Hai khát vọng thống thiết nhất
của con người là hạnh phúc và chân lý. Lịch sử của nhân loại là lịch sử đi tìm
kiếm hai đối tượng đó. Chúng ta sống trên hành tinh này với mục đích duy nhất
là đem lại hạnh phúc cho mình và cho người, chứ không phải để gieo rắc tang tóc
và đau khổ cho nhau.
Trong thế giới đầy bóng tối
và hận thù của đe dọa chiến tranh và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp
lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biết và tình thương bao dung. Đó cũng là bức
thông điệp đức Phật để lại cho chúng ta, bức thông điệp kêu gọi nhân loại hãy
phấn đấu để trở thành những con người toàn thiện, những bậc Thánh giả thoát khỏi
mọi sự ràng buộc và đau khổ của kiếp nhân sinh.
Qua lăng kính Phật giáo,
theo lời Thế Tôn dạy: “Cuộc đời và cả cuộc sanh tử chỉ là khổ đau”. Trong đó,
con người là một hiện hữu phức tạp của một tổng thể tâm lý, vật lý, tình cảm, ý
chí và trí tuệ, của quá khứ, hiện tại và tương lai, của sầu bi ưu khổ não, của
sanh già bệnh tử và muôn vàn khổ đau khác ràng rịt con người, khuấy đảo nhân loại
trong bến mê, trong nhà lửa tam giới. “Vua chết nuốt chúng sanh, suy già nuốt
tuổi trẻ, bệnh đến mạnh khỏe tiêu, người thế gian không biết” (Kinh Chánh Pháp
Niệm Xứ).
“Tất cả các thế gian, vật sống
đều phải chết, thọ mạng tuy rất nhiều, rốt cuộc quyết phải hết. Lúc thạnh dần đến
suy, hội họp quyết biệt ly, hoa niên được bao lâu, thinh sắc bị bịnh cướp. Các
khổ chạy vòng tròn, trôi lăn không chút nghỉ, ba cõi đều vô thường, các cõi đâu
có vui!”
(Kinh Niết-bàn)
Những bậc Thánh nhân thấy được
thực tướng của sự vật. Tất cả đời sống đều là khổ não và không thể có hạnh phúc
thật sự bền vững trong một thế giới huyền ảo, mong manh, tạm bợ, vô thường, khổ,
vô ngã. Không thể có hạnh phúc trường tồn vĩnh cửu trong một thế gian luôn luôn
biến đổi, sinh diệt. Hạnh phúc của cuộc đời chỉ là sự thỏa mãn một vài ước vọng,
thật mong manh rồi chợt tắt “Khi ta vừa đạt được nó, thì nó đã vội lìa bỏ ta”.
Chính vì trần thế bi ai, phù
du, tạm bợ và các khổ đau vô thường, bất toại nguyện làm ta đau khổ. Chúng ta
không muốn sống chung với người ta không ưa thích và cũng không muốn xa lìa những
người thương yêu. Những hoàn cảnh nghịch lòng, trái ý và nghiệt ngã lắm lúc xảy
đến đột ngột làm cho ta vô cùng khổ sở, khốn đốn.
Đối với người thế gian, chưa
tỏ ngộ được chân tướng vạn hữu, thì thọ hưởng dục lạc là hạnh phúc tốt đẹp duy
nhất, như những tình yêu, vật chất, danh sắc, tài sản, quyền thế, danh vọng, địa
vị …. Nếu sự nghiệp vật chất ấy được thâu đoạt bằng bạo lực hay bằng một phương
tiện bất công nào khác, hoặc nếu sự nghiệp ấy được hướng theo một chiều lầm lạc,
hay ta đem lòng luyến ái nó, triều mến nó, thì đó là nguồn đau khổ và phiền não
vô biên.
Chắc chắn rằng có hạnh phúc
nhất thời khi mơ ước, lúc thọ hưởng dục lạc vật chất, nhưng hạnh phúc ấy quả thật
ảo huyền và tạm bợ, mong manh và dễ mất. Theo đức Phật, vượt lên trên mọi
dục lạc, cám dỗ, sân hận, si mê, … mới chính là hạnh phúc cao thượng và trường
cửu.
Thế nhưng cuộc sống giả tạm,
đổi thay và nhiều cạm bẫy vẫn luôn rình rập kiếp người trong từng sát na, âm ba
diệu pháp vang vọng khắp chân trời mà nhân thế vẫn còn chìm trong bể khổ.
Chính trong sự khổ đau như
xé lòng đó, đức Phật Thích Ca đã ra đời, đem phương thuốc diệt khổ để cứu khổ
cho chúng sanh, bằng vô số pháp môn phương tiện để ứng hợp với từng căn bệnh
chúng sanh mà cho thuốc.
“Vườn Nai Phật chuyển pháp
luân
Rống lên tiếng rống uy hùng
thậm thâm
Đoạn sanh tử diệt mê lầm
Khai thông nẻo đạo pháp âm
nhiệm mầu”.
(Tập Thư Tiểu Viên)
Suốt cuộc đời giáo hóa gần nửa
thế kỷ, đến lúc trước khi nhập Niết-bàn, đức Phật cũng chỉ tuyên bố rằng: “Này
chư Tỳ Kheo! Xưa cũng như nay ta chỉ nói khổ và con đường diệt khổ”.
(Kinh số 22, Ví Dụ Con Rắn,
Trung Bộ1, trang 319)
Điều này mang ý nghĩa: toàn
bộ giáo lý đều được quy vào trong Tứ Thánh Đế. Thế nên có lần tôn giả Xá Lợi Phất
đã tuyên bố: “Tất cả các thiện pháp đều bao hàm trong Tứ Thánh Đế, như dấu chân
của các động vật đều thu nhiếp trong dấu chân voi”.
Phật giáo như thế, khởi hành
từ thực tại khổ đau của cuộc đời, nhìn cuộc đời như cuộc đời đang là. Từ đây ta
đi tìm nguyên nhân của khổ đau có mặt ngay trong chính cuộc đời này.
Phật giáo không liệt kê những
khổ đau tưởng tượng, những nguyên nhân phi thực, bi quan yếm thế. Phật giáo
phân tích tỷ mỹ và quan sát tận tường, sự quan sát này dẫn đến tri kiến chơn
chánh thực tướng của vạn hữu. Chân lý này phải được chứng ngộ bằng con đường
Bát Chánh Đạo, đó là con đường dẫn đến Niết-bàn.
Nhận thức về cuộc đời của Phật
giáo là nhận thức rất khách quan và rất như thật. Thái độ sống của Phật giáo là
thái độ sống “Trung đạo” xa lìa các thái cực hành khổ hay phóng túng trong dục
lạc. Phật giáo nói đến sự sống của con người một cách thiết thực, rất nhân bản,
khoa học và hoàn toàn không dựa trên một niềm tin siêu hình nào. Vì lợi ích thiết
thực là giải thoát. Phật giáo đưa ra quan điểm về vũ trụ, về nhân sinh để người
ta có thể hiểu biết đúng đắn và hướng nội tâm về con đường tu tập, hầu thoát khỏi
các nỗi đau khổ sanh tử.
Hơn 25 thế kỷ đã trôi qua,
giáo lý Phật Đà vẫn luôn tồn tại với thời gian, vẫn đi vào lòng người và không
có gì chống trái với thực tế, với đà tiến hóa của nhân loại. Cho đến nay, những
phát hiện mới của khoa học về vũ trụ, về con người càng khẳng định tính chất
đúng đắn, khách quan trong giáo lý của đức Phật.
Trong kinh Tương Ưng V phẩm
Chuyển Pháp Luân, trang 424 có ghi lại bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật là
“Tứ Đế”. Bài pháp đầu tiên này là bức thông điệp cứu độ loài người, là tinh yếu
cốt lõi, là giáo lý chân thật, tối thượng, thiết thực, cụ thể. Con người là gốc
khổ đau và sự giải thoát của chính mình. “Khổ và con đường diệt khổ” là con đường
chân chánh “Trung đạo”. Tám phương cách cần để tu tập.
Nói là bốn Thánh Đế, nhưng
thật sự ra chỉ có một sự thật muôn thuở: “Ai thấy rõ khổ đế thì người ấy đồng
thời cũng thấy suốt Tứ Thánh Đế đúng như Thế Tôn dạy: “Người nào thấy được khổ,
cũng thấy được sự phát khởi, sự chấm dứt và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ”.
(Tạp A Hàm câu 437)
Quả thật đó là một chân lý bất
diệt, một con đường rất thiết thực và hiện tại cho những ai muốn tìm hạnh phúc
và sự bình an trong cuộc đời qua con đường tâm linh. Bất cứ ai với lòng quyết
tâm và thiện ý đều có thể đi trên con đường này để đạt được hạnh phúc miên viễn
cho chính bản thân mình.
Khi ta thấy đúng sự thật là ta
đang ở trong một cuộc chiến vô vọng, nếu ta cứ tiếp tục đòi hỏi dục lạc và bảo
vệ cái tôi của chính mình, là ta đang đi trên con đường đạo và đó là giây phút
tuyệt vời, có thể tìm hiểu và chứng nghiệm được vị ngọt của Thánh quả. Chỉ có
thực hành mới giúp ta kiện toàn đạo đức và phát triển tâm linh.
Suốt cuộc đời tu tập, truyền
bá gần nửa thế kỷ, đức Như Lai không khi nào có bàn tay nắm lại của một đạo sư.
Tất cả những kinh nghiệm máu xương đều được Ngài truyền dạy cho đệ tử. Hãy y cứ
vào những lời Phật dạy mà phụng hành thì sẽ được giác ngộ và giải thoát. Đó là
tự mỗi người phải nổ lực và nương tựa vào chánh pháp, không nương tựa vào một
ai khác “Các ngươi hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên chánh pháp, đừng
thắp lên với một pháp nào khác, hãy nương tựa vào chính mình, nương tựa với
chánh pháp”. (Hảy Tự Mình Thắp Đuốc Lên Mà Đi-Bd HT Minh
Châu, xb 1999)
Suốt 45 năm thuyết pháp đức
Phật đã để lại một kho tàng kinh điển vô giá đã được các vị Thánh Tăng kiết tập
và hậu thế hoằng truyền đến ngày nay. Nội dung tam tạng kinh điển gồm thâu
không ra ngoài con đường thắp lên ngọn đuốc trí tuệ soi sáng cho mình và tha
nhân bằng ý chí tự lực, tự cường, bằng sự nghiên cứu tìm tòi, thực tu, thực chứng
của chính bản thân mình. Thấm thía lời Phật dạy, trải qua hằng bao thế kỷ, chư
vị tiền bối, lịch đại tổ sư đã thực sự sống một cuộc sống hạnh phúc chân thật
khi thực hành theo lời dạy của đức Phật. Các Ngài luôn là tấm gương sáng ngời
cho đàn hậu thế noi theo.
Để hoàn thành bản luận văn
này, người viết đã tham cứu nhiều tài liệu Phật học. Trải qua bốn năm dưới mái
trường Học Viện, con đã được thấm nhuần lời dạy của các bậc Tôn Sư và các vị
thân Giáo sư, thế nhưng con thiết nghĩ, những nhận thức kia chỉ là hạt cát
trong lòng đại dương mênh mông, giữa biển Phật pháp bao la không bờ mé. Nhưng
người viết cũng đành chấp bút để làm tròn bổn phận của một sinh viên theo lời
chỉ dạy của Hội Đồng Điều Hành Học Viện. Đồng thời được sự giúp đỡ, động viên của
chư vị Tôn sư, con mạnh dạn chọn đề tài “Cuộc Đời Qua Lăng Kính Phật Giáo” làm
bản luận văn tốt nghiệp của mình. Bằng thủ pháp lập luận, dẫn chứng, chứng
minh, phân tích người viết hết sức cố gắng hoàn thành bản luận văn, nhưng với
hiểu biết nông cạn của mình không làm sao tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong
quý Ngài từ bi chỉ giáo.
Cuộc sống của tha nhân vẫn
đang trôi chảy theo dòng đời bất tận, nó đi đi mãi có chờ đợi ai. Ta là ai, ta
đang làm gì? Khổ đau và hạnh phúc ở đâu? Hay tất cả đang là câu hỏi lớn không
có sự hồi âm thỏa đáng. Để thật sự tìm được câu giải đáp này, nhận thức được
“Cuộc Đời Qua Lăng Kính Phật Giáo”, chúng ta hãy thông qua đạo lý “Khổ Thánh Đế”
mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chỉ dạy.
“Thời gian đang săn đuổi
Ta chạy về nơi đâu?
Hay nhịp chân thanh thản
Ta về với nhiệm mầu”.
(Những Bước Chân, Tiểu Viên,
trang 95)
I. Nhận Thức Về Cuộc Đời. Luận
Về Chữ Khổ Của Con Người.
Kiếp người mong manh, phù
du, tạm bợ và đầy thống khổ tang thương, nhưng dưới ánh sáng của đạo Phật, khổ
đau nhưng không hề tuyệt vọng, như từ dưới bùn nhơ vẫn vươn lên những đóa sen
thơm ngát tỏa hương dâng cho đời.
Đạo Phật nhận chân cuộc đời
đau khổ là sự thật luôn khống chế tâm thức mọi người, luôn gắn liền với kiếp sống
của con người, con người bị ràng rịt và không sao thoát khỏi sự thật thống khổ
đó, khổ đau đã do sự kết tập truyền kiếp của mỗi người để tạo thành nghiệp dĩ,
khổ đau còn do sự cộng tập của chúng sanh. Đạo Phật đã đặt trách nhiệm về nghiệp
dĩ của mỗi người trong tay chính mỗi người, trong thực tế của hoàn cảnh. Con
người không thể lẫn trốn thực tại được và lẫn trốn thực tại chính là chui vào lớp
võ vô minh nguy hiểm, tức là đã đầu độc nhận thức để đành buông xuôi theo nghiệp
lực, theo vòng xoáy của luân hồi sanh tử, của khổ đau triền miên. Mọi hiện tượng
vật lý đều bị nằm trong định luật vô thường, ảo hóa, sanh diệt biến dị, như
bóng trăng, bọt sóng, như mộng huyễn bào ảnh. Như Thiền Sư Vạn Hạnh nói:
“Cuộc đời như áng mây bay
Trăm năm như cái nhướng mày
đó thôi”.
Mọi hiện tượng tâm lý đều
nhuộm màu thống khổ, đau thương, tuyệt vọng, ý thức bị quay cuồng trong vọng niệm
giả tạo, sướng khổ vui buồn, hờn giận yêu ghét … luôn khát vọng để rồi thất vọng
và khổ đau triền miên trải dài theo năm tháng, theo nhịp hối hả của thời gian.
“Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà
đau.
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nắm cỏ khô
xanh rì”. (Sđd, câu 101-104)
Thân người như bọt nước
trong bể khổ, ngẫm nghĩ cho cái thân phận nổi trôi trong phù thế, những cánh
bèo trôi dạt trong bến mê, bị lạc lối lênh đênh như lục bình trên sóng nước
“Khi hiểu ra thì than ôi!”
“Mùi phú quý nhữ làng xa mã,
Bã vinh hoa lừa gã công
khanh.
Giấc nam kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình
tay không”. (Sđd, câu 81-84)
Tuy người đời thấy vô thường
là khổ nhưng họ lại chấp chặt vào lòng khát ái và tự ngã, nên khổ đau thì lại
thở than, càng than thở càng thấy khổ đau thống thiết.
“Gót danh lợi bùi pha sắc
sám,
Mặt phong trần nắng táp mùi
dâu.
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu nước
trôi”.
(Cung Oán Ngâm Khúc, câu số
65-68)
Khổ đau thật sự theo Phật
giáo không phải vì vô thường, mà vì lòng tham ái, chấp thủ. Do lòng tham ái muốn
nắm giữ cuộc sống không ngừng trôi chảy biến dịch mà cảm thấy khổ đau. Phật
giáo đi sâu vào bản chất khổ đau, thấy được sự thật, căn nguyên của từng nỗi khổ
đau và tìm phương pháp làm triệt tiêu, chuyển hóa chúng.
II. Nhận Thức Sự Thật Về Khổ
Đau (Dukkha) Trong Phật Giáo
(Chân Lý Thực Nghiệm Về Khổ)
1. Trầm Tư Về Cuộc Đời
Những bậc vĩ nhân như các
triết gia, thi sĩ, văn sĩ cũng như thái tử Tất Đạt Đa đã từng có những giây
phút trầm tư về cuộc đời, về những khổ đau của nhân loại, đau khổ còn gợi cho
các văn thi sĩ sáng tác những tác phẩm bất hủ. Chẳng hạn qua bài hát “Trở Về
Cát Bụi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
“Này là nhà lớn, lầu vàng
son, này là lợi danh, chức quyền cao sang, có nghĩa gì đâu sẽ mất người ơi, như
nước trôi qua cầu. Này là lời hứa, lời thủy chung, này là tình yêu chót lưỡi đầu
môi, có thế mà thôi sẽ mất người ơi, như áng mây cuối trời”. Vì cuộc đời đen bạc,
nhạc như nước ốc, bạc như vôi nên nhạc sĩ lại tha thiết gởi gấm lòng mình “Cuộc
sống mong manh xin nhắc ai đừng đổi trắng thay đen”.
Xuân Diệu cũng có nhiều trăn
trở, khắc khoải về khổ đau của kiếp người, cuộc đời đối với nhà thơ thật buồn
theo giọt lệ lăn dài theo thời gian:
“Trái đất ba phần tư nước mắt
Đi trong giọt lệ giữa không
trung
Trong những đời đau khổ ấy
tôi sinh…
Như đoạn kết nỗi buồn trong
thiên hạ
Như góp thu giọt lệ của muôn
đời.
Máu của linh hồn và nước mắt
Còn rơi biết tới thuở nào
trôi!”. (Sđd-câu 72-83)
Hay như Thái tử Tất Đạt Đa
sau khi thăm bốn cửa thành, chứng kiến các khổ đau kiếp người. Ngài buồn ủ rũ
giữa cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh.
“Em ơi!
Làm sao nguôi quên
Trước thời gian hung hãn
Làm sao ngăn cản
Cảnh vật chẳng điêu tàn
Mắt trong của em rồi sẽ mờ đục
Môi đỏ của em rồi sẽ úa màu!
Xuân xanh hạnh phúc là hư thật?
Cay đắng làm sao hóa ngọt
ngào”. (Ánh Đạo Vàng của Võ Đình Cường)
Từ tư duy về nỗi khổ sanh
lão bệnh tử của kiếp người, Ngài không muốn thứ hạnh phúc tạm bợ, mong manh.
Ngài muốn tìm con đường giải thoát cho mình và tất cả chúng sanh. Ngài đã mở ra
cho nhân loại một nhận thức mới, một lối sống mới để có thể cảm nhận nguồn hạnh
phúc vĩnh hằng từ cuộc sống thực tại.
2. Sự Thật Của Khổ Đau.
Khổ là nguyên lý chạy dài và
bao trùm hệ thống tư tưởng Phật giáo, “Khổ” là một chân lý thực nghiệm, không
những chỉ sinh, lão, bệnh, tử mới là khổ. Còn bao nhiêu cái khổ khác đầy phiền
toái. Nhận thức cái khổ (Dukkha) nghĩa là phải nhận chân một cách rõ rệt và xâu
xa tính cách vô thường, vô ngã chống đối nhau của vạn sự, vạn vật. Con người phải
thực nghiệm một cách sâu sắc, thâm thúy cái “Khổ” ấy, cái sự thật vô thường, vô
ngã, bất tịnh và mâu thuẫn ấy. Có như thế con người mới đặt vấn đề cần thiết.
Tìm nguyên do sự khổ và phương pháp diệt khổ.
Chính vì khổ đau của chúng
sanh là đôỉng lực đưa đến sự thị hiện của chư Phật ở thế gian.
“Khổ” do chữ “Dukkha” mà ra,
“Du” nghĩa là khó, “Kkha” là chịu đựng, là những kham nhẫn, là đau khổ. Tàu dịch
là Khổ, nghĩa là đắng. Nói rộng ra “Khổ” là trạng thái bất như ý, mọi khát vọng
chủ quan bị bác bỏ, thiếu hụt mọi thứ, là cái gì khó chịu đựng lâu dài, khổ có
thể về tình cảm, về tinh thần, khổ về thân xác và mọi thứ khách quan chung
quanh. Khổ là một kinh nghiệm mà bất cứ hữu tình nào cũng thể hiện hơn một lần
ngay cả bản thân mình, không nhiều thì ít không một ai trốn khỏi cả.
Có một số người cho rằng đời
là một bữa tiệc dài, không hưởng thụ cũng uổng. Do đó họ không để lỡ một dịp
nào để hưởng thụ những khoái lạc vật chất. Nhưng họ không hiểu rằng những khoái
lạc ấy là hư ngụy, giả tạm, giả dối, lừa phỉnh như người khát mà uống nước mặn,
càng uống lại càng khát bởi lòng tham của con người là vô cùng, là túi tham
không đáy, càng mong ước, khát vọng thì lại càng khổ đau.
Có bao nhiêu thứ khổ? Kể sao
cho hết tất cả sự khổ của thế gian bởi sự khổ đau thì vô cùng. Song căn cứ theo
kinh Phật có thể phân loại ra ba thứ khổ (tam khổ) hay tám thứ khổ (bát khổ).
a)
Ba khổ là:
Khổ khổ.
Hoại khổ.
Hành khổ.
1)
Khổ Khổ:
Khổ khổ là cảm giác khổ đau
về thân tâm hiện tiền, là sự bất toàn, không ổn, là vô thường, hoại diệt, kham
nhẫn khó chịu, là cay đắng … Nói rộng ra “Khổ” là trạng thái bất như ý, mọi
khát vọng chủ quan bị bác bỏ, thiếu hụt mọi thứ, là cái gì khó chịu đựng lâu
dài, khổ có thể về tình cảm, về tinh thần, khổ về thân xác và mọi thứ khách
quan chung quanh. Khổ là khổ không thể nói khổ là vui, không thể nói sanh lão bệnh
tử là vui vẻ hạnh phúc. Khổ là khổ, không ai có thể nói khác đi được.
Mỗi chúng sanh tự mình là nạn
nhân của bao nhiêu cái khổ, cái xấu xa. Thân thể chứa đầy bất tịnh, mạng sống
mong manh lại thường sanh ra bệnh tật, đau yếu và những biến cố xảy ra chung
quanh khiến cho con người không thể không lo âu và sợ hãi, không biết cái chết
đến lúc nào và chết ra sao? Nên đối với sự sống chết, bệnh tật, đau yếu lại cộng
thêm vào đó những thiên tai, bão lụt, động đất … con người không thể làm chủ được
cho chính bản thân mình. Chỉ có diệu pháp thần dược của đức Phật mới có thể làm
cho con người thăng hoa, vượt lên tất cả những khổ đau của cuộc đời.
2) Hành Khổ:
Đứng về mặt vật chất con người
bị hoàn cảnh bên ngoài chi phối, phá hoại. Về tinh thần lại không thể tự chủ,
yên ổn, an vui … trong từng phút, từng giây, từng sát na. Thân thể và tâm hồn
con người âm thầm thay đổi không ngừng, thường bị dục vọng lôi kéo trong vọng
tưởng, tà kiến, vô thường chấp là thường, vô ngã chấp là ngã … nên bị luân hồi
sanh tử triền miên.
Đức Phật dạy rằng: “Thực tế
cuộc đời người ta ngắn ngủi, giới hạn, phù du, đầy khổ não, dày vò. Nó giống
như giọt sương buổi sáng tan đi khi mặt trời vừa mọc, nó giống như bọt nước,
như một đường vạch trên nước, như một dòng thác cuốn đi tất cả những gì nó gặp
và trôi chảy mãi không ngừng, nó giống như con vật tại lò sát sinh, lúc nào
cũng đương đầu với cái chết”.
(An,III,70)
Tất cả mọi sự vật trên đời,
đau khổ là một quá trình được tạo tác mà nguồn gốc là từ con người, là nguyên
nhân chính yếu của nỗi khổ đau. Xét kỹ hơn, tâm hồn còn bị chi phối bởi tiềm thức
nó sai sử một cách mãnh liệt trong mỗi ý nghĩ, mỗi hành động như buồn, giận,
ghét, thương. Con người còn bị chi phối bởi dục vọng, tiềm thức và luôn chịu dưới
sự điều khiển của chúng. Đó là Hành Khổ.
3) Hoại Khổ:
Trong kinh Kim Cang đức Phật
dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, vạn vật trong vũ trụ đều bị vô thường
chi phối, đều phải biến chuyển không ngừng, chúng bị sanh, trụ, dị, diệt hoặc
thành, trụ, hoại, không.
Chúng ta đang ở trong cuộc
chiến đấu để được trường tồn, nhưng không có ai còn hiện hữu khi cuộc sống của
người ấy chấm dứt. Muốn có được dục lạc, ta cũng phải tranh đấu vật vã không
kém nhưng điều đó cũng vô vọng, vì dục lạc và hạnh phúc thế gian tạm thời,
chóng qua. Chúng đều phải bị hoại diệt, ta hoàn toàn bất lực trước thời gian.
Chúng ta đang sống một cuộc
đời thiếu ý nghĩa, nếu chúng ta cảm thấy rõ rằng lòng ham muốn của chúng ta khó
có thể thỏa mãn thì ta phải tìm phương cách thoát ra những cảnh khổ mà ai ai
cũng phải chịu. Muốn đạt đến mức tự vượt con người không chỉ tự nhận khổ đau với
sự thật hiện tại, mà còn phải biết nguồn gốc của sự khổ đau đến từ đâu.
“Niềm vui qua mau quá
Nỗi buồn sao mênh mang?
Thuyền trôi trong bến lạ,
Nhiều cay đắng bẽ bàng.
Nhìn đời qua ảnh củ,
Treo trong nhà u mê.
Thì làm sao mỗi sáng,
Thấy xuân nhẹ bước về?”
(Cây Đời Màu Xanh của Tiểu Viên, Thiền ca 99)
b) Bát Khổ.
Phật học còn nói đến tám thứ
khổ thế gian đó là sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng
hội khổ, cầu bất đắc khổ và ngũ ấm xí thạnh khổ. Tám thứ khổ này quay cuồng
chúng sanh trong vòng xoáy tội lỗi, nhiễm ô, hụp lặn trong biển đời dâu bể.
1) Sanh Khổ:
Nói đến sanh khổ, Phật học
thường nhấn mạnh hai điểm là khổ trong lúc sanh và khổ trong đời sống.
Kinh dạy rằng: “Mỗi mỗi loài
chúng sanh trong từng giới loại, sự sản xuất, xuất sanh, xuất thành, tái sanh,
sự xuất hiện của các uẩn hoặc sự đắc thành các căn gọi là sanh”. (Trung Bộ III,
Đế Phân Biệt Tâm Kinh, tr 471)
a. Khổ trong lúc sanh: “Với
con người, sanh có nghĩa là từ khi kết thai cho đến khi ra đời, sự kết thai khởi
đầu đã là khó khăn, phải có ba điều kiện thai nhi mới hình thành nghiệp thức,
tinh khí của cha mẹ và phải trong thời kỳ người mẹ có thể thụ thai” (Kinh Đại
Duyên, Trường Bộ III)
Chín tháng trong lòng mẹ, với
thai nhi là cả thời gian dài dằng dặc và hãi hùng. Khi thì nghe nóng như ở sa mạc
nắng cháy, khi thì nghe như ở giữa tuyết lạnh. Thức ăn và những chuyển biến của
người mẹ đều có ảnh hưởng mạnh vào thai nhi. Thai mỗi ngày mỗi lớn thì người mẹ
phải mệt mõi nặng nề, đi đứng khó khăn. Thai nhi tăng trưởng và hình thành
ngoài sự mong muốn của mình, đây là điều khổ lớn.
Lại nữa, nghiệp thức vào
thai là kết quả của ái, thủ, hữu, vô minh, khiến quên hết những gì thuộc về đời
sống quá khứ của mình. Đây là điều khổ lớn khác.
“Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc ban đầu
mà ra.
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương
dâu”.
(Ôn Như Hầu)
b. Khổ Trong Đời Sống: Về
phương diện vật chất hay tinh thần, đời sống đều có nhiều điều khổ sở.
Về vật chất, con người đòi hỏi
những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men. Muốn
có những nhu cầu ấy con người phải cần lao kham khổ, đổ mồ hôi sôi nước mắt, cực
nhọc vô cùng … mỗi người một cảnh khổ khác nhau, giàu cũng khổ, nghèo cũng khổ
… không thể nói cho hết được những khổ đau của kiếp người trong cõi thế.
Về phương diện tinh thần, đời
người cũng có nhiều điều khổ sở, khổ về tinh thần còn khủng khiếp hơn nhiều,
hơn cả những thiếu thốn vật chất. Về sự học hỏi, thực nghiệm từng trải của con
người lắm khi phải trả một giá rất đắt, ta phải bị phỉnh gạt, lừa dối, áp bức,
kẻ nọ oán thù, người kia ganh ghét …. Con người phải luôn đối phó với bao tình
huống, có khi vui vẻ hạnh phúc nhưng lắm lúc cũng trớ trêu nghiệt ngã không
cùng … niềm vui chỉ thoáng qua rồi chợt tắt, còn nỗi đau khổ cứ trải dài theo
năm tháng, theo nhịp gõ khắc nghiệt của thời gian.
2. Già Là Khổ:
“Sự niên lão, sự hư họai, trạng
thái rụng răng, tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ rút ngắn, các căn biến hoại. Như vậy
gọi là già”.
(Đế Phân Biệt Tâm
Kinh, Trung Bộ III, tr 471)
Ai lại không muốn mình trẻ
mãi, càng mong trẻ thì càng thấy khổ và già. Già là sự kiện không ai mong muốn
nó đến nhưng nó cứ đến, như hoàng hôn, như chiều tà, vùi chôn bao mộng ước. Có
nhiều người chưa kịp già đã chết, hoặc chết từ trong bụng mẹ, chết khi còn ấu
thơ …
Nếu trẻ là đẹp và đầy sức sống
bao nhiêu thì già càng ngược lại bấy nhiêu. Càng già, khí huyết càng hao mòn,
tóc bạc, da nhăn, mắt mờ, tai điếc, các căn suy hoại …. Già cướp đi sức khỏe,
cướp đi cái thứ hạnh phúc của ăn, mặc, ngủ …. Nó như con ngựa bất kham trên đường
dài ngàn dặm … Ở đó, cái chết đang tiến gần, cái mà mọi người đều sợ hãi.
“Già nua là cảnh điêu tàn,
Cây già cây cỗi, người già
người suy”.
Tiết thương cho tuổi trẻ đã
trôi qua, mà cuộc đời này ta còn lại gì? Tuổi già, bóng xế trăng lu, mờ mờ một
áng mây trôi cuối trời.
“Già lụm cụm mắt mờ tai điếc,
Thời tráng niên oanh liệt
còn đâu?”
Thật đúng là “Lão khổ”.
3) Bệnh Khổ:
Thân tứ đại có ai thoát khỏi
bệnh đau, bệnh hành hạ xác thân con người, làm cho nó khổ sở, đau đớn khó chịu.
Đã đau bất luận là đau gì, từ cái đau lặc vặt như chóng mặt, nhứt đầu … đến như
đau trầm trọng như đau tim, gan, bao tử … đều làm cho con người phải rên xiếc,
khổ sở, khó chịu, không ăn được, ngủ được. Nhất là những căn bệnh trầm kha lâu
ngày khó chữa thì lại càng hành hạ xác thân, thân thể đau nhứt mõi mệt, chán đời,
cầu chết không được, cầu sống không xong, dở dở ương ương ngày qua tháng lại thật
là khổ sở, than ôi!
Thân đã đau mà tiền lại hết,
có nhiều người sau một trận đau, chỉ còn hai bàn tay trắng, cho nên ngạn ngữ có
câu: “Bệnh thì giỏi cũng thành dở, giàu thành nghèo, sang cũng thành hèn”.
Ngoài ra, bệnh còn làm cho
cha mẹ, bà con, anh em, quyến thuộc buồn rầu, lo sợ, hao tiền tốn của, mệt mõi
trăm bề. Thật đúng là bệnh khổ.
Trong bốn hiện tượng sanh,
già, bệnh, chết, thì chết làm người ta kinh hãi nhất.
Mọi người trên thế gian đều
phải chết, chỉ khác nhau chết sớm hay muộn mà thôi, chết nhẹ nhàng hay chết
trong đau đớn, quằn quại tùy theo cận tử nghiệp của mỗi người.
Cũng có người chết bất đắc kỳ
tử vì tai nạn, thiên tai như trận sóng thần vào ngày 26-12 vừa qua tại các nước
Đông Nam Á, làm cho hàng ngàn người tử vong, thây nổi đầy biển cả làm mồi cho
cá và nạn động đất tại Nhật Bản … đã làm cho những người thân ruột thịt đau đớn
không nguôi, cả thế giới phải kinh hoàng, sợ hãi.
Những chiến tranh loạn lạc,
máu chảy thành sông, xác phơi đầy đồng, làm mồi cho chim trời, khiến cho con xa
cha, vợ lìa chồng, tiếng kêu than dậy trời ngập đất.
Lại cũng có những cái chết
thật nhẹ nhàng qua một giấc ngủ ngàn thu nhưng không kém phần đau khổ.
“Một giấc ngủ không bao giờ
dậy,
Ngàn năm ngăn cách chẳng
ngày mai.
Đó là chia ly, là tử biệt
Chẳng bao giờ nghe được tiếng
con…”. (Lời Nhắn Nhủ Của Mẹ)
Có những người lực sĩ, những
kẻ giàu sang tỷ phú, những bậc vua quan “vạn tuế … vạn tuế” tưởng chừng như sống
trăm năm, nhưng chỉ một cơn gió thoảng qua làm tay chân cứng đờ, lăn đùng ra đất,
hai mắt không nhắm lại được. Than ôi!
“Dép lên giường xuống giường
vội biệt,
Sống ngày nay ai biết ngày
mai”.
Cái chết đến với con người
thật bất ngờ, không hẹn trước với một ai. Khi sắp chết, tâm hồn rối loạn sợ hãi
vô cùng, phần xót thương cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái từ đây đoạn tuyệt,
phút chia ly vĩnh biệt này thật đau đớn biết bao.
Người chết ra đi một thế giới
nào thật mịt mù xa lạ để lại cho người sống bao nỗi lưu luyến, tiếc thương, những
giọt nước mắt tang thương và não lòng biết bao. Có khi quá đau khổ vì vĩnh biệt
sinh ly người ta không khóc được, chỉ biết câm nín, nỗi đau lặng vào hồn không
nói nên lời được nữa.
Cái chết làm cho tứ đại phân
tán như ngàn kim châm đau đớn không cùng, thân thể tan rã, hư hoại, thần thức
theo nghiệp dẫn đi thọ sanh ở một cõi nào chưa rõ. Thật đáng sợ và vô nghĩa
thay cho một kiếp người.
Càng muốn ham sống thì lại
càng sợ chết, càng sợ chết thì tâm lý càng dao động và có thể nhiều bất thiện
tâm và đọa vào đường ác, nếu không biết tu tập giải thoát.
5) Ái Biệt Ly Khổ:
Ái biệt ly là đối tượng
thương yêu bị xa lìa, cho nên sinh ra thất vọng, sầu não và khổ đau.
Những gì muốn nghe, muốn biết,
muốn xúc chạm, muốn tận hưởng lại không đến, không tồn tại bên mình nên sanh cảm
thọ khổ đau. Có khi người mình yêu mến cách xa ngàn dặm mà không có ngày tao ngộ,
đây cũng là điều làm cho con người đau khổ suốt cuộc đời.
“Bốn phương mây nước người
đôi ngã,
Hai chữ tương tư một
gánh sầu”. (Tảng Đà)
Trong cái tình yêu thương giữa
vợ chồng con cái, anh em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly thì thật không
có gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại đó là sanh ly và tử biệt.
a. Sanh ly khổ: một gia đình
đang sống đầm ấm vui vầy, bỗng vì hoàn cảnh bắt buộc, hay vì tai nạn chiến
tranh loạn lạc mỗi người một nơi, kẻ đầu này trông đợi, ngước góc kia đứng chờ.
Thật đau lòng xót dạ.
b. Tử biệt khổ: Nhưng, mặc
dù xa cách nhau, người sống còn có ngày gặp lại, chứ chết rồi có bao giờ được
đoàn tụ? Do đó, lâm vào cảnh tử biệt này thật đáng sợ. Đau thương và tuyệt vọng
hãi hùng.
6) Mong Cầu Không Được:
Sống thì ai cũng bị sanh,
lão, bệnh, tử và muôn vàn sự trái ý, nghịch lòng, bất hạnh, khổ đau …. Nhưng
lòng thì luôn mong cầu đừng bị những nỗi khổ của cuộc đời dày vò, chi phối.
Mong được giàu sang, hạnh phúc, mong gặp người thật lòng yêu thương mình ….
Mong ước những điều cũng có thể thành tựu được, nhưng cũng có vô vàn mong ước
viễn vông để rồi thất vọng u sầu.
Người ta ở đời hể hy vọng
càng nhiều thì thất vọng càng lắm, số người được tọai nguyện thì quá hiếm hoi
và quá đỗi mong manh, mà người thất bại, bất như ý thì không sao kể được. Cuộc
sống còn có những mong ước thiết tha khác nữa: mong muốn lấy được và sống trọn
đời bên người mình yêu thương, mong được hạnh phúc đến đầu bạc răng long, mong
có bạn tốt, mong được giàu sang …. Có những mong ước không bao giờ trở thành hiện
thực nhưng mà người ta vẫn cứ ước mong. Long lanh và đầy ắp những giọt nước mắt
của Chức Nữ, Ngưu Lang, của vợ xa chồng, con xa cha mẹ.
Trong đời danh vọng, tiền
tài, vinh hoa phú quý là miếng mồi ngon mà mọi người trong đời hầu như đều yêu
thích và nổ lực không ngừng để đạt được, có người còn dùng nhiều thủ đoạn, mưu
mô, phỉnh gạt người, đảo điên, điên đảo giữa dòng đời trôi cồn cuộn có trộn lẫn
cả máu, mồ hôi và nước mắt của con người.
Thất vọng vì vật chất cũng
nhiều và đầy khổ sở, nhưng thất vọng làm cho người ta còn đau đớn hơn gấp vạn lần
đó là thất vọng về tinh thần, thất vọng về tình duyên, trong trường tình ái thử
hỏi mấy ai được tọai nguyện và sống hạnh phúc trong tình yêu. Thật là đau lòng
và không sao kể xiết. “Đấy là cầu bất đắc khổ”.
7) Oán Tắng Hội Khổ:
Con người ở trong cảnh
thương yêu chẳng ai muốn chia ly, cũng như ở trong thù ghét, chẳng ai muốn gặp
gỡ. Nhưng ở đời con người phải thường chịu cảnh xa lìa người mình yêu thương lại
phải thường găỉp gỡ kẻ mình không ưa thích thù nghịch lẫn nhau.
Người ta thường nói: “Thấy mặt
kẻ thù như kim đâm vào mắt. Ở chung với người nghịch, như nếm mật nằm gai”.
Tóm lại, yêu thương mà các đối
tượng yêu thương bị xa lià, ly biệt thì sẽ thất vọng, sầu não và khổ đau,
nỗi đau về tình ái mới thật tái tê và kinh khủng có khi đến suốt cả cuộc đời.
Những gì mình ghét bỏ mà phải
chung đụng, gặp gỡ thật cũng khó chịu, bực bội vô cùng. Để rồi oan gia, nghiệp
báo cứ kéo dài mãi từ đời này sang đời khác.
8) Ngũ Ấm Xí thạnh Khổ:
Là khổ đau được Đức Phật tóm
lại trong năm thủ uẩn là khổ.
Sự thật bảy cái khổ trên đều
do năm uẩn sinh ra do sự chấp trước năm uẩn để từ đó gieo ra cảnh khổ và nghiệp
quả.
Biển khổ tam giới chính là
năm uẩn. Tất cả năm uẩn do điều kiện sinh ra, do nhân duyên sinh nên nó biến dịch
thay đổi, vô thường. Con người không thể làm chủ được chính những biến đổi của
bản thân, cảnh vật, cuộc sống và thiên nhiên. Theo quy luật tự nhiên, nhan sắc
của con người cũng sẽ dần biến hoại.
Tất cả sự vật đều do điều kiện
sinh, khi các điều kiện có mặt thì nó tồn tại, khi các điều kiện nhân duyên tan
rã thì nó tan rã. Chính khổ đau là do biến dịch vô thường nó đem lại nỗi nhứt
nhối cho con người và nhân loại.
Nói rõ hơn, năm uẩn thật sự
không khổ đau, sự chấp thủ về năm uẩn mới là khổ đau. Còn năm uẩn cứ tiếp tục
thay đổi lạnh lùng và cuồn cuộn chảy theo dòng thời gian, nó đi đi mãi không đợi
ai, điều đó khiến con người khổ đau. Đó là sự thật khổ đau của bậc Thánh.
Người đời quen nhìn sự vật bằng
con mắt hời hợt, đuổi theo những dục lạc tầm thường, mà không biết rằng vui buồn,
sung sướng, khổ đau, cười khóc, tái ngộ, chia ly … đều là cái mặt phải trái
không tách rời nhau trong cuộc sống. Đời sống con người có muôn chiều, muôn mặt
thì nỗi khổ con người cũng như thế.
Cái thân tứ đại của con người
cũng gọi là thân ngũ ấm. Sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm ấy con
người không biết bao nhiêu là điều khổ. Năm uẩn do duyên sanh nên vô ngã, vô
thường. Vì vô thường, biến hoại, đi ngược với tham ái và chấp thủ của con người
nên khổ đau.
Vì vô minh con người chấp
thân sắc uẩn, chấp cảm thọ, tư duy, hiểu biết… là của mình, là mình, là tự ngã
của mình, nên khi chúng thay đổi, biến dịch thì nghe mình khổ đau. Cái thân tứ đại
cho đến các tế bào trong cơ thể chúng ta thay đổi trong từng giờ, từng sát na
mà ta không hay biết.
Sống với năm uẩn như sống
trong căn nhà đang bốc cháy. Lửa tham, lửa sân, lửa si đang bốc cháy ở sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chấp nhận thân năm uẩn là mình thì sẽ bị thiêu
cháy. Như vậy năm uẩn là khổ, cho nên điểm trọng yếu của chân lý về Khổ Đế là
ngũ uẩn. Ta phải hiểu rằng, điều quan trọng chân lý thứ nhất là thấy được ngũ uẩn,
thấy được nguyên nhân và con đường thoát khổ.
Như thế, chúng ta thấy rằng,
sỡ dĩ con người luôn bị “Tam khổ” và “Bát khổ” chi phối làm đau khổ là vì con
người luôn cho thân ngũ uẩn này là có thật, là của ta. Mà đã quan niệm của ta
thì luôn sanh tâm chấp thủ, giữ gìn. Nên khi bị mất đi, sanh luyến tiếc, đau khổ.
Vậy chúng ta biết rằng những thống khổ của con người đều do chính con người tạo
nên. Và khi đã nhận chân được thân ngũ uẩn này là vô thường, là không thật có
thì lúc đó những sự khổ đau không còn tồn tại.
III. Nguyên Nhân Khổ Đau
Theo Phật Giáo:
1. Nhân Tố Đưa Đến khổ Đau
Là Khát Ái:
Đức Phật giải thích nguồn gốc
của khổ đau, bất toại nguyện.
Trong nền giáo lý đạo Phật
không có một đấng tạo hóa nào ban phước lành hoặc giáng khổ đau, tai hoạ cho
con người hay kiểm soát vận mệnh con người. Về cái khổ của con người, Phật giáo
không đặt trách nhiệm vào một động lực nào ngoài con người, mà tìm nguyên nhân
sâu kín bên trong con người. Nguyên nhân ấy là ái dục, chính ái dục bị vô minh
chi phối đã đem lại trạng thái bất như ý và chính năng lực mạnh mẽ của ái dục
đã làm bốc cháy khát vọng và làm luân chuyển mãi kiếp sinh tồn đầy khổ đau của
nhân loại, quay mãi trong guồng quay vô tận. Chỉ có diệu pháp của Phật mới có đủ
năng lực đưa con người thăng hoa và tìm được nguồn hạnh phúc miên viễn.
Ái dục không chỉ là nguyên
nhân đưa chúng sanh đến kiếp hiện tiền, mà cũng là đôỉng lực đẩy chúng sanh vào
kiếp sinh tồn quá khứ và tương lai. Thật vậy, ái dục ở đời được thể hiện bởi
lòng ham muốn, sự khát khao, sự say đắm mê mờ. Nó đưa đến kết quả của sự khổ
đau, đè nặng lên thân phận con người như lời đức Phật dạy:
“Từ tham dục nẩy mầm đau khổ
Từ tham dục nẩy mầm sợ hãi
Với ai thoát vòng tham dục
Thì không còn khổ đau, không
còn sợ hãi”.
Đức Phật dạy rằng: Nguyên
nhân chủ yếu của mọi khổ đau là “Khát ái”. Trong kinh Chánh Tri Kiến, Trung Bộ
I, Tôn giả Xá Lợi Phất bàn đến ba nhóm ái như sau:
“Này chư hiền, thế nào là sự
sinh khởi của khổ đau? Chính là ái hướng đến một đời sống khác, đi cùng vơí hỷ
và tham, tìm kiếm hỷ lạc ở chỗ này, chỗ kia, đó là dục ái, hữu ái và vô hữu ái.
Này chư hiền, đây là nguồn gốc của khổ đau”.
Con người luôn luôn bị những
gì thích thú và vừa lòng thu hút và trong cuộc mưu tìm dục lạc, không ngừng chạy
theo chúng trong tham vọng, khát khao và mong muốn thỏa mãn dục vọng. Họ tự buộc
chặt trong vòng luân hồi, tự mình dày xéo tâm hồn trong khổ đau và tuyệt vọng
trong bến mê mà không biết lối ra. Con người khát khao hít thở hạnh phúc, mơ ước
một hạnh phúc chân thật và trường cửu, nhưng thế gian này có gì là trường cửu
chứ? Tất cả rồi sẽ bị hủy diệt theo thời gian đầy khắc nghiệt, cho cuộc sống
con người thêm bơ vơ và khắc khoải, khổ đau và điên cuồng trong dục vọng của
chính mình.
“Lạc thú là dây trói buộc, một
thích thú ngắn ngủi, rất thú vị, dẫn đến đau khổ, u sầu đằng đẵng. Bậc thiệân
tri thức biết rằng mồi đã móc vào lưỡi câu”.
(Kinh Pháp Cú, 216)
Khuynh hướng của con người
là tìm kiếm và ham thích những sắc đẹp, âm thanh du dương ru dịu lòng người và
tránh xa các thanh, hương, vị , xúc trái ngược. Lòng tham ái càng nặng thì chấp
thủ ngã càng nặng, thức càng được nuôi dưỡng. Đây chính là động cơ, là nghiệp lực
dẫn đến tái sanh đời này, đời khác. Những ham muốn năm trần ấy được gọi là Dục
Ái.
Khi năm trần ấy thay đổi thì
khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não. Ngay cả khi con người đang nắm giữ năm trần đẹp
ấy, thì nỗi lo sợ năm trần biến đổi, hoại diệt cũng đủ gây khổ đau ray rức lòng
người.
Con người ham muốn và bị lệ
thuộc vào tình cảm cũng như vật chất. Chưa có muốn cho có, có rồi lại gìn giữ
nó, gìn giữ rồi lo sợ bị mất đi cũng làm cho ta đau khổ lắm rồi, tâm hồn luôn bị
xáo trộn. Có phút giây nào ta quay về với chính mình và nghe lòng đầy thư thái
thanh thản chăng?
Kinh Tứ Thập Nhị Chương đức
Phật dạy rằng: “Người chạy theo tình dục cầu mong được thanh danh, là một điều
dại dột đáng thương, vì khi thanh danh vừa được hiển lộ thì thân thể đã hao
mòn. Cho nên kẻ chỉ ham danh, cầu lợi … mà không lo tu thân, học đạo thì thật uổng
công, mệt xác, phí cả cuộc đời. Sự kiện đó như người đốt hương, khi người nghe
được mùi hương thì nén hương kia đã tàn lụi, mà ngọn lửa hại thân lại theo sát
bên mình”.
Ước muốn của con người
đã là vô cùng thì sự khát khao thỏa mãn của con người cũng là vô tận, lòng ham
muốn không lúc nào để chúng ta được yên tỉnh. Ước muốn thì phải được thỏa
mãn, nhưng sự thỏa mãn chỉ trong phút giây rồi tan biến, còn đau khổ lại kéo
dài theo năm tháng với những ước muốn không ngừng, vì thế suốt đời con người cứ
mãi lận đận, gian nan.
Con người có thể phạm vào
muôn vàn tội ác để thỏa mãn tham vọng, dục vọng. Con người còn trở nên gian xảo,
dối trá, can tâm cắt bỏ tình thân thuộc và đành lòng tàn hại đồng loại, làm cho
người khác phải thân sơ thất sở để mình được lợi lạc.
Nhân xấu thì đưa đến quả xấu
và thế là ngọn lửa dục vọng, vị kỷ từ con người phát sanh trở lại thiêu đốt con
người, làm cho cả tam giới bừng cháy, nhiễm ô và đầy tội lỗi. Cứ thế con người
lại càng thất vọng và không tìm ra được niềm hạnh phúc mà họ mơ ước đến cháy
lòng.
“Dục sanh chi phiền não,
Dục sanh vi khổ uẩn”.
(Kinh A Hàm)
Nên kinh lại nói: “Chúng
sanh trong ba cõi, tham dục là gốc khổ đau”.
Bởi vậy lòng tham ái bao giờ
cũng tạo nên đau khổ không những trong kiếp này mà còn vô số kiếp trong vòng
luân hồi sanh tử cho đến lúc chúng ta giác ngộ, giải thoát.
Khát ái là năng lực mạnh mẽ
nhất trong guồng máy sanh tử khổ đau trong kiếp nhân sinh. Ngoài ra nguồn gốc của
khổ đau còn phát xuất từ vô minh, phiền não đối trước mọi cảnh tượng của cuộc sống
vốn đầy biến động và đổi thay không ngừng.
2. Vô Minh Là Nguồn Gốc Của Khổ Đau (Ngu Si).
Cái khổ mà đức Phật nói ở
đây không phải là cái khổ vui đắp đổi trong kiếp sống hữu hạn, buồn, vui, giận,
ghét …. Đức Phật muốn nói cái khổ lớn nhất mà con người và muôn loài trong tam
giới phải gánh chịu mãi mãi, chính là cái khổ bị dai dẳng trong sự đùn đẩy vô tận
của vòng quay luân hồi.
Cái khổ đó, bắt nguồn từ vô
minh và ái dục. Vô minh là không có cái hiểu thấu được chân tướng của sự vật. Từ
việc nhận sai lầm chỗ cốt lõi của vạn pháp mà con người cứ tiếp tục sống trong
vòng tạo ác nghiệp, tham đắm chấp trước.
Ái dục, tham đắm, hận thù,
chấp mê là những sợi dây kiên cố, vững bền vô cùng đã buộc chặt thân phận con
người vào cổ xe luân hồi chạy thênh thang qua các cõi mù mịt không biết lối ra.
Nói đến vô minh tức là nhìn
sự vật không đúng sự thật. Nghĩa là, nếu chúng ta không phát triển khả năng tập
trung tư tưởng và quán chiếu nội tâm, chúng ta không thể thấy được thực chất của
sự vật, nhìn sợi dây tưởng con rắn, nhìn cái bóng tưởng con ma.
Khế kinh Phật dạy: “Trong
các cảnh khổ, không cảnh khổ nào bằng khổ ngu si. Cái cảnh khổ của lạc đà chở nặng
qua cả sa mạc, hay cái cảnh khổ của rùa mù tìm bọng cây nổi trong biển cả …
cũng chưa gọi là cảnh khổ. Cái cảnh khổ to tát của chúng sanh là bởi ngu si, vì
con lạc đà chở nặng qua thời gian ngắn thì hết nặng, con rùa tìm bọng cây trong
biển cả, tuy khó khăn thật nhưng cũng hy vọng tìm được, còn kẻ vô minh đối với
con đường sanh tử mênh mang, mãi mãi chỉ quanh quẩn trong vòng sanh tử luân hồi
mà không biết lối ra”.
“Đêm dài cho kẻ thức
Đường dài cho kẻ mệt
Luân hồi dài kẻ ngu
Không biết chân diệu pháp”.
(Kinh Pháp Cú)
Hạnh phúc ở cõi đời như một
cái bóng mà mọi người cứ đổ đi tìm, để rồi phải thất vọng, ngao ngán với bao nỗi
thống khổ vây quanh, đè nặng lên kiếp sống. Ở trong cuộc luân hồi thăng trầm, đổi
thay, sinh diệt đầy phiền não, mà con người vẫn mãi bon chen tranh giành, hơn
thua, tàn hại đồng loại không thương tiếc. Gây tạo bao ác nghiệp để rồi đến lúc
lâm chung mờ mờ mịt mịt trong sáu nẽo luân hồi, bỏ lại tất cả bạc tiền, danh vọng
thế gian, chỉ ra đi với hai bàn tay trắng cùng tội phước mà thôi.
Thế rồi cũng do si mê con
người cứ đắm vào các danh, sắc, tướng của ngã và ngã sở, như vua Trụ vì đắm mê
sắc đẹp khuynh thành của Đắc Kỷ mà cơ nghiệp thành than, tan tành theo mây
khói.
Do chấp thủ cái “tôi” nên
chúng ta tham ái và sân hận, tham đắm, khao khát các dục vọng, danh lợi của thế
gian. Từ gốc rể và thân cây vô minh mọc ra cành lá tham dục, ham muốn, tham
lam, hận thù, đố kỵ, ganh ghét, tự cao, tự đại …. Kể sao cho hết các tội lỗi của
con người đã gây tạo.
“Kẻ ngu vì tham giàu
Hại mình và hại người
Ác nghiệp chưa chín mùi
Người ngu nghĩ là ngọt
Khi ác nghiệp chín mùi
Người ngu chịu khổ đau”.
(Kinh Pháp Cú)
Hằng ngày chúng ta sống với
vay mượn, vay mượn từ bên ngoài đất, nước, gió, lửa đến vay mượn kiến thức … chấp
cái vay mượn đó là mình, là của mình, mà cái vay mượn đó luôn sinh diệt, đổi
thay, vô thường, khổ, vô ngã … không có một thực thể cố định. Nên mãi tạo ra
các khổ đau cho mình và người xung quanh. Nói cho cùng cũng do si mê, lầm chấp
thân và tâm mà gây ra. Thân thì đầy bất tịnh, tâm vô thường lại cho là thường
nên luân hồi khổ đau. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật dạy rằng: “Tất cả chúng
sanh vì vô minh che lấp mất chân tánh, bị dục vọng phiền não sai khiến tạo muôn
ngàn việc ác vì đó mà trôi nổi trong biển khổ luân hồi”.
Con người phải căn cứ vào lời
dạy của các bậc giác ngộ để học tập, để thực hành, trừ diệt tất cả vô minh đen
tối che mất tâm trí. Một khi vô minh bị trừ diệt, trí tuệ Bát-nhã sẽ hiện rõ,
con người có thể trực nhận được chân lý và phá tan tất cả mọi nghi ngờ vi tế nhất
của phàm phu. Chỉ trong sự giải thoát này chúng ta mới tìm được hạnh phúc chân
thật.
Hạnh phúc chân thật được diễn
tả trong đạo Phật như là một sự vắng mặt của những khổ đau, là sự giải phóng
con người ra khỏi dục vọng, hận thù và tối tăm, là sự đạt đến cái vô úy, trầm tỉnh,
đại hùng, đại lực, đại từ bi khiến cho ta không còn là nạn nhân của sự sợ hãi của
những thành bại, vinh nhục của cuộc đời.
Trên căn bản của sự giải
phóng đó, chắc chắn hạnh phúc sẽ là chân thật và bền vững. Chúng ta phải
nhận thấy rằng, theo đuổi sự nghiệp giải thoát không phải là từ bỏ mọi hạnh
phúc của cuộc đời, trái lại là để xây dựng một nền tảng vững chãi cho hạnh
phúc.
Con đường thoát ra phải hướng
vào nội tâm. Nếu suy ngẫm, ta không thể thấy ta tìm được gì ở bên ngoài ta. Số
đông đi tìm giải pháp ở bên ngoài, qua những điều kiện tốt hơn, ít việc hơn mà
người ta cho đó là hạnh phúc. Nếu ta có thể thấy được những điều ấy vô vọng lắm
thay, ta sẽ không còn tìm kiếm ở bên ngoài nữa. Ta sẽ quay về nội tại để dần dần
đi đến sự thật thứ ba, sự chấm dứt khổ đau gọi là giải thoát.
IV. Con Đường Sống Để Dập Tắt
Khổ Đau-Vấn Đề Thoát Khổ.
1. Bát Chánh Đạo - Giới, Định,
Tuệ.
Sự thật thứ tư là con đường,
là phương pháp hành động để đạt đến một đời sống an lạc, hạnh phúc cho bản thân
và cho xã hội. Ta phải biết con đường và phương pháp hành động sự thật này
không phải là một giáo điều, trái lại là một kết quả của những chiêm nghiệm sâu
sắc về cái sự thật thứ nhất, thứ hai và thứ ba cùng các kinh nghiệm sống của
chúng ta về các sự thật ấy. Trong kinh ta thấy nói đến ngũ căn, ngũ lực, thất Bồ-đề,
bát chánh đạo …, đó là những giáo lý thuộc sự thật thứ tư, những phương pháp có
thể áp dụng trong đời sống để tiêu diệt khổ đau, kiến tạo an lạc. Những lời dạy
này chỉ có giá trị và hiệu lực khi ta biết áp dụng vào cuộc sống và thực chứng
bằng chính bản thân mình. Như người uống nước tự cảm nhận được nước nóng hay lạnh
mà thôi. Đạo quả giải thoát chỉ trở thành hiện thực bằng sự tự tri, tự chứng, tự
ngộ của bản thân mình.
“Người trí tu tập huệ
Sẽ hưởng được pháp lạc
Nguồn phước lạc vô song
Do thánh quả đem lại”.
(Kinh Pháp Cú)
Như đã được lập luận nhiều lần,
năm uẩn là khổ đau vì năm uẩn là vô thường. Ở đâu có vô thường thì ở đó có khổ
đau. Thật ra, không phải vì vô thường mà khổ đau có mặt, mà là do nguyên nhân của
sự chấp thủ hay ái thủ mà khổ đau có mặt.
Do con người khát ái sắc, ái
thọ, ái tưởng …, khát ái có mặt thì khổ đau có mặt. Nếu con người không chấp thủ
thì khổ đau sẽ không tồn tại, chỉ khi có sự chấp thủ thì mới thật sự có khổ
đau.
Chính vì thế, chúng ta phải
biết và nhận chân được bản chất của sự vật là vô thường, là những danh sắc trôi
chảy, những trạng thái biến hiện trong dòng chảy sanh diệt, thành, trụ, hoại,
không. Thân thể con người cũng vậy, từ thân thể đến ý thức đều là những trào
lưu biến hiện, chợt yêu, chợt ghét, chợt buồn … trong ấy không có cái ngã tồn tại.
“Người đời phú quý mây tan hợp
Vàm danh khóa lợi nghĩ mà
đau
Buồn vui chia xẻ nào hay trước
Cuộc sống trong thế nhân chỉ
là một chuổi mắc xích vô tận, tất cả vũ trụ liên quan mật thiết với nhau tương
quan thành một đại hệ thống của pháp tướng, nhưng rồi tất cả thành vô nghĩa,
nhan sắc tàn phai theo năm tháng, anh hùng hào kiệt cũng phải đeo sầu. Ngẫm
trong thiên hạ ai người trí thức, tài tình, danh lợi có nghĩa gì đâu? Giỏi như
Hạng Võ tài cử đảnh, nơi chốn Ô giang cũng chịu cắt đầu, Hàn Tín công nghìn bao
nhiêu trận, mà ấn Tề Vương được bao lâu?
Đức Phật dạy ta phương pháp
chấm dứt luân hồi sanh tử là phải biết quay về thực tại, trở về với đời sống tỉnh
thức. Từ đó, tâm hồn không còn chạy theo mọi kích động liên hồi của vật chất, của
phiền não dục vọng, tham, sân, si. Càng phấn đấu trở về với tịnh tâm, thanh ý
thì ta càng có nhiều cơ hội tỏ ngộ được chỗ mầu nhiệm, an vui vĩnh cửu muôn đời,
vĩnh viễn thoát ly sanh tử, không còn các phiền trược của cuộc đời sai xử, tiến
tới Niết-bàn.
Đừng vội phán xét rằng: Thế
thì đạo Phật quá ư tiêu cực, là chủ trương xa lánh cuộc đời, là bi quan chán đời
biến tất cả thành hư vọng. Dục vọng là nguyên nhân của khổ đau, là gốc của
sanh, già, bệnh, tử và là muôn vàn nỗi đau khổ khác của cuộc đời. Nhưng con người
không phải chỉ có dục vọng mà thôi. Con người còn có những gì thanh thoát cao
siêu hơn dục vọng và si mê như là từ bi, hỷ xả, trí tuệ … những hạnh nguyện cao
cả sống vì hạnh phúc cho muôn loài mà quên đi bản thân mình, làm thăng hoa nhân
phẩm và cuộc sống đạo đức, tâm linh siêu thoát và vĩ đại. Niết-bàn không phải
là hư vô mà là sự thực hiện toàn vẹn của những gì cao khiết nhất, thanh tịnh và
nhiẹâm mầu nhất.
Sống trong cuộc đời vô thường,
vô ngã, bất tịnh, khổ đau với bao thăng trầm sanh tử mà không thấy có vô thường,
vô ngã, bất tịnh, khổ đau như hoa sen giữa bùn mà chẳng tanh hôi mùi bùn, tỏa
hương thơm ngát.
“Bóng hình, hình bóng có rồi
không
Sao nhọc lòng ta mãi phật phồng
Chân giả bao đời trong thô tế
Tử sanh hệ nghiệp có gì mong
Nương nơi quán trọ đâu tồn tại
Sực tỉnh quay về chủ nhân
ông”. (Sđd, tr 102-107)
Trong kinh đức Phật dạy rằng:
“Đại dương dù rộng lớn chỉ có một vị mặn và giáo lý của Ngài cũng như vậy. Mặc
dù những lời dạy như đại dương, nhưng chỉ có một vị đó là vị giải thoát”.
Vấn đề giải thoát chỉ là vấn
đề thay đổi nhận thức, dục vọng tiêu diệt, bi trí hiển bày … nhận thức biến đổi,
vô thường, khổ đau, vô ngã, bất tịnh biến thành thường, lạc, ngã, tịnh, sanh tử,
phiền trược là ở đấy, Niết-bàn, giải thoát cũng ở đấy, “Niết-bàn, sanh tử
thị hoa không”.
Muốn đạt đến trạng thái an lạc,
hạnh phúc, Niết-bàn hành giả phải tu tập “Đạo đế” là con đường dẫn tới ly dục
ái tận. Niết-bàn là phương pháp tu tập đúng như chánh pháp, là pháp môn thực
hành hợp với chân lý và có năng lực đưa ta ra khỏi sanh tử luân hồi. Pháp môn
tu tập của Phật dạy nhiều vô lượng vô biên nhưng chung quy không ngoài ba môn học
“Giới, Định, Tuệ” hay nói một cách khác là “Bát Chánh Đạo”. Tám con đường chân
chánh đó là đại lộ an vui hướng chúng sanh về bình minh, trí tuệ. Là chìa khóa
mở cánh cửa hạnh phúc miên viễn, thường hằng; là con thuyền thanh lương đưa
nhân sanh trở về bờ giác. “Bát Chánh Đạo” cũng là con đường Trung đạo, tránh xa
hai cực đoan là khổ hạnh ép xác và ham mê dục lạc. Tám nguyên tắc hành động ấy
có liên hệ nhân quả rất mật thiết với nhau.
1. Chánh
kiến Nhóm trí tuệ
2. Chánh
tư duy
(Pannà)
3. Chánh
ngữ Nhóm giới
luật
4. Chánh
nghiệp (Sila)
5. Chánh mạng
6. Chánh
tinh tấn Nhóm định
7. Chánh
niệm
(Samadhi)
8. Chánh định
Bát Chánh Đạo được xếp thành
ba nhóm: Giới, Định, Tuệ. Ba nhóm này không phải là ba phân hạng riêng biệt mà
là ba thành phần cố hữu tương quan lẫn nhau, của một con đường. Và ý nghĩa con
đường này được kết tinh trong lời giáo huấn rất phân minh của chư Phật mười
phương ba đời:
“Không làm các việc ác
Làm tất cả việc lành
Giữ gìn tâm thanh tịnh
Là lời chư Phật dạy”.
(Kinh Pháp Cú, câu 183)
Chủ động của những nghiệp quả
xấu xa, là các hành vi, ngôn ngữ và ý tưởng mê vọng. Các “vọng nghiệp” này còn
giúp sức cho dục vọng phát triển, vậy công việc, hành động trước tiên là phải
đình chỉ chúng lại. Ba chi của Bát chánh đạo: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng
là Giới. “Giới” chính là sự đình chỉ ấy, đình chỉ cho ba nghiệp thân, khẩu, ý
được thanh tịnh không tuân theo những sai sử của dục vọng. Giới là nền tảng đầu
tiên, là nền móng vững chắc để xây dựng căn nhà giác ngộ, giải thoát. Giới nuôi
dưỡng tâm linh và làm cho tâm vững vàng an trụ.
“Kính lạy giới hay sanh định
huệ
Chứng Bồ-đề khế hợp chơn như
Ác duyên ba nghiệp tiêu trừ
Tam thừa chứng quả vô dư Niết-bàn”.
Giai đoạn kế của con đường
giải thoát là từ giới sanh định, bao gồm ba chi khác của Bát Chánh Đạo là chánh
tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Định này giúp tâm lặng lẽ, yên tịnh. Từ định
này giúp ta có thể đi sâu vào tu tập quán chiếu loại bỏ dần những mê lầm, kiến
chấp, tội lỗi tham sân si.
Do công năng từ giới, ý chí
càng lúc càng mạnh, hành giả thực hành phép tập trung tư tưởng, dùng lực lượng
thiền định để cắt xén dần những rể cây chằn chịt của dục vọng. Trải qua nhiều
công phu miên mật, tâm an trụ sẽ có đủ khả năng vượt qua tất cả chướng ngại,
khát vọng và si mê, lúc đó sáu căn không bị sáu trần làm xao động tâm thức vì
đã thấy được thực tướng các pháp Vô thường, Vô ngã và Duyên sanh.
Khi đã được định rồi, ánh
sáng trí tuệ tự nhiên sáng tỏ, thoát ra ngoài cái thấy biết của phàm phu là hệ
quả của giới và định, là hoa trái của chánh niệm, của quá trình dày công tu tập.
Trí tuệ này sâu xa không thể nghĩ bàn. Trí tuệ này bao gồm hai chi đầu của “Bát
Chánh Đạo” là chánh kiến và chánh tư duy, giai đoạn cuối của con đường.
Trí tuệ càng tăng trưởng thì
phá trừ tất cả dục vọng, sân hận, ích kỷ … tiêu diệt hoàn toàn mầm móng vi tế
nhất của cội nguồn đau khổ “Nhân giới sanh định, nhân định phát huệ” là câu tóm
tắt của Tam Học vậy. Giới, định, tuệ là một vòng tròn khép kín không thể thiếu,
nó hổ tương, tác động cho nhau. Nếu hành trì thậm thâm ta sẽ thấy trong giới
luôn có định và huệ, trong huệ luôn có giới và định. Tam vô lậu học sẽ đưa hành
giả vào con đường xuất thế, có thể an trú Niết-bàn ngay trong cuộc sống hiện hữu.
Ta có thể cảm nhận vị ngọt của Thánh quả bằng sự thực tu, thực chứng của chính
bản thân mình.
Cũng như trong Bát Chánh Đạo,
mỗi chi đều bao gồm cả tám chi, chi nào cũng làm nhân đồng thời cũng làm quả
cho các chi khác. Tám chi của Bát Chánh Đạo một lượt, đạo Phật gọi đây là con
đường của tám nguyên tắc hành động chân chính. Để cho muôn ngàn thống khổ, phiền
não không còn bức bách thân phận con người và từ đó hạnh phúc, an vui sẽ chan
hòa trong cuộc sống thì con người chúng ta cần phải thực hành nghiêm túc Bát
Chánh Đạo mà đức giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã dạy.
Hầu hết giáo lý của đức Phật
đã giảng dạy suốt 45 năm đều đề cập bằng cách này hay cách khác đến con đường
này. Ngài giảng giải nó bằng những lối khác nhau và những danh từ khác nhau cho
những người khác nhau tùy trình độ phát triển của họ. Nhưng tinh túy của hàng
ngàn bài thuyết pháp rải rác trong các kinh điển Phật giáo ấy, được tìm thấy
trong Bát Chánh Đạo, chúng phải được phát triển gần như đồng thời với nhau, tất
cả tám ngành đều liên kết với nhau và mỗi ngành giúp cho sự đào luyện các ngành
khác.
Đức Phật không phủ nhận có hạnh
phúc trong sự sống, khi Ngài bảo có khổ đau.. trái lại Ngài chấp nhận có những
hình thái khác nhau về hạnh phúc, cả vật chất cũng như tinh thần của người thế
tục cũng như người xuất thế. Trong Tăng Chi Bộ, một trong năm tạng nguyên thủy
bằng tiếng Pali, chứa đựng những bài thuyết pháp của Đức Phật, có những bản kê
những hạnh phúc như hạnh phúc của cuộc đời ẩn sĩ và hạnh phúc của cuộc sống gia
đình; hạnh phúc của khoái lạc giác quan và hạnh phúc của sự từ bỏ thế tục; hạnh
phúc của sự ràng buộc và hạnh phúc của sự giải thoát; hạnh phúc của vật lý và hạnh
phúc của tâm linh …. Nhưng tất cả những điều này đều bao gồm trong Dukha. Cả đến
những cảnh giới tâm linh rất thuần khiết của thiền đạt được nhờ thực hành thiền
quán hoàn toàn thoát khỏi khổ đau theo nghĩa thông thường, những cảnh giới có
thể gọi là hạnh phúc thuần túy cũng như cảnh giới thiền đã vượt khỏi những cảm
giác vừa lạc vừa khổ và chỉ còn là thức thuần tịnh, cả đến những cảnh giới tâm
linh rất cao siêu đó cũng được bao hàm trong Dukha.. trong một quyển kinh của bộ
Majjhima-nikàya (cũng thuộc trong năm tạng nguyên thủy) sau khi ca tụng hạnh phúc
tâm linh của những cảnh thiền ấy, đức Phật dạy rằng: “Chúng đều là vô thường,
khổ (dukha) và phải đổi thay”. Hãy để ý rằng chữ Dukha đã được dùng đầy đủ ý
nghĩa. Nó là Dukha không phải vì có “đau khổ” trong nghĩa thông thường của danh
từ, nhưng bởi vì “cái gì vô thường là Dukha”. (yad aniccam tam dukkham). Đấy là
một thực tại của kinh nghiệm, những sự vui hưởng ấy không trường cửu. Khi
hoàn cảnh thay đổi, bạn bị tước đoạt nguồn vui ấy, bạn trở nên buồn bả, mất
quân bình, cả đến bạn có thể hành động một cách điên rồ. Đấy là khía cạnh xấu,
không đẹp ý và nguy hiểm của bức tranh, đây cũng là một thực tại kinh
nghiệm của cuộc đời. Bấy giờ, nếu bạn không có gì lưu luyến, hoàn toàn không
dính mắc, thì đó là tự do là giải thoát trong đời. Từ đây ta thấy rõ không có vấn
đề bi quan hay lạc quan, mà vấn đề ta phải nhận rõ những khoái lạc của cuộc sống
cũng như sự tự giải thoát khỏi chúng, để hiểu sự sống một cách toàn diện và
khách quan. Chỉ khi ấy mới là giải thoát chân thật, bởi vì bản chất cuộc đời thật
muôn màu, muôn vẻ “Hỡi những người Bà-la-môn, nó giống như một dòng thác đổ, chảy
mau và trôi xa, mang theo nó mọi vật, không có lúc nào, phút nào nó ngừng chảy,
và cứ tiếp tục chảy mãi, trôi mãi. Hỡi những người ẩn sĩ, đời người cũng
thế, giống như một dòng thác”. (A, Colombo, 1929, p, 700) như đức Phật dạy
Ràtthapàla: “Vũ trụ là dòng tương tục và vô thường”.
Một sự vật biến đi, tạo điều
kiện cho sự xuất hiện của vật kế tiếp trong một chuỗi dài nhân và quả. Không có
gì là bản thể bất biến ở trong chúng, khi năm uẩn vật lý và tâm lý này vốn
tương quan với nhau, cùng phối hợp hoạt động như một bộ máy vật lý, tâm lý, khi
ấy ta có ý tưởng về “tôi”. Nhưng đây chỉ là một ý tưởng sai lầm, một sự tạo tác
của tâm thức, hoạt động ấy là thân kiến.
Theo Phật học, một con người
muốn toàn thiện phải có hai đức tính và phát triển như nhau là Bi và Trí, trong
đó trí tuệ và từ bi liên quan mật thiết với nhau, trong đó Bát Thánh Đạo là tám
phương tiện mầu nhiệm đưa chúng sanh đến đời sống chí diệu. Những kẻ phàm phu học
đạo, noi theo pháp môn này mà tu tập thì khỏi lầm lạc vào nẻo nguy hiểm, lần hồi
sẽ chứng quả hiền Thánh, tiếp tục nương theo tám phương tiện này thì sẽ đến Niết-bàn.
2. Nội Dung Tám Nguyên Tắc
Hành Động Chân Chánh.
Bát Chánh Đạo, tám nguyên tắc
hành động ấy phải được mỗi hành giả chiêm nghiệm và thực thi chính trong đời sống
tu tập của mình được tóm lược như sau:
Chánh kiến là thấy, nghe,
hay, biết một cách ngay thẳng, công minh, đối với sự thật khách quan. Sự nhận
xét sự vật không bị tập quán, tà kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc, biết
phân biệt hư, ngụy vào sự lý chân thật làm cho trí tuệ sáng ngời, tiền trần
không thể che ám được.
b) Chánh tư duy:
Người tu theo phép này thường
suy xét đạo lý cao siêu, suy tìm đạo lý nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm,
những ý nghĩ xấu xa để sám hối, biết suy nghĩ về ba môn Giới, Định, Tuệ để tu
giải thoát.
c) Chánh ngữ:
Người tu theo chánh ngữ
không nói lời sai quấy, không xuyên tạc, không
vọng ngữ mà rất thận
trọng lời nói và luôn nói lời chân thật, ngay thẳng và hợp chân lý lợi ích cho
toàn thể chúng sanh.
d) Chánh nghiệp:
Là hành động, việc làm chân
chánh, đúng với lẽ phải, phù hợp chân lý, có lợi ích cho nhân sinh, là người
luôn thận trọng, giữ gìn mọi hành động của mình để khỏi làm tổn hại cho người khác,
luôn hành động có lợi ích cho mọi người, mọi vật, thậm chí có thể hy sinh quyền
lợi hay tánh mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ của người khác, giữ gìn tam
nghiệp cho thanh tịnh.
e) Chánh mạng:
Là sanh sống một cách chân
chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch, không tham lam làm giàu trên mồ
hôi và nước mắt của người khác.
Người theo chánh mạng sống
đúng chánh pháp, không mê tín và biết thân tứ đại là vô thường nên lấy tịnh giới
làm thể, lấy trí tuệ làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh pháp.
f) Chánh tinh tấn:
Là chuyên cần siêng năng làm
việc chánh nghĩa, lợi lạc cho mình và người.
Người theo đúng chánh tinh tấn,
quyết tạo nghiệp vô lậu xuất thế gian, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết-bàn
làm chổ quy hướng, một lòng kiên thệ, định thành đạo quả, tự độ, độ tha.
g) Chánh niệm:
Là nghi nhớ những điều hay,
lẽ phải, những đạo lý chân chính. Chánh niệm có hai phần là chánh ức niệm và
chánh quán niệm.
Chánh ức niệm: là nghĩ nhớ đến
các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối và nghĩ nhớ tứ trọng ân.
Chánh quán niệm: là dùng tâm
từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, bệnh tật, mê mờ mà chúng sanh đang mắc phải
để mở rộng lòng thương yêu.
h) Chánh định:
Là tập trung tư tưởng vào một
vấn đề chánh đáng, hợp chân lý, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn
đề sau:
Quán thân bất tịnh.
Quán từ bi.
Quán nhân duyên.
Quán giới phân biệt.
Quán hơi thở.
Bát Chánh Đạo là pháp
môn rất được thông dụng và có lợi ích thiết thực: Có thể cải thiện tự thân, cải
thiện hoàn cảnh. Nếu xã hội ai cũng đều chuyên tu theo tám đường chánh đạo này,
không những có nhiều lợi lạc cho cuộc đời hiện tại mà còn gây tạo một tương lai
tươi sáng, gieo trồng hạt giống Bồ-đề để có thể gặt hái quả Vô Thượng Bồ-đề,
Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Quả thật, cuộc đời như ảo ảnh,
như bóng mây tan hợp, là bể khổ chơi vơi, nó vẫn luôn tồn tại giữa cuộc đời một
cách sâu lắng, mênh mang, có lúc bàng bạc. Nó không có hình dáng nhất định
nhưng lại có thể giằng xé, vò nát tâm hồn con người qua những đêm dài không ngủ.
Những khắc khoải, những nỗi đau xé lòng, cắn rứt mãi không nguôi qua năm dài
tháng rộng, phá hại cơ thể khiến người ta phải ngày ngày sống trong nỗi đau đớn
tuyệt vọng vô bờ. Những nụ cười héo hắc như những giọt lệ khô lăn dài theo kiếp
sống phù du. Vận mạng con người thật quá đổi mong manh, bèo mây tan hợp như
sương khói, như ráng chiều đỏ lựng cuối chân trời. Và hơn thế nữa, khổ đau có
lúc mang những hình dáng thăng hoa, con người sống trong sự giàu sang, nhung lụa,
đầy ắp tình yêu thương và hạnh phúc, có thể đưa con người đi vào những giây
phút thật ngọt ngào, nhưng rồi tất cả những hạnh phúc, niềm vui đó không thể bền
lâu mà thật ngắn ngủi, dễ vỡ như mây, như khói, có rồi không. Nó như mặt biển
xanh rì làm êm dịu tâm hồn con người, nhưng có lúc nó nhấn chìm con người sâu
vào lòng đại dương đầy đau khổ, thất vọng não nề, đau thương và sầu hận.
Không ai có thể phủ nhận,
con người sinh ra để sống hạnh phúc chứ không phải sống để khổ đau hay vì mục
tiêu nào khác. Con người khát khao hít thở hạnh phúc, chân lý và tìm kiếm
chúng, đó là lý do tồn tại và phát triển các tư tưởng hệ. Trong guồng quay đó,
sự xuất hiện của đức Phật đã khai sáng cho nhân loại cái nhìn mới đầy khách
quan và rất thực tiễn, thực tại, có năng lực chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc
chân thật.
Sau khi giác ngộ Vô Thượng Bồ-đề,
bài pháp đầu tiên mà đức Phật đề cập không gì hơn ngoài cái Khổ của cuộc đời và
Con Đường đi đến diệt khổ “Giáo lý Khổ Thánh Đế” mà Ngài đã dạy là một chân lý
bất di bất dịch của sự thật cuộc đời, làm hiển lộ chân tướng của vạn hữu. Qua
lăng kính “Khổ Thánh Đế”, đau khổ thật sự lộ ra bản chất chân thật của nó. Đức
Phật đã gióng lên tiếng trống chánh pháp làm thức tỉnh tất cả chúng sanh đang
mê ngủ giữa biển đời ô trược và đầy cạm bẫy. Chân lý được hiển bày rất rõ ràng
và vi diệu dưới chân giáo nghĩa “Khổ Thánh Đế”. Đức Phật là nhà cách mạng vĩ đại
đã làm xóa tan những màn đêm tăm tối, si mê, xóa bỏ mọi giai cấp vì tất cả
chúng sanh đều bình đẳng như nhau “trong dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn”
và đều có khả năng tự hoàn thiện chính bản thân mình làm thăng hoa cuộc sống thế
nhân. Giáo lý của Ngài mở ra bầu trời hạnh phúc trong xanh, trăm hoa đua nở
dâng tỏa sắc hương thơm ngát của Từ bi và Trí tuệ. Tinh thần tự chủ, tự tri, tự
trách nhiệm, tự phát triển bản thân, tự mình làm hòn đảo, làm nơi nương tựa cho
chính mình. Điều đó sẽ là nhân tố quan trọng để người học Phật tự hoàn thiện
mình, kiện toàn đạo đức, nhân sinh phát triển tính tự cường, tính vô úy, tự tại
an nhiên trước những biến động của hoàn cảnh, trước vật đổi sao dời. Con người
của đích thực hiện sinh, của giáo lý Vô Ngã.
Nuôi dưỡng chánh niệm tỉnh
giác là sự có mặt của trí tuệ nhân tố soi đường vào giải thoát và tri kiến giải
thoát. Tại đây sự vật như thật hiện hữu đưa hành giả từ địa vị phàm phu lên bậc
Thánh. Suốt quá trình tu tập, hành giả phải luôn đối diện với những chuyển biến
tâm lý của tự thân. Đối diện với những tham ái chấp thủ, những bất trắc cuộc đời,
những nghiệt ngã gian nan bệnh tật ốm đau của kiếp người, những chông gai trên
đường tu tập vẫn luôn rình rập quanh ta.
Thế giới xung quanh ta là vô
thường, bất toàn, ảo mộng, trống rổng và giả tạm. Mọi thứ hiện ra một cách hiện
thực, rõ rệt, xác đáng. Thế giới tuy hiển hiện muôn màu nhưng không ngoài bốn
trạng thái “sinh, trụ, dị, diệt”. Dòng đời sinh diệt quay cuồng nhưng không
ngoài sự chuyển đổi mười hai chi phần Duyên khởi, để rồi cuối cùng Ngài tuyên bố
với nhân sinh rằng “Đời là bể khổ” và chính trong khổ đau đó chúng ta mới thật
sự tìm thấy nguyên nhân của khổ đau, sự an vui khi hết khổ đau và con đường đưa
đến tận diệt khổ đau. Đây chính là cái nhìn hiện thực về nhân sinh và vũ trụ,
không bi quan cũng không lạc quan. Bát Thánh Đạo là con đường trung đạo đưa
nhân sinh đến bến bờ giải thoát, an vui.
Hạnh phúc và giải thoát phải
do chính mình nổ lực tự thân, bởi có hạnh phúc nào mà không trả giá bằng sự khổ
đau, có thành công nào mà không kinh qua nhiều chướng ngại. Càng trở ngại, gian
nan thì thành công càng có giá trị. Giá trị mà chúng ta muốn nói ở đây là giá
trị vĩnh hằng, là hạnh phúc vô song mà bao người đang tìm cầu, hầu thoát khỏi
những khổ đau của kiếp người, của cuộc luân hồi. Những khổ đau của kiếp nhân
sinh vẫn làm ta tê tái đến nhói lòng.
Đạo Phật chỉ nhằm vào mục
tiêu là diệt khổ, nên diệt khổ là diệt trừ vô minh, khát ái và tham dục.
Đạo đế là phương pháp tu chứng, tự ngộ, không chạy theo tâm lý tham đắm, chấp
mê, luôn luôn trở về với đời sống nội tâm với chánh niệm tỉnh giác. Với
tuệ giác sáng ngời, mở ra cho chúng ta một bầu trời an lạc, bình yên khi con
người trở về niềm hạnh phúc chân thật muôn đời.
“Xuân đến trăm hoa đua sắc
thắm
Một thời hương sắc kém chi
nhau.
Vườn thu tàn tạ ngàn hao rụng
Riêng cúc đông ly vẫn đượm
màu”.
(Băng Thanh dịch)
Nguồn suối mát an lạc và mầu
nhiệm của tâm linh, luôn tuôn chảy hồn nhiên và giản dị như sự hiện diện của
ánh sáng trong không gian. Dòng suối ấy được khơi mở do công trình thực nghiệm
tâm linh của mỗi hành giả trên đường thực tu, thực chứng bằng chính nổ lực của
bản thân mình.
“Theo huyễn cảnh để rồi đau
khổ
Cõi hồng trần giả tạm ai ơi!
Đóa hoa tâm bất tử tuyệt vời.
Ôi! Đẹp quá loài hoa bất tử”.
Mặc dù sự sống có khổ đau,
hành giả không nên buồn sầu vì nó, không oán hận hoặc thiếu kiên nhẫn. Theo Phật
giáo, một trong những điều xấu xa nhất ở đời là oán hận hay thù ghét “Sự thù
ghét đối với chúng sanh, đối với đau khổ và đối với những gì thuộc về đau khổ,
công việc của nó là gây một căn bản cho những hoàn cảnh bất hạnh”.
(Abhisamuc, p.7)
Người Phật tử chân chính là
người hạnh phúc nhất trần gian. Người ấy không sợ hãi lo lắng. Họ luôn bình an,
thanh thoát và không bị tai nạn hay biến chuyển làm cho điêu đứng, đảo điên vì
họ thấy mọi sự đúng như thật. Đức Phật của chúng ta luôn mĩm cười. Trong hội họa
và trong điêu khắc, đức Phật luôn luôn được trình bày với một sắc diện hạnh
phúc, bình an, hài lòng và chứa chan từ bi, thanh thoát. Có hai bản kinh xưa củ
gọi là Trưởng Lão Kệ và Trưởng Lão Ni Kệ, chứa đầy những lời lẽ vui mừng của
các đệ tử của Phật, những người đã tìm thấy sự an vui, hạnh phúc trong đời nhờ
giáo lý của Ngài. Vua Kosala một hôm bạch với đức Phật rằng: “Khác với các đồ đệ
của các hệ thống tôn giáo khác, thường trông hốc hác, thô kệch, xanh xao, tiều
tụy ít ưa nhìn, những đồ đệ của Ngài luôn luôn “vui vẻ, thanh thoát, hồn nhiên,
sung sướng, vui hưởng đời sống tâm linh, không lo âu, bình an thư thái”. Vua
thêm rằng: Ông tin tính chất lành mạnh, đó là ở chỗ “Những vị Thượng Tọa, Đại Đức
này chắc chắn đã nhận chân toàn vẹn ý nghĩa giáo lý của đức Thế Tôn”.
(M II (PTS), p.121.
Khi trí tuệ được mở mang và
đào luyện, nó liền thấy bí mật của sự sống, thực tại của mọi sự vật đúng như thật.
Khi bí mật đã được khám phá, khi chân lý được tìm thấy, thì tất cả mọi năng lực
quay cuồng phát sinh ra dòng sanh tử trong vọng tưởng trở nên vắng lặng, bởi vì
không còn vọng tưởng, không còn ham muốn sanh tử. Nó như là một bệnh thần kinh
được chữa lành khi người bệnh khám phá ra nguyên nhân hay bí mật của chứng bệnh.
Họ không hối tiếc về quá khứ, không mơ mộng về tương lai, họ sống hoàn toàn
trong hiện tại, bởi thế hành giả thưởng thức và vui hưởng một cách thuần túy,
thuần khiết, khinh an vì hành giả đã giải thoát dục vọng, ích kỷ, hận thù, vô
minh, kiêu căng, ngã mạn và mọi thứ “bất tịnh” xấu xa.
Cuộc đời dưới lăng kính Phật
giáo trở nên trong sạch, từ hòa, đầy lòng thương bao quát, từ bi, khoan dung, độ
lượng, cuộc đời thoát khỏi mọi ảo tưởng về ngã, và lòng khao khát, dục vọng
mênh mang.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bản dịch
của Hòa Thượng Thích Minh Châu, Trung Bộ, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn
hành - Kinh Pháp Cú - ấn hành 1990.
2. Hòa Thượng
Thích Thiện Hoa - Phật Học Phổ Thông, Thành Hội Phật Giáo Tp HCM ấn hành 1989.
3. Hòa Thượng
Thích Thiện Siêu - Vô Ngã Và Niết-bàn - Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam - ấn
hành 1990.
4. Hòa Thượng
Thích Thanh Từ - Bước Đầu Học Phật - Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM ấn hành 1989.
5. Hãy Tự
Mình Thắp Đuốc Lên Mà Đi - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch, Nhà xuất bản Tp.
HCM 1999.
6. Thượng
Tọa Thích Chơn Thiện - Phật Học Khái Luận, Giáo Dục Phật Giáo Việt Nam ấn hành
1993.
7. Thượng
Tọa Thích Tâm Thiện Tâm Lý Học Phật Giáo, Nhà Xb Tp. HCM 1998.
8. Thích Phụng
Sơn - Những Nét Văn Hóa Của Đạo Phật, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành
1995.
9. Cố Ni
sư Thích Nữ Trí Hải - W Rahula, Tư Tưởng Phật Học, Tu Thư Học Viện Vạn Hạnh
1974.
10. Con Đường Thoát Khổ
- Cố Ni sư Trí Hải dịch - Sài Gòn 1966.
11. Nguyễn Du - Truyện
Kiều, Nhà Xb Đồng Nai 1994.
12. Ôn Như Hầu (Nguyễn
Gia Thiều) Cung Oán Ngâm Khúc, Tôn Thất Lượng, Giải Thoát và Bình Chú, Nhà Xb
Văn Học 1994.
13. Thơ Nguyễn Công Trứ,
Trương Chính biên soạn và hiệu đính, nhà Xb Văn Học 1983.
14. Võ Đình Cường -
Ánh Đạo Vàng.
15. Đức Phật Và Phật
Pháp - Narada - Phạm Kim Khánh dịch, Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM 1989
16. Thơ của Tiểu Viên
- Những Bước Chân Đi.
17. Các Vấn Đề Phật Học:
Giáo sư Minh Chi.
18. Vô Ngã - Vô Ưu -
AYYA KHEMA - Diệu Đạo.
Ngọc Chi
Nguồn: dentutraitim.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét