng như lòng tôi mong ước, thì tôi chẳng dám giấu diếm chút gì. Chồng thứ hai của tôi, tức con trai đại thương gia Maxaut đây là người được tôi thương yêu hết mực. Vì vậy, tôi khúm núm van xin ngài chánh án cho phép vợ chồng chúng tôi được đi ở nơi khác, chứ không phải ở trong nhà ông Muzaphe thêm nữa.
Quan chánh án quay nhìn cậu Tahe:
- Đấy, anh đã nghe rõ rồi đấy, chàng hula kia có dối trá gì đâu, anh ta nói đúng sự thực đấy chứ.
- Ơ con phản trắc! Tahe hét toáng lên, choáng váng bởi lời thú nhận của người từng là vợ mình. – Làm sao chỉ qua mỗi một đêm thôi mà cô đã bị nó làm cho mê mẩn dường ấy?
Quan chánh án phán:
- Ta thông cảm với anh, nhưng sự tình như vậy, ta không thể không cho phép hai người này được muốn dời đi ở đâu, tuỳ ý.
- Vậy là ngài chịu để cho tên ngoại quốc kia thắng cuộc sao? cậu Tahe nói.- Trong khi vẫn chưa biết chắc nó có đúng là con trai ông Maxaut thật hay không, ngài lại cho phép nó được sống vô tư cùng nàng Đilara?
Quan chánh án nói:
- Không hẳn thế. Nó phải chịu trách nhiệm những lời nó nói. Nếu nó dối trá, ta sẽ cho treo cổ nó ngay.
Cậu con trai thương gia Muzaphe vẫn chưa chịu:
- Vậy ngài nghĩ nó không biết lo phải tội sao. Nó ngu ngốc gì đến nỗi khoanh tay ngồi yên trong thành phố này, chờ đến khi gia đình chúng tôi nhận được tin tức xác thực từ thành phố Côgien? E ngài nhầm lẫn mất rồi, kính thưa ngài chánh án. Chắc chắn là nó có mưu đồ trốn khỏi Samacan, và rồi nó sẽ dụ dỗ người đàn bà kia cùng đi theo nó. Thật ra, âm mưu của hai người ấy ngay bây giờ đã rõ, họ muốn chuyển đi ở nơi khác chẳng qua để dễ bề thực hiện mưu đồ mà thôi.
- Việc chạy trốn không thể xảy ra- quan chánh án quả quyết.- Ta sẽ lưu tâm đến việc ấy. Cho dù hai người có chuyển đi ở một nơi nào khác trong thành phố, ta chịu trách nhiệm phái một tốp lính thật đông đảo canh chừng và trình cho ta biết ngay mọi động tĩnh.
Vậy là chàng Culup và nàng Đilara được tự do rời ngôi nhà thương gia Muzaphe. Ngay trong ngày hôm ấy họ ra đi, đến trú tại một nhà trọ dành cho du khách. Họ mua vài tên nô lệ về phục dịch hằng ngày. Không lo thiếu tiền, bởi nàng Đilara có sẵn một khoản tiền hồi môn lớn, chưa tính bao nhiêu ngọc ngà châu báu vẫn đeo trên người. Thoạt tiên, hai người ngỡ lúc này chỉ còn có chuyện vui chơi cho thoả. Mấy ngày đầu, họ quên hết mọi thứ, như thể không có toán lính của quan chánh án đang kè kè bên cạnh, canh chừng suốt ngày đêm.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI HAI
Câu chuyện về anh chàng hula ấy, mặc cho ngài thương gia Muzaphe và cậu con trai cả cố giữ kín đến đâu, cũng không khỏi chẳng mấy chốc loan truyền khắp kinh thành Samacan. Không ít người nghe đồn đại, muốn tìm xem mặt tận mắt hai người yêu, thử coi họ sống ra sao. Ở đời thiếu chi người hiếu kỳ, thành thử ngày nào chàng Culup và nàng Đilara cũng phải tiếp khối vị khách kiếm cớ đến thăm.
Một hôm, có một vị ăn mặc rất đàng hoàng, đến xưng mình là một quan chức trong triều đình. Nhà vua đã biết chuyện vừa xảy ra tại toà án, sai ông đến đây tìm hiểu, và báo cho ông bà biết hoàng thượng quan tâm theo dõi số phận của họ. Ông quan nói năng rất mực nhã nhặn, lại hứa sẽ cố gắng hết mình giúp đỡ. Để tỏ lòng biết ơn, hai vợ chồng mời khách nán lại dùng cơm. Và để bày tỏ tấm lòng kính trọng đối với vị khách, bà chủ nhà cất tấm mạng che mặt. Ông quan cực kỳ ngạc nhiên trước sắc đẹp ít thấy của người đàn bà, không thể không thốt lên:
- Ôi, giờ đây tôi chẳng còn ngạc nhiên, sao ngài lại tỏ ra kiên trì đến vậy tại toà án, thưa ngài hula.
Ba người ngồi vào bàn. Nhiều thức ăn đặc sản được dọn ra. Có đủ thứ cao lương mỹ vị, như các món bogra, món culat, món đombê… Sau bữa ăn chính, thức uống được mời, nào vang đỏ vùng Sirat, vang trắng miền Kitmy, rượu hồng thơm ngát xứ Rakimo, …Sau khi dùng tráng miệng, nàng Đilara gọi người nhà đưa cho mình một chiếc trống con, rồi vừa nhịp trống vừa hát một khúc ca theo điệu uzan. Tiếp đó nàng lại gọi lấy cây đàn dây, vừa đàn vừa hát tài hoa đến nỗi ông quan kia vô cùng thán phục.
Cuối cùng nàng Đilara cầm chiếc lục huyền cầm, vừa đệm đàn vừa hát một bản tình ca theo dạng thức nava, dạng thức này thường được dùng để bày tỏ lòng thương nhớ của các người tình chung thủy chẳng may gặp cảnh chia lìa.
Lời bài hát này do chính nàng đặt ra hồi ở thành phố Caracorom, sau ngày Culup bị thất sủng và bỏ đi không lời từ biệt. Lời ca gợi chàng trai nhớ lại những ngày huy hoàng ở kinh đô ấy và bỗng dưng trở nên rầu rĩ. Chẳng bao lâu sau, dường như không chịu nổi chàng bật ra khóc. Vị phái viên của nhà vua nhìn thấy rất ngạc nhiên, hỏi tại sao chàng khóc. Chàng trai con thương nhân Abđala đáp:
- Than ôi, ngài biết rõ nguyên nhân phỏng có ích gì. Ngài chẳng nên mất công tìm hiểu. Chả là tôi vừa nhớ lại các nỗi bất hạnh từng trải qua và suy nghĩ lo âu về những điều không may sắp xảy tới, làm tôi không sao cầm được nước mắt.
Câu trả lời không thoả mãn ông quan, ông khẩn khoản:
- Này, chàng trai trẻ người nước ngoài ơi, nhân danh Thượng đế, chàng hãy kể tôi nghe những chuyện từng xảy ra với chàng. Tôi hỏi không phải vì tò mò. Tôi muốn biết để còn tìm cách giúp đỡ. Rồi đây chàng chẳng phải hối tiếc là đã tâm sự với tôi. Hãy nói cho tôi biết chàng là ai. Tôi nhìn dáng chàng, chắc cũng là con gia đình giàu có; chàng hãy mạnh dạn nói ra, chớ nên che giấu điều gì.
- Trình ngài,- chàng Culup đáp- chuyện của tôi hơi dài dòng, kể ra chỉ làm ngài chán tai.
- Không, không đâu, thậm chí tôi còn yêu cầu ngài chớ nên bỏ qua một chi tiết nào.
Thế là chàng Culup bắt đầu kể chuyện về cuộc đời mình. Chàng nói hết chẳng chút giấu diếm. Chàng thú thật mình không phải là con trai của đại thương gia Muxaut, sở dĩ phải dối trá như vậy may ra có cơ hội cùng nàng Đilara chạy trốn khỏi nơi này. „Nhưng, -chàng nói tiếp- sự dối trá của tôi không mang lại kết quả mong muốn. Chẳng ai tin lời tôi. Người ta đã sai một người hoả tốc đến thành phố Côgien tìm hiểu sự tình. Chỉ ba ngày nữa thôi, người ấy sẽ quay trở lại. Đến lúc ấy, quan chánh án cho đến ngày hôm nay vẫn giam lỏng và canh chừng chúng tôi , thế nào sẽ chẳng nhận ra tôi dối trá và ngài sẽ bắt tôi chết một cách nhục nhã. Chẳng phải tôi lo buồn vì sợ chết lắm đâu; tôi chỉ khổ nỗi sẽ phải cách xa mãi mãi người mình yêu quý. Chính điều này mới làm cho tôi vô cùng đau khổ“. Chàng trai vừa kể chuyện vừa thở dài, thỉnh thoảng còn tuôn nước mắt. Người vợ cũng không ngăn nổi giọt lệ của mình. Cảnh tượng ấy làm phái viên nhà vua động lòng trắc ẩn. Ông nói:
- Tôi xúc động trước nỗi buồn lo của hai ông bà. Tôi sẽ cố sức giúp đỡ hai người. Cầu trời cho tôi làm được việc ấy. Tôi biết chẳng phải dễ dàng đâu. Ngài chánh án là một vị quan toà công mình và không khoan nhượng bao giờ. Một khi biết mình bị lừa dối, ông ta chẳng tha thứ cho ngài. Tất cả những gì tôi có thể khuyên hai ông bà là hãy vững tin trời đất sẽ đoái thương mà cho được mau thoát khỏi cơn hoạn nạn.
Nói đến đấy viên quan cáo từ ra về. Chờ khách đi khỏi, nàng Đilara than với chồng:
- Trên đời thật có lắm người kỳ lạ. Họ tự tìm đến, nói sẵn sàng giúp đỡ chúng ta. Thấy chúng ta buồn bã, họ thôi thúc ta kể hết mọi chuyện cho nghe, bảo để còn tìm cách giúp đỡ cho ta bớt phiền muộn. Sau khi nghe chán chê, họ chỉ ban cho một lời khuyên hãy nên kiên nhẫn. Khi ông này mới đến, thoạt trông thái độ của ông ta có vẻ nhiệt tình cảm thông nỗi bất hạnh của chúng mình, em cứ ngỡ rồi thế nào ông ta cũng giúp cho không việc này thì việc khác. Thế mà sau khi nghe hết mọi chuyện về cuộc đời chúng ta, ông ta lại lẳng lặng ra đi, phó mặc chúng ta cho số phận.
- Nàng ơi,- chàng Culup khuyên giải- Nàng muốn ông ta có thể làm gì cho chúng mình? Công bằng mà nói, ông quan ấy trông có vẻ một con người đôn hậu, chắc không phải do hiếu kỳ mà muốn biết tâm sự của chúng ta. Nhưng, người trần sao có cách giúp người khác thoát khỏi định mệnh hẩm hiu thiên tào đã định. Việc ấy chỉ có trời. Ông trời có đoái thương nhìn lại, may ra chúng ta mới có cơ thoát khỏi hiểm nghèo.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI BA
Đôi vợ chồng đáng thương hết sức buồn bã nghĩ đến số phận của mình, không thôi than thở. Họ cũng tính cách làm sao trốn thoát. Thoạt tiên họ định mua chuộc những người lính canh nhưng không đi đến kết quả. Thế mà ngày thứ mười lăm sắp đến rồi, ngày mà không ít người chờ đợi, như gia đình ông Muzaphe, cứ ngóng trông người được phái đi Côgien mau chóng quay trở lại. Thời gian qua, trong khi hai vợ chồng hết sức lo âu thì cậu con trai cả của thương gia Muzaphe vô cùng sốt ruột. Khi cái ngày ghê gớm ấy đến, khi mặt trời vừa rạng, chàng Culup nghĩ hôm nay là ngày cuối cùng mình được nhìn thấy ánh sáng mặt trời đây, trở dậy sẵn sàng đi chịu chết. Chàng buồn bã nói với người yêu:
- Xin vĩnh biệt nàng. Tôi đi đây, đành tuân theo số phận. Tôi mang đầu tôi đến giao quan chánh án. Còn nàng, hỡi nàng Đilara xinh đẹp, xin nàng cố sống, và thỉnh thoảng nhớ đến một người từng yêu nàng tha thiết.
Nàng Đilara bật khóc nức nở:
- Chàng Culup ơi, chàng đi chịu chết, sao chàng nỡ lòng nào bảo riêng em cứ sống! Chàng nghĩ em cho mình được sống là vui thú lắm hay sao? Không đâu, em chỉ muốn cùng chết theo chàng, em chỉ muốn cùng chàng chui chung vào một nấm mộ. Này hỡi cậu Tahe kia, cậu Tahe đáng ghê tởm kia, rồi mày sẽ thấy mày không thể mừng vui trước cái chết của chồng ta. Chàng Culup ơi, tại sao chàng phải chết? Gây nên tội này là tại em. Chính em là người khuyên chàng nói dối trước toà, chính em đưa chàng đến cái chết. Sao tội em không bị trừng phạt? Nào, hai vợ chồng ta hãy cùng đến nơi xử giảo! Em muốn mọi người thấy em thà cùng được chết với chàng còn hơn được sống một mình.
Trong khi hai vợ chồng mải thở than, chợt nghe có tiếng ồn ào trên đường phố. Chỉ lát sau, xuất hiện trong sân nhà đích thân quan chánh án, theo sau có nhiều người nữa cùng đi, kể cả thương gia Muzaphe và cậu con trai. Trước cảnh tượng ấy, nàng tiểu thư con gái ngài Boyruc ngất xỉu. Trong khi những người giúp việc tìm cách giúp nàng hồi tỉnh, chàng Culup đàng hoàng bước ra đón quan chánh án. Nhưng vị quan toà ấy hoàn toàn không có vẻ đến đây để bắt chàng mang đi xử giảo, ngược lại, cúi chào chàng khá trọng thị và vừa cười vừa nói:
- Thưa ngài, người mà chúng ta sai hoả tốc đi thành phố Côgien vừa trở về. Cùng đi, có một gia nhân của đại thương gia Maxaut thân sinh ngài. Ngài Maxaut có sai gửi đến cho ngài bốn mươi con lạc đà chở nhiều vải vóc lụa là cùng nhiều hàng hoá quý khác. Toà án cũng như mọi người không có gì phải nghi ngờ nữa. Ngài đúng là con trai của vị đại phú thương. Mong ngài quên đi cho sự đối xử không đẹp chúng tôi bắt ngài phải chịu đựng mấy ngày qua.
Sau khi quan chánh án nói những lời trên làm Culup ngạc nhiên không thể nào tả xiết, đến lượt thương gia Muzaphe và cậu con trai bày tỏ với chàng hula, họ cũng cảm thấy rất phiền lòng về chuyện chàng bị đòn oan. Cậu Tahe nói:
- Tôi tuyên bố từ bỏ ý định đòi nàng Đilara trở lại làm vợ mình. Tôi chấp nhận từ nay nàng là phu nhân của ngài. Tôi xin giao nàng cho ngài, với điều kiện nếu một ngày nào đó ngài nảy ra cái ý cắc cớ khước từ và đuổi nàng ra khỏi nhà, để rồi sau đấy lại muốn nàng quay trở lại với mình, thì lúc ấy xin ngài hãy chọn tôi làm hula.
Culup chẳng biết nên nghĩ thế nào về tất cả những lời vừa nghe. Chàng ngỡ cậu Tahe cũng như quan chánh án muốn giễu cợt mình, và họ sắp đổi giọng tới nơi, thì một tên nô lệ bước tới, nâng tay chàng đưa lên môi hôn và trao cho chàng một bức thư. Y nói:
- Thưa công tử, hai cụ thân sinh và thân mẫu của ngài đều bình yên khoẻ mạnh. Các cụ rất thiết tha muốn được gặp lại ngài. Hai cụ luôn mong ngài trở lại nhà.
Chàng Culup đỏ bừng mặt khi nghe nói như vậy, chưa biết nên đáp thế nào. Chàng đón bức thư mở ra và đọc những dòng sau đây:
„Ngợi ca Thượng đế, chỉ có mỗi một Thượng đế trên đời. Xin Người hãy ban ơn rộng khắp xuống ngài đại tiên tri Môhamêt và toàn thể gia đình bạn bè của ngài. Con trai thân yêu của ta ơi, từ ngày con rời nhà ra đi, cha chẳng lúc nào ngủ được yên giấc. Lòng cha như có gai nhọn đâm bên trong. Cha luôn luôn mong nhớ con. Sự vắng mặt của con là liều thuốc đắng đặt trong trái tim cha, làm cho cha mòn mỏi. Người mà ngài Muzaphe vừa phái đến đây có nói cho cha hay những gì đã xảy ra với con. Thế là cha vội vã cho đóng hàng chất lên lưng bốn mươi con lạc đà, đấy là những con lạc đà lông đen có những đôi mắt tròn, và cha khẩn cấp gửi tất cả đến thành phố Samacan cho con. Đoàn lạc đà này đặt dưới sự điều khiển của Giohe, người quản lạc đà chuyên phụ trách vận chuyển hàng hoá đường dài của gia đình ta ấy. Con hãy mua mau cho cha biết hiện nay sức khoẻ của con thế nào, cho cha đỡ nhớ mong
Cha của con: Maxaut“.
Chàng trai con của thương nhân Abđala vừa đọc xong bức thư, thì đoàn bốn mươi con lạc đà xuất phát từ thành phố Côgien đến đã vào hết trong sân. Viên quản lạc đà tên là Giohe nói với chàng:
- Kính thưa chủ nhân, xin ngài vui lòng truyền cho chúng tôi được giở hàng hoá trên lưng lạc đà xuống và xếp tạm vào một gian nào đó.
Chàng Culup tự mình hỏi mình: “Thế nào là thế nào nhỉ? Trong đời ta đã nhìn thấy biết bao nhiêu chuyện lạ kỳ, nhưng chuyện này kỳ lạ hơn tất thảy. Anh chàng tên là Giohe này nói với ta như thể đã quen biết ta từ lâu. Quan chánh án và thương gia Muzaphe đều có vẻ như đang muốn lấy lòng ta. Đã vậy thì, cho dù chưa rõ nguyên nhân đâu vào đâu, sao ta lại không lợi dụng chuyện này cơ chứ. Chắc đây là định mệnh muốn cứu giúp ta thoát cơn hoạn nạn. Chắc Trời ban phép thần xuống cứu vớt ta đây.”
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI TƯ
Mặc dù hết sức kinh ngạc về sự kiện lạ kỳ đang diễn ra, chàng Culup vẫn có đủ nghị lực che dấu sự ngạc nhiên. Chàng bình thản hạ lệnh cho giở hàng hoá mang vào xếp trong nhà, và truyền mọi người hãy chú ý chăm sóc đàn lạc đà. Thậm chí chàng còn đủ tự nhiên cất lời hỏi người quản đoàn lạc đà:
- Ông Giohe à, xin ông cho tôi biết tin tức về tất cả gia đình họ hàng tôi ở Cogien. Có người anh em hay chị em họ nào của tôi chẳng may đau ốm gì không?
- Trình ngài không- Giohe đáp. –Ơn Thượng đế, tất cả gia đình ta cũng như bà con họ mạc xa gần đều an khang. Chỉ có cụ thân sinh ngài là luôn luôn mong nhớ ngài, cụ trông ngài chóng trở lại nhà. Cụ bảo tôi thưa với ngài, cụ rất mong ngài cùng với phu nhân mau mau trở lại thành phố Côgien.
Chuyện trò giữa người quản đoàn lạc đà với chàng Culup càng làm quan chánh án, cậu Tahe và mọi người ai cũng tin chàng trai này quả thật là con của đại thương gia Maxaut. Mọi người xin cáo từ. Trước khi lui gót, quan chánh án không quên ra lệnh cho toán lính canh đôi vợ chồng mới cưới được trở về doanh trại.
Khi mọi người đã ra về hết, Culup quay vào phòng. Nhờ có sự chăm sóc của những người giúp việc, nàng Đilara đã tỉnh trở lại. Chàng kể tóm tắt cho nàng nghe những điều vừa xảy ra và đưa nàng xem bức thư của thương gia Maxaut gửi. Đọc xong thư, nàng thốt lên:
- Lạy Thượng đế vô cùng công minh, đại lượng! Tạ ơn Người đã tạo nên chuyện thần kỳ. Người đoái thương hai đứa tình nhân chung thuỷ, mà Người đã cho kết giao hai số phận lại với nhau.
Culup nói:
- Bà ơi, lúc này chưa phải chúng ta có thể vui mừng trọn vẹn. Mọi khổ ải của chúng ta chưa phải đã qua hết. Chúng ta vẫn đang trong cơn hiểm nghèo ghê gớm. Nàng bảo tôi hãy xưng đại tên một người, người ấy lúc này chắc đang có mặt tại Samacan. Con trai của đại thương gia Maxaut chắc chắn đang ở trong thành phố này. Thân sinh ông ta đã viết thư cho ông, và gửi cho ông bốn chục con lạc đà chở đầy hàng hóa đặt dưới sự cai quản của ông Giohe. Và ông Giohe này hình như chưa bao giờ được giáp mặt con trai cụ chủ của mình, cho nên cứ theo người nhà ông Muzaphe phái đến Côgien mà tới đây. Chúng ta dễ hình dung những việc gì rồi sẽ xảy ra. Sự nhầm lẫn ấy lúc này có thể thuận lợi cho chúng ta, nhưng niềm vui của chúng ta đâu có thể kéo dài. Giờ đây chúng ta còn không bị quản thúc, không có lính tráng canh chừng nữa, phải mau mau trốn chạy khỏi nơi đây. Lúc này, tin đồn đại về đoàn bốn chục con lạc đà hẳn đã lan khắp kinh thành Samacan. Người con trai thật của thương gia Maxaut sớm hay muộn thể nào chẳng biết. Ông ta sẽ tìm gặp quan chánh án, trình bày quan rõ đã có sự nhầm lẫn. Ai biết được lúc nào thì ông quan toà ấy quay trở lại nhà ta, sai người dẫn tôi tới luôn giá treo cổ.
Lập luận như vậy, chàng Culup vừa phập phồng lo sợ vừa tràn trề hy vọng, không biết lúc này mình có nên mong ước nữa hay không. Thời gian mỗi lúc mỗi qua, mỗi lúc chàng lại ngỡ nhìn thấy cậu Tahe và quan chánh án đã thấy rõ sự thật, đang nổi giận đùng đùng cùng nhau kéo tới. Giữa lúc nước sôi lửa bỏng ấy, vị phái viên của nhà vua, người hai hôm trước đến tìm gặp hai vợ chồng tại nhà, vừa bước vào vừa nói:
- Thưa ngài hula, tôi vừa biết tin mọi nỗi bất hạnh của ngài đã chấm dứt. Cuối cùng trời đã đoái thương nhìn lại ngài. Tôi đến đây xin được bày tỏ niềm vui với ngài, đồng thời tôi cũng muốn ngỏ lời trách ngài một điều: Ngài đã không thành thật với tôi: tại sao ngài nói ngài không phải là con trai của thương gia Maxaut? Ngài đánh lừa tôi làm chi vậy?
- Tôi đã nói với ngài đúng sự thật, kính thưa ngài- chàng Culup vội đáp. Tôi không phải là người thành phố Côgien, tôi sinh ra và lớn lên ở Đamat, như tôi từng có dịp thưa với ngài. Thân sinh tôi mất đã lâu, và tôi đã tiêu xài hoang phí hết tất cả tài sản người để lại cho tôi.
Viên quan nói:
- Nhưng mọi người đều đồn đại ngài vừa nhận bốn mươi con lạc đà chở đủ thứ vải vóc hàng hoá đến cơ mà. Mọi người đều bảo vị đại phú thương Maxaut đích thân viết thư cho ngài, như thể ngài chính là con trai của cụ?
- Quả thật tôi có nhận thư và hàng hoá của thương nhân Maxaut. Nhưng không phải vì thế mà tôi trở thành con trai của ông ấy.
Viên quan lại hỏi sự tình xảy ra như thế nào. Chàng hula thuật lại đầy đủ chi tiết. Nghe xong, ông nói:
- Tôi cũng nghĩ như ông, đây là một sự nhầm lẫn. Người con trai của ông Maxaut chắc hiện đang có mặt tại thành phố Samacan. Vì vậy, tôi nhất trí với ngài, hai ông bà nên trốn đi ngay đêm hôm nay.
- Đấy cũng chính là ý định của chúng tôi, thưa ngài, -chàng Culup đáp.- Miễn là từ giờ đến sáng sớm mai vẫn chưa có ai báo cho quan chánh án biết quan đã nhầm lẫn. Chúng tôi chẳng dám mong gì hơn thế.
- Về việc ấy ngài chớ nên lo âu- ông quan lại nói.- Hy vọng mọi sự sẽ tốt đẹp. Nhẽ nào trời lại muốn cho ngài lâm nạn, bởi trời vừa tạo ra sự thần kỳ, nhờ đó ngài tránh được trận nhục hình mới.
Viên quan còn nói nhiều điều khác nữa khích lệ đôi vợ chồng bớt lo sợ. Sau đó chúc họ mọi sự tốt lành và xin cáo từ.
Còn lại trong nhà hai vợ chồng, họ bàn với nhau chuẩn bị chạy trốn tối hôm nay. Hai người sốt ruột muốn trời tối mau mau. Nhưng trời chưa tối thì đã lại nghe có tiếng ồn ào. Rồi đột nhiên có rất nhiều quân sĩ tiến cưỡi ngựa tiến vào bên trong sân. Cảnh tượng này khiến đôi vợ chồng hết sức kinh hoàng, những tưởng đây là lính tráng quan chánh án phái tới áp giải chàng trai đi xử tử. Nhưng họ hết lo sợ ngay khi biết đây là quân lính của nhà vua. Viên chỉ huy xuống ngựa, nơi Culup đang ngồi cùng vợ. Ông ta lần lượt chào hai người một cách kính trọng, rồi nói với chàng Culup như sau:
- Thưa ngài, Hãn Uzbec, nhà vua vĩ đại của chúng ta sai tôi tới đây. Đức vua muốn gặp con trai của ngài đại thương gia Maxaut. Đức vua đã biết câu chuyện xảy ra với ngài, hoàng thượng muốn nghe đích thân ngài thuật trình. Vì vậy, Đức vua gửi ngài chiếc áo chầu này, để ngài mặc khi vào chầu yết đức vua cho hợp lễ.
Chàng con trai của thương nhân Abđala nghĩ giá mình không phải làm việc này thì hay biết bao. Tuy nhiên không thể không tuân lệnh đức vua. Chàng mặc chiếc áo chầu vào, theo viên chỉ huy và toán quân sĩ ra khỏi nhà. Viên chỉ huy mời chàng cưỡi lên một con lừa thắng yên cương vàng khảm ngọc. Một tên giám mã ăn mặc sang trọng giữ bàn đạp và thưa với chàng:
- Đây là con lừa lấy trong đội lừa ngựa của hoàng gia. Xin mời ngài hãy lên yên cho. Tôi xin phép dẫn đường ngài tới hoàng cung.
Culup bước đến gần, viên giám mã hạ thấp bàn đạp xuống cho chàng đặt chân lên. Chàng hula nhẹ nhàng nhảy lên yên, cùng với toán quân sĩ đi vào hoàng cung.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI LĂM
Vừa tới cổng hoàng cung, đã thấy nhiều quan hầu chực sẵn nghênh đón, mời chàng qua cổng chính vào tận gian phòng lớn, nơi đức vua vẫn tiếp các sứ thần nước ngoài. Đến sân, đích thân đại tể tướng của nhà vua bước đến, cầm tay chàng dẫn vào trong phòng. Đức vua mặc chiếc hoàng bào đính nhiều kim cương, hồng ngọc và bích ngọc, đang ngồi trên chiếc ngai làm bằng ngà voi. Các vị đại thần triều đình Tartari xếp hàng đứng chầu hai bên. Choáng ngợp trước cảnh huy hoàng, chàng Culup không dám ngước lên nhìn thẳng vào nhà vua. Chàng cui mặt xuống đất, tiến đến gần và quỳ mọp dưới chân ngai. Đức vua phán:
- Chàng con trai của thương gia Maxaut à, người ta tâu cho ta biết, vừa xảy ra với anh nhiều việc lạ lùng. Ta muốn anh đích thân thuật lại ta nghe đầy đủ câu chuyện, không được che dấu điều gì.
Chàng Culup nhận ra giọng nói quen quen, ngước mắt nhìn và nhận ra đức vua chính là người đàn ông hôm nào từng đến thăm hai vợ chồng và xưng mình là phái viên của Hãn Uzbec, và chàng đã dốc hết bầu tâm sự với ông ta. Chàng vội vàng phủ phục xuống đất và bắt đầu khóc. Tể tướng đỡ chàng dậy và nói:
- Chớ nên quá sợ hãi, chàng trai à. Hãy tiến đến gần hơn và hôn gấu áo của đức vua.
Chàng con trai của thương nhân Abđala làm theo, vừa run vừa tiến đến sát chân vua, hôn gấu chiếc áo hoàng bào, đi thụt lùi mấy bước rồi đứng yên như phỗng, đầu vẫn chưa dám ngước lên. Nhà vua Hãn Uzbec đã bước xuống ngai, cầm tay chàng, dẫn chàng vào phòng riêng của mình. Vua cho chàng biết:
- Culup ạ, từ nay anh chớ có lo lắng gì thêm. Chớ nên than vãn số phận hẩm hiu. Từ nay, anh không phải chịu đau khổ nữa. Sẽ không có ai dám buộc anh phải xa cách nàng Đilara của anh. Hai vợ chồng anh sẽ sống ở đây, ngay trong triều đình ta. Ta sẽ giao cho anh chức vụ mà anh từng giữ ở Caracorom, tại triều đình vua Meagiêhan. Hôm trước, sau khi ta nghe tâu tấm lòng chung thuỷ của anh đối với vợ, vì hiếu kỳ ta thân hành đến gặp anh. Anh đã làm ta hài lòng. Sự tin cậy của anh đặt vào ta khiến ta đi đến quyết định cứu sống anh, và cho phép anh sống lâu dài hạnh phúc với người anh yêu quý. Chính ta đã sai làm tất cả mọi việc anh từng nhìn thấy tận mắt. Bốn mươi con lạc đà người ta dẫn đến nhà anh ấy, thuộc lạc đà trong hoàng cung ta. Ta đã sai mua tất cả số vải vóc xếp lên lưng đoàn lạc đà. Viên Giohe cai quản đàn lạc đà ấy không ai khác một hoạn quan của ta ít có dịp ra ngoài hoàng cung. Ta đã sai quan hầu viết bức thư anh đã nhận được. Sợ người nhà Muzaphe phái đi Côgien quay trở về có nói ra sự thật chăng, hôm qua ta đã sai người đón nó dọc đường, truyền cho nó biết lệnh ta, là phải trình với chủ nhân nó khớp theo cách ta mong muốn. Đấy là thêm một niềm vui nữa. Tất cả những việc làm trên đều là niềm vui đối với ta.
Nhà vua nói xong, chàng Culup quỳ lạy. Chàng cảm tạ nhà vua và hứa suốt đời sẽ chẳng bao giờ quên được ơn sâu. Ngay ngày hôm ấy chàng trai đưa nàng Đilara vào ở trong hoàng thành. Hãn Uzbec cấp cho họ một ngôi nhà lộng lẫy, kèm theo cùng một khoản bổng lộc lớn. Đức vua còn nhờ nhà văn nổi tiếng nhất thành phố Samacan thời bấy giờ chép lại câu chuyện tình giữa chàng Culup và nàng Đilara.
Bà nhũ mẫu Farucna kể xong chuyện chàng Culup, ngừng lời để lắng nghe nàng công chúa sẽ nói lên cảm tưởng của mình về câu chuyện ra sao. Vốn có định kiến sâu sắc với đàn ông, công chúa không đồng tình với ý kiến của các người hầu, ai cũng cho rằng chàng trai con thương gia Abđala quả là một tình nhân hoàn hảo. Công chúa nói:
- Không, không, chẳng phải thế đâu. Tại sao khi anh chàng bị đuổi khỏi triều đình vua Kêrait, anh ta rời kinh thành Caracorom ngay mà không tìm cách gặp để từ biệt Đilara? Tại sao anh ta chẳng buồn ngỏ lời với nàng? Ừ thì ta công nhận là nhà vua quả có ra lệnh cho anh rời khỏi thành phố ngay tức khắc. Nhưng đã yêu nhau thì phải tìm ra cách gặp nhau chứ. Đúng ra anh chàng phải nghĩ ra cách làm sao gặp được và từ biệt cô con gái thượng thư Boyruc mà anh chàng lúc nào cũng bảo mình rất yêu quý. Chẳng phải ta chỉ chê trách có mỗi một việc ấy thôi. Tại sao vừa đặt chân đến Samacan có mấy ngày, chàng ta đã quên luôn người yêu của mình, và sẵn sàng đóng vai hula như vậy? Hơn nữa, khi đã nhận ra đúng người yêu của mình rồi, anh chàng vẫn muốn giữ vẹn lời thề và đòi sẽ tuyên bố đuổi vợ đi, tại sao vậy? Nếu cô ấy không khóc lóc thở than, thì anh chàng chắc đã không dám chối bỏ lời thề. Một tình nhân thật sự yêu đương đâu có xử sự như vậy?
Bà nhũ mẫu Xutlumêmê nói:
- Thưa công chúa, chính vì muốn giữ danh dự cho nên phản ứng đầu tiên của chàng Culup là sẽ giữ vẹn lời thề, riêng tôi thấy ta không nên chê trách chàng về việc ấy. Nhưng thưa công chúa,- bà nhũ mẫu nói thêm,-bởi vì công chúa là người tế nhị đến vậy, tôi xin được kể một câu chuyện khác. Rồi công chúa sẽ thấy chuyện tôi sắp kể đây còn thú vị hơn nhiều chuyện chàng Culup hay chuyện chàng Abuncaxem.
Tất cả người hầu của nàng công chúa nghe bà nhũ mẫu nói vậy đều reo lên mừng rỡ. Bởi tất cả đều hiếu kỳ muốn nghe câu chuyện mới.
Vừa nghe công chúa Farucna cho phép, bà Xutlumêmê bắt đầu kể câu chuyện ấy như sau
Chương 8: Chuyện hoàng tử Calap và công chúa nước Trung Hoa
Công chúa đã nghe chuyện chàng Culup, giờ đây tôi xin kể chuyện chàng hoàng tử Calap, con một nhà vua- xứ ấy gọi vua là Hãn-thủ lĩnh người bộ tộc Nogai thuộc xứ Tartari. Sử sách không tiếc lời ngợi ca chàng trai kiệt xuất. Sử ký thời ấy chép rằng hoàng tử vượt trội mọi chàng trai con vua cháu chúa trên đời cả về trí tuệ sắc sảo và võ nghệ cao cường. Chàng hiểu biết rộng hơn nhiều học giả uyên thâm nhất. Chàng thông suốt ý nghĩa huyền bí của mọi lời chú giải Thánh Kinh Coran. Chàng thuộc lòng tất cả các vần thơ của đức Môhamêt. Tóm lại sử gọi chàng là vị anh hùng của Châu Á, con phượng hoàng ở phương Đông.
Quả vậy, hoàng tử ấy vừa tròn mười tám tuổi thì có thể nói là một chàng trai tuyệt thế vô song. Chàng là linh hồn các hội đồng bàn việc cơ mật của triều đình-danh hiệu nhà vua thời ấy là Timuatat. Mỗi khi chàng bày tỏ ý kiến, thì các đại thần giàu kinh nghiệm nhất cũng chỉ có thể tán thành. Ai cũng ngợi ca sự thận trọng và trí khôn ngoan của chàng. Ngoài ra, mỗi khi đất nước có chiến tranh, người ta luôn thấy hoàng tử dẫn đầu đoàn quân tiến lên phía đón đánh kẻ thù, chiến đấu và chiến thắng. Chàng đã đánh thắng nhiều trận lớn, những chiến tích đạt được dưới sự chỉ huy của chàng làm cho người bộ tộc Nogai trở thành những người nổi tiếng ai ai cũng kính nể, đến nỗi các nước lân bang không nước nào dám gây nên bất cứ chuyện gì làm người Nogai phật ý.
Tình hình đất nước và cuộc sống bộ tộc dưới sự cai trị của vị Hãn thân sinh chàng Calap đang thanh bình tốt đẹp mọi bề, chợt một hôm có sứ thần nhà vua nước Carim đến xin triều yết. Sứ thần thông báo với Hãn Timuatat rằng quốc vương Carim đòi từ nay trở về sau người Nogai ở Tartari hằng năm phải cống nạp cho họ. Nếu người Nogai không chấp nhận, nhà vua nước ấy sẽ thân chinh dẫn đầu một đạo quân hai mươi vạn người kéo đến phế truất vị Hãn khỏi ngai vàng, lấy đầu nhà vua cùng với cả gia đình, để trừng phạt tội không chịu nhanh chóng và vui lòng thần phục nước Carim. Được tin, Hãn Timuatat khẩn cấp triệu tập hội đồng cơ mật. Mọi người cùng bàn bạc xem, nên chăng cống nạp hàng năm hay là chống đối lại một kẻ thù hùng mạnh. Hoàng tử Calap cũng như phần lớn các triều thần trong hội đồng đều qủa quyết người Nogai nên coi khinh mọi sự đe doạ của nước ngoài. Thế là sứ giả Carim bị đuổi về với lời từ chối.
Ngay sau quyết định ấy, người Nogai phái đại diện đến các bộ tộc lân bang nói cho họ rõ tình hình, và khuyên họ nên linh minh với Hãn Timuatat xứ Tartari, cùng nhau chống lại quân đội xâm lược của nhà vua nước Carim. Ông này là người có tham vọng quá đáng. Chắc chắn nếu Hãn người Nogai chịu khuất phục thì đến lượt các bộ tộc khác sẽ bị người Carim cử sứ thần đến doạ nạt và sách nhiễu đủ điều. Các sứ giả được nhà vua cử đi làm thuyết khách đều thành công. Các tộc lân bang trong đó có nước Xiêcca hùng mạnh, hứa hẹn sẽ liên minh với Hãn Timuatat, và người Xiêcca nhận sẽ chi viện cho Hãn năm vạn quân binh. Được những lời hứa hẹn ấy, vị Hãn thủ lĩnh người Nogai động viên thêm nhiều quân dự bị khác của mình, ngoài đạo binh thường trực chiến đấu. Trong khi người Nogai còn lo chuẩn bị nghênh chiến thì vua nước Carim về phần mình nhanh chóng tập hợp đủ hai trăm ngàn chiến binh. Đạo binh lớn ấy vượt qua sông Giaxat gần thành phố Côgien, rồi mượn đường băng qua các nước Ilat và Saganac, ở đấy họ thu thập thêm và tích trữ rất nhiều quân lương. Từ Côgien, quân Carim tiến đến một cách đồng bằng thường gọi là đồng Giun. Trong thời gian này, quân của Hãn thủ lĩnh người Nogai đặt dưới quyền chỉ huy của hoàng tử Calap vẫn án binh bất động, vì còn chờ người Xiêcca và quân các bộ tộc liên minh kịp kéo tới hội quân. Viện binh vừa tới, hoàng tử ngay lập tức ra lệnh xuất quân, trực chỉ về cách đồng Giun. Quân của chàng vừa mới vượt qua sông Gienghi, thì những lính được phái đi thám thính quay trở về báo đội quân thù địch đã xuất hiện đằng trước và đang dàn quân tiến tới. Ngay lập tức chàng hoàng tử trẻ cho dừng quân, bố trí trận tuyến sẵn sàng chiến đấu.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI SÁU
Hai đạo quân lớn gần như ngang sức ngang tài. Chiến binh của hai bên đều là những người thiện chiến chẳng ai kém ai. Cuộc chiến diễn ra cực kỳ khốc liệt và đẫm máu. Trận đánh bắt đầu từ sáng sớm, kéo dài đến tận đêm. Tướng lĩnh và binh sĩ cả hai bên đều tỏ ra dũng cảm và đã qua luyện tập tinh tường. Nhà vua nước Carim thân chinh cầm quân là một tướng quân từng nhiều lần vào sinh ra tử, còn hoàng tử Calap cho dù trẻ tuổi cũng tỏ ra xứng đáng một vị tướng tài. Khi người Nogai Tartari có vẻ chiếm phần ưu thế, khi thì họ buộc phải lùi bước trước sức tấn công quyết liệt của người Carim. Hai đạo quân, khi thì bên này lấn bước, khi thì bên kia tiến sang, trận tuyến bất phân thắng bại, đành cùng nhau ra lệnh lui quân khi trời vừa sập tối. Hai bên quyết định sẽ lại đánh tiếp vào sáng ngày hôm sau.
Nhưng ngay trong đêm hôm ấy, viên tướng chỉ huy người Xiêcca bí mật sang doanh trại đối phương, xin gặp nhà vua xứ Carim. Viên tướng ấy hứa sẽ lui quân bỏ mặc quân đội người Nogai, với điều kiện nhà vua xứ Carim cùng mình ký hiệp ước hoà bình, và vua Carim đồng ý long trọng thề trước Thượng đế sẽ thi hành đầy đủ hiệp ước ấy; sau này bất kỳ vì lý do nào người Carim cũng sẽ chẳng bao giờ đòi người Xiêcca phải cống nạp. Nhà vua nước Carim chấp thuận. Hiệp ước được ký kết luôn. Viên tướng người Xiêcca trở lại ngay bản doanh của mình trong đêm.
Thế là ngày hôm sau, khi bắt đầu dàn quân thành thế trận đánh nhau thì đột nhiên người ta thấy quân đội của người Xiêcca tách ra khỏi đạo quân liên minh, quay gót lên đường trở về xứ sở. Sự phản trắc ấy làm hoàng tử Calap vô cùng buồn bã. Thấy quân mình lúc này bị đặt vào thế yếu hơn nhiều so với quân đối phương, hoàng tử những muốn tránh không lâm trận nhưng lúc này chẳng còn cách nào khác. Quân Carim đột ngột mở trận tấn công dữ dội. Lợi dụng ưu thế về quân số và địa hình, họ dàn ra bốn phía bao vây quân Nogai vào giữa. Các chiến binh Nogai, mặc dù quân liên minh với mình rời bỏ, bị quân thù bao vây mọi phía vẫn không chút hoang mang. Noi gương vị tướng chỉ huy là chàng hoàng tử của mình, họ siết chặt hàng ngũ, ra sức chống đỡ rất lâu các cuộc tấn công hung dữ của người Carim. Cuối cùng quân Nogai vẫn bị quân Carim dựa vào ưu thế binh lực đánh tơi bời. Trận tuyến tan vỡ.
Đến lúc này hoàng tử Calap biết không thể nào giành chiến thắng được nữa, đành tính chuyện chạy khỏi bàn tay quân thù. Chàng chọn một số đơn vị thiện chiến nhất, dẫn đầu các đơn vị ấy mở một con đường máu xuyên đạo quân Carim dày đặc, thoát được ra ngoài vòng vây. Nhà vua thống lãnh đạo quân Carim hay tin vội phái ngay sáu nghìn người ngựa cấp tốc đuổi theo. Nhưng hoàng tử Calap cùng toán quân phù trợ đã kịp đi theo những con đường tắt quân thù không thể biết, mấy ngày sau về đến được triều đình người bộ tộc Nogai.
Tin hoàng tử thua trận trở về gây nên một nỗi buồn lo và hoảng sợ khắp kinh thành, bởi mọi người biết tai hoạ sắp ập tới nơi. Hãn Timuatat hết sức buồn bã. Ông còn bàng hoàng hơn nữa, khi một sĩ quan trốn thoát được ngay sau đấy, chạy về phi báo cho vua, quân nước Carim đã hành quyết gần như tất cả những người Nogai bị họ bắt sống. Hiện vua Carim đang xua quan tiến nhanh về kinh đô, quyết tâm bắt và giết chết vị Hãn cùng toàn bộ gia đình đang trị vì ở đây, rồi bắt toàn thể bộ tộc Nogai phải thần phục. Đến lúc này vua hối tiếc sao mình đã khước từ không chịu cống nạp luôn cho người Carim cho yên chuyện. Nhưng như một phương ngôn A rập đã nói: Hối tiếc sau khi thành phố Basra đã trở thành đổ nát điêu tàn rồi, phỏng còn có ích gì.           
Thời gian rất bức bách. Cần phải mau mau chạy trốn. Nếu không cả gia đình hoàng tộc sẽ sa vào tay nhà vua nước Carim. Hãn Timuatat, hoàng hậu Enma và hoàng tử Calap vội vàng chọn lấy một ít của cải quý báu nhất trong kho tàng, chạy ra khỏi kinh thành Astracan. Cùng theo vua có khá đông quân sĩ và người hầu trong cung, họ không muốn bỏ gia đình đức vua của mình trong cơn hoạn nạn, cùng số đơn vị đã từng theo chàng hoàng tử trẻ mở con đường máu xuyên qua quân thù chạy về được tới kinh thành.

Mọi người vội vã lên đường đi về vùng đồng bằng Bungari rộng lớn, hy vọng có thể xin lưu trú tại triều đình một nhà vua nào đó trên vùng đất rộng rãi phì nhiêu này. Họ đã đi được nhiều ngày đường, đã vượt qua dãy núi Capca thì chợt một hôm gặp một đội cướp. Bọn này đông tới bốn nghìn tên từ trước tới nay vẫn hoành hành ven dãy núi Capca. Quân cướp xông vào tấn công. Mặc dù trong tay hoàng tử Calap lúc này chỉ còn chưa đến bốn trăm quân, chàng vẫn cùng họ chiến đấu hết sức dũng cảm, hạ sát được không ít tên cướp. Nhưng cuối cùng tất cả quân sĩ cũng như những người hầu chạy theo nhà vua đều bị chúng tàn sát. Bọn cướp chiếm đoạt hết tất cả của cải, lại còn dã man giết chết luôn những người bị thương còn sống sót sau trận chiến đẫm máu. Chúng chỉ để cho vua Timuatat, hoàng hậu Enma và hoàng tử Calap được sống, nhưng lột gần như hết áo quần họ mặc trên người. Ba người bị bỏ lại giữa miền núi non hoang vu hiểm trở gần như không đủ manh áo che thân.
Làm sao diễn tả hết nỗi đau của vua Timuatat khi thấy mình lâm vào cảnh khốn cùng. Vua tiếc sao mình không được chết như những người vừa xả thân và ngả xuống trước mắt mình kia. Quá tuyệt vọng, vua chẳng thiết sống nữa, mà muốn tự mình tìm cái chết. Trong khi đó hoàng hậu khóc như mưa và không ngớt lời than vãn. Chỉ có hoàng tử Calap là duy nhất còn đứng vững trước số phận quá đắng cay. Thấm nhuần những lời dạy của Thánh kinh Coran, thuộc lòng các vần thơ của đức Môhamêt về số phận tiền định, chàng trai vẫn giữ được tinh thần cứng cỏi. Nỗi đau lớn nhất của chàng lúc này là thấy cha mẹ đang hết sức đau khổ. Chàng lựa lời khuyên giải:
- Thưa phụ vương, thưa mẫu hậu, chúng ta chớ nên gục ngã trước những điều bất hạnh. Xin hãy nghĩ, chính trời bắt ta lâm vào thảm cảnh này. Ta cần tuân phục ý trời không được kêu ca. Chúng ta đâu phải những bậc quân vương đầu tiên bị sa cơ thất thế? Trong lịch sử từng có biết bao nhiêu vua chúa bị quân thù đánh đuổi khỏi xứ sở. Biết bao nhiêu vị sau một cuộc sống lang thang, có khi sống như những con người cùng khổ trên các xứ sở xa lạ, lại trở về khôi phục ngai vàng? Nếu Thượng đế đã có ý muốn phế truất họ khỏi ngôi vua, thì Thượng đế có thể trả lại ngai vàng cho họ. Chúng ta hãy cùng nhau hy vọng, rồi sẽ đến lúc trời đoái thương tình cảnh của chúng ta, trời sẽ giúp chúng ta vượt qua những ngày khốn khổ để đến ngày hạnh phúc, đúng như người xưa vẫn nói: khổ tận cam lai.
Hoàng tử còn nói thêm nhiều điều khác an ủi mẹ cha. Nhà vua và hoàng hậu lắng nghe, cũng cảm thấy được khuây nguôi phần nào. Cuối cùng vua Timuatat nói:
- Con ơi, sự tình đã đến nước này, chúng ta đành tuân phục số mệnh vậy. Nếu mọi điều hoạ, phúc đã được định trước trên thiên tào, chúng ta hãy cùng nhau cắn răng chịu đựng cái hoạ này, chẳng nên phàn nàn.
Nhà vua, hoàng hậu và chàng trai cảm thấy có thể lấy lại sức lực phần nào sau những lời an ủi, khích lệ lẫn nhau, tiếp tục bước đi trên đường. Ba người đi bộ, bởi bọn cướp đã đoạt hết ngựa rồi. Họ đi rất nhiều ngày, chỉ sống bằng nước suối và quả dại hái hai bên đường. Nhưng rồi họ tới một vùng sa mạc. Ở đây đất đai cằn cỗi, không kiếm được bất kỳ thức gì có thể nuôi sống con người. Cả ba đều cảm thấy không còn chút hơi sức nào. Nhà vua vốn đã cao tuổi, bắt đầu thấy kiệt sức trước tiên. Ông bước đi không vững. Hoàng tử Calap mặc dù chính mình cũng hết sức mệt mỏi, phải cõng lên vai khi thì cha khi thì mẹ. Cuối cùng ba người vừa đói vừa khát vừa mệt đến hụt hơi, tới một vùng núi có những vực sâu khủng khiếp. Đây là một dãy núi đá tai mèo, đỉnh cao chen lẫn vực sâu, đường qua đây hết sức nguy hiểm. Nhưng chẳng còn nhìn thấy lối nào khác khả dĩ theo đó để băng qua dãy núi hiểm trở và xuống được cánh đồng rộng nhìn thấy xa xa. Hai bên dã núi tai mèo ấy lại toàn rừng rậm cây cối tum tùm, ken dày những bụi gai nhọn sắc không thể nào chui qua. Nhìn thấy vực sâu, hoàng hậu khiếp đảm thét lên một tiếng. Nhà vua cũng mất luôn kiên nhẫn. Vua nói với con trai:
- Đến nước này là thôi, ta chịu đầu hàng số phận không may. Ta mệt mỏi quá rồi. Ta sẽ đâm đầu xuống vực thẳm kia. Chắc là trời dành cái vực ấy cho ta làm mồ. Ta muốn thoát ngay khỏi cảnh khốn cùng. Ta muốn thà chết đi còn hơn sống vất vả thế này.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI BẢY
Nhà vua trong cơn bực bội, sắp sửa lao mình xuống vực sâu. Hoàng tử Calap vội đưa hai tay ôm giữ vua cha:
- Ôi! Hỡi phụ vương, ngài làm gì vậy. Sao ngài lại có ý định tuyệt vọng như thế. Phải chăng cha định bằng cách ấy biểu hiện sự khuất phục trước ý định của trời đất? Xin hãy tỉnh trí lại, phụ vương ôi! Xin cha đừng mất hết kiên nhẫn, đừng cưỡng lại ý trời. Chúng ta phải kiên tâm chịu cơn hoạn nạn, chờ đến lúc trời đoái thương. Vượt qua dãy núi tai mèo này quả là rất nguy hiểm. Nhưng biết đâu có một con đường nào khác có thể cho phép chúng ta xuống được cánh đồng bằng. Xin cha mẹ cho phép con đi tìm đường. Xin cha hãy tạm nguôi cơn bực bội, cha hãy ở lại đây trông nom mẹ con. Con sẽ quay trở lại ngay tức khắc.
- Vậy thì con hãy đi đi, nhà vua đáp- Cha mẹ chờ con trở lại. Con chớ ngại rằng cha tuyệt vọng, cha sẽ gắng sống cho đến lúc con trở về.
Chàng hoàng tử trẻ sục sạo khắp nơi mọi chốn hồi lâu trên dãy núi tai mèo mà không nhìn thấy một con đường nào. Hết sức buồn rầu, chàng quỳ xuống đất khẩn cầu trời đất hãy cứu giúp gia đình mình. Sau đấy, chàng đứng lên cố gắng tìm tòi lần nữa, cuối cùng nhận ra một con đường mòn. Hoàng tử tạ ơn trời đất về sự may mắn này. Rồi men theo con đường mòn ấy, chàng đến một cây cổ thụ, từ đây mở ra lối xuống đồng bằng. Dưới bóng mát cây cổ thụ, có một ngọn suối nước trong leo lẻo. Chung quanh còn có rất nhiều cây có quả, cành lủng lẳng trĩu nhiều quả rất to. Bàng hoàng trước sự phát hiện, hoàng tử hớn hở quay trở lại báo tin cho nhà vua và hoàng hậu biết. Hai người mừng rỡ và càng vui sướng thêm khi nghĩ chắc trời chỉ cho họ con đường thoát khỏi cơn khốn cùng đây. Hoàng tử Calap mời nhà vua và hoàng hậu đến bên con suối. Ba người rửa mặt mũi tay chân, uống cho đã cơn khát khô họng đang dày vò. Tiếp đó nhà vua và hoàng hậu ăn những trái cây hoàng tử hái. Trong cơn đói, ai cũng thấy rằng những trái cây này tuyệt diệu hơn mọi thứ cao lương mỹ vị. Lúc này hoàng tử Calap mới thưa với cha:
- Giờ đây hẳn phụ vương thấy van nài là không đúng. Chắc hồi nãy cha ngỡ trời đất bỏ mặc chúng ta. Con đã thành tâm khẩn cầu sự cứu giúp, và quả là tròi đang cứu ta. Con tin khi những người bất hạnh có tấm lòng thành thì trời ắt nghe tiếng van xin của họ.
Ba người lưu lại dưới gốc cây, bên suối nước vài ba ngày để nghỉ ngơi và lấy lại sức. Sau đó họ hái mang theo một ít trái cây và đi về phía đồng bằng, hy vọng con đường mòn sẽ dẫn tới một nơi nào có người ở. Họ không nhầm. Chẳng bao lâu trước mắt hiện ra một thành phố thoạt trông có vẻ lớn san sát nhiều nhà cửa đẹp. Họ đi đến đấy. Vừa tới cổng thành ba người dừng lại chờ trời tối. Họ không muốn vào thành phố giữa ban ngày, ai nấy bụi bặm phủ từ đầu tới chân và mồ hôi ròng ròng, trên người lại gần như không có áo quần. Ba người ngồi nghỉ dưới một cây to có nhiều bóng mát, rồi ngả lưng ra đám cỏ dưới gốc cây. Được ít lâu, chợt thấy một cụ già từ thành phố đi ra, đến gốc cây ấy hóng mát. Cụ già chào họ rất lịch sự ngồi xuống bên cạnh. Ba người vội đứng dậy đáp lễ và cất lời hỏi thành phố này là đâu. Cụ già đáp:
- Thành phố này tên là Giaich. Đây là thủ phủ của vùng đất, nơi sông Giaich bắt nguồn. Đức Hãn Ilen hiện đóng đô nơi đây. Các vị hẳn là người từ nước ngoài mới đến, cho nên mới hỏi như vậy.
- Vâng,- nhà vua đáp- chúng tôi đến đây từ một đất nước rất xa. Sinh quán chúng tôi là vương quốc Carim. Chúng tôi sống bên bờ biển Caspi. Chúng tôi làm nghề buôn bán. Vừa qua, ba người chúng tôi cùng nhiều thương gia khác đang đi trong vùng Capca thì chẳng may gặp một bọn cướp rất đông. Chúng tấn công đoàn lữ hành của chúng tôi và cướp bóc hết của cải. May chúng để cho ba chúng tôi sống sót nhưng trong tình trạng như cụ đang nhìn thấy đây. Chúng tôi đã vượt qua dãy núi Capca, rồi dần lê bước đến tận đây, nên chẳng biết mình đang ở chốn nào.
Cụ già vốn là người có tính thương người. Cám cảnh nỗi bất hạnh của đồng loại, cụ nói cụ rất xúc động họ vừa gặp chuyện không may, và ngỏ lời mời ba người về nghỉ tạm tại nhà mình. Cụ già nói năng rất lịch sự. Trông thấy họ có vẻ ngại ngần, cụ cứ khẩn khoản nhắc lại lời mời. Nhà vua nhận lời. Vậy là chờ đến đêm, ba người theo cụ già đi vào thành phố.
Nơi cụ già ở là một ngôi nhà nhỏ, đồ đạc giản dị nhưng đâu đâu cũng sạch sẽ gọn gàng, trông cơ ngơi thoát ra vẻ thanh lịch hơn là bần hàn.
Vừa vào đến nhà, cụ già thầm truyền bảo điều gì đấy cho một người giúp việc. Lát sau người ấy quay trở lại, theo sau có hai chú trai mang hai gói hàng lớn. Mở ra, một túi đựng nhiều quần áo đàn ông, đàn bà đã may sẵn. Túi kia đựng đầy các loại mạng che mặt, khăn đội đầu và vải thắt lưng. Hoàng tử Calap và nhà vua chọn cho mình mỗi người một chiếc áo khoác dài lót cùng một chiếc áo ngắn bằng gấm và một khăn đội đầu đẹp may bằng vải Ấn Độ, còn hoàng hậu thì chọn một bộ xiêm y đầy đủ. Cụ già trả tiền mua hàng, và cho hai chú trai ra về. Sau đấy gọi gia nhân dọn bữa. Hai người giúp việc đẩy ra một cái chạn trong chạn xếp nhiều chén bát bằng sứ, đĩa bằng gỗ trầm hương và gỗ lô hội, cùng nhiều ly rượu nhỏ làm từ san hô. Nhà vua, hoàng hậu, hoàng tử Calap cùng cụ già ngồi vào bàn dùng bữa. Thoạt tiên, dọn ra món súp suava, ăn kèm với hai đĩa trứng cá tầm. Tiếp đấy là thịt con linh dương xay nhỏ, một đĩa cơm lớn thập cẩm trộn nhiều loại thịt khác nhau thái nhỏ đầy có ngọn. Bốn người lại dùng tiếp món cá gibêra, một loài cá ngon sông Vônga. Họ uống ba chai lớn nước Camê, cùng mấy ly rượu cất từ quả chà là.
NGÀY THỨ BỐN MƯƠI TÁM

Cụ già sau vài chén rượu, dường như tỏ ra cởi mở hơn. Cụ cố gắng chuyện trò thoải mái cho các vị khách vui lên chút ít. Nhận thấy dù làm gì, ba người khách vẫn âu sầu, cụ liền nói với họ:
- Tôi thấy, tôi cố làm các vị đỡ buồn sau tai hoạ vừa xảy ra với các vị mà không đạt kết quả. Dường như các vị vẫn chưa khuây nguôi về nỗi bất hạnh của mình. Tôi xin phép được thưa, xin ba vị chớ nên buồn bã làm chi, hãy quên tất cả mọi việc đi. Các vị cứ nghĩ mất của còn người, thế là quý lắm rồi. Chuyện đã xảy ra với các vị đâu có mới lạ gì. Có ngày nào những người du hành và các thương gia không phải chịu nạn cướp bóc. Bản thân tôi thời còn trai trẻ, trên đường từ thành phố Muxen về Batđa, tôi từng bị bọn cướp đoạt mất vô vàn tài sản, suýt nữa tôi cũng bỏ mạng luôn. Tôi từng lâm vào tình cảnh chẳng khác các vị hôm nay, và rồi tôi cũng tìm cách khuây nguôi mà sống. Quả thật vô cùng khó coi một người có địa vị như tôi mà đến nỗi lâm vào cảnh ngửa bàn tay ăn mày để kiếm sống. Tôi cần phải kể cho các vị nghe câu chuyện của tôi. Tôi muốn dốc bầu tâm sự cùng các vị, may ra sẽ có ích phần nào cho các vị chăng. Nghe câu chuyện bất hạnh của đời tôi, may ra các vị cảm thấy phần nào đỡ trĩu nặng bất hạnh của các vị.
Nói xong cụ già tốt bụng ấy truyền bảo những người giúp việc lui ra, rồi bắt đầu kể chuyện như sau.

Francois Pétis De La Croix
Phan Quang dịch
Theo http://www.maxreading.com/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Đỉnh cao chói lọi 5XXXX

Đỉnh cao chói lọi 5 NGƯỜI ANH EM (4) Nói rồi ông nhanh nhảu ra lệnh cho trợ lý. Anh này lục tìm cuốn danh bạ đơn vị, hí hoáy tẩy chữ Nôn...