Ánh trăng quê
Cơn mưa đầu mùa kèm theo sấm sét trút xuống rất hung hãn. Tởn vội vàng vác cuốc
vào trại. Cánh đồng trắng xoá trong mưa, gió giật từng cơn muốn tung vách. Năm
nay mùa mưa đến sớm, làm dân làng lo lắng. Ruộng chưa cày xong, đồng lại ngập
nước khiến việc canh tác nhọc nhằn thêm.
Ngồi trú mưa, nhìn về phía xa, mờ mờ vài căn nhà lá nhỏ ẩn hiện. Làng này nghèo
khó tự bao đời. Người dân quanh năm suốt tháng cày sâu cuốc bẫm, vụ mùa nào
cũng van vái trời cao mưa thuận gió hòa, yếu tố may rủi quyết định phần lớn năng
suất. Cho nên cái nghèo của họ là điều khó tránh. Một ít người có của ăn của để
nhờ hưởng đất đai ông bà hàng chục mẫu, thành thử có thất mùa nhưng gom lại vẫn
nhiều. Tuy thế chi tiêu vẫn phải dè xẻn, nếu thất thêm một vụ nữa cũng nghèo
như chơi!.
Bất giác Tởn nhớ đến Đào, cô nàng xóm trên, má lúm đồng tiền, nước da bánh mật.
Hàng ngày ra ruộng đi ngang nhà nàng, nhìn trộm vào sân nơi nàng thường ra phơi
áo. Những chiếc bà ba màu trắng và xanh nhạt duyên dáng trên sào, bên góc sân.
Có lẽ Đào thích hai màu này lắm. Và Tởn cũng bắt đầu thấy thích màu áo của Đào.
Trong lều, nhìn không gian một màu trắng xóa như áo Đào, lại nhớ gương mặt bầu
bầu với đôi mắt tròn ngây thơ, chiếc răng khểnh tô thêm duyên dáng của nàng,Tởn
thấy lòng rạo rực. Vắng vài ngày không gặp, nó thấy nhớ, thấy buồn buồn. Nhớ nhất
nụ cười với hai đồng tiền sâu hút, nhớ chiếc áo bà ba màu thiên thanh trong nắng.
Tởn nhận ra rằng, trong màu áo ấy là người con gái quê mùa mộc mạc, mang nét đẹp
trời ban. Không kêu sa nhưng có một sức hấp dẫn lạ kì, khiến lòng Tởn khó quên.
Nó nhớ ngày nào còn chăn trâu cho nhà Đào, khi ấy nàng mới lên mười, thường đòi
kể chuyện đời xưa. Vẻ mặt ngây thơ, nũng nịu ấy khiến Tởn luôn phải chìu. Vào
những đêm trăng sáng, dân làng tranh thủ đập lúa trước sân, tiếng cười đùa rôm
rả. Cũng là dịp để Đào bắt Tởn kể chuyện. Có lần nhìn mặt trăng tròn như chiếc
đĩa, toả sáng vằng vặc in hình chú Cuội ôm gốc cây đa. Tởn kể cho Đào nghe câu
chuyện “Hằng Nga và Chú Cuội”, cô bé say sưa, sau đó nói: “Tội nghiệp chú Cuội
quá!”. Rồi những chuyện khác, nhiều lắm. Chuyện nào Đào cũng thích, nét mặt
ngây thơ, đôi mắt tròn xoe chăm chú nghe, khiến Tởn vui lây.
“Ngày xửa ngày xưa, có loài bướm đen muốn bắt cầu cho hai vì sao. Hàng ngày
bay đến các nhà bướm bông để thuyết phục chúng cùng tham gia. Nhưng không ai
nghe vì việc làm quá sức, khó kham nỗi. Không nãn lòng, bướm ta rủ thêm một số
chị bướm đen khác chia nhau đi làm thuyết khách. Đến đâu cũng chỉ nhận cái lắc
đầu từ chối. Bay mãi nên phấn của chúng rơi vãi khắp nơi, sức lực ngày một yếu
dần. Các Tiên trên trời lấy làm tội nghiệp, nên phát ra ánh sáng diệu kì khiến
những hạt phấn li ti ấy toả sáng lấp lánh với bảy màu tuyệt đẹp, tạo thành chiếc
cầu vồng nối các vì sao lại.”
- Chiếc cầu vồng ấy đi được không?
Tởn cười cười:
- Chỉ có các cô Tiên mới đi được thôi, người phàm không đi được!
Đào ngạc nhiên:
- Sao vậy anh?
- Vì các cô Tiên nhẹ nhàng tha thướt, còn người phàm nặng lắm, cầu làm bằng phấn
của bướm chịu sao nỗi?
- Thế bướm đen đi được không?
Tởn lúng túng:
- À…Chắc được.
Đào yên lặng nhìn sao một lát rồi hỏi tiếp:
- Có cầu rồi bướm đen làm gì nữa anh?
- Các chú bướm đen được những cô Tiên ban phép khiến người khoẻ lại rồi bay nhởn
nhơ ở vườn hoa, không phải làm lụng vất vả.
Câu chuyện về chiếc cầu vồng, Tởn kể cho Đào nghe khi mới lên mười, sau đó nó
không còn chăn trâu cho nhà Đào nữa. Thắm thoát đã bảy năm. Bảy năm không một lần
kể chuyện cổ tích, vì có ai nghe đâu mà kể. Bảy năm như bảy sắc cầu vồng, hiện
lên trên trời gợi nhớ gợi thương rồi âm thầm mất hút trong cõi bao la. Đào bây
giờ là một thiếu nữ xinh đẹp, chắc không còn thích nghe chuyện cổ tích nữa rồi!
Cái mà Đào thích có lẽ thực tế hơn, gắn liền cuộc sống hơn. Chuyện chú Cuội ôm
gốc đa hay chuyện cầu vồng mãi mãi là chuyện trẻ con, không cần thiết cho Đào nữa.
Và nếu có mơ ước, chắc Đào sẽ mơ về người chồng lý tưởng thay cho việc được đi
trên chiếc cầu vồng.…
Trên con đường làng, dẫn ra bờ sông, mặt đường lốm đốm nắng xuyên ngang những
tàng cây xanh tốt. Tởn mãi mê nhìn về phía trước, có con sông hiền hòa với màu
nước xanh trong. Nơi đây gọi là bến “Hội”,vì ngày xưa là chỗ để ghe xuồng tụ hội
mua bán, trao đổi nông sản. Cũng là nơi mà mỗi dịp cúng đình, người ta đậu ghe
chờ “thỉnh sắc thần” từ Phủ Thờ gần đó đem về đình cúng bái hai ngày, xong đem
trả lại. Lễ “thỉnh sắc” rất uy nghiêm, đi đầu là các cụ bô lão, áo dài khăn
đóng chỉnh tề, tiếp theo là cụ già cao niên nhiều uy tín mặc đại lễ bưng tráp,
trong chứa “sắc thần”. Hai bên có học trò lễ với áo mão màu xanh đậm cầm lọng
che tráp. Kèn trống inh ỏi. Dọc đường dân làng đặt bàn thờ sát mé với bông hoa
và nhang khói nghi ngút. Người xem có cảm giác sống lại thời xưa rước trạng về
làng. Đến bến “Hội”,”sắc thần” được “thỉnh” bằng chiếc ghe bày trí trang trọng.
Dân làng muốn dự cúng đình thì tự túc đi ghe theo, bằng đường bộ cũng được
nhưng hơi xa. Hai ngày sau là lễ “rước sắc”, có nghĩa là trả “Sắc” về lại Phủ
Thờ. Lễ “rước” cũng tương tự như lễ “thỉnh”. “Sắc thần” làm bằng lụa, ý nghĩa
như bảng phong “hàm” cho người có công khai phá vùng đất ấy, chữ “Thần” để tỏ
rõ công lao lúc sinh thời, nay vua truy phong để mọi người trong làng tôn thờ.
“Sắc thần” là “chiếu” của vua, được đóng ấn vuông màu đỏ. Thành thử khi cúng
bái phải “thỉnh” với đầy đủ lễ nghi. Đây cũng là dịp để dân làng bày tỏ lòng
kính nể bậc tiền nhân. Và cũng là dịp để trai gái đua nhau khoe áo mới, trao
nhau nụ cười.
Trong đám người đi dự hôm ấy có Tởn và Đào. Hai đứa ngồi cùng chiếc ghe,Tởn thấy
Đào hôm nay đẹp quá, chiếc áo mới màu thiên thanh trong ánh ban mai làm nó ngất
ngây. Rồi nó nhớ lại những chuyện đời xưa đã kể cho Đào nghe. Ngày đó Đào ngây
thơ hồn nhiên, nét mặt say sưa với từng lời kể. Bây giờ Đào đã lớn, không còn
vòi vĩnh với Tởn nữa. Những câu chuyện đời xưa đã xếp ở góc lòng. Tởn muốn đến
gần Đào, muốn trò truyện. Nhưng nhìn lại mình, thấy ngao ngán, với thân phận hiện
nay không cho phép nó tiến lại với Đào, dù trong chốc lát, để có những giây
phút rung động. Thế là nó ngồi yên, thu mình trong cái vỏ bọc tự ti. Nhưng trái
tim lại không muốn tuân theo những gì nó nghĩ. Trong lòng từng đợt phong ba
dâng cao rồi chìm xuống. Nó cảm thấy lắc lư, mặc dầu hôm nay dòng sông yên ắng!
Gần đấy Đào vẫn vui đùa cùng đám bạn trẻ, tiếng cười làm mọi người vui lây. Tởn
cũng vui, nhưng vui “buồn”! Nó thấy mình lẻ loi trong đám người vui nhộn ấy,
“yêu thầm” như người lữ hành cô độc trên đường quê. Nhìn xung quanh muôn hoa
khoe sắc, không dám hái trộm mặc dầu rất thích. Đào ngồi đó, tuy gần mà rất xa.
Nó thở dài ngoái nhìn bến “Hội”, nơi Đào thường ra giặt áo và Tởn cũng thường
ra tắm. Con nước lớn với lục bình trôi nó nghe buồn man mác.…
Trăng mười sáu, toả sáng làng quê. Bóng chú Cuội rõ nồm nộp. Tởn đưa mắt nhìn.
Nó nhớ lại câu chuyện “Hằng Nga và Chú Cuội” đã từng kể cho Đào nghe. Lúc này
sao mà giống nó quá! Chú Cuội trong trăng đã đi vào huyền thoại, len lõi chốn
văn chương. “Chú Cuội” hạ giới lại buồn thổn thức.
Hai hôm trước Đào theo chồng. Đám rước với nhiều ghe lớn,trang hoàng lộng lẫy đậu
chờ ở bến “Hội”, Tởn thấy lòng tái tê. Nhìn trăng lên như một chiếc đĩa màu
cam, tưởng chừng sẽ rơi xuống đốt cháy mọi thứ (và nó mong như vậy). Trăng quê
ngày xưa đẹp đẽ biết bao, nay u buồn không chút hấp dẫn! Ánh trăng ngày nào gợi
hứng cho Tởn kể chuyện đời xưa, bây giờ lại gợi buồn sâu sắc. Ai đó theo chồng
có thấu cho lòng Tởn? Một chú Cuội với mối hận lòng, thích màu áo thiên thanh của
người con gái mà không dám nói. Chú Cuội trên trăng còn có gốc đa làm bạn. Chú
Cuội hạ giới chỉ biết si tình thơ thẩn nhìn trăng, hững hờ với nét đẹp diệu kì
của nó! Chuyện cổ tích ngày xưa của một loài bướm mơ ước chiếc cầu nối kết hai
vì sao, đánh động lòng thương của các nàng Tiên. Còn nỗi lòng của Tởn, âm thầm
đau khổ, các vị Tiên kia có hiểu?.
Bầu trời đột nhiên tối hẵn, một đám mây đen che khuất vành trăng. Cảnh vật trở
nên u buồn, những ngọn tre làng biến thành ma trơi nhảy múa trong đêm trường.
Nhưng ánh trăng quê ngày nào vẫn không muốn tắt trong lòng của Tởn.
Long Khánh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét