Charles Baudelaire
(1821-1867) là nhà thơ lớn của văn học Pháp thế kỷ XIX.., thuộc trường phái
"Tượng Trưng" chủ nghĩa, biểu tượng những mối quan hệ giữa nội tâm
con người với thế giới bên ngoài … dựa trên các hiện thực cao thượng nhưng ẩn mật
sau các vết son hào nhoáng của xã hội phồn hoa giả tạo … Thơ Baudelaire là một
sự phiêu lưu kỳ dị vào hư ảo, bí ẩn, siêu thực, đoạn tuyệt để tìm một lối giải
thoát cho sự khắc khổ, tuyệt vọng và chán chường …
Thi sĩ Baudelaire sinh tại
Paris, mồ côi cha lúc 6 tuổi, mẹ tái giá và đã gửi ông vào một ký túc xá. Ông
theo gia đình sang Ấn Độ vào năm 1841, sau đó trở về Paris, sống cuộc đời kham
khổ, thiếu thốn và bắt đầu sáng tác. Ông tham gia cuộc cách mạng tháng 2-1848 một
thời gian ngắn. Thi sĩ đã gặp vài kiều nữ như Jeanne Duval, Marie Daubrun,
Apollonie Sabatier, và chính những người phụ nữ đẹp nầy đã đem nhiều cảm xúc,
cuồng nhiệt và thi hứng cho những dòng thơ chập chờn mộng ảo của ông, nhưng
ông đã không có được cái may mắn hạnh phúc trong tình trường …. Đời sống của
ông đầy dẫy những bất hạnh, đau buồn .. mà ông đã cố thoát ra khỏi cảnh cùng cực
bằng ma túy, rượu chè, và lang thang đây đó … Bị xã hội ruồng rẫy, khinh miệt,
gia đình cô lập và lạnh nhạt, ông mang đầy mặc cảm và mắc bệnh tâm thần kinh
niên, nhiều lần đã có ý định quyên sinh. Cuối cùng chỉ có cái chết mới giải
thoát được … năm 1867 ông bị bệnh ốm nặng, qua đời sau một thời gian bị bại liệt
tàn phế (Ông mất năm 46 tuổi).
Ông đã viết nhiều bài tiểu luận phê bình nghệ thuật (1845-46), dịch thơ Edgar Allen Poe (1852), xuất bản thi phẩm Les Fleurs du Mal – Hoa Khổ Đau (1857) nhưng không được đón tiếp nồng nhiệt, vì nhiều bài thơ biểu tượng nhục tính, phản luân lý và đạo giáo, và cũng vì thế mà ông và nhà xuất bản đã bị đưa ra tòa và bị phạt vạ. Sáu bài thơ trong thi-phẩm này đã bị kiểm duyệt cắt bỏ. Năm 1859 ông viết cuốn Le Salon bàn luận về công trình của các hoạ sĩ, và sau đó sáng tác thêm 35 bài thơ mới cho thi-phẩm Les Fleurs du Mal, tái bản lần thứ 2 vào năm 1861. Sau khi ông qua đời, người ta cho xuất bản thêm vài tác phẩm của Ông như "Journaux intimes" (Nhật ký riêng tư) và "Petits Poème en prose" (Những bài thơ nhỏ viết theo thể văn xuôi)
Ông đã viết nhiều bài tiểu luận phê bình nghệ thuật (1845-46), dịch thơ Edgar Allen Poe (1852), xuất bản thi phẩm Les Fleurs du Mal – Hoa Khổ Đau (1857) nhưng không được đón tiếp nồng nhiệt, vì nhiều bài thơ biểu tượng nhục tính, phản luân lý và đạo giáo, và cũng vì thế mà ông và nhà xuất bản đã bị đưa ra tòa và bị phạt vạ. Sáu bài thơ trong thi-phẩm này đã bị kiểm duyệt cắt bỏ. Năm 1859 ông viết cuốn Le Salon bàn luận về công trình của các hoạ sĩ, và sau đó sáng tác thêm 35 bài thơ mới cho thi-phẩm Les Fleurs du Mal, tái bản lần thứ 2 vào năm 1861. Sau khi ông qua đời, người ta cho xuất bản thêm vài tác phẩm của Ông như "Journaux intimes" (Nhật ký riêng tư) và "Petits Poème en prose" (Những bài thơ nhỏ viết theo thể văn xuôi)
Les Fleurs du Mal (Hoa Khổ
Đau) là một thi phẩm nổi tiếng của Ông ...mà chính tác giả đã bộc bạch thổ lộ:
"viết với tất cả con tim và hận thù …" cho lý tưởng và nghệ thuật ..
Đó là những nối tiếp của đau thương, thất vọng, giày vò, xung đột, chán chường. Cuộc sống nghèo khổ, cô độc, bệnh hoạn, vô vọng trong một xã hội lạnh nhạt
không ngõ thoát, không hội nhập được, đã làm thơ của Charles Baudelaire trở nên
bi quan yếm thế tiêu cực và đôi khi huyền bí, lạnh lùng, khó hiểu, mang những
hình tượng ma thuật, hoặc đượm màu triết lý khắc khổ.. Ngôn ngữ thơ của Ông phảng
phất những ảo giác siêu hình, ẩn mật giữa hiện thực và hư vô.
Sau đây là vài bản phỏng dịch Việt Ngữ của những bài thơ trích từ thi-phẩm "Hoa Khổ Đau - Les Fleurs du Mal" của Charles Baudelaire .. Vì lòng đam mê văn chương và thi ca, tác giả mạo muội chỉ xin mượn ý và phỏng dịch từ Thơ ra Thơ. Vì phải giữ cái hồn thơ và ý thơ của nguyên bản, và đồng thời thi điệu và âm điệu của bài thơ dịch Việt Ngữ nên chắc chắc có nhiều chữ dịch không được sát nghĩa, khó lột đúng tinh thần nguyên tác... Nếu có gì thiếu sót và bất cẩn, mong sự thông cảm của quí bạn đọc yêu thơ.
Sau đây là vài bản phỏng dịch Việt Ngữ của những bài thơ trích từ thi-phẩm "Hoa Khổ Đau - Les Fleurs du Mal" của Charles Baudelaire .. Vì lòng đam mê văn chương và thi ca, tác giả mạo muội chỉ xin mượn ý và phỏng dịch từ Thơ ra Thơ. Vì phải giữ cái hồn thơ và ý thơ của nguyên bản, và đồng thời thi điệu và âm điệu của bài thơ dịch Việt Ngữ nên chắc chắc có nhiều chữ dịch không được sát nghĩa, khó lột đúng tinh thần nguyên tác... Nếu có gì thiếu sót và bất cẩn, mong sự thông cảm của quí bạn đọc yêu thơ.
(Xin chân thành cám ơn Anh
Chị Mai Tâm đã đóng góp nhiều ý kiến quí báu trong việc dịch thuật.).
Hải Đà
Nous aurons des lits pleins d'odeurs
légères,
Des divans profonds comme des tombeaux,
Et d'étranges fleurs sur des étagères,
Écloses pour nous sous des cieux plus beaux.
Usant à l'envi leurs chaleurs dernières,
Nos deux coeurs seront deux vastes flambeaux,
Qui réfléchiront leurs doubles lumières
Dans nos deux esprits, ces miroirs jumeaux.
Un soir fait de rose et de bleu mystique,
Nous échangerons un éclair unique,
Comme un long sanglot, tout chargé d'adieux;
Et plus tard un Ange, entr'ouvrant les portes,
Viendra ranimer, fidèle et joyeux,
Les miroirs ternis et les flammes mortes.
Charles Baudelaire
Des divans profonds comme des tombeaux,
Et d'étranges fleurs sur des étagères,
Écloses pour nous sous des cieux plus beaux.
Usant à l'envi leurs chaleurs dernières,
Nos deux coeurs seront deux vastes flambeaux,
Qui réfléchiront leurs doubles lumières
Dans nos deux esprits, ces miroirs jumeaux.
Un soir fait de rose et de bleu mystique,
Nous échangerons un éclair unique,
Comme un long sanglot, tout chargé d'adieux;
Et plus tard un Ange, entr'ouvrant les portes,
Viendra ranimer, fidèle et joyeux,
Les miroirs ternis et les flammes mortes.
Charles Baudelaire
Cái Chết Của Tình Nhân
Ta sẽ có chiếc giường hương thoảng nhẹ
Tấm đi văng sâu trũng tựa nấm mồ
Những kỳ hoa phơi bầy trên chiếc kệ
Dưới khung trời diễm lệ nụ trương phô
Hơi ấm cuối hãy cùng nhau xử dụng
Hai con tim: hai ngọn đuốc chói loà
Hai luồng sáng song song cùng phản chiếu
Hai linh hồn: hai kiếng lộng nguy nga
Trời xẩm tối màu hồng xanh huyền ảo
Tia chớp dài trao đổi giữa hai ta
Lời ly biệt khóc than người nức nở
Một Thiên Thần sẽ đến mở cửa ra
Vừa vui vẻ, trung thành, làm sống lại
Chiếc gương mờ, lửa chết tự hôm qua ...
Hải Đà (phỏng dịch)
Tấm đi văng sâu trũng tựa nấm mồ
Những kỳ hoa phơi bầy trên chiếc kệ
Dưới khung trời diễm lệ nụ trương phô
Hơi ấm cuối hãy cùng nhau xử dụng
Hai con tim: hai ngọn đuốc chói loà
Hai luồng sáng song song cùng phản chiếu
Hai linh hồn: hai kiếng lộng nguy nga
Trời xẩm tối màu hồng xanh huyền ảo
Tia chớp dài trao đổi giữa hai ta
Lời ly biệt khóc than người nức nở
Một Thiên Thần sẽ đến mở cửa ra
Vừa vui vẻ, trung thành, làm sống lại
Chiếc gương mờ, lửa chết tự hôm qua ...
Hải Đà (phỏng dịch)
2- La Muse Malade
Ma pauvre muse, hélas! qu'as-tu donc
ce matin?
Tes yeux creux sont peuplés de visions nocturnes,
Et je vois tour à tour réfléchis sur ton teint
La folie et l'horreur, froides et taciturnes.
Le succube verdâtre et le rose lutin
T'ont-ils versé la peur et l'amour de leurs urnes?
Le cauchemar, d'un poing despotique et mutin
T'a-t-il noyée au fond d'un fabuleux Minturnes?
Je voudrais qu'exhalant l'odeur de la santé
Ton sein de pensers forts fuât toujours fréquenté,
Et que ton sang chrétien coulât à flots rythmiques,
Comme les sons nombreux des syllabes antiques,
Où règnent tour à tour le père des chansons,
Phoebus, et le grand Pan, le seigneur des moissons.
Charles Baudelaire
Tes yeux creux sont peuplés de visions nocturnes,
Et je vois tour à tour réfléchis sur ton teint
La folie et l'horreur, froides et taciturnes.
Le succube verdâtre et le rose lutin
T'ont-ils versé la peur et l'amour de leurs urnes?
Le cauchemar, d'un poing despotique et mutin
T'a-t-il noyée au fond d'un fabuleux Minturnes?
Je voudrais qu'exhalant l'odeur de la santé
Ton sein de pensers forts fuât toujours fréquenté,
Et que ton sang chrétien coulât à flots rythmiques,
Comme les sons nombreux des syllabes antiques,
Où règnent tour à tour le père des chansons,
Phoebus, et le grand Pan, le seigneur des moissons.
Charles Baudelaire
Nàng Thơ Nhuốm Bệnh
Tội nàng thơ! Sáng nay em sao thế?
Mắt trùng sâu mộng ảo giữa đêm tà
Trên sắc em thấy gì đang phản chiếu
Nỗi cuồng điên ghê sợ, lạnh xót xa
Thằng quỷ hồng, lão yêu tinh da tái
Rót hồn em lo sợ lẫn yêu thương
Cơn mộng dữ qua bàn tay đùa giỡn
Nhấn chìm em trong bãi lậy hoang đường
Ta muốn em thoát ra nguồn sinh lực
Vùng suy tư về lại bước luôn thường
Dòng máu Chúa vẫn nhịp nhàng tuôn chảy
Lời cổ xưa âm điệu mãi còn vương
Từ nơi đó hai vị thần luôn ngự trị
Cha âm thanh và chúa tể ruộng vườn
Hải Đà (phỏng dịch)
Mắt trùng sâu mộng ảo giữa đêm tà
Trên sắc em thấy gì đang phản chiếu
Nỗi cuồng điên ghê sợ, lạnh xót xa
Thằng quỷ hồng, lão yêu tinh da tái
Rót hồn em lo sợ lẫn yêu thương
Cơn mộng dữ qua bàn tay đùa giỡn
Nhấn chìm em trong bãi lậy hoang đường
Ta muốn em thoát ra nguồn sinh lực
Vùng suy tư về lại bước luôn thường
Dòng máu Chúa vẫn nhịp nhàng tuôn chảy
Lời cổ xưa âm điệu mãi còn vương
Từ nơi đó hai vị thần luôn ngự trị
Cha âm thanh và chúa tể ruộng vườn
Hải Đà (phỏng dịch)
3- La Beauté
Je suis belle, ô mortels! comme un
rêve de pierre,
Et mon sein, où chacun s'est meurtri tour à tour,
Est fait pour inspirer au poète un amour
Éternel et muet ainsi que la matière.
Je trône dans l'azur comme un sphinx incompris;
J'unis un coeur de neige à la blancheur des cygnes;
Je hais le mouvement qui déplace les lignes,
Et jamais je ne pleure et jamais je ne ris.
Les poètes, devant mes grandes attitudes,
Que j'ai l'air d'emprunter aux plus fiers monuments,
Consumeront leurs jours en d'austères études;
Car j'ai, pour fasciner ces dociles amants,
De purs miroirs qui font toutes choses plus belles:
Mes yeux, mes larges yeux aux clartés éternelles!
Charles Baudelaire
Et mon sein, où chacun s'est meurtri tour à tour,
Est fait pour inspirer au poète un amour
Éternel et muet ainsi que la matière.
Je trône dans l'azur comme un sphinx incompris;
J'unis un coeur de neige à la blancheur des cygnes;
Je hais le mouvement qui déplace les lignes,
Et jamais je ne pleure et jamais je ne ris.
Les poètes, devant mes grandes attitudes,
Que j'ai l'air d'emprunter aux plus fiers monuments,
Consumeront leurs jours en d'austères études;
Car j'ai, pour fasciner ces dociles amants,
De purs miroirs qui font toutes choses plus belles:
Mes yeux, mes larges yeux aux clartés éternelles!
Charles Baudelaire
Ta đẹp lắm, như giấc mơ cẩm thạch
Lòng ta đây lần lượt tổn thương người
Để thi nhân tuôn trào muôn cảm hứng
Cho tình yêu bất tử lặng thầm trôi
Như nhân sư trên trời ta ngự trị
Kết tim ngà với sắc trắng thiên nga
Ta ghét động..sợ rời xa vóc nét
Không cười vui và chẳng khóc thiết tha
Thi sĩ đứng.. nhìn ta đầy ngạo nghễ
Những tượng đài vay mượn nét kiêu sa
Trong trầm tư khổ hạnh phí đời qua
Bạn tình đó ta dễ làm say đắm
Chiếc gương trong khiến vật đẹp nguy nga
Đôi mắt lớn chiếu hoài ta rực rỡ .
Hải Đà (phỏng dịch)
Lòng ta đây lần lượt tổn thương người
Để thi nhân tuôn trào muôn cảm hứng
Cho tình yêu bất tử lặng thầm trôi
Như nhân sư trên trời ta ngự trị
Kết tim ngà với sắc trắng thiên nga
Ta ghét động..sợ rời xa vóc nét
Không cười vui và chẳng khóc thiết tha
Thi sĩ đứng.. nhìn ta đầy ngạo nghễ
Những tượng đài vay mượn nét kiêu sa
Trong trầm tư khổ hạnh phí đời qua
Bạn tình đó ta dễ làm say đắm
Chiếc gương trong khiến vật đẹp nguy nga
Đôi mắt lớn chiếu hoài ta rực rỡ .
Hải Đà (phỏng dịch)
4- La Musique
La musique souvent me prend comme une
mer!
Vers ma pâle étoile,
Sous un plafond de brume ou dans un vaste éther,
Je mets à la voile;
La poitrine en avant et les poumons gonflés
Comme de la toile,
J'escalade le dos des flots amoncelés
Que la nuit me voile;
Je sens vibrer en moi toutes les passions
D'un vaisseau qui souffre:
Le bon vent, la tempête et ses convulsions
Sur l'immense gouffre
Me bercent. D’autres fois, calme plat, grand miroir
De mon désespoir!
Charles Baudelaire
Vers ma pâle étoile,
Sous un plafond de brume ou dans un vaste éther,
Je mets à la voile;
La poitrine en avant et les poumons gonflés
Comme de la toile,
J'escalade le dos des flots amoncelés
Que la nuit me voile;
Je sens vibrer en moi toutes les passions
D'un vaisseau qui souffre:
Le bon vent, la tempête et ses convulsions
Sur l'immense gouffre
Me bercent. D’autres fois, calme plat, grand miroir
De mon désespoir!
Charles Baudelaire
Âm Nhạc
Ta say nhạc như đam mê biển lớn
Đường ta đi loáng bạc những vì sao
Dưới mây mù phủ lấp cả trời cao
Lòng rộn rã giăng buồm nương gió thổi
Ta ưỡn ngực căng phồng hai lá phổi
Như buồm kia lồng lộng gió ngàn khơi
Ta trèo lên lưng sóng cưỡi chơi vơi
Mịt mùng xa giữa màn đêm phủ bóng
Hồn run rẩy theo từng cơn khát vọng
Của con tàu luôn nhẫn nhục dầy công
Qua gió lành, bão tố, nước bềnh bồng
Sóng mênh mang trên bờ sâu thăm thẳm
Ru ta ngủ mặt đài gương biển lặng
Soi hồn ta cơn tuyệt vọng điên cuồng
Hải Đà (phỏng dịch)
Đường ta đi loáng bạc những vì sao
Dưới mây mù phủ lấp cả trời cao
Lòng rộn rã giăng buồm nương gió thổi
Ta ưỡn ngực căng phồng hai lá phổi
Như buồm kia lồng lộng gió ngàn khơi
Ta trèo lên lưng sóng cưỡi chơi vơi
Mịt mùng xa giữa màn đêm phủ bóng
Hồn run rẩy theo từng cơn khát vọng
Của con tàu luôn nhẫn nhục dầy công
Qua gió lành, bão tố, nước bềnh bồng
Sóng mênh mang trên bờ sâu thăm thẳm
Ru ta ngủ mặt đài gương biển lặng
Soi hồn ta cơn tuyệt vọng điên cuồng
Hải Đà (phỏng dịch)
5- Harmonie du soir
Voici venir le temps où vibrant sur
sa tige
Chaque fleur s'évapore ainsi qu'un encensoir;
Les sons et les parfums tournent dans l'air du soir;
Valse mélancolique et langoureux vertige!
Chaque fleur s'évapore ainsi qu'un encensoir;
Le violon frémit comme un coeur qu'on afflige;
Valse mélancolique et langoureux vertige!
Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir.
Le violon frémit comme un coeur qu'on afflige,
Un coeur tendre, qui hait le néant vaste et noir!
Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir;
Le soleil s'est noyé dans son sang qui se fige.
Un coeur tendre, qui hait le néant vaste et noir,
Du passé lumineux recueille tout vestige!
Le soleil s'est noyé dans son sang qui se fige...
Ton souvenir en moi luit comme un ostensoir!
Charles Baudelaire
Chaque fleur s'évapore ainsi qu'un encensoir;
Les sons et les parfums tournent dans l'air du soir;
Valse mélancolique et langoureux vertige!
Chaque fleur s'évapore ainsi qu'un encensoir;
Le violon frémit comme un coeur qu'on afflige;
Valse mélancolique et langoureux vertige!
Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir.
Le violon frémit comme un coeur qu'on afflige,
Un coeur tendre, qui hait le néant vaste et noir!
Le ciel est triste et beau comme un grand reposoir;
Le soleil s'est noyé dans son sang qui se fige.
Un coeur tendre, qui hait le néant vaste et noir,
Du passé lumineux recueille tout vestige!
Le soleil s'est noyé dans son sang qui se fige...
Ton souvenir en moi luit comme un ostensoir!
Charles Baudelaire
Khúc Chiều Tà
Kìa .. run rẩy trên cành xanh tha thướt
Những bông hoa kiều diễm ngát thơm nhang
Muôn tiếng động giữa trời hương lồng lộng
Điệu valse buồn xây xẩm ngực râm ran
Từng cánh hoa như hương trầm tỏa ngát
Tiếng vĩ cầm run khẽ thắt tim đau
Thân mệt lả điệu valse buồn xơ xác
Chiếc bình hương lộng lẫy đẹp khung sầu
Quặn tim đau tiếng vĩ cầm khe khẽ
Trái tim mềm oán hận cảnh hư vô
Trời ủ rũ trên bình hương bát ngát
Ánh dương tàn trong giọt máu đông khô
Cõi hư không trái tim mềm oán ghét
Vết tích tìm trong quá khứ lung linh
Dòng máu đông từ mặt trời đã lặn
Bình thánh linh rực rỡ chuyện đôi mình
Hải Đà (phỏng dịch)
Những bông hoa kiều diễm ngát thơm nhang
Muôn tiếng động giữa trời hương lồng lộng
Điệu valse buồn xây xẩm ngực râm ran
Từng cánh hoa như hương trầm tỏa ngát
Tiếng vĩ cầm run khẽ thắt tim đau
Thân mệt lả điệu valse buồn xơ xác
Chiếc bình hương lộng lẫy đẹp khung sầu
Quặn tim đau tiếng vĩ cầm khe khẽ
Trái tim mềm oán hận cảnh hư vô
Trời ủ rũ trên bình hương bát ngát
Ánh dương tàn trong giọt máu đông khô
Cõi hư không trái tim mềm oán ghét
Vết tích tìm trong quá khứ lung linh
Dòng máu đông từ mặt trời đã lặn
Bình thánh linh rực rỡ chuyện đôi mình
Hải Đà (phỏng dịch)
6- Tristesses de la Lune
Ce soir, la lune rêve avec plus de paresse;
Ainsi qu'une beauté, sur de nombreux coussins,
Qui d'une main distraite et légère caresse
Avant de s'endormir le contour de ses seins,
Sur le dos satiné des molles avalanches,
Mourante, elle se livre aux longues pâmoisons,
Et promène ses yeux sur les visions blanches
Qui montent dans l'azur comme des floraisons.
Quand parfois sur ce globe, en sa langueur oisive,
Elle laisse filer une larme furtive,
Un poète pieux, ennemi du sommeil,
Dans le creux de sa main prend cette larme pâle,
Aux reflets irisés comme un fragment d'opale,
Et la met dans son coeur loin des yeux du soleil.
Trăng Buồn
Đêm hôm ấy trăng mơ màng uể oải
Gối chăn êm xinh đẹp dáng ngây thơ
Dịu dàng quá bàn tay nàng lơ đãng
Ngực căng tròn ve vuốt bước vào mơ
Lưng trắng mịn qua bao mùa tuyết phủ
Trong từng cơn hấp hối vẫn hoài trông
Từ đôi mắt cuồng điên màu bạch nguyệt
Vút trời cao chất ngất nở đầy bông
Trên thế gian những đôi khi nhàn nhã
Âm thầm rơi giọt lệ khóc mưa ròng
Một thi sĩ tâm đồng… thao thức nhớ
Đưa tay mình hứng lệ tái tê lòng
Màu phản chiếu lung linh như ngọc bích
Dấu trong tim xa vắng ánh dương hồng …
Hải Đà (phỏng dịch)
7- L'Âme du Vin
Un soir, l'âme du vin chantait dans les bouteilles:
”Homme, vers toi je pousse, ô cher déshérité,
Sous ma prison de verre et mes cires vermeilles,
Un chant plein de lumière et de fraternité!
Je sais combien il faut, sur la colline en flamme,
De peine, de sueur et de soleil cuisant
Pour engendrer ma vie et pour me donner l'âme;
Mais je ne serai point ingrat ni malfaisant,
Car j'éprouve une joie immense quand je tombe
Dans le gosier d'un homme usé par ses travaux,
Et sa chaude poitrine est une douce tombe
Où je me plais bien mieux que dans mes froids caveaux.
Entends-tu retentir les refrains des dimanches
Et l'espoir qui gazouille en mon sein palpitant?
Les coudes sur la table et retroussant tes manches,
Tu me glorifieras et tu seras content;
J'allumerai les yeux de ta femme ravie;
A ton fils je rendrai sa force et ses couleurs
Et serai pour ce frêle athlète de la vie
L'huile qui raffermit les muscles des lutteurs.
En toi je tomberai, végétale ambroisie,
Grain précieux jeté par l'éternel Semeur,
Pour que de notre amour naisse la poésie
Qui jaillira vers Dieu comme une rare fleur !”
Charles Baudelaire
Hồn Rượu
Một chiều hồn rượu hát ca vang
Gửi người cô thế, kẻ gian nan
Từ nơi ngục kiếng viền xi đỏ
Rực sáng bài ca nghĩa bạn vàng
Trên đồi rực lửa tốn bao công
Nắng vã mồ hôi ướt chảy ròng
Sinh sản hồn ta, đời sống mới
Ta không bất nhẫn, bạc ơn lòng
Sung sướng là bao lúc rót vào
Tràn nơi cuống họng kẻ cần lao
Êm đềm ngực ấm là ngôi mộ
Thoát chốn hầm sâu lạnh xiết bao
Chủ nhật ngồi nghe điệp khúc vui
Phập phồng hy vọng ngực chơi vơi
Xắn tay áo dựa trên bàn rượu
Ta được vinh danh, thỏa mãn người
Đôi mắt vợ ngươi thắp sáng ngời
Con người khoẻ mạnh sắc hồng tươi
Cho chàng lực sĩ dầu xoa bóp
Bắp thịt phồng căng đấu đã đời
Cao lương mỹ vị rước ta vào
Hạt giống vĩnh hằng được ném trao
Lộng lẫy tình ta thơ nở rộ
Đoá hoa kỳ diệu ngút trời cao
Hải Đà (phỏng dịch)
8- Recueillement
Sois sage, ô ma Douleur, et tiens-toi plus tranquille.
Tu réclamais le Soir; il descend; le voici:
Une atmosphère obscure enveloppe la ville,
Aux uns portant la paix, aux autres le souci.
Pendant que des mortels la multitude vile,
Sous le fouet du Plaisir, ce bourreau sans merci,
Va cueillir des remords dans la fête servile,
Ma Douleur, donne-moi la main; viens par ici,
Loin d'eux. Vois se pencher les défuntes Années,
Sur les balcons du ciel, en robes surannées;
Surgir du fond des eaux le Regret souriant;
Le Soleil moribond s'endormir sous une arche,
Et, comme un long linceul trainant à l'Orient,
Entends, ma chère, entends la douce Nuit qui marche.
Charles Baudelaire
Tĩnh Tâm
Em Đau Khổ, hãy bình tâm ngoan ngoãn
Đang xuống đây, chầm chậm.. buổi chiều mong
Trên thành phố màn trời đen phủ kín
Người lo âu, kẻ khác thấy an lòng
Trong đám đông hèn hạ kẻ phàm nhân
Tên đao phủ với làn roi Khoái Lạc
Hái ăn năn trong đám hội đê hèn
Em Đau Khổ đưa bàn tay tôi dắt
Lánh xa đi! Năm tháng đã phai tàn
Khung trời cao, nghiêng mình trong áo cũ
Đáy sông lên, Ân Hận mỉm cười khan
Dưới cầu cong, Mặt Trời đang hấp hối
Từ phương Đông dài liệm chiếc khăn tang
Em yêu dấu, đêm vàng đang khẽ bước …
Hải Đà (phỏng dịch) 9- Elévation
Au-dessus des étangs, au-dessus des vallées,
Des montagnes, des bois, des nuages, des mers,
Par delà le soleil, par delà les éthers,
Par delà les confins des sphères étoilées,
Mon esprit, tu te meus avec agilité,
Et, comme un bon nageur qui se pâme dans l'onde,
Tu sillonnes gaiement l' immensité profonde
Avec une indicible et mâle volupté.
Envole-toi bien loin de ces miasmes morbides;
Va te purifier dans l'air supérieur,
Et bois, comme une pure et divine liqueur,
Le feu clair qui remplit les espaces limpides.
Derrière les ennuis et les vastes chagrins
Qui chargent de leur poids l'existence brumeuse,
Heureux celui qui peut d'une aile vigoureuse
S'élancer vers les champs lumineux et sereins;
Celui dont les pensers, comme des alouettes,
Vers les cieux le matin prennent un libre essor,
Qui plane sur la vie, et comprend sans effort
Le langage des fleurs et des choses muettes!
Charles Baudelaire
Lên Cao
Bay trên hồ ao, bay qua lũng thấp
Bay trên núi rừng, biển cả, mây cao
Vưọt thinh không, qua mặt trời rạng rỡ
Đến tận cùng lấp lánh những vì sao
Nhanh nhẹn quá, tâm hồn ta chuyển động
Như người bơi ngây ngất sóng trùng khơi
Hồn sâu thẳm ngươi cười reo, ngang dọc
Trong niềm vui sức sống khó nên lời
Bay thật xa, thoát nơi nầy chướng khí
Cuối tầng mây thanh khiết xác thân mình
Hãy uống đi, ly rượu thần trong sạch
Lấp lánh đầy lửa sáng cõi quang minh
Dấu lòng đau, suy tư buồn não nuột
Cuộc trần ai kiếp sống nặng nề mang
Đôi cánh khỏe cho người nhiều may mắn
Vút lao mình về phía cánh đồng quang
Kẻ trầm ngâm như loài chim chiền chiện
Sớm mai hồng vút cánh tít trời xa
Bay trên đời cho lòng mau thấu hiểu
Lặng câm buồn: ngôn ngữ của loài hoa
Hải Đà (phỏng dịch)
10- La Fontaine de Sang
Il me semble parfois que mon sang coule à flots,
Ainsi qu’une fontaine aux rythmiques sanglots.
Je l'entends bien qui coule avec un long murmure,
Mais je me tâte en vain pour trouver la blessure.
A travers la cité, comme dans un champ clos,
Il s'en va, transformant les pavés en ilots,
Désaltérant la soif de chaque créature,
Et partout colorant en rouge la nature.
J'ai demandé souvent à des vins captieux
D'endormir pour un jour la terreur qui me mine;
Le vin rend l'oeil plus clair et l'oreille plus fine!
J'ai cherché dans l'amour un sommeil oublieux;
Mais l'amour n'est pour moi qu’un matelas d'aiguilles
Fait pour donner à boire à ces cruelles filles!
Charles Baudelaire
Suối Máu Những lúc thấy máu mình tuôn xối xả
Tiếng nấc đều theo nhịp suối thở than
Nghe máu chảy tiếng thầm thì dai dẳng
Ráng công tìm chẳng thấy vết thương mang
Quanh con phố như đồng hoang kín mít
Nổi trên đường đảo nhỏ ...máu trôi mau
Muôn sinh vật đón mừng cơn dịu khát
Sắc đỏ tươi tạo hoá thắm tô màu
Ta thỉnh cầu những chai vang xảo quyệt
Xoa dịu ta ngày sợ hãi xanh người
Chất rượu làm mắt tinh thêm tai thính
Tìm tình yêu trong giấc ngủ quên đời
Tấm nệm Tình cho ta đầy gai nhọn
Hỡi cô nàng tàn nhẫn .. rượu ta mời
Hải Đà (phỏng dịch)
11- Spleen
Quand le ciel bas et lourd pèse comme un couvercle
Sur l'esprit gémissant en proie aux longs ennuis,
Et que de l'horizon embrassant tout le cercle
Il nous verse un jour noir plus triste que les nuits;
Quand la terre est changée en un cachot humide,
Où l'Espérance, comme une chauve-souris,
S'en va battant les murs de son aile timide
Et se cognant la tête à des plafonds pourris;
Quand la pluie étalant ses immenses trainées
D'une vaste prison imite les barreaux,
Et qu'un peuple muet d'infâmes araignées
Vient tendre ses filets au fond de nos cerveaux,
Des cloches tout à coup sautent avec furie
Et lancent vers le ciel un affreux hurlement,
Ainsi que des esprits errants et sans patrie
Qui se mettent à geindre opiniâtrement.
- Et de longs corbillards, sans tambours ni musique,
Défilent lentement dans mon âme; l'Espoir,
Vaincu, pleure, et l'Angoisse atroce, despotique,
Sur mon crâne incliné plante son drapeau noir.
Charles Baudelaire
Chán Đời
Trời trũng thấp như chiếc vung nặng trĩu
Đè lên hồn rền rĩ nỗi buồn dai
Xiết vòng quanh là chân trời vây kín
Rót ngày đen sầu thảm hơn đêm dài
Mặt đất biến thành nhà tù ẩm thấp
Nơi chốn mà Cuồng Vọng tựa cánh dơi
Bức tường ngăn rụt rè đôi cánh đập
Chạm đầu va trần mục nát tả tơi
Từng vạt lớn cơn mưa tràn vung vãi
Tựa khung tù song sắt rộng thênh thang
Ghê gớm quá lặng câm nhìn đàn nhện
Tận óc mình thả lưới bủa vây giăng
Trong bất chợt cỗ chuông reo phẩn nộ
Thất kinh người tiếng hú vọng lên trời
Không tổ quốc tựa linh hồn lang bạt
Phàn nàn than dai dẳng chẳng ngừng thôi
Đoàn xe tang chạy dài không chiêng trống
Qua hồn tôi bước chậm.. Hy Vọng tàn …
Òa lên khóc, Kinh Hoàng và áp chế
Trên đầu tôi nghiêng gục cắm cờ đen ..
Hải Đà (phỏng dịch)
12- La cloche fêlée
Il est amer et doux, pendant les nuits d'hiver,
D'écouter, près du feu qui palpite et qui fume,
Les souvenirs lointains lentement s'élever
Au bruit des carillons qui chantent dans la brume.
Bienheureuse la cloche au gosier vigoureux
Qui, malgré sa vieillesse, alerte et bien portante,
Jette fidèlement son cri religieux,
Ainsi qu'un vieux soldat qui veille sous la tente!
Moi, mon âme est fêlée, et lorsqu'en ses ennuis
Elle veut de ses chants peupler l'air froid des nuits,
Il arrive souvent que sa voix affaiblie
Semble le râle épais d'un blessé qu’on oublie
Au bord d'un lac de sang, sous un grand tas de morts
Et qui meurt, sans bouger, dans d'immenses efforts.
Charles Baudelaire
Chuông Rạn Vỡ
Đêm đông lạnh, ôi dịu dàng cay đắng
Ngồi bâng khuâng khói lửa chập chờn bay
Từ xa xưa nghe dâng tràn kỷ niệm
Tiếng chuông rung hát giữa khói sương dầy
Ôi sung sướng! chuông kêu rền khan cổ
Mặc già nua, nhanh nhẹn sống lâu bền
Lời kính cẩn trung thành vang tiếng gọi
Như lính già canh thức giữa lều đêm
Trong phiền muộn linh hồn tôi rạn nứt
Đêm giá băng tiếng hát muốn len vào
Kìa giọng nói thất thường rên yếu ớt
Tựa thương binh quên lãng thở thều thào
Bên hồ máu, dưới thi hài chất đống
Gắng chết mòn chẳng nghe tiếng động nào
Hải Đà (phỏng dịch)
Ce soir, la lune rêve avec plus de paresse;
Ainsi qu'une beauté, sur de nombreux coussins,
Qui d'une main distraite et légère caresse
Avant de s'endormir le contour de ses seins,
Sur le dos satiné des molles avalanches,
Mourante, elle se livre aux longues pâmoisons,
Et promène ses yeux sur les visions blanches
Qui montent dans l'azur comme des floraisons.
Quand parfois sur ce globe, en sa langueur oisive,
Elle laisse filer une larme furtive,
Un poète pieux, ennemi du sommeil,
Dans le creux de sa main prend cette larme pâle,
Aux reflets irisés comme un fragment d'opale,
Et la met dans son coeur loin des yeux du soleil.
Trăng Buồn
Đêm hôm ấy trăng mơ màng uể oải
Gối chăn êm xinh đẹp dáng ngây thơ
Dịu dàng quá bàn tay nàng lơ đãng
Ngực căng tròn ve vuốt bước vào mơ
Lưng trắng mịn qua bao mùa tuyết phủ
Trong từng cơn hấp hối vẫn hoài trông
Từ đôi mắt cuồng điên màu bạch nguyệt
Vút trời cao chất ngất nở đầy bông
Trên thế gian những đôi khi nhàn nhã
Âm thầm rơi giọt lệ khóc mưa ròng
Một thi sĩ tâm đồng… thao thức nhớ
Đưa tay mình hứng lệ tái tê lòng
Màu phản chiếu lung linh như ngọc bích
Dấu trong tim xa vắng ánh dương hồng …
Hải Đà (phỏng dịch)
7- L'Âme du Vin
Un soir, l'âme du vin chantait dans les bouteilles:
”Homme, vers toi je pousse, ô cher déshérité,
Sous ma prison de verre et mes cires vermeilles,
Un chant plein de lumière et de fraternité!
Je sais combien il faut, sur la colline en flamme,
De peine, de sueur et de soleil cuisant
Pour engendrer ma vie et pour me donner l'âme;
Mais je ne serai point ingrat ni malfaisant,
Car j'éprouve une joie immense quand je tombe
Dans le gosier d'un homme usé par ses travaux,
Et sa chaude poitrine est une douce tombe
Où je me plais bien mieux que dans mes froids caveaux.
Entends-tu retentir les refrains des dimanches
Et l'espoir qui gazouille en mon sein palpitant?
Les coudes sur la table et retroussant tes manches,
Tu me glorifieras et tu seras content;
J'allumerai les yeux de ta femme ravie;
A ton fils je rendrai sa force et ses couleurs
Et serai pour ce frêle athlète de la vie
L'huile qui raffermit les muscles des lutteurs.
En toi je tomberai, végétale ambroisie,
Grain précieux jeté par l'éternel Semeur,
Pour que de notre amour naisse la poésie
Qui jaillira vers Dieu comme une rare fleur !”
Charles Baudelaire
Hồn Rượu
Một chiều hồn rượu hát ca vang
Gửi người cô thế, kẻ gian nan
Từ nơi ngục kiếng viền xi đỏ
Rực sáng bài ca nghĩa bạn vàng
Trên đồi rực lửa tốn bao công
Nắng vã mồ hôi ướt chảy ròng
Sinh sản hồn ta, đời sống mới
Ta không bất nhẫn, bạc ơn lòng
Sung sướng là bao lúc rót vào
Tràn nơi cuống họng kẻ cần lao
Êm đềm ngực ấm là ngôi mộ
Thoát chốn hầm sâu lạnh xiết bao
Chủ nhật ngồi nghe điệp khúc vui
Phập phồng hy vọng ngực chơi vơi
Xắn tay áo dựa trên bàn rượu
Ta được vinh danh, thỏa mãn người
Đôi mắt vợ ngươi thắp sáng ngời
Con người khoẻ mạnh sắc hồng tươi
Cho chàng lực sĩ dầu xoa bóp
Bắp thịt phồng căng đấu đã đời
Cao lương mỹ vị rước ta vào
Hạt giống vĩnh hằng được ném trao
Lộng lẫy tình ta thơ nở rộ
Đoá hoa kỳ diệu ngút trời cao
Hải Đà (phỏng dịch)
8- Recueillement
Sois sage, ô ma Douleur, et tiens-toi plus tranquille.
Tu réclamais le Soir; il descend; le voici:
Une atmosphère obscure enveloppe la ville,
Aux uns portant la paix, aux autres le souci.
Pendant que des mortels la multitude vile,
Sous le fouet du Plaisir, ce bourreau sans merci,
Va cueillir des remords dans la fête servile,
Ma Douleur, donne-moi la main; viens par ici,
Loin d'eux. Vois se pencher les défuntes Années,
Sur les balcons du ciel, en robes surannées;
Surgir du fond des eaux le Regret souriant;
Le Soleil moribond s'endormir sous une arche,
Et, comme un long linceul trainant à l'Orient,
Entends, ma chère, entends la douce Nuit qui marche.
Charles Baudelaire
Tĩnh Tâm
Em Đau Khổ, hãy bình tâm ngoan ngoãn
Đang xuống đây, chầm chậm.. buổi chiều mong
Trên thành phố màn trời đen phủ kín
Người lo âu, kẻ khác thấy an lòng
Trong đám đông hèn hạ kẻ phàm nhân
Tên đao phủ với làn roi Khoái Lạc
Hái ăn năn trong đám hội đê hèn
Em Đau Khổ đưa bàn tay tôi dắt
Lánh xa đi! Năm tháng đã phai tàn
Khung trời cao, nghiêng mình trong áo cũ
Đáy sông lên, Ân Hận mỉm cười khan
Dưới cầu cong, Mặt Trời đang hấp hối
Từ phương Đông dài liệm chiếc khăn tang
Em yêu dấu, đêm vàng đang khẽ bước …
Hải Đà (phỏng dịch) 9- Elévation
Au-dessus des étangs, au-dessus des vallées,
Des montagnes, des bois, des nuages, des mers,
Par delà le soleil, par delà les éthers,
Par delà les confins des sphères étoilées,
Mon esprit, tu te meus avec agilité,
Et, comme un bon nageur qui se pâme dans l'onde,
Tu sillonnes gaiement l' immensité profonde
Avec une indicible et mâle volupté.
Envole-toi bien loin de ces miasmes morbides;
Va te purifier dans l'air supérieur,
Et bois, comme une pure et divine liqueur,
Le feu clair qui remplit les espaces limpides.
Derrière les ennuis et les vastes chagrins
Qui chargent de leur poids l'existence brumeuse,
Heureux celui qui peut d'une aile vigoureuse
S'élancer vers les champs lumineux et sereins;
Celui dont les pensers, comme des alouettes,
Vers les cieux le matin prennent un libre essor,
Qui plane sur la vie, et comprend sans effort
Le langage des fleurs et des choses muettes!
Charles Baudelaire
Lên Cao
Bay trên hồ ao, bay qua lũng thấp
Bay trên núi rừng, biển cả, mây cao
Vưọt thinh không, qua mặt trời rạng rỡ
Đến tận cùng lấp lánh những vì sao
Nhanh nhẹn quá, tâm hồn ta chuyển động
Như người bơi ngây ngất sóng trùng khơi
Hồn sâu thẳm ngươi cười reo, ngang dọc
Trong niềm vui sức sống khó nên lời
Bay thật xa, thoát nơi nầy chướng khí
Cuối tầng mây thanh khiết xác thân mình
Hãy uống đi, ly rượu thần trong sạch
Lấp lánh đầy lửa sáng cõi quang minh
Dấu lòng đau, suy tư buồn não nuột
Cuộc trần ai kiếp sống nặng nề mang
Đôi cánh khỏe cho người nhiều may mắn
Vút lao mình về phía cánh đồng quang
Kẻ trầm ngâm như loài chim chiền chiện
Sớm mai hồng vút cánh tít trời xa
Bay trên đời cho lòng mau thấu hiểu
Lặng câm buồn: ngôn ngữ của loài hoa
Hải Đà (phỏng dịch)
10- La Fontaine de Sang
Il me semble parfois que mon sang coule à flots,
Ainsi qu’une fontaine aux rythmiques sanglots.
Je l'entends bien qui coule avec un long murmure,
Mais je me tâte en vain pour trouver la blessure.
A travers la cité, comme dans un champ clos,
Il s'en va, transformant les pavés en ilots,
Désaltérant la soif de chaque créature,
Et partout colorant en rouge la nature.
J'ai demandé souvent à des vins captieux
D'endormir pour un jour la terreur qui me mine;
Le vin rend l'oeil plus clair et l'oreille plus fine!
J'ai cherché dans l'amour un sommeil oublieux;
Mais l'amour n'est pour moi qu’un matelas d'aiguilles
Fait pour donner à boire à ces cruelles filles!
Charles Baudelaire
Suối Máu Những lúc thấy máu mình tuôn xối xả
Tiếng nấc đều theo nhịp suối thở than
Nghe máu chảy tiếng thầm thì dai dẳng
Ráng công tìm chẳng thấy vết thương mang
Quanh con phố như đồng hoang kín mít
Nổi trên đường đảo nhỏ ...máu trôi mau
Muôn sinh vật đón mừng cơn dịu khát
Sắc đỏ tươi tạo hoá thắm tô màu
Ta thỉnh cầu những chai vang xảo quyệt
Xoa dịu ta ngày sợ hãi xanh người
Chất rượu làm mắt tinh thêm tai thính
Tìm tình yêu trong giấc ngủ quên đời
Tấm nệm Tình cho ta đầy gai nhọn
Hỡi cô nàng tàn nhẫn .. rượu ta mời
Hải Đà (phỏng dịch)
11- Spleen
Quand le ciel bas et lourd pèse comme un couvercle
Sur l'esprit gémissant en proie aux longs ennuis,
Et que de l'horizon embrassant tout le cercle
Il nous verse un jour noir plus triste que les nuits;
Quand la terre est changée en un cachot humide,
Où l'Espérance, comme une chauve-souris,
S'en va battant les murs de son aile timide
Et se cognant la tête à des plafonds pourris;
Quand la pluie étalant ses immenses trainées
D'une vaste prison imite les barreaux,
Et qu'un peuple muet d'infâmes araignées
Vient tendre ses filets au fond de nos cerveaux,
Des cloches tout à coup sautent avec furie
Et lancent vers le ciel un affreux hurlement,
Ainsi que des esprits errants et sans patrie
Qui se mettent à geindre opiniâtrement.
- Et de longs corbillards, sans tambours ni musique,
Défilent lentement dans mon âme; l'Espoir,
Vaincu, pleure, et l'Angoisse atroce, despotique,
Sur mon crâne incliné plante son drapeau noir.
Charles Baudelaire
Chán Đời
Trời trũng thấp như chiếc vung nặng trĩu
Đè lên hồn rền rĩ nỗi buồn dai
Xiết vòng quanh là chân trời vây kín
Rót ngày đen sầu thảm hơn đêm dài
Mặt đất biến thành nhà tù ẩm thấp
Nơi chốn mà Cuồng Vọng tựa cánh dơi
Bức tường ngăn rụt rè đôi cánh đập
Chạm đầu va trần mục nát tả tơi
Từng vạt lớn cơn mưa tràn vung vãi
Tựa khung tù song sắt rộng thênh thang
Ghê gớm quá lặng câm nhìn đàn nhện
Tận óc mình thả lưới bủa vây giăng
Trong bất chợt cỗ chuông reo phẩn nộ
Thất kinh người tiếng hú vọng lên trời
Không tổ quốc tựa linh hồn lang bạt
Phàn nàn than dai dẳng chẳng ngừng thôi
Đoàn xe tang chạy dài không chiêng trống
Qua hồn tôi bước chậm.. Hy Vọng tàn …
Òa lên khóc, Kinh Hoàng và áp chế
Trên đầu tôi nghiêng gục cắm cờ đen ..
Hải Đà (phỏng dịch)
12- La cloche fêlée
Il est amer et doux, pendant les nuits d'hiver,
D'écouter, près du feu qui palpite et qui fume,
Les souvenirs lointains lentement s'élever
Au bruit des carillons qui chantent dans la brume.
Bienheureuse la cloche au gosier vigoureux
Qui, malgré sa vieillesse, alerte et bien portante,
Jette fidèlement son cri religieux,
Ainsi qu'un vieux soldat qui veille sous la tente!
Moi, mon âme est fêlée, et lorsqu'en ses ennuis
Elle veut de ses chants peupler l'air froid des nuits,
Il arrive souvent que sa voix affaiblie
Semble le râle épais d'un blessé qu’on oublie
Au bord d'un lac de sang, sous un grand tas de morts
Et qui meurt, sans bouger, dans d'immenses efforts.
Charles Baudelaire
Chuông Rạn Vỡ
Đêm đông lạnh, ôi dịu dàng cay đắng
Ngồi bâng khuâng khói lửa chập chờn bay
Từ xa xưa nghe dâng tràn kỷ niệm
Tiếng chuông rung hát giữa khói sương dầy
Ôi sung sướng! chuông kêu rền khan cổ
Mặc già nua, nhanh nhẹn sống lâu bền
Lời kính cẩn trung thành vang tiếng gọi
Như lính già canh thức giữa lều đêm
Trong phiền muộn linh hồn tôi rạn nứt
Đêm giá băng tiếng hát muốn len vào
Kìa giọng nói thất thường rên yếu ớt
Tựa thương binh quên lãng thở thều thào
Bên hồ máu, dưới thi hài chất đống
Gắng chết mòn chẳng nghe tiếng động nào
Hải Đà (phỏng dịch)
Hải
Đà-Vương Ngọc Long
biên
soạn và tuyển dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét