"Hoàng hôn lá reo bên thềm ...
hoàng hôn
tơi bời lá thu sương mờ ...
Thông thường, quá khứ của một dân tộc được
ghi lại bằng những trang sử của dân tộc ấy. Nhưng có một điều chắc chắn là những
trang sử không thể nào là đại diện đầy đủ quá khứ của một dân tộc, vì quá khứ ấy
không phải chỉ gồm những triều đại, những trận đánh và những biến động lớn lao.
Quá khứ của một dân tộc một phần rất lớn nằm trong ký ức tình cảm của tập thể
hay của cá nhân, rất tinh tế, không cụ thể, nhưng luôn luôn có mặt và chi phối
cuộc sống của chúng ta. Có những tình cảm lưu truyền từ đời này qua đời kia, mỗi
chúng ta đều mang chúng trong lòng. Niềm vui đầy cảm khái của thời khắc giao thừa
đón năm mới, hay nỗi buồn khi đối diện với cảnh “tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt”
chẳng hạn, là những tình cảm gần như phổ quát cho mỗi con người Việt Nam từ thời
xa xưa cho đến bây giờ.
Nghệ sĩ là người có khả năng cảm nhận một
cách nhạy bén những vốn liếng tình cảm truyền lại từ quá khứ ấy, và diễn đạt bằng
nhiều hình thức khác nhau, giúp chúng ta qua tác phẩm của họ nhận biết những điều,
hình như vẫn có sẵn nơi mình, nhưng tự mình thì không sống trọn vẹn được với
chúng bằng khi thưởng thức những gì người nghệ sĩ sáng tác.
Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước là người có biệt
tài, mà tôi cho là cao nhất, qua tác phẩm âm nhạc của mình, khơi dậy cái gia
tài quá khứ tiềm ẩn ấy.
Một nhạc phẩm của ông có tên là Tiếng Xưa, và chúng tôi
thấy cái tên ấy có thể đại diện cho tâm hồn và sự rung cảm của ông đối với những
tâm tình của quá khứ, nên đã mạn phép dùng Tiếng Xưa như là tên gọi chung cho
bao nỗi hoài cảm sâu xa, rộng lớn, man mác mà ông đã truyền vào tâm hồn chúng
ta qua các tác phẩm của ông.
|
Dương Thiệu Tước là một tài năng âm nhạc lớn
của Việt Nam. Nhưng điều lớn lao nhất nơi ông, theo tôi, là đã truyền cho chúng
ta cả một mảng tình cảm vẫn tiềm tàng trong tâm thức Việt Nam trải nhiều thế hệ.
Những đặc trưng ấy, người ta thường gọi là tính cách “cổ điển” của một dân tộc,
thỉnh thoảng được tài năng của một thế hệ nào đấy cảm nhận được và diễn đạt bằng
nhạc, bằng họa, bằng thơ, văn khiến chúng ta bàng hoàng vì như thể chúng ta gặp
lại chính mình, hoặc tổ tiên mình.
Chúng tôi nhận thấy những tác phẩm thành công nhất của Dương Thiệu Tước đều đem đến, hay nói cách khác, đều khơi dậy được những nỗi niềm xưa cũ trong tâm hồn chúng ta, như là những châu báu lâu nay vẫn chìm khuất đâu đó nay được khai quật lên vậy.
Chúng tôi nhận thấy những tác phẩm thành công nhất của Dương Thiệu Tước đều đem đến, hay nói cách khác, đều khơi dậy được những nỗi niềm xưa cũ trong tâm hồn chúng ta, như là những châu báu lâu nay vẫn chìm khuất đâu đó nay được khai quật lên vậy.
Hãy nói về bản Tiếng Xưa. Ðó là cảm nhận của
một nỗi buồn, nhân đối diện với thời khắc hoàng hôn của một buổi chiều thu. Kể
ra trong chúng ta ai ở trong cảnh “hoàng hôn lá reo bên thềm,” và “hoàng hôn
tơi bời lá thu sương mờ” thì cũng có thể cảm thấy một nỗi buồn man mác không cỗi
rễ, không biết tại sao lại buồn. Nhưng với nhạc sĩ thì khác, ông chỉ nói qua
khung cảnh mà mình đang đối diện trong một câu ngắn ngủi, để làm cái nền cho
dòng tình cảm tuôn trào. Bao nhiêu là cảnh là tình của thời xưa trôi về, nào là
“ánh trăng xưa” khiến mơ đến khúc Nghê Thường, nào là “thời liệt oanh” của một
thời nào nay đã mất. Chúng ta hoàn toàn không biết ánh trăng xưa đó là trong
hoàn cảnh nào, thời liệt oanh đó là của ai và tại sao mà nhớ tiếc, những điều
đó hầu như chẳng cần thiết, chỉ biết tâm hồn của ta bỗng dưng đồng cảm trọn vẹn
với tác giả. Chỉ cần gợi các yếu tố đó lên là hầu như ai cũng thấy mình có phần
trong đó, dù mình có trong ký ức một đêm trăng nào đặc biệt hay không, và có thể
suốt đời mình chẳng bao giờ có một thời liệt oanh nào. Không cần, những hình ảnh
ấy chỉ là những biểu tượng, đã nằm trong một cái kho chung của một nền văn hóa,
chỉ cần nói đến, dĩ nhiên một cách nghệ thuật, là đã có thể “khơi mạch sầu” một
cách bí ẩn nơi thâm tâm chúng ta. Cũng vậy, lòng tiếc nuối sao có tài mà lỡ
làng lận đận, và một mỹ nhân có tóc mây vương, có dáng liễu mơ màng giữa một
làn khói hương bay dịu dàng cũng chỉ là những tượng trưng rất điển hình của một
câu chuyện nào đó của thời xưa. Tất cả có thể là tâm sự rất riêng của một ai
đó, đồng thời cũng có thể rất chung đến nỗi thành như một loại điển tích, nhưng
đều có khả năng đánh động lòng ta. Lý do là vì chúng ta đã cùng tham gia vào
cái vốn liếng văn hóa của ông cha để lại, trong đó có chứa đựng tất cả, nào chiều
thu, nào nỗi nhớ tiếc một thời liệt oanh, nào nỗi bi phẫn có tài mà sao cứ lỡ
làng, nào ánh trăng, nào làn tóc…, chúng ta có sẵn bao nhiêu thứ, nay chỉ nhờ
nhạc sĩ mang ra mời chúng ta cùng thưởng thức và cùng ngậm ngùi cho các nỗi niềm
tuy của một thời nhưng lại đã trở thành bất biến với thời gian.
Bài Thuyền Mơ chỉ là một bài tả cảnh sông nước
của một vùng nhưng đối với tôi là một hình ảnh điển hình vô cùng xuất sắc, vô
cùng sâu đậm của quê hương Việt Nam, dĩ nhiên là quê hương của một thời thanh
bình đã xa, và cũng ghi dấu như một cái gì biểu trưng bất biến. Hãy đi theo con
thuyền mơ:
Thuyền mơ trên dòng sông vắng
Buồm in bóng trên ngàn dâu xanh
Núi lam khuất sau ngàn cây
Như bức tranh chiều nắng tơ xây mộng vàng.
Làng ai bên dòng sông vắng
Kề bên núi lam miền Trường Sơn
Nhà ai khói tỏa mây mờ dâng niềm thương nhớ
Chìm theo mây nước bao ước mơ.
Buồm in bóng trên ngàn dâu xanh
Núi lam khuất sau ngàn cây
Như bức tranh chiều nắng tơ xây mộng vàng.
Làng ai bên dòng sông vắng
Kề bên núi lam miền Trường Sơn
Nhà ai khói tỏa mây mờ dâng niềm thương nhớ
Chìm theo mây nước bao ước mơ.
Qua bức tranh này ta có thể có ý niệm về mấy
chữ “non sông gấm vóc,” vì bức tranh ấy đẹp như gấm như vóc. Nếu bài thơ Tràng
Giang của Huy Cận tả một nỗi sầu rộng lớn bằng bức tranh sông nước ở vùng đồng
bằng thì con Thuyền Mơ đang lênh đênh trong khung cảnh của vùng cận sơn, có lẽ
là ở vùng bắc Trung phần. Trước cảnh “sông dài trời rộng” trong ánh sáng nhạt
nhòa của buổi chiều đang đi vào hoàng hôn, Huy Cận chỉ nghe mơ hồ “đâu tiếng
làng xa vãn chợ chiều” thì Dương Thiệu Tước nhìn thấy một phong cảnh nhiều màu
sắc, có con buồm trắng in bóng trên ngàn dâu xanh, có núi lam khuất sau ngàn
cây trong buổi chiều nắng tơ xây mộng vàng, và cụ thể hơn, tác giả còn thấy một
ngôi làng xa xa bên chân núi, và ống kính còn kéo vào cận cảnh một ngôi nhà giữa
khói tỏa mây mờ. Nhưng có một điểm chung của hai tác giả là thuyền, sông nước,
và buổi chiều đều mang một nỗi buồn mang mang rộng lớn như đó chính là linh hồn
sẵn có tự bao giờ của nước non, mà mỗi tác giả diễn đạt ra một cách. Với Thuyền
Mơ trôi trên con sông vùng kề cận dãy Trường Sơn, chúng ta lại chạm được vào một
kho báu tiềm tàng của tâm hồn Việt Nam. Người nghệ sĩ lớn đã cảm hộ cho chúng
ta, nói hộ cho chúng ta những gì tàng chứa trong cảnh trí non sông và lòng người,
không biết từ đời kiếp nào.
Có lẽ nỗi buồn không phải là mục tiêu sáng
tác của Dương Thiệu Tước. Nó chỉ là kết quả. Ông chỉ nắm bắt những cảnh trí, và
từ cảnh sinh tình, ông bộc lộ ra những tâm tình bất biến của truyền thống tình
cảm Việt Nam. Áng Mây Chiều là một khơi nguồn ký ức của một cuộc chia xa trong
thời chinh chiến của một kẻ “ra đi khắp bốn phương, nơi biên cương chốn sa trường”
với một hình bóng “trong sương thu bóng ai ngồi nhớ nhung hoài tình xưa.” Ðó có
thể là một tâm sự riêng của một người vào một thời nhất định, nhưng cũng có thể
là một điển hình của lịch sử chinh chiến xưa nay.
Nhưng Bóng Chiều Xưa mới là một bản tình ca
tuyệt vời, nói về một mối tình say đắm nay không còn nữa. Thuần túy là tình
yêu, nhưng cũng mang đặc điểm chung là mối tình say đắm đó đã tan rồi, chỉ còn
lại nhớ tiếc. Nếu nó còn, và vẫn tiếp tục cường độ đắm say hạnh phúc như từ đầu
thì tác giả chắc không mất công sáng tác bản nhạc làm gì. Sáng tác vì mối tình
chỉ còn tồn tại cùng với một bóng chiều xưa, nghĩa là chỉ tồn tại trong ký ức.
Khi một trong hai người đã từng yêu nhau về thăm nơi cũ đã từng chứng kiến tình
yêu của họ
Một chiều gió mưa
Anh về thăm chốn xưa
Anh về thăm chốn xưa
Thì chỉ đối diện với
Non nước u buồn
Nào đâu bóng cố nhân
Lòng xót xa tình xưa.
Nào đâu bóng cố nhân
Lòng xót xa tình xưa.
Trong sáng tác của Dương Thiệu Tước chúng ta
luôn luôn gặp nỗi tiếc nhớ những gì đã qua. Rõ ràng tác giả có tấm lòng hoài cựu
rất mạnh. Trong văn học Việt Nam chúng ta có một tác phẩm ưu tú chỉ viết về quá
khứ, đó là cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân. Tác giả đứng trước luồng
sóng Âu hóa đang tràn vào xã hội Việt Nam vào những thập niên đầu của thế kỷ
20, đã vội ghi lại các hình ảnh đại diện cho sinh hoạt và tâm tư Việt Nam một
thời trước đó, trước khi chúng bị xóa nhòa vì làn sóng không cưỡng lại được của
một nền văn minh mới mẻ. Tôi có cảm tưởng Dương Thiệu Tước cũng làm công việc
tương tự, trong lãnh vực âm nhạc, khi cố tình làm sống lại những gì đang mất
trong một hoài niệm miên man. Người nghệ sĩ lớn có mối tiên cảm trước mọi người
về một mối de dọa nào đấy đối với đời sống của dân tộc, nên ra sức lưu giữ những
gì họ thấy có nguy cơ mai một đi. Nếu Nguyễn Tuân rõ ràng thấy trước nền văn
minh Tây phương rồi sẽ ảnh hưởng rất nhiều lên nếp sống nếp nghĩ nếp cảm cố hữu
của dân tộc mình nên thu thập và viết lại những gì đã một thời chỉ còn vang
bóng, thì Dương Thiệu Tước dường như tiên liệu những tình cảm rất đẹp của nỗi u
hoài rồi có ngày sẽ bị nạn lớn nên từ năm 1940 đã viết Tiếng Xưa như một tuyên
ngôn mở đầu, rồi liên tiếp trong hơn một thập niên đã sáng tác Ðêm Tàn Bến Ngự,
Thuyền Mơ, Áng Mây Chiều, Bóng Chiều Xưa, Ngọc Lan… như một cố gắng lưu giữ
càng nhiều vẻ đẹp xưa càng tốt. Tiên cảm ấy rất đúng. Khi hoạt động của đảng cộng
sản lớn mạnh rồi đến chỗ cướp được chính quyền, bao nhiêu vẻ đẹp của văn hóa Việt
Nam đã bị tàn phá. Những tình cảm sầu nhớ buồn bã bị lên án như là những thứ
không được tồn tại trong đời sống xã hội chủ nghĩa. Ðó là một xã hội mà văn nghệ
chỉ được nói đến niềm vui mà không được nhắc đến nỗi buồn, phải luôn luôn thúc
dục đánh nhau và sản xuất chứ không được mơ mộng. Khi nền văn nghệ hiện thực ấy
phải lùi bước trên đất nước ta cách đây vài chục năm vì tính chất phi nhân bản
của nó thì nhiều văn nghệ sĩ mới sực nhớ, à thì ra con người còn có nỗi buồn,
niềm thao thức, tiếc nhớ. Những gì trước đây bị lên án là ủy mị sướt mướt và cấm
đoán thì chính là một phần của đời sống của con người, không thiếu được, nếu
không muốn biến thành con người tật nguyền.
Dĩ nhiên tình cảm Dương Thiệu Tước không phải
chỉ là hoài cảm. Những tác phẩm như Bến Xuân Xanh, Hội Hoa Ðăng, Ngàn Thông Bên
Suối v.v... nắm bắt và thể hiện những niềm vui, vẻ đẹp của thiên nhiên và hội
hè bằng những nét nhạc trong sáng, hào hứng. Thế nhưng điều quan trọng Dương
Thiệu Tước vẫn là người đã lưu giữ những “tiếng xưa” lại cho chúng ta. Tình cảm
của ông trang nhã, ngôn từ của ông đẹp một cách cổ kính, và nhạc của ông cao
sang. Sự nghiệp sáng tác của ông là một di sản quý báu mà những thế hệ kế tiếp
ông phải biết nâng niu quý trọng. Di sản đó đã làm giàu có cho tâm hồn chúng
ta, và do đó cũng đóng góp rất nhiều cho nền văn hóa Việt Nam.
Tiếng xưa
Dương Thiệu Tước - Thùy Dương
Phạm Phú Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét