Những bài thơ được viết bằng lối chữ tháu, dáng chữ to cồ cộ
và nét chữ ngả nghiêng, xiêu lạc như cỏ dại. Tôi đọc và còn nhớ mồn một nhan đề
của cả ba bài thơ đó: Lòng mẹ, Hoa râm bụt và Mưa xuân.
Đấy là những bài thơ mộc mạc, giản dị, phảng phất một nỗi buồn
thân phận và thật đẫm tình, dù cả ba đều không phải là thơ tình.
Thi sĩ Xuân Quỳnh (phải) và TS nghệ thuật học Nguyễn Thị
Minh Thái trong những năm tháng ở Nga
|
Rồi không hiểu vì sao, bỗng nhập vào trong tôi một khung cảnh
thôn dã, dân gian êm đềm, thân quen của một miền quê đồng bằng Bắc Bộ, một tấm
lòng tha thiết bồn chồn và một cái gì đó, đầy thương cảm riêng của giọng thơ
Xuân Quỳnh đã bắt đầu khe khẽ đập dưới những làn giấy pelure mỏng cũ ấy, với những
chữ và những chữ… như cỏ dại của Xuân Quỳnh, trong đó có nỗi nhớ cha, thương mẹ
cháy lòng.
Cha bị giặc bắt giữa đường làng, giữa hai bờ hoa râm bụt đỏ
chói như màu máu và không trở về. Màu hoa ấy vĩnh viễn nung đỏ hồn thơ của Xuân
Quỳnh.
Và mẹ, người mẹ sớm khuất núi mà Xuân Quỳnh chỉ biết thật thà
lấy lại những câu thơ đầy dân gian đưa vào giữa thơ của mình để tả nỗi lòng
thương mẹ – Người như ở xa lắm, cách trùng trùng những con sóng đồng chiêm ngập
lụt, dẫu có thương mẹ cách chi, cũng không thể biết gửi ai về cho mẹ “bát canh
cần”.
Và từ trong sâu xa nữa, niềm thương cảm dành lại cho chính bản
thân mình, thương thân: Thân gái như hạt mưa sa/ Hạt vào gác tía/ Hạt ra
vũng lầy (1).
Chẳng phải ngẫu nhiên mà ngay từ độ ấy, những câu thơ dân
gian đầy màu sắc folklore – một màu Việt cổ thuần tuý – đã ám nhiễm
vào tâm trạng thơ Quỳnh và trở thành một ám ảnh dai dẳng suốt đời sống và đời
thơ của Xuân Quỳnh.
Chẳng biết số phận đưa đẩy “khăn gói gió mưa” thế nào mà Xuân
Quỳnh trở thành mẫu một người đàn bà tài hoa nhưng không hề may mắn trong đời
riêng – lận đận “hai lần đò”, cuối cùng chết bất ngờ trong một tai nạn giao
thông, một tai nạn cực kỳ phi lý để kết thúc một cách hợp lý trong "tai nạn"
khác về tâm hồn.
Thời gian đó, Quỳnh buồn, lâm bệnh nặng, đau tim và tưởng
không qua khỏi. Nhưng thật ra, với riêng Xuân Quỳnh, cái chết ấy đã thật là một
giải thoát.
Nó mang Quỳnh đi mãi mãi khỏi chốn trần ai – cũng có lúc đã
là tươi đẹp, nhưng từ lâu đã trở nên quá nhọc nhằn khổ ải với Quỳnh – và chỉ
còn để lại một vệt sao băng chói sáng trên nền thơ ca Việt Nam hiện đại…
Tôi thực sự chạm mặt Quỳnh khi Quỳnh đã là một thiếu phụ ở tuổi
ngoài ba mươi. Chúng tôi chênh nhau ít nhất một thế hệ. Tôi – như một người mới
nhớm chân vào con đường đời xa tít tắp.
Là người đam mê, cực đoan và hết lòng, Quỳnh chỉ thấy ở hạnh phúc một
đòi hỏi tuyệt đối, các bi kịch cuộc đời riêng của Xuân Quỳnh bắt đầu chính từ
đó. Quỳnh đã không thể tương đối được khi định vị cái gọi là Hạnh phúc.
|
Tôi, cũng như cả thế hệ tôi hồi bấy giờ, tuổi đôi mươi mười
tám, với tất cả háo hức của lần đầu đặt chân vào rạp-hát-đời “chờ sân khấu đợi
màn lên”. Còn Quỳnh khi ấy đã ra vai – một vai kịch khốc liệt, đang nghỉ ở chặng
giữa, để rồi sẽ bước vào hồi mới với cao trào dâng tột đỉnh.
Kết thúc vở kịch của Quỳnh không có hậu, một kết thúc ác, tự
nó hàm chứa mẫu thuẫn giữa cái phi lý và hữu lý – bởi đó là cái chết do tai nạn
bất thường, nào ai có thể tiên liệu trước được tai bay vạ gió.
Có lẽ chẳng có cách nào khác hơn là chết – đó là FIN/ The End - kết cuộc không tránh khỏi của vai kịch mà dường như một tác giả nào đó của tấn-trò-đời-thế-gian đã viết riêng quy định cho Xuân Quỳnh với chủ đề: săn đuổi, lùng bắt và kiếm cho được con mồi Hạnh phúc.
Có lẽ chẳng có cách nào khác hơn là chết – đó là FIN/ The End - kết cuộc không tránh khỏi của vai kịch mà dường như một tác giả nào đó của tấn-trò-đời-thế-gian đã viết riêng quy định cho Xuân Quỳnh với chủ đề: săn đuổi, lùng bắt và kiếm cho được con mồi Hạnh phúc.
Và đó tuyệt đối không phải là một cuộc săn cô đơn “một mình một
ngựa” – tôi chỉ muốn dùng nghĩa bóng của cụm từ này – mà Quỳnh buộc phải tự
mình trắc nghiệm trên đường đời của riêng mình, không giống bất cứ ai khác.
Xuân Quỳnh ở Nha Trang vài tháng trước khi mất
|
Có lẽ mãi về sau, ở một chặng nghỉ nào đó, khi đã kiệt sức vì
chạy đuổi, Quỳnh đã bắt đầu vỡ lẽ đó là một cuộc săn vô vọng, bởi tất cả sự
tương đối của khái niệm hạnh phúc – còn tương đối hơn cả chính khái niệm ấy được
Einstein dùng lần đầu trong lý thuyết của ông.
Quỳnh đã không chịu thừa nhận nó ngay từ khởi sự. Quỳnh chống
trả. Là người đam mê, cực đoan và hết lòng, Quỳnh chỉ thấy ở hạnh phúc một đòi
hỏi tuyệt đối, các bi kịch cuộc đời riêng của Xuân Quỳnh bắt đầu chính từ đó.
Quỳnh đã không thể tương đối được khi định vị cái gọi là Hạnh phúc.
Khuôn mặt của Xuân Quỳnh vào những ngày ấy, khoảng đầu thập kỷ
70 – cũng là cái đoạn trần ai nhất của Quỳnh – như vẫn còn hiển hiện trước mắt
tôi. Một khuôn mặt bầu bầu như trái ô-liu, làn da bánh mật khoẻ mạnh, mái tóc
đen nhánh như màu mun xoã quanh gương mặt.
Quỳnh mặc cả hai, màu đen cho những lúc buồn phiền, màu hoàng yến cho
những ngày tâm hồn hình như có lúc trở lại yên tĩnh và loé lên một tia nắng ấm
của hy vọng nào đó. Nhưng yên tĩnh chẳng đậu được lâu.
|
Nổi bật lên trong khuôn mặt ấy là đôi mắt, một đôi mắt quá to
và quá đen, sâu thẳm, long lanh một ánh nhìn sắc sảo, vừa chăm chắm vừa phiền
muộn và đâu đó hình như có những giọt nước mắt ngấp nghé chỉ muốn trào qua bờ
mi. Đặc biệt nhất, là giọng nói, bao giờ giọng nói của Quỳnh cũng run rẩy nghẹn
ngào như có tiếng khóc ở bên trong…
Bằng vào hai thông số đặc biệt ấy của chân dung, người ta
không thể đoán định một số phận tốt hơn cho Xuân Quỳnh, ngoài việc biết chắc rằng
Quỳnh sẽ khổ và suốt đời sẽ phải tự mình vác lấy cây thánh giá của mình trên
lưng.
Quỳnh có cái gì hao hao giống cô Quỳ – nhân vật chính trong
thiên truyện ngắn rất hay của cố nhà văn Nguyễn Minh Châu “Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành” – đẹp, tự tin, sắc sảo, tài hoa nhưng đa đoan và
truân chuyên…
Lúc đó, Quỳnh đang chênh vênh giữa hai hồi kịch. Màn kịch dạo
đầu không mấy tốt đẹp – gia đình đổ vỡ và cuộc chia tay không tránh khỏi. Biết
thả neo lần nữa vào đâu, ở sông biển nào, khi cuộc đời thì cứ rộng rinh“nào ai
biết được bến bờ của nó”...
Lại một lần nữa, Quỳnh nhỡ nhàng và lầm lạc về nước giếng
lòng người. Ờ, mà hình như người đàn bà càng thông minh sắc sảo thì càng dễ lầm
lẫn hay sao?
Nhưng cũng chính vào cái lúc mưa gió bất thường ấy của một thời
gian khó, đã kết trái những chùm thơ tình hay nhất của nữ sĩ Xuân Quỳnh, hiến
cho nền thi ca Việt Nam hiện đại (không phải thời nào cũng sẵn có nhiều lắm những
bài thơ tình thiệt hay).
Màu chủ đạo trong tâm trạng Quỳnh khi đó là đơn côi và chênh
vênh giữa một mùa đẹp nhất và ngắn nhất trong nhịp đi hàng năm của giời đất bốn
mùa.
Xuân Quỳnh với nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ Azit Nexin
|
Thu đã chớm se trong hanh hao và lạnh dịu, hoa cúc đã đổ vàng
“như nỗi nhớ dây dưa”, lá sen đã xanh như ngọc, hoa sen đã hồng lên trong các
gương hồ, cốm đã lên hương nếp non cạnh hoa trái, chuối tiêu chín ửng màu trứng
cuốc, trời đã xanh màu viễn xứ, thắm thiết bay những làn mây trắng và trong vườn
thơ của Quỳnh, đến cỏ… cũng bồi hồi “lật theo chiều mây” về phương gió thổi…
Mùa thu năm ấy quá đẹp và lộng lẫy đến tương phản với tâm trạng
của Quỳnh. Một tâm trạng đơn chiếc, phân vân không định như giữa hai màu áo Quỳnh
ưng mặc những ngày ấy: màu đen hoặc màu hoàng yến.
Quỳnh mặc cả hai, màu đen cho những lúc buồn phiền, màu hoàng
yến cho những ngày tâm hồn hình như có lúc trở lại yên tĩnh và loé lên một tia
nắng ấm của hy vọng nào đó. Nhưng yên tĩnh chẳng đậu được lâu.
Có lẽ lòng Quỳnh cũng nghiêng ngả chênh chao như câu thơ chơi
vơi nọ của Quỳnh: Em từ nhà đi đến ngã tư/ Gặp đèn đỏ trước hàng đinh thứ
nhất/ Chờ sang đường đèn xanh vừa bật/ Em lại quay về, thành phố mùa đông…
Thi thoảng, người ta có thể gặp Quỳnh đạp xe một mình lang
thang trên lối phố thường quen của Hà Nội, trên vai bay lất phất một mảnh khăn
voan màu nắng nhẹ và màu áo len vàng sáng cả buổi chiều. Nhưng đó chỉ là một vệt
nắng nhỏ nhoi hiu hắt trên nền tranh sẫm tối.
Rất nhiều ngày Quỳnh mặc màu đen, đôi mắt to mênh mang nghĩ
ngợi. Quỳnh như chỉ còn một mình với chính bản thân mình và lui vào một cuộc độc
thoại đơn chiếc. Quỳnh có trò chuyện với ai thì cũng với một bộ mặt đi vắng tận
đâu đâu.
Nói đấy, kể chuyện đấy, bông đùa đấy, nhưng lòng lại để tận
nơi xa lắc nào, chỉ một mình Quỳnh biết. Tất cả niềm vui, nỗi buồn như mắc cả ở
đó.
Đôi mắt đẹp thất lạc, lúc nào cũng như rưng lệ và giọng nói cứ
như bên trong có tiếng khóc của Quỳnh, và cả sự đơn côi vô phương của Quỳnh lúc
ấy và bao giờ cũng vậy, mặc lòng, đã tố cáo cái đặc điểm chói chang nhất trong
tính cách của Quỳnh là bao giờ cũng yêu người vượt qua cả bản thân mình, yêu
như chưa từng yêu bao giờ, như giông như gió, như đắm như chìm, đến mức trong
thơ Quỳnh tự thú: “Lòng em nhớ đến anh, cả trong mơ còn thức”.
… Đời Quỳnh, rốt cuộc, như nhiều người đàn bà tài hoa khác,
cũng không ra khỏi thân phận mình. Vai kịch của Quỳnh từ đầu đến cuối đã được
chỉ định bởi số kiếp.
Dân gian quả có lý khi phát biểu cái lẽ thông suốt của sự vật
bằng cách ngôn cô đọng “chạy trời không khỏi nắng”. Và cách đây mấy trăm
năm, đại thi hào họ Nguyễn đã từng than tiếc cho cô Kiều dù “tài sắc mười
phân vẹn mười” cũng không sao chạy thoát được “lưới trời lồng lộng”…
Nhưng về phương diện khác, phương diện một nữ sĩ, Quỳnh là một
người cầm bút hạnh phúc. Tất cả niềm vui, nỗi khổ, những lênh đênh bảy nổi ba
chìm của Quỳnh đã được Thơ trang trải hết.
Thơ là khuôn mặt ngời ngợi sáng trong của tâm hồn Quỳnh, có
bao nhiêu ánh sáng cũng đã được phản chiếu qua thơ và ngay cả khi Quỳnh như một
chiếc lá đã lìa cành thì thơ vẫn tiếp tục sự tồn tại của Quỳnh trên cõi đời
này.
Chỉ mỗi thơ – chứ không phải người – đã thuỷ chung như nhất với
Quỳnh, là nơi yên nghỉ êm đềm cho tâm hồn mệt mỏi của Quỳnh.
Thơ, với Quỳnh, đích thực là một hạnh phúc. Quỳnh bắt đầu đời
làm thơ của mình dung dị hồn nhiên như một con sông vận hành ra biển với những
con sóng nhỏ nồng nàn, khao khát vị mặn trùng khơi.
Hình tượng con sóng thơ ấy của Quỳnh ngay từ khi xuất hiện đã
mang trong mình nó những đặc tính song đôi tương phản – dự báo một tính cách
thơ chói gắt, đầy suy tư trăn trở sau này của nữ sĩ Xuân Quỳnh – "dữ
dội và dịu êm – ồn ào và lặng lẽ – sóng không hiểu nổi mình – sông tìm ra tận bể
– ôi con sóng ngày xưa – và ngày sau cũng thế – nỗi khát vọng tình yêu – bồi hồi
trong ngực trẻ… ”.
Bản chất nồng nhiệt trong thơ Quỳnh dường như dễ ứng với sức
sống ồ ạt, ập ã của sóng, của sông và của biển. Chỉ với nôn nao mong ngóng cháy
bỏng của riêng Quỳnh, mới có thể viết da diết thế về sóng: Con sóng dưới
lòng sâu, Con sóng trên mặt nước, Ôi con sóng nhớ bờ, Ngày đêm không ngủ được;
và về biển, một vùng biển chỉ riêng vỗ trong tấm tình nồng nhiệt của Quỳnh: Những
ngày không gặp nhau, Lòng thuyền đau rạn vỡ, Những ngày không gặp nhau, Biển cồn
cào thương nhớ, Nếu từ giã thuyền rồi, Biển chỉ còn sóng gió, Nếu phải cách xa
nhau, Em chỉ còn bão tố…
Thơ của Quỳnh không phải là thứ thơ tình thuận bằng trắc để dễ
thuộc lòng, nhưng một khi đã đi vào hồn người, nó sẽ mắc lại ở đó và trở thành
cái mà người ta vẫn gọi là “những câu thơ thuộc nằm lòng”.
Nhưng về phương diện khác, phương diện một nữ sĩ, Quỳnh là một người cầm
bút hạnh phúc. Tất cả niềm vui, nỗi khổ, những lênh đênh bảy nổi ba chìm của
Quỳnh đã được Thơ trang trải hết.
|
Những câu thơ ấy giống hệt như những giọt nước sau cơn mưa
qua, còn đọng lại trên lá cây. Chỉ cần một làn gió xúc cảm ở đâu chợt đến, là
những câu thơ ấy sẽ rơi rụng ngay xuống vùng tâm thức và mồn một hiện lên giữa
lòng ta. Và bao giờ lòng ta cũng phấp phỏng bồn chồn khi đọc hoặc lắng lòng nhớ
lại chúng.
Có lẽ, cái “khát vọng tình yêu” từng thiêu đốt thơ Quỳnh cũng
thiêu đốt luôn cả người đọc nó. Rất có thể từ đâu không biết, bỗng bất chợt ập
đến những câu thơ sao khắc khoải nhức nhối lòng ta thế này, dẫu chỉ là “một
chút thơ tình” muộn mằn “cuối mùa thu”:
Mùa thu nay sao bão mưa nhiều
Những cửa sổ con tàu chẳng đóng
Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm
Em lạc loài giữa sâu thẳm lòng anh
Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không thể nói
Trái tim đập cồn cào cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn…
Những cửa sổ con tàu chẳng đóng
Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm
Em lạc loài giữa sâu thẳm lòng anh
Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không thể nói
Trái tim đập cồn cào cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn…
Thực ra, thơ với đời Quỳnh chỉ là một. Thơ và Quỳnh làm tôi
bao giờ cũng liên tưởng đến một người đàn bà yêu đến hết và đến chết – một phẩm
chất thơ và phẩm chất người ngày càng trở nên hiếm quý trong thế giới hôm nay
phai bạc của chúng ta.
Và ta sẽ chẳng hề ngạc nhiên khi càng về cuối, thơ tình của
Quỳnh càng khắc khoải nung đốt lòng người hơn bởi nó thấm đậm những trắc nghiệm
của đời Quỳnh. Một chút phong vị của lý tính chẳng mảy may làm giảm bớt đi vẻ đẹp
đẫm tình của thơ Xuân Quỳnh vốn có từ sơ khởi:
Đấy tình yêu em muốn nói cùng anh
Nguồn gốc của muôn vàn khát vọng
Lòng tốt để duy trì sự sống
Cho con người thực sự Người hơn
Nguồn gốc của muôn vàn khát vọng
Lòng tốt để duy trì sự sống
Cho con người thực sự Người hơn
Và:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Biết khát khao những điều anh mơ ước
Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biết yêu anh và biết được anh yêu
Biết khát khao những điều anh mơ ước
Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biết yêu anh và biết được anh yêu
Sau nhiều năm tháng dằng dặc nữa, tôi bỗng gặp lại Quỳnh ở
Moscow cuối năm 1987. Đó cũng là lần gặp chót. Một thiếu phụ bé nhỏ đi trong
mưa tuyết, những bông tuyết trắng bay ngập trời, gió thổi bời bời, và Quỳnh vẫn
đi một mình trên đường phố như ngày nào ở Hà Nội.
Tôi lại thấy trào lên lòng thương cảm với Xuân Quỳnh và bỗng
thấy xa lắc cái ngày lòng tôi còn hồi hộp “ngồi trong rạp hát, đợi màn lên” bởi
bây giờ chính tôi đang ở cái tuổi “trần ai” ngày nào của Quỳnh.
Xuân Quỳnh với đoàn văn công CHDC Đức (1957)
|
Bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, nhưng vẫn là Xuân Quỳnh của
ngày xưa và có lẽ ngày sau vẫn thế. Vẫn một Xuân Quỳnh bồn chồn không yên,
không sống bằng chính mình mà sống bằng người mình yêu và lúc nào cũng vất vả tất
bật trên đường đời thăm thẳm.
Vẫn cái giọng nghẹn ngào như nấc và vẫn một đôi mắt to đen
nhưng đã bớt đi ánh long lanh sắc sảo, chỉ còn một ánh nhìn ưu tư, đắng đót.
Và vẫn nguyên một tấm tình nồng nhiệt đắm say như thế, cô đơn
như thế và hạnh phúc, với Quỳnh rốt cuộc vẫn cứ mong manh ẩn hiện như đóm lửa
ma trơi ở cuối đời. Quỳnh vẫn như một người lữ hành mải miết hướng tìm đến nó –
nhưng chắc gì Quỳnh đến được La Mã như mong đợi:
Tôi không có một gian phòng
Lang thang suốt những năm ròng tuổi thơ
Gia tài là mấy bài thơ
Dẫu bao người đọc vẫn chờ đợi ai
Núi cao biển rộng sông dài
Tôi đi khắp chốn tìm người tôi yêu.
Lang thang suốt những năm ròng tuổi thơ
Gia tài là mấy bài thơ
Dẫu bao người đọc vẫn chờ đợi ai
Núi cao biển rộng sông dài
Tôi đi khắp chốn tìm người tôi yêu.
Về cuối, đôi khi ta thấy thơ Quỳnh như tối lại bởi những đám
mây đen hoài nghi che phủ. Nếu câu hỏi về trần thế đặt ra cho Các vị La Hán
chùa Tây Phương trong thơ Huy Cận được miêu tả gay gắt như “Một câu hỏi lớn
không lời đáp, Cho đến bây giờ mặt vẫn chau” thì câu hỏi về tình yêu và hạnh
phúc cũng thôi thúc y như thế trong thơ Quỳnh: Đốt lòng em câu hỏi/ Yêu em
nhiều không anh?
Và thơ Quỳnh cố tìm ra câu trả lời, cùng lúc với việc nhận
chân giá trị tương đối của hạnh phúc. Là người thông minh, khi không quá đắm
say, Quỳnh vẫn tỉnh táo biết đời là sớm nắng chiều mưa, biến chuyển khôn cùng:
Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu mai có thể xa rồi
Niềm đau đớn tưởng như vô tận
Bỗng có ngày thay thế một niềm vui
Hôm nay yêu mai có thể xa rồi
Niềm đau đớn tưởng như vô tận
Bỗng có ngày thay thế một niềm vui
Có một nỗi e dè gần như sợ hãi của con trẻ trong thơ Quỳnh,
giống như một con chim non đã một lần phải tên…
Con sáo đã sang sông bạt gió, con cò đậu phải cành mềm – những
trắc nghiệm của lỡ lầm vọng thầm trong thơ Quỳnh. Những câu thơ đọc xong, thấy
tội nghiệp cả Quỳnh lẫn chính bản thân mình.
Hạnh phúc là một thứ quả ngọt dường như xa xôi lắm, quá tầm
tay với, nên Quỳnh cứ như mơ đi ở giữa ngày thường.
Ai có thể mơ và cảm nhận được như Quỳnh cái li ti quá đơn sơ
này của hạnh phúc: Như lúc này anh ở bên em – Niềm vui sướng trong em là
có thật – Như chiếc áo trên tường, như trang sách – Như chùm hoa mở cánh giữa
hiên nhà…
Quỳnh đã ra đi, “con ong xanh” đã bay về miền thanh thản của
cõi hư vô, “bông cúc nhỏ” cánh đã rã rụng, thôi không còn “màu hoa vàng” cháy rực
trong đêm… nhưng Quỳnh cũng đã kịp để lại giữa đời những cành thơ tươi xanh của
mình.
Ta biết rằng những cành thơ ấy sẽ tươi nguyên qua nhiều năm
tháng vì nó được bắt rễ và mọc lên từ một tâm hồn nhân hậu, vị tha, đau đáu với
Đời, dù cuộc đời riêng không toại ý, dù ấm lạnh thất thường của thế thái nhân
tình thì Xuân Quỳnh vẫn giữ nguyên trong mình một tình yêu không phai bạc với
con người.
Có lẽ chừng nào còn những lời thơ tình nồng nàn, ngây dại, đắm
say đến thế: Em trở về đúng nghĩa trái tim em – Là máu thịt cuộc đời ai chẳng
có – Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa – Nhưng biết yêu anh cả khi chết
đi rồi… thì có lẽ nào ta lại không muốn SỐNG và YÊU giữa cuộc đời tươi đẹp
này, bởi Xuân Quỳnh đã từng yêu nó ngay cả khi Xuân Quỳnh không còn nữa?.
TS Nguyễn Thị Minh Thái
Nguồn tuanvietnam.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét