Hai phát hiện của Vũ Quần Phương và
Trần Ngọc Hồ Trường về Truyện Kiều
DỰ BÁO TRONG TRUYỆN KIỀU - Dự Quần Phương và Trần báo xuất hiện dày đặc trong Truyện Kiều, làm thành một môtif. Hầu hết các nhân
vật đều nói lời dự báo.
Cùng với các thủ pháp khác,
sự báo trước có giá trị như một kỹ thuật phổ biến. Môtif dự báo góp phần tạo ra
các giá trị nội tại, cho thấy cách thức tồn tại của con người thời trung đại,
thân phận của nó, vì thế khảo sát ý nghĩa của môtif này giúp cho việc khám phá
Truyện Kiều được sâu sắc hơn. Khảo sát môtif dự báo còn có nhiệm vụ phác họa
các hình thức của nó, nó đã hiện diện như thế nào và để trả lời câu hỏi vì sao
liên tiếp có các dự báo trong truyện.
Cuộc đời, ngày mai, tương
lai đối với thế giới con người trong Truyện Kiều là bất khả tri, không thể biết
được, khó có thể đoán định, đoan chắc:
- Thấy người nằm đó biết sau
thế nào
- Trăm năm biết có duyên gì
hay không
- Biết đâu Hợp Phố mà mong
châu về
- Khuôn xanh biết có vuông
tròn mà hay
- Một dày, một mỏng biết là
có nên
- Biết đâu rồi nữa chẳng là
chiêm bao
- Kiếp phong trần biết bao
giờ cho thôi
- Biết đâu ấm lạnh, biết đâu
ngọt bùi
- Biết đâu địa ngục, thiên
đàng là đâu
- Biết đâu mà gởi can trường
vào đâu
- Biết đâu hạc nội, mây ngàn
là đâu
Nhưng ở đây lại phát sinh một
mâu thuẫn là chính trong thế giới mù mịt, bất khả đoán đó mà thế giới nhân vật
trong Truyện Kiều càng phải không ngừng ngẫm nghĩ để dự đoán, dự báo tương lai.
Nhân vật Truyện Kiều không chấp nhận sống nếu không đoán định về mai sau, nhất
là đối với những nhân vật có cá tính, có bản sắc và ý thức. Hơn thế, tiên định
tương lai phù hợp với logic cuộc đời. Mặt khác, đối với con người trong Truyện
Kiều, cái hiện tại, bây giờ không quan trọng bằng tương lai. Họ hầu như rất ít
nói về hiện tồn mà luôn suy tư về ngày sau bởi hiện tồn chỉ có đau khổ, do đó sự
hình thành dày đặc các dự báo là hợp lý.
Trong Truyện Kiều, có rất
nhiều các nhân vật báo trước tương lai hoặc chí ít cũng phỏng đoán, thể hiện cảm
quan về tương lai. Có thể nói đến các dự báo của Đạm Tiên (3 lần), của Tam Hợp
đạo cô (nữ đạo nhân), của nhân vật tướng sĩ (thầy tướng), của sư Giác Duyên mà
các nhà nghiên cứu đã nhắc đến và dễ thấy đối với độc giả. Không chỉ có thế,
nhiều nhân vật khác cũng tham dự vào hành động đoán định, mô tả, dự phóng thời
gian mai sau. Kim Trọng ngay từ buổi sơ ngộ, gặp Thúy Vân và Thúy Kiều "e
lệ nép vào dưới hoa" đã thể hiện mong muốn, có pha dự phóng là sẽ lấy được
cả hai Kiều:
Trộm nghe thơm nức hương lân
Một nền Đồng Tước khóa xuân
hai Kiều.
Câu thơ thứ hai trên đây
không phải nói "nhà họ Vương có hai cô gái đẹp cấm cung" mà nói đến ước
muốn được sở hữu hai cô Kiều. Có thể diễn giải hai câu ấy là: Danh tiếng về
nhan sắc của hai Kiều bay khắp hương lân, ta muốn xây lâu đài để cùng sống với
hai cô ấy sau khi cả hai đã là vợ ta. Kim Vân Kiều truyện viết rằng ngay trong
lần đầu gặp gỡ, Kim Trọng "âm thầm phát thệ: "Mình mà không được hai
nàng làm vợ thì suốt đời sẽ chẳng lấy ai". Nguyễn Du mượn điển tích để thể
hiện ý câu này. Sau hai câu thơ trên, nhà thơ cũng nói trong mắt chàng Kim, hai
Kiều đều "mặn mà" (Bóng hồng nhác thấy nẻo xa/ Xuân lan thu cúc mặn
mà cả hai). Kết thúc truyện kể, Thúy Vân và Thúy Kiều có thể nói, đều là vợ
chàng Kim. Kim Trọng cũng nói đến một tương lai, nếu có điều chẳng may xảy ra với
mình và Kiều: Ví dù giải kết đến điều/ Thì đem vàng đá mà liều với thân.
Nhân vật bà quản gia ở dinh
họ Hoạn báo trước cho Kiều việc sắp xảy ra, khuyên nàng giữ mình sau khi đã bị
Hoạn Thư bắt về:
Dạy rằng: "May rủi đã
đành
Liễu bồ mình giữ lấy mình
cho hay
Cũng là oan nghiệt chi đây
Sa cơ mới đến thế này chẳng
dưng
Ở đây tai vách mạch dừng
Thấy ai người cũ cũng đừng
nhìn chi
Kẻo khi sấm sét bất kỳ
Con ong, cái kiến kêu gì được
oan
Trong khi đó vị đạo nhân
tiên báo cho Thúc Sinh biết chi tiết, rõ ràng số mệnh của Kiều sau khi Kiều tưởng
như đã bị chết cháy:
Đạo nhân phục trước tĩnh đàn
Xuất thần giây phút chưa tàn
nén hương
Trở về minh bạch nói tường:
"Mặt nàng chẳng thấy,
việc nàng đã tra
Người này nặng kiếp oan gia
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác
cho
Mệnh cung đang mắc nạn to
Một năm nữa mới thăm dò được
tin
Hai bên giáp mặt chiền chiền
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn,
lạ thay"
Các nhân vật Mã Giám Sinh,
Tú Bà cũng nói với Kiều về tương lai nhưng dựa trên sự giả dối. Tú Bà thề thốt
sẽ đối đãi tử tế với Kiều: Mai sau ở chẳng như lời/ Trên đầu có bóng mặt trời
sáng soi. Mã Giám Sinh thì thề quyết. Sẽ trân trọng, chở che cho Kiều khi đáp lại
lời nằn nì của Vương Ông: Mai sau dầu đến thế nào/ Kia gương nhật nguyệt, nọ
đao quỉ thần. Đối với Hoạn Thư, thì ngẫm ngợi về những điều sắp tới là khó có
thể thiếu được. Bà ta phải vẽ ra các mưu mô, các con đường khác nhau chủ yếu là
trong quan hệ với Kiều. Hoạn Thư có hẳn một kế sách cho tương lai, ở đó, Kiều
(và cả Thúc Sinh) sẽ bị hành hạ và sỉ nhục:
"Làm cho nhìn chẳng thấy
nhau
Làm cho đày đọa cất đầu chẳng
lên
Làm cho trông thấy nhãn tiền
Cho người thăm ván bán thuyền
biết tay
Nhân vật Từ Hải không những
dự phóng tương lai mà còn cả quyết về nó, đúng như phong khí của người anh
hùng. Từ xác quyết nói với Kiều khi "thanh gươm yên ngựa" ra đi rằng,
một năm sau Từ sẽ thành công, bách thắng:
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội
gì
Trong số các nhân vật dự
báo, dự phóng, đề cập đến tương lai trong Truyện Kiều, Thúy Kiều có nhiều suy
tư, dự cảm, phán đoán nhất. Ngay ở mở đầu truyện, Kiều đã dự báo là Đạm Tiên sẽ
hiển hiện:
Kiều rằng: "Những đấng
tài hoa
Thác là thể thách, còn là tinh
anh
Dễ hay tình lại gặp tình
Chờ xem, ắt thấy hiển linh
bây giờ"
Kiều luôn âu lo, nghĩ ngợi về
những gì ở phía trước của cuộc hôn nhân giữa mình và Thúc Sinh và dường như đã
dự đoán, phỏng đoán được sóng gió phía trước, đến từ Hoạn Thư, vì thế nàng tâm sự
với Thúc Sinh:
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà
Ở vào khuôn phép, nói ra mối
giường
E thay những dạ phi thường
Dễ dò rốn bể, khôn lường đáy
sông"
Thương nhau xin nhớ lấy lời
Năm chầy, cũng chẳng đi đâu
mà chầy
Chén đưa nhớ bữa hôm nay
Chén mừng xin đợi ngày này
năm sau
Nhưng ở đây, thật đáng tiếc,
Kiều đã dự đoán sai. Nàng không bao giờ còn gặp lại chàng Thúc ở Lâm Tri nữa.
Trong Truyện Kiều, có sự hiện diện của tướng số, tướng thuật. Ngoài nhân vật tướng
sĩ đoán định số phận Kiều, thì chính Kiều cũng là nhân vật có khả năng xem tướng
mạo, nhìn vẻ mặt để phán đoán hậu vận. Gặp Từ Hải lần đầu mà nhìn diện mạo sắc
tướng của Từ, Kiều đã ước đoán ngay rằng Từ sẽ làm nên công trạng:
Từ rằng: "Lời nói hữu
tình
Khiến lòng lại nhớ câu Bình
Nguyên Quân
Lại đây xem lại cho gần
Phỏng tin được một vài phần
hay không?"
Thưa rằng: "Lượng cả
bao dung
Tấn Dương được thấy mây rồng
có phen".
Từ Hải sau khi nghe Kiều nói
thì cho rằng Kiều có khả năng xem tướng "đoán già":
Khen cho con mắt tinh đời
Anh hùng, đoán giữa trần ai
mới già
Đối với Kim Trọng, Kiều cũng
nhìn dung mạo, dung quan sáng láng mà đoán định vận mạng:
Nàng rằng: "Trộm liếc
dung quang
Chẳng sân ngọc bội cũng phường
Kim Môn"
Như vậy, điều đầu tiên có thể
thấy là hầu hết các nhân vật đều dự báo, dự đoán, nói về tương lai. Dự báo, suy
tư, cảm quan về tương lai có khi là về tương lai rất xa như lời của Đạm Tiên
(15 năm), có khi gần hoặc rất gần, sẽ xảy ra ngay (nữ đạo nhân Tam Hợp báo cho
Giác Duyên là vớt Kiều, Kiều đoán Đạm Tiên sẽ hiển linh ngay...). Có hai nhóm dự
báo. Một là của các nhân vật phi phàm (Tam Hợp đạo cô, Đạm Tiên, đạo nhân, tướng
sĩ). Nhóm này chủ yếu dự báo tương lai xa, tính bằng năm, dự báo chủ yếu dựa
vào khả năng siêu việt hoặc các dấu hiệu đặc biệt. Theo Đạm Tiên, đời Kiều sẽ
khốn cùng do thơ nàng hay (Xem thơ nấc nở khen thầm/ Giá đành tú khẩu, cẩm tâm
khác thường/ Ví đem vào tập đoạn trường/ Thì treo giải nhất chi nhường cho ai).
Nhóm thứ hai là dự báo của con người trần tục, dự báo dựa vào nhân tướng, dung
mạo và các thông tin thực tế, sự phân tích tình hình hiện tại (Kiều dự đoán về
các hành động của Hoạn Thư, phân tích rồi bỏ trốn khỏi Quan âm các, bà quản gia
nói với Kiều sau khi có thể là đã nghe được lời đàm tiếu về việc Thúc Sinh có vợ
bé...). Dự báo dài hạn nói đến số phận của một đời người (dự báo của tướng sĩ,
linh cảm có tính dự báo của Kiều sau lần thứ nhất gặp Đạm Tiên trong mơ (Đường
xa nghĩ nỗi sau này mà kinh). Dự báo trong ngắn hạn có tính tình thế, tình huống.
Kiều là nhân vật có nhiều dự đoán, phán đoán tương lai nhất. ở mỗi quãng đời,
Kiều đều dự liệu cho mai hậu. Trước mỗi sự kiện, hành động sẽ xảy ra hầu như đều
có các dự báo, dự phóng. Các dự báo do đó có chức năng kết nối quá khứ với hiện
tại, hiện tại với tương lai. Chúng cũng cho thấy số phận phía trước của các
nhân vật, gợi ý trước cho độc giả những gì có thể xảy ra. Vì thế, về mặt cốt
truyện, các dự báo là sợi dây liên kết các sự kiện, tạo ra các lớp lang, tầng bậc
cho nó. Dự báo, dự cảm tương lai phần lớn là chính xác về thời gian địa điểm,
trạng thái và cách thức. Một số có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý, số phận nhân vật
(Kiều tử sinh một phần vì lời dự báo của Đạm Tiên...). Nhưng các dự báo cũng có
thể không chính xác, như việc Kiều dự đoán một năm sau sẽ gặp lại Thúc Sinh lúc
chia tay ở Lâm Tri. Dự báo có khi làm kẻ được báo cho biết trước hồ nghi, nửa
tin nửa ngờ, như trường hợp Thúc Sinh ngờ vực lời của đạo nhân. Thời điểm xuất
hiện các dự báo thường diễn ra khi các nhân vật, đặc biệt là nhân vật trung
tâm, lâm nguy, ở trong tình huống nan giải. Do đó, lời tiên báo có giá trị như
một sự hóa giải, một lời mách nước, chỉ ra tương lai, đưa ra viễn cảnh mới. Dự
báo thông báo trước cho người đọc sự kiện tiếp theo nên khi dự báo đúng, độc giả
ngạc nhiên thú vị, thậm chí giật mình thảng thốt. Dự báo, dự liệu làm gia tăng
dòng ý thức và tính chất tâm lý cho Truyện Kiều vì chúng là các hình thức của
suy tư, ngẫm nghĩ, trù liệu, mang màu sắc nội tâm, nội cảm, cần đến sự phân
tích, suy xét. Chúng cũng biến nhiều nhân vật trong truyện trở thành các nhân vật
ý thức, âu lo về nhân sinh chứ không phải là các nhân vật hành động nói chung.
Dự báo, dự liệu cho tương
lai là một phương thức, một bản năng tồn tại của nhân vật Truyện Kiều, đặc biệt
là với các nhân vật luôn âu lo về thân phận. Các sự biến dù được biết trước
nhưng chúng như những định mệnh không cưỡng lại được mà phải thực thi. Nhân vật
không tránh né hoặc tìm cách kháng lại mà đành phải chấp nhận chúng. Điều đó
cho biết con người trong Truyện Kiều là con người định mệnh, bất lực mong manh,
yếu ớt, bị chi phối, định đoạt bởi số mệnh. Một số dự báo có ý nghĩa như là ý
muốn của định mệnh, không cưỡng lại được (như lời của Đạm Tiên, đạo cô Tam Hợp
chẳng hạn). Dù là họa/ phúc, vinh/ nhục, sinh/ tử, nhân vật phải bằng lòng với
dự báo. Môtif dự báo ở khía cạnh này làm nhớ tới môtif dự báo trong Kinh Thánh
Tân Ước (Thánh Phêrô chối Chúa, Juđa phản bội, mẹ Maria thụ thai, Thánh Giuse
đưa Chúa hài đồng đi lánh nạn...). Điểm chung ở hai tác phẩm là những ai được
tiên báo đều chấp nhận sự kiện sắp tới, không phản kháng và tìm cách đối phó. Sự
có mặt của các dự báo của nhân vật phi phàm, thông huyền cho biết bản chất của
Truyện Kiều và của văn học trung đại phương Đông. Ở đó có sự hiện diện của thế
giới huyền hoặc, kỳ bí, có cái nhìn tâm linh, hữu linh về thế giới và có sự lý
giải cuộc đời, nhân sinh bằng huyền bí học. Trong Truyện Kiều, do đó, tư duy
văn học thiên về duy linh, không phải duy lý. Sự tồn tại của con người định mệnh
và tư duy duy linh làm cho Truyện Kiều còn khá xa cách với phương pháp sáng tác
của chủ nghĩa hiện thực. Con người định mệnh trong Truyện Kiều không định đoạt
được số phận, phải tuân theo lập trình của những phán quyết có tính sấm truyền,
với giọng uy nghiêm có khi chua ngoa từ kẻ khác. Cùng với yếu tố ma quái, rờn rợn
nơi bãi tha ma lúc chiều tà, lời khấn vái trong đêm thu sao thưa trước Phật
đài, những lần chiêm mộng, sự giải mộng và đêm thu gió cây trút lá lúc trốn đi,
sự báo trước, đặc biệt là của các nhân vật cõi siêu hình, phi phù trí quỉ, thần
thông, đã góp phần làm cho không khí Truyện Kiều thêm phần huyền bí, ghê sợ,
gây thảng thốt. Do có sự tồn tại của các tín ngưỡng (như Đạo giáo phù thủy chẳng
hạn) và các nguyên nhân khác mà con người trung đại trong Truyện Kiều có niềm
tin không chút nghi ngờ vào các phán truyền của các lực lượng thần bí. Họ không
chỉ bị qui định bởi cuộc đời trần gian, của nghề nghiệp, học vấn mà còn bị điều
khiển bởi các thế giới, các nhân vật siêu linh, siêu hình. Họ hạnh phúc/ bất hạnh,
hành động/ bất động... hầu như nhất nhất đều dựa vào các phán truyền từ thế giới
siêu hình. Chính niềm tin đó đã giúp cho họ được an lòng và cũng bởi niềm tin
đó mà họ đau khổ, day dứt. Thế giới thực tại và thế giới phi thực đều có vai
trò, giá trị như nhau đối với con người trung đại trong Truyện Kiều.
Môtif dự báo trong Truyện Kiều
như thế có lẽ đã cho thấy được vị trí, chỗ đứng và tâm cảm của con người thời
trung đại. Nó cũng góp phần làm gia tăng yếu tố tâm lý, ý thức cho tác phẩm, đồng
thời còn có chức năng liên kết các sự kiện của cốt truyện và cũng nhờ đó, không
khí trong truyện có thêm màu sắc hư ảo, huyền bí. Truyện Kiều chỉ có các yếu tố
hiện thực bởi môtif dự báo đã làm bộc lộ tư duy văn học thiên về duy linh, thần
bí, khác xa tư duy phân tích, duy lý, khoa học của văn học hiện thực chủ nghĩa.
Về mặt tiếp nhận, sự dự báo trong truyện gây hồi hộp, ngạc nhiên. Đồng thời nó
làm thỏa mãn độc giả bởi biết trước được số phận nhân vật họ yêu mến tạo nên
tâm lý thỏa lòng. Vì vậy môtif dự báo ở góc độ này cũng là một trong các mắt
xích của "kết thúc có hậu".
TRẦN NGỌC HỒ TRƯỜNG
ĐỌC LẠI CHƯƠNG CUỐI TRUYỆN
KIỀU THẤY RÕ HƠN BÚT PHÁP NÂNG CẤP NHÂN VẬT CỦA NGUYỄN DU
Chương cuối truyện Kiều, Kim
Kiều tái hợp, từng bị coi là một chương viết cho có hậu, chứ đời Kiều thực sự
coi như kết thúc ở sông Tiền Đường rồi.
Nhưng năm 1965, dịp kỷ niệm
200 năm sinh Nguyễn Du, lại có hai bài viết ca ngợi ý nghĩa của chương cuối
này. Ở Hà Nội là bài của Xuân Diệu, Bản cáo trạng cuối cùng trong truyện Kiều. Ở
Sài Gòn là bài của Vũ Hạnh, Đứa con nàng Kiều. Hai giọng văn khác nhau, Xuân Diệu
nghiêm cẩn, Vũ Hạnh hài hước nhưng đều dẫn đến một kết luận như nhau: Sau 15
năm luân lạc, với bao mong ước, hi vọng đoàn tụ, Kiều đã được gặp Kim, họ được
gia đình vun quén tổ chức lề thành hôn ngay hôm gặp mặt. Động phòng dìu dặt
chén mời/ Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa. Chén hạnh phúc đã kề môi,
nhưng họ đã không được uống. Không còn uống được. Có ai cấm đoán gì đâu. Mọi sự
đều thuận. Hôn lễ cũng rất "đúng quy trình". Đêm vào khuya, bức gấm
buồng tân hôn đã rủ. Thơ Nguyễn Du cận cảnh Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân,
Văn Thanh Tâm Tài Nhân còn tả chân hiện đại hơn: Chàng lại khẽ tay nới rộng đai
lụa, cởi hộ áo là, đỡ nàng vô màn uyên ương, bàn tay xoa xát tới chỗ tình nồng...
(trích theo bản dịch của Nguyễn Đình Diệm). Nhưng chính lúc ấy, lúc chỉ có hai
con người hoàn toàn tự quyết, hoàn toàn có quyền nương theo bản năng mà tiến tới,
thì họ khựng lại, đúng hơn Thúy Kiều khựng lại. Sức mạnh ngăn Kiều xuất phát từ
chính tâm hồn nàng, từ sự tự trọng hay từ sự nhạy cảm, nhận biết sâu sắc tình
thế của nàng trong dư luận cái xã hội mà nàng đang sống, đang hi sinh thân mình
vì đạo lý của nó. Nàng đã thuyết phục Kim Trọng trong đêm tân hôn ấy. Đem tình
cầm sắt đổi ra cầm kỳ. Thơ Nguyễn Du từ sau đó mới là viết cho có hậu, một thứ
hạnh phúc phải đạo, rất đáng nghi ngờ của ông hai vợ. Viết chạy bút cho xong,
hơi thơ công thức, chữ nghĩa thờ ơ:
Một nhà phúc lộc gồm hai
Nghìn năm dằng dặc quan giai
lần lần
Thừa gia chẳng hết nàng Vân
Một cây cù mộc, một sân quế
hòe
Phong lưu phú quý ai bì
Vườn xuân một cửa để bia
muôn đời
Xuân Diệu thì thấy đấy là chỗ
đau nhất của đời Kiều. Đau khi thanh lâu hai lượt thanh y hai lần thì nó đi một
nhẽ. Đằng này, bề ngoài phong lưu phú quý, nhưng thực chất, với Kiều, đấy là
cái nhà ngục chung thân, vô vọng. Tuyệt đường hơn cả 15 năm lưu lạc. Xuân Diệu
có lý khi gọi cái "hạnh phúc" ấy là bản cáo trạng, bản cáo trạng cuối
cùng và cũng cao nhất của truyện Kiều. Vũ Hạnh, dù đã hài hước cho rằng cụ Nguyễn
Du vốn không quen viết truyện thiếu nhi, để Cô Kiều sinh con, rắc rối cho cụ về
bút pháp lắm, cũng phải nghiêm mặt luận tội: Bây giờ, chính vào cái lúc gọi là
mong đợi nhất của đời nàng, Kiều đã vĩnh viễn bị tước đoạt hết (...) Rút cuộc,
Kiều chẳng có chồng, Kiều chẳng có con, chỉ có một mớ danh từ tuyệt đẹp. Cái mớ
danh từ tuyệt đẹp ấy ở đâu ra. Lại ở chính những người thân của Kiều. Ở bố mẹ
nàng, các em nàng và chua chát thay ở cả anh chàng Kim Trọng tưởng như đã hiểu
nàng lắm lắm. Kim Trọng cũng cao giọng đồng thanh với "tập thể" khen
nàng thục nữ chí cao. Tôi xin nhắc lại: những phát hiện này là của 50 năm trước
do hai bậc đàn anh đáng kính Xuân Diệu và Vũ Hạnh. Điều tôi muốn nói hôm nay lại
là ở chỗ này: Khi tôi tóm tắt câu chuyện này cho thanh niên nghe, họ không tin
trong đêm tân hôn ấy, đã ở tình thế ấy, mà Kim Kiều giữ được. Nhưng đọc vào
thơ, dõi theo từng xen tâm lý thì họ tin.
Cốt truyện trong tiểu thuyết
như một biên bản sự kiện, đủ việc, đủ người nhưng không lên hết được nỗi lòng của
họ. Nguyễn Du biến cái biên bản hành động ấy thành một diễn biến cảm xúc, mỗi
tình tiết diễn ra làm trái tim người đọc muốn run lên. Và đấy chính là chỗ sáng
tạo thần kỳ của Nguyễn Du, tài tình lắm. Ông lấy nguyên liệu, ở kho chứa của
Thanh Tâm tài nhân, cũng chỉ CHON... (các bon, hydro, oxy, nitơ...) nhưng ông
đã thổi hồn mình vào mà chế nó thành người. Cái thế giới nhân vật thơ Kiều khác
về chất so với nhân vật trong tiểu thuyết của Thanh Tâm. Nội một chương này
thôi, đủ để thấy cái tầm tạo hóa của Nguyễn Du trong việc thấu hiểu và sáng tạo
hồn người. Tôi nghĩ tác giả đã nếm nỗi đau đớn chát đắng của thân phận nhân vật
hơn chính nhân vật. Tôi xin được nêu một vài đối chiếu:
1) Đoạn Giác Duyên dẫn gia đình Kiều về chùa gặp nàng
Văn: Vừa dứt tiếng gọi, Thúy
Kiều vội rảo bước ra, nhác trông đủ mặt một nhà, nào cha nào mẹ nào là em trai
em gái, lại có cả Kim Trong đứng cả bên đó.
Thơ:
Trông xem đủ mặt một nhà
Xuân già còn khỏe, huyên già
còn tươi
Hai em phương trưởng hòa hai
Thúy Kiều nhìn Kim Trọng
không như nhìn những người trong gia đình mình. Nọ chàng Kim đó, chàng Kim đang
ngay đó, đang gần gũi cụ thể như Vương Quan, như Thúy Vân nhưng Kiều còn thấy
cùng hiện diện với con người ấy là người ngày xưa. Bốn chữ ấy là từ hoài niệm
sâu thăm thẳm trong tâm trí Kiều. Trong văn xuôi không có cái tinh tế ấy. Kim
Trọng đứng đó là đứng đó, thu lu một anh chàng, thế thôi.
Từ đây cô Kiều của Nguyễn Du
nói gì với Kim Trọng là nói với cả hai: chàng Kim da thịt của bây giờ và chàng
Kim hình bóng của ngày xưa
2) Khi bố mẹ muốn đón Kiều về nhà từ chùa của Giác Duyên, nàng từ chối: Văn: chỉ
vì tấm thân của con đã ở ngoài vòng tục lụy, thì tốt hơn hết là ở lại đây kết bạn
cùng sư huynh để tu hành cho trọn kiếp.
Thơ:
Đã đem mình bỏ am mây
Tuổi này gửi với cỏ cây cũng
vừa
Mùi thiền đã bén muối dưa
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
Sự đời đã tắt lửa lòng
Còn chen vào chốn bụi hồng
mà chi
Dở dang nào có hay gì
Đã tu tu trót, qua thì thì
thôi
Trong văn có 3 lượng thông
tin: ngoài vòng tục lụy/ đã ở đây/ thì ở cho trọn kiếp. Thơ cũng 3 lượng tin ấy,
lời rất đẹp, nhưng còn rất nhiều lượng tin thuộc nỗi lòng sâu kín của Kiều,
nàng không nói nhưng người đọc nghe ra. Nghe ra trong lời tuổi này ở với cỏ cây
cũng vừa (tuổi này là tuổi nào, Kiều năm đó mới 30. Sự đời đã tắt (...) chen
vào mà chi... (mình nhủ mình mà như tranh luận). Nghe ngoài lời, nghe ở cái giọng
Đã tu-tu trót, qua thì-thì thôi. Lời thơ đoạn này dôi ra so với lời văn. Chương
này là một trong 20 chương ở văn xuôi (1/20) nhưng sang thơ nó chiếm tới 1/6
Truyện Kiều. Bút pháp dựng ngôn ngữ tâm trạng của Nguyễn Du trong đoạn này, từ
chối mà khao khát mà đau đớn, thực ảo dư ba, biến hiện tài tình lắm.
3) Thúy Vân là nhân vật ít
phát ngôn nhất. Ngay cả khi bố mẹ gả nàng cho Kim Trọng, nàng cũng chẳng được
Nguyễn Du cho bộc lộ ý kiến gì. Nhưng lúc này, Kim Kiều tái hợp, thì khác. Thúy
Vân chủ động có ý kiến. Chủ động từ trong văn của Thanh Tâm tài nhân
Văn: trong khi chén cúc giở
say, Thúy Vân đứng lên thưa với cha mẹ rằng: (...) Trước đây sở dĩ con được kết
duyên với chàng Kim là vì chị con bán mình làm tròn chữ hiếu, không thể giữ được
lời nguyền, nên mới để con nối vào sợi tơ duyên ấy. Nay nhờ phúc ấm chị con đã
được tái sinh, thì lời thề cũ còn đó, ví thử không sớm thực hành hỏi còn để đến
lúc nào cho tiện.
Thơ:
Tàng tàng chén cúc giở say
Đứng lên Vân mới giãi bày một
hai
Rằng: trong hợp tác cơ trời
Hai bên gặp gỡ một lời kết
giao
Gặp cơn bình địa ba đào
Vậy đem duyên chị buộc vào
cho em
Cũng là phận cải duyên kim
Cũng là máu chảy ruột mềm chứ
sao
Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao
nhiêu tình.
Chọn lúc giở say để đứng lên
nói, chứ lúc tỉnh chắc khó nói, mà say thì chắc không nói nổi. Nguyễn Du thêm
trạng từ tàng tàng vừa tượng thanh vừa tượng hình cho thấy một cô Thúy Vân rất
ý thức về nữ quyền. Em được bén duyên với anh Kim cũng là một sự thế thân cho
chị, em cám ơn. Trong văn lẫn trong thơ đều có ý cám ơn nhẹ nhàng ấy. Nhưng
trong thơ, lời Vân có thêm một ý rất lợi hại, ấy là câu Mười lăm năm ấy biết
bao nhiều tình. Tình là tình của chị Kiều nhớ anh Kim hay là tình của anh Kim
khóc mếu nhớ chị ngay trước mặt em (em cũng khổ vì những giọt nước mắt ấy lắm
chứ). Nhưng mười lăm năm ấy cũng là 15 năm (chứ có ít đâu) em chăm sóc anh Kim,
nặng tình chồng vợ. Nay chị về, ai cũng lo vầng trăng cũ, lời thề xưa cho chị,
nhưng còn cái thân em, cái phận em. Kiều vốn tinh tế, thoáng nghe Vân, nàng hiểu
ngay tình thế:
Dứt lời nàng vội gạt đi
Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ
Mười lăm năm em vừa nhắc đấy,
đối với chị, đã xa như trong tiền kiếp rồi, sự muôn năm cũ. Câu này nói với Vân
cũng là nói với chàng Kim của thuở xưa. Gạt nhẹ nhàng kể chi bây giờ mà đau thấm
thía, hãy nghe nỗi đau trong những lời nàng giải thích sau đó. Xuôi tay tuyệt vọng.
Tội nghiệp lắm.
Xét mình dãi gió dầu mưa đã
nhiều
Nói càng hổ thẹn trăm chiều
Thì như ngọn nước thủy triều
chảy xuôi.
4) Chỉ có trong thơ cặp hình
ảnh trăng hoa, sương mây, mới liên hoàn trùng điệp, biến ảo khuyết rằm, tàn đi,
tươi lại, rất tài trong một đoạn đối thoại mà dùng lời thường chắc khó nói
- Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng
Hoa thơm phong ngụy trăng
vòng tròn gương
... Bấy chầy gió táp mưa sa
Mấy trăng cũng khuyết mấy
hoa cũng tàn
... Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa
trời
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm
xưa
5) Một so sánh chót, phép gì
giúp Thúy Kiều "thoát" Kim Trọng trong đêm tân hôn. Ấy là khi Kim Trọng
cao giọng khen Thúy Kiều Gương trong chẳng chút bụi trần/ Một lời quyết hẳn
muôn phần kính thêm. Giọng khen rất thủ trưởng không phải lời tình nhân thương
xót cho nhau. Thầy thuốc khoa Nam học bây giờ chắc nghĩ ông này không thiểu
năng nội tiết thì cũng chớm tâm thần. Kiều đã nắm ngay lấy cái thế cao giọng ấy
mà đẩy Kim Trọng lên chót vót:
Nghe lời sửa áo cài trâm
Cúi đầu lạy tạ cao thâm
nghìn trùng
Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người
ta
Đúng là một nghi lễ công đường
chứ không phải trong phòng ngủ. Cúi đầu - lạy tạ - cao thâm nghìn trùng, Kim Trọng
thành vĩ nhân ngồi trên tòa sen rồi. Cao quá, uy quá, anh chàng không dám thò
chân xuống nữa. Cứ nghiêm chỉnh ngồi bàn đạo lý xuông cho đến sáng. Đoạn xử sự
này trong văn xuôi thật thà lắm, thô sơ lắm, làm mất đi cái ý nhị nữ tính,
thông minh và cái hiếu thắng rất phường tuồng của anh đàn ông hay sĩ diện. Chỗ
này có thể suy ra một niềm cả nghĩ của Kiều: Kim Trọng trong buổi đoàn viên này
quả là tha thiết yêu Kiều. Nhưng Kiều, nàng đã ý thức được rằng Kim đang yêu
cái cô Kiều của 15 năm trước. Chứ sống với nhau, vào lúc tỉnh rượu tàn canh nào
đấy, cái ý nghĩ cô Kiều thanh lâu hai lượt thế nào cũng về trong tâm trí Kim.
Kiều tránh giây phút ấy từ bây giờ. Không lập lại bi kịch như thuở yêu Thúc
Sinh. Qua cách tả cuộc sống phú quý của ba vợ chồng nhà ông Kim, Khi xem hoa nở
khi chờ trăng lên, tôi không tin Nguyễn Du khen thực. Nguyễn Du thừa biết nhạy
cảm và cá tính như Kiều, thì chỉ ba tháng trong cái vai hạnh phúc què quặt ấy,
là nàng sẽ cắt hộ khẩu để trở lại chùa sống thực cái đời mình. Ở với cỏ cây
cũng vừa ở cái tuổi ba mươi đang xuân sắc ấy.
Nỗi đau của Kiều năm Gia
Tĩnh triều Minh, đồng dạng với nỗi đau Chí Phèo, nhân vật của thời đại chúng ta.
Kiều đã bán mình, lấy hiếu làm trinh, như cách nhìn của Kim Trọng, của cha mẹ,
của các em lúc ấy nhưng còn cả cái xã hội bốn phương phẳng lặng hai kinh vững
vàng, và có ba trăm lạng việc này mới xong ấy, nó có cho phép Kiều sạch trong
trở lại không. Khó lắm! Ngay cả với Kim, lúc này còn lúc khác. Kiều sâu sắc việc
đời hẳn tiên lượng được và nàng đã buông xuôi. Gặp Kim là để vĩnh viễn chia
tay, để mất mát tuyệt đối. Với Chí Phèo, ai cho phép Chí lương thiện trở lại.
Chính lúc lòng Chí tràn đầy yêu thương là lúc Chí phải đổ máu. Nỗi đau Kiều,
Chí đồng dạng nhưng cách giải quyết khác nhau. Nguyễn Du ép Kiều thỏa hiệp với
cái phú quý bánh vẽ, và an ủi nàng bằng tiếng thở dài nghiệp chướng luân hồi:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần
trời xa
Chí Phèo thì khác. Tôi thấy
không cần phải nhắc lại ở đây đoạn kết ở truyện của Nam Cao.
Và đấy cũng là dấu ấn đặc
trưng của hai thời đại.
VŨ QUẦN PHƯƠNG
Nguồn: Tạp
chí Thơ HNV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét