Không biết hiện nay đã đến lúc chúng ta cần
phải đoạn tuyệt một cách dứt khoát với quan niệm cho rằng truyện ngắn là một dạng
thức phản ánh cái hiện thực như nó vốn có.
Ảnh minh họa (nguồn: Internet)
trong chức năng của văn học, nghệ thuật hay
chưa, trong khi xu hướng của nhiều cây bút truyện ngắn đang viết theo phong
cách hiện đại với một cảm quan mới về thế giới.
1. Không biết các nhà truyện ngắn hiện
nay đã vô tình hay cố ý thoát ly việc phản ánh cái hiện thực như nó vốn cótheo
kiểu truyện ngắn truyền thống của những bậc thầy như Shakespeare, Dickens, V. Hugo,
Sekhov, Guy De Mopassant, Lỗ Tấn, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan,…
Các bậc thầy truyện ngắn truyền thống thực sự đã đạt đến sự linh diệu trong bút
pháp của mình về thể loại này. Tuy nhiên, cũng tại bởi người đời đã tự vẽ ra một
cái vòng kim cô bất biến cho họ như vậy, nên các chư vị ấy cũng khó
mà thoát khỏi những định chế của lịch sử, mặc dù tài năng và những đóng góp của
họ không những không ai có thể phủ nhận được mà còn rất đáng kính nể.
Nhưng cũng chính tại vì cái tài phản ánh
cái hiện thực như nó vốn có của các vị mà các nhà truyện ngắn hôm nay dù
ít, dù nhiều từng bước thấy cần phải đoạn tuyệt với nó. Cái nghịch lý muôn thuở
là con người luôn tự đặt cho mình những cái đích để hướng tới, nhưng khi đến rồi
lập tức chán ngay và lại loay hoay tìm cách vượt qua chính mình. Rốt cuộc, con
người tự mình tổ chức ra các cuộc chia tay có tính lịch sử là, một phía rước
các chư vị ấy lên bàn ngồi bán hoa quả, thi thoảng vào những ngày tuần tiết
dâng thêm cho các vị một vài nén nhang tưởng niệm. Một phía khác, các cây bút
truyện ngắn hiện đại phải tự tìm cho mình một sứ mệnh mới trong tiến trình lịch
sử của chính nó bằng việc đưa vào truyện ngắn những cảm quan của thời đại mới bằng
một bút pháp mới, theo quan niệm rằng thế giới này là vô cùng, vô tận và hỗn
mang; hiện thực này vốn không phải lúc nào cũng có thủy, có chung như
người ta thường lầm tưởng và không phải lúc nào cũng được sắp sẵn những mâm ngũ
quả đầy hương vị ngọt ngào, mà nó còn có cả những vị đắng cay, chát chúa, những
thứ ôi thiu, rác rưởi, những cái thụi, cú hích, những sự đập phá và những cuộc
dựng xây,...
Từ nay các nhà truyện ngắn hiện đại bắt tay
vào việc không phải để tô son, trát phấn, mông má lại và xức một ít nước hoa
lên cái hiện thực hỗn tạp ấy cho nó thơm choang, tươi rói lên nhân danh những ước
nguyện của con người để ru ngủ họ, mà là để bới đào trong đống đổ nát của lịch
sử, nhặt nhạnh từng mảnh vỡ, thậm chí là cả những cái cặn bã, thừa mứa của lịch
sử tưởng chừng như đã vứt đi, rồi mầy mò, gắn kết lại thành một cái hiện thực
khác trông thật dị dạng và rất đáng hồ nghi, nhưng nhất quyết đấy
cũng là một hiện thực. Chỉ có điều là cái hiện thực trong truyện ngắn hiện đại
không phải là cái như nó vốn có, mà là một hiện thực đầy tính chủ quan, võ
đoán, thậm chí còn nhố nhăng nữa là khác. Trớ trêu là chính những điều
đó đã làm nên thước đo cơ bản để phân biệt hai dòng truyện ngắn: Truyền thống và Hiện
đại.
2. Điển hình của dòng truyện ngắn truyền
thống Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám thuộc về thế hệ các nhà văn trưởng
thành trong và sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ và họ đã đạt được
những thành tựu rất đáng kể khẳng định vị trí nòng cốt và là người đại diện cho
dòng truyện ngắn truyền thống Việt Nam như: Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Võ
Huy Tâm, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Hồ Phương, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Nguyễn
Trí Huân, Khuất Quang Thụy, Cao Tiến Lê,…
Nhưng cũng có không ít những người trong số họ
và cả những người thuộc thế hệ sau đã bắt đầu cảm thấy cần thiết phải đặt lại vấn
đề về cảm quan và bút pháp truyền thống, dường như nó có một cái gì đó thật sự
không ổn đối với thời đại mới. Tuy ở những mức độ khác nhau, nhưng nói chung họ
đều muốn ca lên bài ca đổi mới truyện ngắn. Nguyễn Minh Châu, Ma Văn
Kháng, Lê Lựu, Đỗ Chu,…là những cây bút tiên phong của dòng văn học thời kỳ đổi
mới. Có thể nói họ là những người đầu tiên dám vặn cổ chính mình hướng
lên phía trước chứ không phải chỉ biết quay về phía sau để nhấm nháp, chiêm ngưỡng
những hào quang của những bản anh hùng ca hào sảng một thời đã qua. Với sự xuất
hiện của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Phan Thị Vàng
Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn
Ngọc Tư,... đã đưa tiến trình đổi mới văn học tiến thêm một bước nữa, tạo nên một
một sự cựa quậy đáng kể trong đời sống văn chương nước nhà với những
tiếng nói lạ lẫm so với truyền thống.
Vấn đề đặt ra ở đây là thử hỏi trong số họ được
mấy người dám trực diện tuyên chiến nhằm đoạn tuyệt một cách dứt khoát với truyện
ngắn truyền thống và tìm đường tiến vào lãnh địa của truyện ngắn hiện đại. Có
thể nói chín mươi lăm phần trăm trong số họ chỉ là những người có những yếu tố cách
tân so với truyện ngắn truyền thống, hoặc nói một cách chính xác hơn là
cách tân trên cơ sở của truyền thống. Họ cẩn trọng, rón rén từng bước, tiệm cận
cái mới và cũng là xa rời cái cũ như trẻ con rình bắt chuồn chuồn nơi bờ ao. Thế
nhưng, cuộc cách mạng thông tin đã đưa nhân loại quá độ từ thời đại công nghiệp
sang thời đại trí tuệ, từ nền kinh tế và văn hoá công nghiệp sang nền kinh tế
và văn hoá trí thức với nhiều tên gọi khác nhau như: nền Kinh tế tri thức (Knowledge
Economy), nền Kinh tế mạng- (Networked Economy), nền Kinh tế số hoá (Digital
Economy) và nền Văn hoá mạng (Networked Culture) và người ta không
còn chối cãi vào đâu được, cuộc cách mạng thông tin đã tạo ra những động lực mạnh
mẽ thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá diễn ra một cách nhanh chóng và toàn diện
hơn. Vậy thì cách đi vào thế giới hiện đại rón rén như các nhà truyện ngắn hiện
nay liệu có đem lại cho nền văn học nước nhà nói chung và truyện ngắn nói riêng
một diện mạo mới không? Câu trả lời có lẽ nằm ở phía bản thân các nhà truyện ngắn
và công chúng hôm nay.
Có thể nói con đường tiệm tiến và cách tiệm cận
đời sống hiện đại của các cây bút truyện ngắn truyền thống mãi vẫn chỉ là những
câu chuyện cổ tích được kể lại trong ngày hôm nay bằng những ngôn ngữ
sáo rỗng biểu đạt sự vật hiện tồn trong cuộc sống hiện đại mà thôi, chứ tuyệt
nhiên không phải bằng cảm quan về của một thời đại mới với một bút pháp hoàn
toàn mới.
Vẫn biết mọi sự so sánh đều là nhảm nhí và khập
khiễng, nhưng nếu không so sánh thì hiện chúng tôi chưa có cách nào khả dĩ hơn
để tìm ra cái so le giữa hai dòng truyện ngắn truyền thống và hiện đại.
3. Chàng thương gia thành Venize của
Shakespeare- Anh, Chiếc lá cuối cùng của O’Henry- Mỹ, Tiếng gọi
đời thườngcủa Knut Hamsun- Na Uy, Thung Lam của Hồ Thị Ngọc
Hoài, Buổi sáng biến mất và Cơm chiều của Ngô Phan Lưu- Việt
Nam và 2- Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp, Thực đơn chủ nhật của
Phạm Thị Hoài- Việt Nam,...
Ở đây chúng tôi không bàn đến sự hay, dở, giá
trị nghệ thuật hay tầm ảnh hưởng của các truyện ngắn đó, mà chỉ đề cập đến khía
cạnh cảm quan thời đại và bút pháp của chính những người đã sản sinh ra chúng. Ở
tốp đầu- 1, cảm quan chủ đạo của các tác giả này là một góc nhìn thế giới hiện
thực đang diễn ra trước mắt họ khá tinh tế và họ đã phản ánh nó với một bút
pháp rất trung thực và tài tình về cái hiện thực như nó vốn có. Sự tráo trở,
gian manh của những tay lái buôn tầm cỡ quốc tế, với mọi thủ đoạn kiếm lời, bất
chấp đạo lý, luân thường, thậm chí họ có thể bán tới 99 điều răn của Chúa, miễn
sao có lợi cho riêng mình (Chàng thương gia thành Vơnidơ); rồi người họa
sĩ già có thể hy sinh cuộc đời của mình để cứu lấy một sinh linh bé nhỏ đang
trong cơn hấp hối (Chiếc lá cuối cùng); Nàng Hellen xinh đẹp, trẻ trung sẵn
sàng rượt đuổi theo những khát vọng cá nhân ẩn chứa trong chiều sâu nhân bản mà
nàng không thể nào cưỡng lại được, dù người chồng của mình vừa chết chưa kịp
đem chôn (Tiếng gọi đời thường- Truyện ngắn Gải thưởng Nobel văn học 1922); Sự
nuối tiếc những kỉ niệm xưa, với những con người và mảnh đất đã từng nuôi mình
khôn lớn như hôm nay (Thung Lam) hay lòng vị tha, sự tận tụy và những
nghĩa cử cao đẹp đối với những người mà cuộc sống chỉ còn được tính bằng giây (Buổi
sáng biến mất), tất cả những điều đó là có thật và rất đáng trân trọng. Điều
đáng bàn là Shakespeare và Ngô Phan Lưu, Hồ Thị Ngọc Hoài sống cách nhau chừng
khoảng 5 thế kỷ và ở xa nhau nửa vòng trái đất, nhưng lại không hề cách xa nhau
về cảm quan hiện thực và bút pháp mô tả. Tựu trung lại họ đều là những người thư
ký trung thành của thời đại.
Ở tốp thứ hai- 2, Vua Quang Trung trong Phẩm
tiết được mô tả một cách khác hơn. Những cử chỉ và việc làm của Quang
Trung trong những lần quan hệ với Vinh Hoa không giống như những gì mà ông ta vốn
có qua sự ghi chép của sử sách và sự truyền tụng của người đời, thậm chí có những
chi tiết mà chỉ nhờ ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta mới được biết đến.
Chẳng hạn như cuộc làm tình mây mưa của Quang Trung với Vinh Hoa. Qua đó người
đọc tự rút ra cho mình cái gọi là phẩm tiết thật sự là cái vô
cùng nhí nhố, phi lý và rất hoang tưởng. Thế gian này làm gì có một cái phẩm
tiết chung mang tính toàn cầu, phổ quát toàn nhân loại. Vậy là cái phẩm
tiết nhất theo quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp chỉ là một khái niệm trừu tượng
tồn tại trong đầu người này, nhưng không nhất thiết phải tồn tại trong đầu người
khác. Những chi tiết mà Nguyễn Huy Thiệp mô tả ở đây không theo một trật tự đạo
đức hay một lô gíc khách quan nào, mà là những mảnh vỡ, những cái vô nghĩa lý,
dường như chẳng nói lên điều gì, thậm chí còn là cái phản đạo đức theo quan niệm
của số đông người đời, nhưng lại được sắp xếp theo một trật tự mới với logic
hoàn toàn chủ quan của tác giả. Giá trị lớn lao của những chi tiết ấy là đã
gieo vào tâm trí người đọc về sự phi lý của cái trật tự mà một số người nào đấy
đã sắp đặt nên và được nhiều người a dua, hùa theo. Vậy thì Nguyễn Huy Thiệp
cũng hoàn toàn có quyền sắp đặt thế giới theo một trật tự riêng của ông ta. Xét
đến cùng cái trật tự của số đông người đời và cái trật tự riêng của Nguyễn Huy
Thiệp đều có quyền bình đẳng, xét về dạng thức tồn tại của nó. Chắc gì cái phẩm
tiết truyền thống của đám đông đã hơn cái nhí nhố cá nhân mà
Nguyễn Huy Thiệp đã mô tả trong tác phẩm.
Cái thực đơn do mẹ, chị hay tôi trong Thực
đơn chủ nhật đưa ra cũng đều là vô nghĩa như vậy cả thôi. Mỗi người cố gắng
đưa ra một cái thực đơn cho ngày chủ nhật để cả nhà cùng vui. Nhưng xem ra tất
cả đều bất lực. Mẹ thích món này, chị bảo món kia, còn tôi khoái món nọ. Ai có
món của người ấy. Làm gì có món chung cho tất cả mọi người. Và thế là bản thân tôi bị
biến thành món nhắm trong cái thực đơn chung của cả nhà. Cuộc sống vô
nghĩa đến như vậy, nhưng ai cũng thấy cần phải sống. Có lẽ người sống thực nhất
và nhiều nhất chính là tôi, người luôn biết cách tự phản tư lại
những cái mà người đời cho là có ý nghĩa nhất.
4. Thiên chức của truyện ngắn là phải
sáng tạo ra một thế giới thứ hai chứ không phải chỉ là công cụ để nhận
biết và phản ánh cái hiện thực như nó vốn có. Hơn thế, truyện ngắn hiện đại
còn phải đem đến cho người đọc một sự hoài nghi về những khuôn mẫu đã định sẵn
trong cái trật tự vĩnh hằng của thế giới thứ nhất nhằm gieo vào tâm
trí họ sự tìm kiếm một cái gì đó mà những người bình thường thấy dường như nó
chưa từng có mặt trên thế gian này. Cái mà nhà nghệ sĩ hiện đại đưa ra trong
tác phẩm của mình và gợi lên trong tâm trí người đọc là những cái hoàn toàn vô
lý theo logic thông thường của hệ qui chiếu hữu hình (hiện thực), nhưng chúng lại
là những cái rất có lý trong một logic khác ở hệ qui chiếu vô hình (phi hiện thực).
Đọc truyện ngắn hiện đại người ta bắt gặp
nhan nhản những cái phi lý, vớ vẩn và nhố nhăng thậm
chí là giả dối vàbịa đặt, nhưng người ta vẫn cứ tin rằng những
cái đó là có thật hoặc ít ra người đọc cũng luôn phải tự đặt ra cho mình câu hỏi
về sự tồn tại của chúng. Điều đó không hề có trong truyện ngắn truyền thống.
Truyện ngắn truyền thống là một nhát cắt ngọt, gọn gàng, hàm súc về quãng lặng,
nốt lửng trong tiến trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện
thực của con người. Nhưng dù sao đấy cũng chỉ là một nhát cắt, một cách nhìn về
thế giới hiện thực, không cho phép con người tiến sâu hơn vào bản chất sự vật,
hiện tượng và biết thêm bất cứ điều gì về một thế giới nằm ngoài, đứng sau và
treo lơ lửng bên trên hiện thực đó. Đấy là giới hạn mà truyện ngắn truyền thống
không thể vượt qua. Như vậy phải chăng sứ mệnh lịch sử của nó đã hết, cần phải
được thay thế bằng một cảm quan nhận thức thế giới mới theo hướng bứt phá để vượt
thoát, tiến lên, lùi lại, đi vòng đến một thế giới thứ hai- phi hiện thực,
ngõ hầu có thể tìm kiếm được cơ hội nhận thức về thế giới thứ nhất -
hiện thực, một cách sáng rõ và đầy đủ hơn. Điều này chắc chắn là quá sức đối với
những nhà truyện ngắn truyền thống, ngay cả đối với những bậc thầy của nó cũng
đành phải bó tay.
Qua những phân tích trên, chúng tôi cho rằng
truyện ngắn Việt Nam vẫn đang trong quá trình mò mẩm, tìm đường. Ngay cả những
cây bút có nhiều yếu tố hiện đại như Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài cũng
chưa thể hiện rõ cảm quan về một thế giới hiện đại mang tính khái quát cao, mà
vẫn là những cảm quan về thế giới hiện thực được mô tả theo một bút pháp kỳ ảo,
diễn dịch ngược hoặc là phản luận đề. Bên cạnh Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài
còn có một số người khác như Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Lưu Sơn Minh, Quế Hương,
Phạm Hải Vân, Hòa Vang, Nguyễn Thị Ấm, Đức Ban, Hoa Ngõ Hạnh, Minh Thu,
Huy Nam, Văn Như Cương, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Thu Huệ, Trần Thị Trường,
Nguyễn THị Anh Thư, Hà Cẩm Anh,...
Theo tôi, ngoài mộ số người như: Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị
Xuân Hà, Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thị Thu Huệ, Trần Thị Trường, Nguyễn Thị
Anh Thư, Hà Thị Cẩm Anh, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư,... còn phần lớn các
gương mặt khác hiện vẫn còn khá nhạt nhòa chưa để lại nhiều dấu ấn trên văn
đàn. Cũng có những người đã để lại ấn tượng, nhưng tự dưng lại thấy im hơi lặng
tiếng như Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Tuy nhiên chỉ từng ấy cánh én thôi
thì chưa thể làm nên một mùa xuân, đấy là chưa kể có những cánh én chưa kịp
xòe ra đã vội khép lại ngay. Nói đúng hơn là họ không thể tiếp tụcvượt cạn mãi
được trong khi dòng chảy chủ đạo của truyện ngắn Việt Nam thời gian qua vẫn là
cách tân trên cơ sở truyền thống hay là làm mới lại truyện ngắn
truyền thống.
Thế mới biết truyền thống là một cái gì đó
khá cứng đầu, cứng cổ, bảo thủ và lì lợm đến mức muốn vượt qua nó không hề dễ
dàng chút nào. Có thể nói truyện ngắn Việt Nam khoảng 30 năm trở lại đây chưa tạo
nên được một vùng sáng trên bầu trời văn chương nước nhà với tư cách là một
dòng truyện ngắn hiện đại, mà đây đó, lúc này, lúc khác mới chỉ có những đốm lửa
lóe lên rồi vụt tắt như sao băng. Không chỉ bản thân truyện ngắn chưa tạo ra
cho mình được một đội ngũ hùng hậu các cây bút trẻ, khỏe, phóng khoáng mang hơi
thở của thời đại toàn cầu hóa, mà hơn thế, những vấn đề mà các nhà truyện ngắn
đặt ra còn lẻ tẻ, vụn vặt, vẫn mang màu sắc phê phán hay ngợi ca những khía cạnh
luân lý, đạo đức và lối sống hơn là những triết lý nhân sinh và cảm quan thế giới
mới.
Chỉ có một cảm quan thế giới mới, ý thức một
cách sáng tỏ về chính sự tồn tại của thế giới này với một bút pháp đầy ma lực của
các cây bút truyện ngắn thì chúng ta mới hy vọng có một dòng truyện ngắn hiện đại.
Bằng không, cùng lắm chúng chỉ có thể trở thành một cái đỉnh đồi lầm
lầm nào đấy của dòng truyện ngắn truyền thống trong thế giới hiện đại.
ĐỖ NGỌC YÊN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét