Một chút tình riêng về miền sơn cước
Nhìn môi một cụm xuân thì cũng thương
Em xinh như đóa hướng dương
Mọc hoang theo lối về buôn bản nghèo
Em xinh như đóa hướng dương
Mọc hoang theo lối về buôn bản nghèo
‘H ‘ Na Cô Gái Tây Nguyên’
Tác giả những câu thơ vừa dẫn, thi sĩ Phan Ni
Tấn, là một người vô cùng may mắn. Vô số kẻ đã đến miền sơn cước nhưng có lẽ chỉ
riêng mình thằng chả là có mối duyên tình với nàng sơn nữ (”xinh như một đóa hướng
dương”) dù rằng hai bên - hoàn toàn và tuyệt đối – bất đồng ngôn ngữ.
Tôi biết một nhân vật khác, cũng lặn lội lên
đến cao nguyên, và đến nơi rất sớm nhưng không có cái diễm phúc tương tự. Ðó là
nhạc sĩ Văn Trí, người viết bản Hoài
thu - vào năm 1951.
Ðà Lạt (ở thời điểm này) theo như lời mô tả của
tác giả là một nơi “núi rừng thâm xuyên,” với những “bầy nai ngơ ngác, lá vàng
rơi đầy miên man,” và… chấm hết! Tuyệt nhiên, không hề thấy bóng dáng bất cứ một
cô sơn nữ nào (hết trơn hết trọi) kể cả những cô mà nhan sắc chỉ ở mức trung
bình – hoặc dưới trung bình chút xíu – cũng không.
Tôi ra đời sau tác phẩm Hoài thu, và dưới
một ngôi sao (vô cùng) xấu. Dù sinh trưởng ở miền sơn cước, tôi chưa bao giờ có
hân hạnh được trao (và nhận) những lời yêu thương đến cô gái H’ Na – như Phan
Ni Tấn. Tương tư suông, nghĩa là yêu đơn phương, cũng miễn có luôn.
Tôi cũng không được cái vinh dự nhìn thấy nét
man dại, trinh nguyên của một vùng đất mới như ông Văn Trí. Sự hoang dã của cao
nguyên Lâm Viên, đối với những kẻ sinh sau đẻ muộn như tôi (có chăng) chỉ là dư
âm – qua những câu chuyện kể, đại khái như:
“Hồi đó, ở Ðà Lạt, cọp thiếu mẹ gì. Nhiều bữa,
con nít đang lơn tơn đến trường bỗng thấy mấy ông cọp bự nằm chơi phơi nắng. Vậy
là đám lật đật nín thở, nhè nhẹ quay lưng, và chầm chậm… đi về.”
Khoẻ!
Sự gần gũi (giữa cọp và người) như thế – tiếc
thay – không kéo dài luôn, và cũng không kéo dài lâu. Trong những tháng ngày
thơ ấu, mỗi sáng đi học, tôi đều cầu nguyện và van xin (Phật, Chúa, Thánh, Thần…)
để được nhìn thấy vài ông cọp bự – cũng đang ngồi chơi phơi nắng, giữa đường –
như “những ngày xưa thân ái” đó.
Dù tôi hết sức chí tình, sự khẩn cầu này –
than ơi – chưa bao giờ ứng nghiệm. Lòng tin của tôi vào các đấng thiêng liêng
giảm sút (không ngừng) kể từ thưở ấy.
Khi tôi được “bế” lên Ðà Lạt, vào giữa thập
niên 1950, thành phố này đã bị đô thị hóa. Voi, cọp, heo, beo, gấu, khỉ, vượn,
nhím, mển, gà, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, chồn… không còn chung sống
với người. Người Thượng (nói chung) và những cô sơn nữ (nói riêng) cũng không mấy
khi xuất hiện trên đường phố. Họ ở cách xa, nơi những bản làng heo hút.
Văn hóa miền núi, tất nhiên, có nhiều nét dị
biệt với miền xuôi; do đó, khi giao tiếp (đôi lúc) giữa người Thượng và người
Kinh đã có những hiểu lầm – vô cùng đáng tiếc!
Thuở ấu thơ, tôi đã có lần chứng kiến cảnh một
chàng thanh niên từ miền sơn cước xuống chợ miền xuôi, và bị “tiếng sét ái
tình” với một cô gái bán hàng. Chàng đứng ngẩn ngơ, chân không thể bước. Trước
tình huống đó, có người buột miệng nói đùa:
- Người Kinh không có “bắt chồng” như người
Thượng đâu. Muốn “bắt vợ” thì tuần trăng sau phải mang hai con trâu tới đây mới
được.
Chàng trai miền núi mừng rỡ gật đầu, hăm hở
quay về. Không hiểu phải qua bao nhiêu đường đất, và gặp bao nhiêu khó khăn ở
thôn bản của mình nhưng đúng hẹn chàng trở lại. Nhác trông thấy người xưa – dắt
theo hai con trâu, như giao ước – cô gái vội vàng bỏ trốn!
Chờ hoài không thấy cố nhân, chàng thẫn thờ
(mãi) rồi lặng lẽ dắt trâu đi. Một chuyện tình buồn thảm thiết như thế mà
khi kể xong vẫn có người cười. Nói thiệt: sao tôi cười… không nổi! Cách đùa cợt
đó, ngay từ khi còn bé, tôi đã cảm thấy có cái gì rất là không ổn. Sau này, lúc
đã cắp sách đến trường, cũng đã có lần tôi suýt khóc khi đọc một câu thơ trào
phúng:
Xu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe!
Tú Xương sinh năm 1870 và mất năm 1907. Câu thơ (thượng
dẫn) có thể được viết từ cuối thế kỷ XIX. Vào thời điểm này, khi mà mọi phương
tiện truyền thông và giao thông đều vô cùng giới hạn nên cách nhìn lệch lạc của
thi sĩ về một người đồng bào miền núi – tôi cố nghĩ – có thể thông cảm được.
Đến đầu thế kỷ XXI, theo bài viết về “Mọi” của
Duy Ngọc thì tình cảm của người Việt đối với “những đồng bào thuộc sắc tộc
ít người’ (hoàn toàn) không có gì thay đổi: “Thử lên Tây Nguyên sống vài tháng
sẽ thấy cái nhìn kỳ thị như thế trong rất nhiều người Kinh đối với các cộng đồng
người dân tộc thiểu số vẫn còn nặng nề như thế nào.”
Khỏi phải “thử lên Tây Nguyên sống vài tháng”
làm chi, cho má nó khi. Cứ ngồi nhà google vài chữ – “thằng mọi, thằng
mán, thằng mường” – là sẽ tìm được vô số định kiến vô cùng đáng tiếc. Tự
thâm tâm, có lẽ, những người thuộc dân tộc Kinh ở Việt Nam chưa bao giờ coi đồng
bào Thượng là đồng bào (thiệt).
Bà Tòng Thị Phóng cũng đã lớn tiếng kêu gọi:
“Quan tâm đặc biệt đến vùng cao, vùng
sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây; tăng cường cơ sở khám bệnh,
cán bộ y tế cho các xã, thôn ấp, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc
sức khoẻ đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc
dân gian; từng bước ngăn chận tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của
một số dân tộc thiểu số.”
Bà Phóng (cũng) nói cho nó đã miệng vậy thôi
chớ sáu năm sau, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới thì “các sắc dân thiểu số ở
Việt Nam có tỉ lệ người nghèo cao hơn 5 lần tỉ lệ của người Kinh.”
Và người Kinh, ở miền xuôi, không ít kẻ đang
sống (và chết) dở. Nói chi đến những sắc dân ở những miền núi xa xôi. Cách đây
chưa lâu báo Tiền Phong (buồn bã) loan tin: “THPT Đinh Tiên Hoàng nằm sâu
trong hẻm núi xã Sơn Dung, huyện Sơn Tây, nơi phần lớn là người dân tộc K’dong
sinh sống, cách thành phố Quảng Ngãi hơn 100 km, không có học sinh nào đậu tốt
nghiệp trong kỳ thi vừa qua.”
Nguyên do, theo lời của thầy Hiệu trưởng Nguyễn
Hải Thịnh: “Đây là hệ quả tất yếu của một hệ thống đào tạo có chất lượng thấp.”
Nói cách khác là “gạo nào cơm nấy,” thế thôi.
Còn ông Phạm
Tấn Hoàng, chủ tịch UBND huyện, cho biết thêm: “Sơn Tây có 6/6 xã thuộc diện
đặc biệt khó khăn, tỉ lệ nghèo đói còn 78% trên tổng số 3.706 hộ. Do địa bàn
cách trở giao thông, điều kiện kinh tế học sinh khó khăn, nơi ăn ở cho học sinh
chưa có nên các em không an tâm học tập.”
An tâm gì nổi, hả Trời! Đời sống có những ưu
tiên sắp sẵn: ăn – mặc, ăn – học. Cơm áo lo chưa xong, nói chi đến học.
Theo tường trình của Ủy ban Dân tộc thì ”người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu chỉ
còn lại… vài trăm!” Nhà văn Nguyên Ngọc, trong bài “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên” cho biết thêm: “Người Châu ở trong thung lũng Mường Hon của núi Ngok
Linh, chỉ có khoảng 80…”
Ngoài bờ biển phía Đông ra, phần biên giới
còn lại của Việt Nam đều là nơi cư ngụ của những dân tộc thiểu số tự ngàn xưa.
Với cuộc sống đơn giản và hài hoà với thiên nhiên, họ đã giữ cho môi trường
sinh thái được quân bằng và tạo một “Vòng đai xanh” cho cả nước. Cũng
chính họ là những tuyến đầu, và là vòng đai an ninh cho tố quốc.
Tưởng Năng Tiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét