Tiếp cận một phương diện của
lịch sử văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX từ tiền đề thực tiễn và lý thuyết mới
Trong tiến trình lịch sử văn
học Việt Nam, ba mươi năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn có tính chất bản lề trong
bước chuyển giữa hai thời đại lớn của văn học dân tộc, là thời điểm diễn ra cuộc
tái cấu trúc toàn bộ nền văn học trên cơ sở sự va chạm giữa hai hệ thống văn học,
truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế
nghiên cứu, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận đó, việc tiếp cận giai
đoạn văn học đầy phức tạp này cũng đang tồn tại những bế tắc chưa được giải quyết
triệt để. Những bế tắc đó ngày càng cho thấy, vấn đề quyết định không chỉ là tiếp
tục lấp đầy những khoảng trống về tư liệu mà điều quan trọng hơn là xác lập một
cái nhìn mới về đối tượng, một cơ sở lý thuyết mới cho sự tiếp cận.
Những ai theo dõi thường
xuyên các hoạt động nghiên cứu văn học trong nước sẽ có thể nhận thấy một hiện
tượng đáng chú ý: sự quan tâm trở lại đối với nghiên cứu lịch sử văn học hay
nói cách khác những chuyển động hứa hẹn sự phát triển đột biến của nghiên cứu lịch
sử văn học dân tộc. Thực ra, trong suốt nhiều thập niên qua, nghiên cứu lịch sử
văn học vẫn luôn luôn là một lĩnh vực nghiên cứu có nhiều thành tựu và thu hút
được nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là giới nghiên cứu chuyên nghiệp. Số lượng
luận văn, luận án các cấp được bảo vệ ở các trung tâm đào tạo lớn của cả nước,
các công trình được công bố dưới dạng sách hoặc trên các tạp chí khoa học
chuyên ngành đủ chứng minh cho thực tế đó. Có điều, ẩn sau sự phong phú bề mặt,
đôi khi lại là một sự lựa chọn định hướng nghiên cứu đầy tinh thần thực dụng:
tìm kiếm sự an toàn, sự "bảo lãnh" cho sự nghiệp nghiệp nghiên cứu ở
những thành tựu văn chương đã được khẳng định, đã có vị trí ổn định trong tâm
thức cộng đồng. Và chính từ sự lựa chọn đó, sẽ dẫn đến hệ quả là hình thành nên
một cách hình dung đứt đoạn giữa văn học quá khứ và văn học hiện tại, biến văn
học hiện tại thành một thứ vùng đất hoang để mặc cho các nhà phê bình báo chí
và bạn đọc, còn văn học quá khứ lại trở thành một nơi chốn trú ẩn cho các nhà
nghiên cứu có hướng kinh viện và giới đại học [1] . Sâu xa hơn, hệ quả của một
cách quan niệm như vậy chính là khuynh hướng nhân danh tính cụ thể lịch sử của
đối tượng nghiên cứu để biến những thời đại văn học thành những thực thể tự trị
không có liên hệ gì với tiến trình văn học [2] . Xét đến cùng, tất cả mọi hoạt
động nghiên cứu văn học đều phải lấy sự phát triển của đời sống văn học hiện tại
làm điểm xuất phát và hướng tới. Trở lại với các nhà nghiên cứu lịch sử văn học
ở Việt Nam, có thể lấy mốc 1986 làm thời điểm đánh dấu một sự đột biến của phân
môn. Cùng với sự "cởi trói" về mặt tư tưởng, cùng với quá trình đổi mới
tư duy của toàn xã hội, nhiều hiện tượng văn học quá khứ đã được đặt vấn đề lại,
nhiều giá trị của văn học quá khứ một thời bị đánh giá phiến diện, bị "bỏ
quên" đã được phục hồi lại vị trí xứng đáng trong văn học sử. Dễ nhận thấy
là trong suốt năm cuối thập niên 80 và thập niên 90 của thế kỷ XX, những vấn đề
mà chính giới nghiên cứu lịch sử văn học quan tâm chủ yếu liên quan đến sự phân
kỳ văn học, các mốc thời gian để phân kỳ văn học và việc đánh giá lại một số
"vùng đất bị lãng quên" của văn học sử. Đến những năm cuối của thế kỷ
XX và trong những năm đầu của thế kỷ mới, cùng với sự khép lại của một thế kỷ,
bắt đầu xuất hiện một yêu cầu của toàn xã hội là tổng kết lại một thế kỷ văn học
và rộng hơn, viết lại lịch sử văn học. Ở những trung tâm nghiên cứu văn học lớn
của cả nước, nhiều dự án viết lại lịch sử văn học đang được triển khai và trong
đó, có nhiều dự án đã nhận được một lượng kinh phí lớn của Chính phủ. Đáng chú
ý là trong những năm gần đây, các ý kiến đặt vấn đề lại về phương pháp viết lịch
sử văn học đã bắt đầu xuất hiện với một mật độ dầy đặc trên các tạp chí chuyên
ngành của giới nghiên cứu văn học. Tạm đặt sang một bên sự đúng sai cũng như
tính khả thi của từng ý kiến, có thể nhận thấy một nhu cầu có thực của toàn bộ
giới nghiên cứu: tìm kiếm một cơ sở phương pháp luận mới cho nghiên cứu lịch sử
văn học, xác lập một cái nhìn mới về lịch sử văn học. Bên cạnh đó, cũng có thể
thấy, trong tổng thể khoa nghiên cứu văn học, đang xuất hiện những tiền đề lý
thuyết hết sức thuận lợi cho nghiên cứu lịch sử văn học. Chúng tôi muốn nhấn mạnh
những nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu trong việc giới thiệu những thành tựu của
lý luận văn học (các luận điểm về phản ánh luận nghệ thuật của các nhà mỹ học
mácxít hiện đại phương Tây, những quan điểm về tính mở của tác phẩm văn học, những
luận điểm lý thuyết của cấu trúc luận...) và các trường phái nghiên cứu, phê
bình văn học phương Tây (chủ nghĩa Hình thức Nga, Thi học cấu trúc và một số
thành tựu của Phê bình mới, Tín hiệu học, Mỹ học tiếp nhận và Văn học so
sánh...). Tiếp xúc với lý luận văn học và nghiên cứu văn học phương Tây, người
nghiên cứu sẽ có điều kiện tự trang bị một bộ công cụ để xử lý đối tượng tác phẩm
văn học, đồng thời có những tiền đề cần thiết để xác lập một cơ sở lý thuyết mới
trong việc tiếp cận hiện tượng văn học. Sự thành công của một bộ môn nghiên cứu
chỉ có thể được đảm bảo trên cơ sở người nghiên cứu có được những công cụ lý
thuyết hiệu quả và có được những tư liệu có giá trị về đối tượng nghiên cứu. Đó
chính là phương diện khiến chúng tôi khẳng định về những chuyển động hứa hẹn sự
phát triển đột biến của nghiên cứu lịch sử văn học ở Việt Nam.
Đặt trong văn cảnh tổng quát
của nghiên cứu lịch sử văn học như trên, chúng tôi muốn đề xuất một cách đặt vấn
đề mới trong việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển của tự sự nghệ thuật bằng
chữ quốc ngữ một bộ phận chủ đạo, nhân vật chính trong toàn bộ tiến trình hiện
đại hóa văn học trong ba thập niên đầu thế kỷ XX (từ 1900 đến 1930 - thời điểm
Tự lực văn đoàn hình thành). Trong toàn bộ tiến trình lịch sử văn học Việt Nam,
ba mươi năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn có tính chất bản lề trong bước chuyển giữa
hai thời đại lớn của văn học dân tộc, là thời điểm diễn ra cuộc tái cấu trúc
toàn bộ nền văn học trên cơ sở sự va chạm giữa hai hệ thống văn học, truyền thống
và hiện đại, phương Đông và phương Tây. Sự lựa chọn giai đoạn văn học này làm đối
tượng nghiên cứu sẽ cho phép móc nối lại những mắt xích còn thiếu trong phát
triển có tính liên tục của văn học dân tộc từ truyền thống đến hiện đại. Tất
nhiên, chính tính chất bản lề đó cũng khiến cho bộ phận văn học này trở thành một
trong những giai đoạn văn học phức tạp và giàu tính vấn đề nhất trong lịch sử
văn học hiện đại. Kể từ những công trình văn học sử đầu tiên được khởi thảo và
hoàn thành dưới thời Pháp thuộc cho đến nay, việc nghiên cứu về giai đoạn này
có những bước tiến vượt bậc. Vị trí của ba thập niên đầu thế kỷ XX trong toàn bộ
tiến trình văn học đang ngày càng được nhận thức lại một cách đúng đắn hơn, nhiều
mảng trống về tư liệu cũng đang được lấp đầy dần thông qua các công trình biên
khảo cũng như các luận văn, luận án ở nhiều cấp đào tạo. Tuy nhiên, nhìn vào thực
tế nghiên cứu, có thể thấy, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận đó, việc
tiếp cận giai đoạn văn học đầy phức tạp này cũng đang tồn tại những bế tắc chưa
được giải quyết triệt để. Những bế tắc đó ngày càng cho thấy, vấn đề quyết định
không chỉ là tiếp tục lấp đầy những khoảng trống về tư liệu mà điều quan trọng
hơn là xác lập một cái nhìn mới về đối tượng, một cơ sở lý thuyết mới cho sự tiếp
cận. Chính từ lý do đó, chúng tôi muốn đặt vấn đề xác lập một cơ sở lý thuyết mới
để xử lý bộ phận văn học đầy phức tạp này. Mục đích chính của chúng tôi không
phải là giới thiệu những kết quả nghiên cứu cụ thể mà trên cơ sở những thành tựu
của những phân môn tương cận trong toàn ngành để đưa ra một định hướng tổng thể
cho công tác nghiên cứu. Chúng tôi sẽ không đặt nhiệm vụ vào việc giới thiệu, tổng
thuật những quan điểm cụ thể của từng trường phái, trào lưu cụ thể mà tập trung
vào việc trình bày những khả năng lý thuyết được mở ra từ những thành tựu lý
thuyết của nghiên cứu văn học trên thế giới trong bối cảnh những thành tựu đó
đang từng bước được giới thiệu vào Việt Nam, những giới hạn trong quá trình
nghiên cứu đối tượng để từ cơ sở đó đề xuất những định hướng riêng của mình [3].
I. Từ những tiền đề lý thuyết
Năm 1970, trong công trình Lịch
sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học [4], công trình có ý
nghĩa như là tuyên ngôn của Mỹ học tiếp nhận Tây Đức (trường phái Konstanz),
H.R. Jauss đã đề cập đến cuộc khủng hoảng của nghiên cứu lịch sử văn học ở
phương Tây thế kỷ XX. Sau thời hoàng kim trong thế kỷ XIX với công trình của những
nhà nghiên cứu thực chứng luận như H. Taine, Gervenus, De Sanctis, G. Lanson...
bước sang thế kỷ XX, nghiên cứu lịch sử văn học bắt đầu rơi vào tình trạng khốn
đốn. Tình trạng khốn cùng đó xuất phát từ những bế tắc về phương pháp luận.
Theo Jauss, lịch sử văn học dù được trình bày dưới dạng tổng quát, được viết
"theo thể loại" hay "theo trào lưu" đều bị biến thành một
thứ biên niên sử các sự kiện văn học, một lối liệt kê sự kiện và mô tả theo kiểu
"thỉnh thoảng có con voi trắng". Điều đó chứng tỏ sự bất lực của các
nhà nghiên cứu lịch sử văn học trong việc xác lập một phương pháp luận nghiên cứu
của riêng mình. Công trình của H. R. Jauss, dù xuất hiện cách đây trên ba thạp
niên cũng không khỏi làm chúng ta liên hệ đến tình hình nghiên cứu lịch sử văn
học ở Việt Nam hiện nay.
Đời sống văn học ở Việt Nam
vốn bình lặng. Dẫu gần đây, người ta có ồn ào nói nhiều đến sự chững lại, sự
trì trệ của một vài thể loại văn học (tiểu thuyết, thơ...) hay xuất hiện một
vài cuộc tranh luận về những cách tân nghệ thuật của một số nhà thơ trẻ (những
cuộc tranh luận xung quanh cái gọi là "thơ trẻ") thì cũng phải thấy rằng
ở nước ta hiếm khi xuất hiện những cuộc khủng hoảng sáng tạo lớn (kiểu như những
cuộc tranh luận về sự xuất hiện của Tiểu thuyết mới hay xung quanh vấn đề
"Cái chết của tiểu thuyết" ở phương Tây trong những năm 70). Những cuộc
khủng hoảng kiểu đó trong địa hạt nghiên cứu, lý luận lại càng hiếm hoi. Những
sự tĩnh lặng đó liệu có đồng nghĩa với sự đảm bảo của hệ thống lý thuyết hiện
hành? Cách đây không lâu, vào tháng 4 năm 2002, tại Viện Văn học, trong khuôn
khổ Chương trình tổng kết lịch sử Văn học Việt Nam, một cuộc hội thảo khoa học
với tiêu đề "Phương pháp luận viết lịch sử văn học" đã được tổ chức với
sự tham gia của các nhà nghiên cứu đầu ngành của các trung tâm nghiên cứu và giảng
dạy văn học lớn của cả nước. Dường như sau gần một thế kỷ phát triển kể từ bộ lịch
sử văn học Việt Nam đầu tiên do Dương Quảng Hàm biên soạn, sau những công trình
lịch sử văn học đồ sộ của nhóm Lê Quý Đôn, của Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, của
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, cả giới nghiên cứu đang đứng trước một câu hỏi
lớn: Cần phải biên soạn lịch sử văn học như thế nào? Một câu hỏi mang tính lý
thuyết. Không có dự định làm thay công việc mà cả giới nghiên cứu với những trí
tuệ xuất sắc đang làm, chúng tôi chỉ đặt một mục tiêu khiêm tốn hơn, trình bày
những suy nghĩ của mình về lý thuyết nghiên cứu được gợi ý từ một số thành tựu
của nghiên cứu văn học phương Tây và để áp dụng cho một địa hạt hạn chế: lịch sử
của một thể loại.
Trong phần mở đầu công trình
Thi pháp học [5] , công trình có ý nghĩa tổng kết toàn bộ phương pháp tiếp cận
và triển vọng phát triển của thi pháp học cấu trúc, Tzvetan Todorov có phân biệt
hai lối tiếp cận đối với văn học: lối tiếp cận theo kiểu "giải thích"
và theo kiểu "khoa học". Đại diện cho lối tiếp cận thứ nhất là thi
pháp học truyền thống với quan niệm "xem văn bản văn học như chính bản
thân nó" và đại diện cho kiểu thứ hai bao gồm cả các phương pháp nghiên cứu
theo hướng tâm lý học, phân tâm học, xã hội học và cả triết học, tư tưởng với
quan niệm "coi mỗi tác phẩm văn học riêng lẻ là sự thể hiện của một cấu
trúc trừu tượng nào đấy lớn hơn nó" [6] . Nghiên cứu văn học trong thế kỷ
XX bị đặt trước những cực đối lập về lý thuyết: hoặc đi sâu vào những nghiên cứu
có tính vi phân, coi văn bản như những đơn vị tự trị và toàn quyền, hoặc tìm
hình ảnh của những cấu trúc vĩ mô (lịch sử, xã hội, tâm lý, tư tưởng...) phản
ánh qua văn bản; hoặc nghiên cứu cái được biểu đạt, nội dung phản ánh của văn học,
hoặc nghiên cứu cấu trúc nội tại của cái biểu đạt cấu trúc nghệ thuật của tác
phẩm nghệ thuật ngôn từ. Mỗi định hướng trong số những định hướng tiếp cận kể
trên đều hứa hẹn những tiềm năng lớn cho nghiên cứu văn học, nhưng đồng thời
cũng sớm bộc lộ những giới hạn. Những nhát cắt lý thuyết đó hằn sâu lên toàn bộ
nghiên cứu văn học thế kỷ XX và quy định toàn bộ sự phát triển của ngành khoa học
này trong toàn bộ thế kỷ, vừa theo hướng đi sâu vào những dự án chuyên biệt, vừa
theo hướng tìm cách hợp nhất những định hướng nghiên cứu [7] . Khoa học vốn
phát triển trên những sự phân cực đầy cực đoan và vấn đề của nhà nghiên cứu là
tìm cách hợp nhất, kết hợp các công cụ lý thuyết để áp dụng vào đối tượng
nghiên cứu chuyên biệt của mình.
Có thể nói sau việc giới thiệu
thi pháp học và những thành tựu của M. Bakhtine trong những năm cuối thập niên
80 đầu thập niên 90 của thế kỷ XX thì việc chuyển ngữ những công trình cơ bản của
các nhà Hình thức luận (Formalisme) Nga đầu thế kỷ XX (R. Jakobson, B.
Eikhenbaum, V. Shklovski, J. Tynianov...) thể hiện những nỗ lực tiếp cận với những
thành tựu nghiên cứu văn học thế giới của giới nghiên cứu Việt Nam. Toàn bộ
tinh thần của Hình thức luận có thể thu gọn trong phát biểu của R. Jakobson:
"Đối tượng của khoa học về văn chương không phải là văn học mà là
"tính văn học" (litérarité literaturnost), nghĩa là cái làm cho một
tác phẩm trở thành tác phẩm văn chương" [8] . Có thể coi trào lưu nghiên cứu
này như là một phản ứng tái lập lại sự quân bình trong nghiên cứu văn học trước
sự lan tràn của nghiên cứu xã hội học và lịch sử tư tưởng trong nghiên cứu văn
học. Tham vọng của Hình thức luận là xây dựng nên một khoa học mang tính tự trị
về văn học mà đối tượng là những yếu tố đặc thù, cái khiến cho văn học trở
thành chính nó: hệ thống thủ pháp hình thức hay nói cách khác phương thức tổ chức
chất liệu ngôn từ thành văn bản nghệ thuật [9] . Mặc dù có một số phận sóng gió
ngay chính trên Tổ quốc của mình, Hình thức luận khẳng định có một khát vọng lớn
lao của nghiên cứu văn học: xây dựng một bộ khung lý thuyết để nghiên cứu văn học
dựa trên ý thức về sự tồn tại độc lập của văn học với những hình thái ý thức xã
hội khác và một khoa học về những vấn đề của riêng văn học (chúng tôi nhấn mạnh).
Một trong những đóng góp lớn nhất của Hình thức luận là luận điểm về sự tiến
triển của văn học mà theo đó, lịch sử văn học hiện lên như là quá trình vận động
của những hệ thống văn học được hợp thành bởi những thể loại văn học với quy luật
chuyển các thể loại ở ngoại vi vào trung tâm và "Phong thánh cho những thể
loại nhỏ" [10].
Với Hình thức luận, lần đầu tiên, thể loại được đưa vào trung tâm của lịch sử văn học và nhờ đó, văn học đạt được giá trị của một hệ thống tự thân có lịch sử của riêng mình độc lập với thông sử và lịch sử của những hệ chỉnh thể (chúng tôi sử dụng khái niệm của nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư) [11] tương cận (tư tưởng, triết học, chính trị). Đồng thời, với quan niệm về thể loại như là một tập hợp có tính lịch sử và năng động các thủ pháp hình thức mà trong đó, một thủ pháp hình thức giữ vai trò chủ âm. Hình thức luận đã thực sự cắt đứt khỏi tu từ học cổ điển (hình thành từ Aristote) coi thể loại như một tập hợp những nguyên tắc quy phạm phi thời gian (điều tương tự với truyền thống lý luận văn học phương Đông). Những nghiên cứu của những nhà Hình thức luận đã mở ra cánh cửa vào thế giới nội tại của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ và thực sự cung cấp những công cụ hữu hiệu để nghiên cứu cơ chế cấu thành tác phẩm văn học [12] . Dẫu vậy, tham vọng lý thuyết của những nhà Hình thức luận không phải là không có giới hạn. Câu hỏi lớn nhất mà các nhà Hình thức luận còn để ngỏ, đó chính là câu hỏi về tính nội dung và ý nghĩa xã hội của những hình thức nghệ thuật. Dù cho Tomachevski có đặt vấn đề về sự phát triển song hành của những hình thức nghệ thuật với sự phát triển của các tầng lớp xã hội hay Vessélópki có phát biểu về việc "hình thức mới xuất hiện để biểu đạt nội dung mới" [13] thì rõ ràng không thể chối cãi định hướng chung của Hình thức Luận vẫn là coi hình thức nghệ thuật, các thủ pháp nghệ thuật như những yếu tố thuần túy kỹ thuật, nghĩa là cắt rời hình thức khỏi nội dung thẩm mỹ.
Với Hình thức luận, lần đầu tiên, thể loại được đưa vào trung tâm của lịch sử văn học và nhờ đó, văn học đạt được giá trị của một hệ thống tự thân có lịch sử của riêng mình độc lập với thông sử và lịch sử của những hệ chỉnh thể (chúng tôi sử dụng khái niệm của nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư) [11] tương cận (tư tưởng, triết học, chính trị). Đồng thời, với quan niệm về thể loại như là một tập hợp có tính lịch sử và năng động các thủ pháp hình thức mà trong đó, một thủ pháp hình thức giữ vai trò chủ âm. Hình thức luận đã thực sự cắt đứt khỏi tu từ học cổ điển (hình thành từ Aristote) coi thể loại như một tập hợp những nguyên tắc quy phạm phi thời gian (điều tương tự với truyền thống lý luận văn học phương Đông). Những nghiên cứu của những nhà Hình thức luận đã mở ra cánh cửa vào thế giới nội tại của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ và thực sự cung cấp những công cụ hữu hiệu để nghiên cứu cơ chế cấu thành tác phẩm văn học [12] . Dẫu vậy, tham vọng lý thuyết của những nhà Hình thức luận không phải là không có giới hạn. Câu hỏi lớn nhất mà các nhà Hình thức luận còn để ngỏ, đó chính là câu hỏi về tính nội dung và ý nghĩa xã hội của những hình thức nghệ thuật. Dù cho Tomachevski có đặt vấn đề về sự phát triển song hành của những hình thức nghệ thuật với sự phát triển của các tầng lớp xã hội hay Vessélópki có phát biểu về việc "hình thức mới xuất hiện để biểu đạt nội dung mới" [13] thì rõ ràng không thể chối cãi định hướng chung của Hình thức Luận vẫn là coi hình thức nghệ thuật, các thủ pháp nghệ thuật như những yếu tố thuần túy kỹ thuật, nghĩa là cắt rời hình thức khỏi nội dung thẩm mỹ.
Sau Hình thức luận, trong những
thập niên sau thế chiến thứ hai, có thể nói chủ nghĩa cấu trúc là cuộc cách mạng
lớn của ngành khoa học xã hội và nhân văn trong thế kỷ XX. Nhiều nhà nghiên cứu
đã đánh giá vị trí của Lêvi-Strauss, ngọn cờ đầu của chủ nghĩa cấu trúc ngang với
vai trò của Gallilée trong vật lý học [14] . Phạm vi bao quát của chủ nghĩa cấu
trúc là rất lớn, ở đây, chúng tôi chỉ bàn đến những gợi ý của Chủ nghĩa cấu
trúc liên quan đến văn học. Tham vọng lớn nhất của Chủ nghĩa cấu trúc là vượt
qua những tư liệu có tính kinh nghiệm để chủ động xây dựng những mô hình về những
cấu trúc bề sâu phản ánh bản chất của những quy luật chi phối sự tồn tại của hiện
tượng [15] . Xuất phát từ định hướng đó, trong nghiên cứu văn học, khi tiếp cận
với lịch sử thể loại văn học, các nhà nghiên cứu đã đề xuất sự phân biệt giữa
các phạm trù thể loại lý tưởng / thực tế (Northrop Frye), thể loại lý thuyết /
lịch sử (T.Todorov), thức / thể loại (Gérard Genette) nghĩa là phân biệt giữa
mô hình lý thuyết phản ánh đặc điểm cấu trúc của thể loại trong một giai đoạn
văn học nhất định với sự biểu hiện sinh động của mô hình đó trong những tác phẩm
cụ thể. Có thể thấy, trong lĩnh vực nghiên cứu văn học, có một sự tiếp nối và
phát triển từ các nhà nghiên cứu Hình thức luận đến các nhà nghiên cứu theo chủ
nghĩa cấu trúc. Những công trình nghiên cứu trần thuật học của T. Todorov, G.
Genette, P. Hamon, N. Frye, I. Lotman... với các khái niệm về không gian nghệ
thuật, thời gian nghệ thuật, điểm nhìn, giọng điệu phát ngôn (gắn với vị thế của
chủ thể phát ngôn), sự tụ tiêu (focalisation) với tư cách những thành tố và những
nguyên tắc cấu trúc, tổ chức văn bản tự sự (chúng tôi nhấn mạnh) [16] đã cung cấp
những công cụ lý thuyết quan trọng để mô hình hóa các hình thức tự sự nghệ thuật
qua các giai đoạn lịch sử phát triển của văn học. Đồng thời với quy luật về
tính quy định của của cấu trúc đối với thành tố cấu thành, chủ nghĩa cấu trúc
đã chỉ ra sự sai lầm của những toan tính áp đặt những giá trị của cấu trúc này
vào thành tố của những cấu trúc khác. Những thể loại dẫu được gọi bằng cùng một
tên gọi nhưng thuộc về những thời đại văn học khác nhau (nghĩa là thuộc những cấu
trúc khác nhau) chắc chắn sẽ mang những đặc điểm khác nhau. Nói cách khác, ý
nghĩa của một thể loại trong một thời kỳ văn học trong quá khứ được xác lập
trên cơ sở sự khu biệt với những thể loại tương cận trong cùng một nhát cắt đồng
đại chứ không phải trên cơ sở áp đặt những giá trị hiện tại.
Trên đây, chúng tôi đã trình
bày những gợi ý lý thuyết từ hai trường phái nghiên cứu khoa học văn học lớn của
thế kỷ XX. Điểm chung của cả hai hướng tiếp cận này là chủ yếu tập trung khảo
sát cấu trúc nội tại của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Từ các nhà Hình thức luận
đến những nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa cấu trúc, câu hỏi về tính nội dung của
hình thức dường như vẫn còn bị treo lại. Nếu sử dụng lưỡng phân của F. de
Saussure về hai bình diện Cái được biểu đạt và Cái biểu đạt của một thực thể có
tính ký hiệu thì các nhà nghiên cứu này chủ yếu chỉ quan tâm khảo sát cấu tạo của
Cái biểu đạt. Toàn bộ những vấn đề thuộc về Cái được biểu đạt và mối quan hệ với
Cái biểu đạt đều bị họ "đặt vào trong ngoặc", nghĩa là đưa ra ngoài tầm
quan tâm, theo ngôn ngữ của Hiện tượng luận.
Một trong những nội dung của
chủ nghĩa duy vật biện chứng là phản ánh luận. Phản ánh luận cũng tạo nên nòng
cốt của mỹ học mácxít. Có điều, trong một thời gian dài, giới nghiên cứu văn học
cũng như mỹ học ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ hầu như không có thêm những khai
triển nào mới hơn về phản ánh luận từ các luận điểm của những nhà kinh điển.
Chính vì vậy, trong nghiên cứu văn học ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ và đặc biệt
ở Việt Nam, nghiên cứu văn học được lược quy thành công việc tìm nội dung phản
ánh của văn học, thông thường là các nội dung chính trị xã hội. Hậu quả tai hại
của lối nghiên cứu này thiết tưởng không cần nhắc lại. Chỉ có điều, sự giáo điều
và giản lược không thể giết chết được những giá trị đích thực của triết thuyết
có ảnh hưởng lớn nhất đến số phận của nhân loại trong thế kỷ XX. Ở những phương
trời khác nhau, vẫn có những nhà triết học, mỹ học, những nhà nghiên cứu văn học
tiếp tục phát huy một cách sáng tạo những giá trị đích thực của chủ nghĩa Marx,
đưa những luận điểm tiến bộ của những nhà kinh điển lên một chiều cao lý thuyết
mới. Chúng tôi muốn nói đến những nhà nghiên cứu mácxít G. Lukacs và Ch.
Caudwell [17] . Ở trung tâm tư tưởng mỹ học của các ông, những đặc trưng của phản
ánh nghệ thuật đã được soi sáng từ một bình diện mới, theo đó, vai trò của chủ
thể sáng tạo, người nghệ sỹ được đề cao. Giá trị của một tác phẩm văn chương
đích thực không phải ở chỗ có bao nhiêu phần của hiện thực được phản ánh trong
đó mà quan trọng hơn, ở những suy niệm, băn khoăn, bao nhiêu suy tư của người
nghệ sĩ trước hiện thực. Nói cách khác, văn học không chỉ phản ánh hiện thực mà
còn là suy tư, xúc cảm thẩm mỹ của người nghệ sĩ trước hiện thực, nó là thành tố
cấu thành của thế giới "bên trong" (khái niệm của Ch. Caudwell) của
người nghệ sĩ. Ở đây có thể thấy sự gần gũi trong lý luận của các nhà phản ánh
luận với tinh thần của chủ nghĩa cấu trúc: sự vật như nó hiển hiện ra bên ngoài
mà con người có thể kinh nghiệm là lớp vỏ che dấu những cấu trúc bề sâu. Và như
vậy, khi văn học được giải phóng khỏi sự phản ánh cơ học hiện thực thì một mặt,
cho phép mọi phương thức phản ánh đều có thể tự do phát triển, có giá trị như
nhau từ chủ nghĩa hiện thực của cái giống như thật (kiểu Balzac) đến chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo (kiểu Kafka, Marquez) [18] và mặt khác, quan trọng hơn, nó
chỉ ra con đường đích thực của nhà nghiên cứu đến với tác phẩm. Một mặt, công
việc của nhà nghiên cứu không phải là dùng những cấu trúc xã hội có sẵn, áp vào
văn học để tìm xem tác phẩm phản ánh một liều lượng ra sao của hiện thực và mặt
khác, anh ta không chỉ dừng lại ở lớp vỏ hiện tượng - những hình ảnh của thế giới
hiện thực phản ánh trong văn học - mà quan trọng hơn, phát hiện ra được những cấu
trúc chiều sau của tâm hồn và tư tưởng nghệ sĩ. Có thể nói, những tư tưởng của
Caudwell và Lukacs đã cho phép nhận chân ra tính đặc thù của Cái được biểu đạt
trong văn học, nó là một đối trọng cần thiết với những nghiên cứu theo lối
"nội quan" chỉ quan tâm đến bản chất của Cái biểu đạt.
Trong phần trên, chúng tôi
đã trình bày về cuộc khủng hoảng của nghiên cứu lịch sử văn học phương Tây
trong nửa đầu thế kỷ XX. Một trong những lý thuyết đặt nhiệm vụ giải quyết cuộc
khủng hoảng phương pháp luận đó chính là Mỹ học tiếp nhận. Khởi nguồn từ triết
học Hiện tượng luận do E. Husserl khởi xướng, Mỹ học tiếp nhận muốn giải quyết những
bế tắc về phương pháp luận của nghiên cứu lịch sử văn học bằng việc đặt người đọc
vào trung tâm của tiến trình văn học. Đóng góp lớn nhất của mỹ học tiếp nhận là
giải quyết được vấn đề nan giải của lịch sử văn học trong việc thiết lập những
mối dây liên hệ giữa những thời đại văn học. Như đã trình bày, nghiên cứu lịch
sử văn học bị đặt trước hai ngả đường: hoặc nghiên cứu mỗi thời đại lịch sử
khép kín trong chính nó, tôn trọng tính lịch sử của đối tượng và bởi vậy, dựng
nên một lịch sử đầy những khoảng đứt gãy hoặc nỗ lực nối liền những thời đại
văn học nhưng lại dễ bị sa vào cái bẫy áp đặt giá trị của thời đại văn học này
lên tác phẩm của những thời đại văn học khác. Tác phẩm văn học không phải là một
thực thể bất biến, phi thời gian, biệt lập, nó là một sản phẩm mang tính xã hội
được sinh ra từ cuộc đối thoại giữa nhà văn và thời đại của anh ta. Giống như
F. de Saussure phân biệt ra hai bình diện Ngôn ngữ (langue) và Lời nói
(Parole), mỗi thời đại đều có một hệ thống những chuẩn mực riêng về văn hóa, đạo
đức thẩm mỹ. Hệ chuẩn mực đó là cái có tính xã hội tương tự như Ngôn ngữ. Nảy
sinh từ một thời điểm lịch sử cụ thể, tác phẩm văn học bị quy định bởi hệ chuẩn
mực mang tính xã hội đó (cái mà Jauss gọi là "tầm đón nhận" - Horizon
d’ attent/ Erwartungshorizont). Dẫu vậy, giống như Lời nói là cái có tính hiện
thực, tính cá thể, là sản phẩm của một cuộc đối thoại giữa nhà văn và thời đại,
là sản phẩm của một hành vi tự do, tác phẩm không chỉ bị quy định mà nó còn tác
động ngược trở lại chính hệ chuẩn mực quy định nó từ độ lệch giữa giá trị tác
phẩm và tầm đón nhận của thời đại. Và tầm vóc của những tác phẩm lớn được đánh
giá bằng chính độ lệch của tác phẩm và thời đại, ở tiềm năng tạo nghĩa vượt khỏi
"tầm đón nhận" có tính lịch sử. Như vậy, thứ nhất, bản thân tầm đón
nhận cũng là một thực thể có tính lịch sử và có tính liên tục theo thời gian.
Chính nó là bộ phận cấu thành truyền thống văn học. Những tác phẩm lớn là cho
nó phải thay đổi nhưng đồng thời cùng với thời gian nó cũng ổn định thêm những
hằng số bất biến. Nghiên cứu lịch sử văn học trên một bình diện cũng buộc phải
đặt nhiệm vụ nghiên cứu chính tầm đón nhận đó. Chính tầm đón nhận là cái giúp
cho người nghiên cứu có thể nhận ra giá trị mang tính lịch sử cụ thể của một
tác phẩm, một thể loại. Tuy vậy, mặt khác, cũng chính thông qua việc tác động,
thay đổi đến tầm đón nhận mà người ta có thể nhận ra giá trị, ý nghĩa cách mạng
làm thay đổi ý thức thời đại của những tác phẩm lớn đối với tiến trình văn học.
Đó chính là bình diện nối một tác phẩm quá khứ đối với đời sống văn học hiện tại.
Thông qua việc tác động đến tầm đón nhận mà người ta có thể hiểu được việc một
tác phẩm dù thuộc những thời đại quá khứ vẫn tiếp tục chi phối đời sống văn học
hiện tại.
Trên đây, chúng tôi đã trình
bày những gợi ý lý thuyết từ một số trường phái nghiên cứu văn học, mỹ học lớn
trên thế giới. Hiển nhiên, không một trường phái nào là không có giới hạn. Trên
một phương diện, chính nhờ chấp nhận tính giới hạn, tính "chủ biệt"
đó mà khoa học phương Tây đã đạt được những bước đột phá trên nhiều lĩnh vực
chuyên biệt. Vấn đề là người nghiên cứu phải có khả năng liên kết nhiều lý thuyết
để xử lý đối tượng. Chúng tôi không có tham vọng thống nhất các lý thuyết để
đưa ra một thứ "Lý thuyết thống nhất lớn" (giống như trong vật lý học)
của văn học. Công việc của chúng tôi chỉ là kết hợp các lý thuyết để giải quyết
một đối tượng có giới hạn của văn học sử: tự sự nghệ thuật trong ba thập niên đầu
thế kỷ XX.
[1 ]Một điều dễ thấy là
trong gần như toàn bộ các sự kiện sôi nổi của đời sống văn học gần đây, hầu như
đều vắng bóng các chuyên gia thuộc giới đại học. Điều này là không bình thường
nếu, chẳng hạn, so sánh với những năm 60,70, trong đời sống văn học nước nhà, với
những tên tuổi như Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, có một sự gắn bó hết thức mật thiết
giữa sáng tác văn học đương đại và giới nghiên cứu đại học mà trong đó, vai trò
tác động của giới nghiên cứu đối với đời sống văn học có thể thấy rõ. Và với một
cách hình dung như vậy, dường như giới nghiên cứu vẫn mắc nợ với xã hội.
[2] Mặc dù kịch liệt chống đối
lại việc dựng lên các "phả hệ " giản đơn và tùy tiện của lịch sử văn
học nhưng theo chúng tôi, yêu cầu nhìn nhận lịch sử văn học như là một quá
trình thống nhất và liên tục vẫn là một yêu cầu bắt buộc đối với nghiên cứu lịch
sử văn học.
[3] Cũng cần phải nhắc lại rằng
trong thời gian gần đây, đã hình thành một đội ngũ những nhà khoa học đang tích
cực làm công việc của những "người môi giới lý thuyết", dành một phần
lớn thời gian, tâm lực để giới thiệu, dịch thuật những thành tựu của nghiên cứu,
lý luận văn học phương Tây vào Việt Nam: Đỗ Lai Thúy, Trương Đăng Dung, Trịnh
Bá Đĩnh... Đồng thời cũng đã hình thành những "trung tâm môi giới lý thuyết":
Tạp chí Văn học, Tạp chí Văn học nước ngoài, NXB Hội nhà văn... Trên một phương
diện, toàn giới nghiên cứu chịu ơn họ. Chắc chắn sẽ không thể có một nền khoa học
phát triển nếu không được xây dựng trên những thành tựu lý thuyết vững chãi,
trong khi đó, lý thuyết lại là khâu chậm phát triển nhất trong nghiên cứu văn học
ở nước ta hiện nay.
[4] Bản dịch tiếng Việt của
Trương Đăng Dung trên tạp chí Văn học nước ngoài số 1 năm 2002.
[5] Dẫn theo "Chủ nghĩa
cấu trúc và văn học", Trịnh Bá Đĩnh, NXB Văn học và Trung tâm nghiên cứu
Quốc học, 2002
[6] SĐD.
[7] Một tình trạng kể trên
làm liên tưởng đến sự phát triển của vật lý trong thế kỷ XX. Hai thành tựu lớn
của vật lý học trong thế kỷ XX là thuyết Tương đối rộng của A. Einstein và cơ học
lượng tử được phát triển từ nguyên lý lượng tử của Planck và nguyên lý bất định
của Heisenberg. Lý thuyết thứ nhất liên quan đến việc mô tả các hiện tượng vật
lý ở bậc vĩ mô, lý thuyết thứ hai liên quan đến những hiện tương ở bậc vi mô
(nguyên tử, phân tử, các hạt cơ bản...) và vấn đề lớn nhất của vật lý học thế kỷ
XX là tìm cách xây dựng một lý thuyết thống nhất từ những lý thuyết trên, một
lý thuyết đủ khả năng lý giải toàn bộ các hiện tượng vật lý.
[8] Dẫn theo "Dẫn luận
các phương pháp phân tích văn học", NXB Bordas, Paris, 1990.
[9] Sự phân biệt hai phạm trù
"vật liệu" và "thủ pháp" là một trong số những phạm trù
nòng cốt của Hình thức luận.
[10] Có thể nhận thấy vang vọng
của quy luật này trong công trình Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-
1932 của các nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu, Lê Chí Dũng.
[11] Xem Suy nghĩ về phương
pháp luận lịch sử văn học. Tạp chí Văn học, số 4/2002.
[12] Các nhà Hình thức luận
có tham vọng coi sáng tạo văn chương như một quá trình sản xuất mà người ta có
thể thao tác hóa được toàn bộ các "phương thức sản xuất".
[14] Xem «Một số vấn đề về xã
hội học và nhân loại học», Boris Lokine, Benoit de Treglode, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội,1997.
[15] Chính bởi vậy, người ta
cho rằng phải đến Lévi-Strauss thì Dân tộc học mới chuyển từ Dân tộc chí
(ethnographie) trở thành Dân tộc học (ethnologie) đích thực.
[16] Sở dĩ chúng tôi phải nhấn
mạnh điều này bởi lẽ, dù cho hiện nay, thi pháp học đang được sử dụng rộng rãi
trong hầu hết các khóa luận, luận án, luận văn ở mọi cấp đào tạo, nhưng, nhiều
khái niệm cơ bản của thi pháp học như không gian, thời gian hầu như vẫn chưa được
sử dụng một cách thống nhất và chính xác. Những khái niệm này về cơ bản vẫn chỉ
được hiểu như một phương diên của Cái được biểu đạt thay vì ý nghĩa đích thực của
nó - Cấu trúc của Cái được biểu đạt. Xin xem thêm «Kết cấu tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ», Y. Lốt man, trong sách «Chủ nghĩa cấu trúc và văn học », NXB Văn học,
Trung tâm Quốc học, 2002.
[17] Gần đây, những luận điểm
chính của hai ông đã được giới thiệu vào Việt Nam nhờ công lao của nhà nghiên cứu
Trương Đăng Dung. Xin xem «Về đặc trưng của phản ánh nghệ thuật trong mỹ học của
Ch. Caudwell và G. Lukacs», in trong sách «Từ văn bản đến tác phẩm văn học»,
Trương Đăng Dung, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1998.
[18] Đó cũng chính là tinh thần
mà trên đó R. Garaudy đã khai triển công trình «Về một chủ nghĩa hiện thực vô bờ
bến»
II. Những giới hạn trong việc
tiếp cận đối tượng nghiên cứu và phác thảo một định hướng nghiên cứu
Ở trên, chúng tôi đã trình
bày những tiền đề lý thuyết được xác lập từ một số trường phái nghiên cứu văn học
và mỹ học trong thế kỷ XX. Nếu như đứng trước bầu trời đêm, con người ở mọi thời
đại khác nhau đều có chung cảm giác mang tính kinh nghiệm về ánh sáng của những
vì sao chiếu dọi đến chúng ta từ khoảng cách vô tận của những thiên hà thì vật
lý lý thuyết cho chúng ta biết thêm rằng ánh sáng ấy thực ra đến từ chiều sâu
thẳm của thời gian quá khứ và hàng đêm, những viễn vọng kính khổng lồ vẫn chiếu
dọi vào bầu trời đêm để tìm kiếm dấu tích của những hình ảnh từ thời khai thiên
lập địa của vũ trụ. Sự phát triển của lý thuyết khoa học không tạo nên thế giới
nhưng nó tạo nên chính hình ảnh của con người về thế giới - thế giới quan (la
vue du monde), ở ý nghĩa đích thực của khái niệm.
Như đã trình bày, kể từ công
trình lịch sử văn học đầu tiên của Dương Quảng Hàm, việc nghiên cứu văn học Việt
Nam trong giai đoạn giao thời nói chung và tự sự nghệ thuật trong giai đoạn
giao thời nói riêng đã có được những thành tựu đáng kể. Mốc quan trọng nhất
trong việc nghiên cứu giai đoạn văn học này, theo chúng tôi, là công trình -
giáo trình “Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900- 1930" của hai Giáo
sư Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng. Mặc dù được viết trong những thập niên 60, 70
của thế kỷ XX nhưng có thể nói, tính hiện đại và tính đúng đắn về phương pháp
luận của công trình vẫn được giữ nguyên cho đến hiện nay. Điểm thành công lớn
nhất của công trình là chỉ ra được những ngả đường phức tạp trên của quá trình
hiện đại hóa văn học ở Việt Nam đầu thế kỷ: hiện đại hóa, cách tân văn học truyền
thống và du nhập, bản địa hóa mô hình văn học phương Tây, những giới hạn của từng
ngả đường cũng như sự đan xen, thẩm thấu, quy định lẫn nhau giữa những ngả đường.
Tính đúng đắn về phương pháp luận của công trình cũng thể hiện ở việc người
nghiên cứu đã đặt vấn đề tiếp cận một giai đoạn văn học vừa trong tính liên tục
của tiến trình văn học từ văn học Trung đại đến những giai đoạn Hiện đại tiếp
theo trong tính quy định lẫn nhau giữa những thời đại văn học vừa trong mối
quan hệ với những nền văn học lớn trên thế giới cả trong quan hệ đối chiếu lẫn
trong quan hệ giao tiếp ảnh hưởng. Điều cần nhấn mạnh là trong khi nghiên cứu
những quan hệ giao tiếp, ảnh hưởng, các tác giả đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của
chủ thể tiếp nhận - một tư tưởng có giá trị cho đến ngày nay.
Kể từ công trình của hai
Giáo sư Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng cho đến nay, liên tục xuất hiện nhiều
công trình biên khảo và luận văn, luận án các cấp khảo sát văn học Việt Nam
giai đoạn giao thời nói chung và tự sự nghệ thuật trong giai đoạn giao thời nói
riêng. Điều đáng ghi nhận ở những công trình này là nỗ lực lấp đầy những khoảng
trống về tư liệu. Nhiều mảng tư liệu mà các tác giả giáo trình hoặc chưa có điều
kiện tiếp cận, hoặc chưa xử lý một cách triệt để đều đã được đưa ra ánh sáng.
Chúng tôi muốn đề cập đến mảng tự sự nghệ thuật bằng chữ quốc ngữ xuất bản tại
Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và mảng tự sự được đăng trên báo chí xuất
bản công khai dưới chế độ thực dân trong những thập niên đầu thế kỷ XX. Những bảng
thư mục gồm trên hai trăm truyện ngắn [1] hoặc trên ba trăm đầu tiểu thuyết [2]
xuất bản bằng chữ Quốc ngữ hiện lưu trữ tại các kho lưu trữ trong và ngoài nước
đã được lập. Nhiều mảng trống về tư liệu như tự sự nghệ thuật và ký trên “Nam
phong tạp chí", “Hữu Thanh tạp chí", “Phụ nữ tân văn" cũng đã được
khảo sát một cách kỹ lưỡng [3]. Có lẽ ngoại trừ phần tư liệu về giảng dạy văn
học trong nhà trường Pháp Việt trong những năm đầu thế kỷ, không một phần tư liệu
nào về tự sự nghệ thuật đầu thế kỷ hiện còn trống. Đó là những nỗ lực đáng trân
trọng của những nhà nghiên cứu có tâm huyết và lương tâm nghề nghiệp.
Dẫu vậy, cũng phải thừa nhận
một thực tế là bên cạnh những đóng góp về mặt tư liệu, toàn giới nghiên cứu hầu
như vẫn chưa tạo nên được đóng góp nào mới hơn so với công trình của các Giáo
sư Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng. Tình trạng đó, theo chúng tôi bắt nguồn từ sự
khiếm khuyết trong cơ sở lý thuyết mà các tác giả sử dụng. Không chỉ những luận
văn, luận án khảo sát văn học Việt Nam giai đoạn giao thời mà hầu như tuyệt đại
bộ phận những công trình văn học sử sau 1945 đều bị ám ảnh bởi một hệ lý thuyết:
phương pháp sáng tác. Những khái niệm như chủ nghĩa (mà sau này được điều chỉnh
thành trào lưu, khuynh hướng) hiện thực, lãng mạng được áp dụng một cách phổ biến
vào văn học Việt Nam. Ngay cả những công trình được coi là “viết theo thể loại",
lấy thể loại làm đối tượng khảo sát (kiểu như “Truyện ngắn Việt Nam", “Tiểu
thuyết Việt Nam"...) thì thực chất cũng vẫn bị chi phối bởi tiêu chí
phương pháp sáng tác. Các tác giả có thể dùng thể loại như một công cụ để khu
biệt đối tượng nghiên cứu của mình nhưng khi đi vào triển khai những vấn đề cụ
thể thì tiêu chí phương pháp sáng tác vẫn là tiêu chí quyết định mọi sự khảo
sát. Những công thức của phương pháp sáng tác về xây dựng nhân vật, về vấn đề
điển hình hóa, về thái độ xã hội vẫn là những nguyên tắc quyết định cái nhìn của
nhà nghiên cứu đối về đối tượng. Cũng chính những tiêu chí thể loại đã khiến
cho về mặt hình thức, dù các tác giả có muốn triển khai một cách tiếp cận có
tính hình thức về đối tượng nhưng lại không dám đi đến tận cùng lôgich hình thức
của mình. Những hạn chế của cách nhìn lịch sử văn học theo phương pháp sáng
tác, thiết tưởng không cần nhắc lại, chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh lại, hệ thống
phương pháp sáng tác là hệ thống lý luận bắt nguồn từ thực tế văn học phương
Tây, dẫu trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam bắt đầu quá trình tiếp
xúc, giao lưu với văn học thế giới và chuyển dịch sang mô hình văn học thế giới
thì đó cũng là một quá trình giao lưu và chuyển dịch trên một cơ tầng mười thế
kỷ văn học viết Trung đại trong những điều kiện đặc thù của Việt Nam. Nếu như
trong giai đoạn 1932 - 1945, tiêu chí phương pháp sáng tác cũng không cho phép
nhận chân diện mạo và những quy luật phát triển của văn học Việt Nam thì trong
giai đoạn 1900 - 1932, thời kỳ phôi thai của văn học hiện đại, tiêu chí phương
pháp sáng tác càng không thể đảm bảo cho một cái nhìn chính xác về đối tượng. Nếu
sử dụng tiêu chí phương pháp sáng tác sẽ không thể thấy hết được ý nghĩa cách mạng
của một tác phẩm như “Tố Tâm" (Hoàng Ngọc Phách) trên tiến trình văn học
dân tộc. Trên bề mặt đề tài (tình yêu nam nữ, cái chết vì tình yêu, màu sắc bi
quan...) dễ dàng xếp “Tố Tâm" vào số các tác phẩm tiên phong, báo trước của
“văn học lãng mạn", tuy nhiên nếu khảo sát một cách triệt để cấu trúc thi
pháp của tác phẩm (giọng điệu trần thuật, vị thế phát ngôn, phương thức tổ chức
thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật...) sẽ thấy “Tố Tâm" báo hiệu
cho một phương thức tiếp cận hiện thực, một cái nhìn mới về thế giới và yếu tố
đó có ý nghĩa mở đường cho toàn bộ văn học Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo. Ở
một phía khác, nếu nhìn từ bình diện đề tài, có thể dễ dàng xếp tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh cũng như một loạt các tác giả văn học Nam Bộ khác (Nguyễn Chánh Sắt,
Lê Hoàng Mưu...) như những dấu hiệu báo trước chủ nghĩa hiện thực phê phán. Tuy
nhiên, nếu đặt trong truyền thống truyện thơ Nôm Nam Bộ và mỹ học Nho giáo, sẽ
thấy sáng tác của những tác giả này, về bản chất là một bước “văn xuôi
hóa" truyện thơ Nôm Nam Bộ, là sự nối dài của một thứ “chủ nghĩa hiện thực
đạo đức", một biến thể của văn chương khuyến trừng Nho giáo. Những chất liệu
hiện thực mà tác giả đưa vào trong tác phẩm, một phần là tính quy định của thời
đại, một phần là sự thỏa hiệp giữa văn học đạo lý và văn học thị trường [4] .
Như vậy, rõ ràng hệ thống phương pháp sáng tác khó có thể cho phép xác lập một
cái nhìn chính xác về đối tượng nghiên cứu.
Trên một bình diện khác, một
trong những cái bẫy mà người nghiên cứu văn học trong giai đoạn giao thời dễ mắc
phải, đó là sự ám ảnh của những hệ phân loại hiện đại. Chúng tôi xin lấy một ví
dụ: Luận án “Truyện ngắn Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1932" của tác giả
Nguyễn Thanh Sơn, bảo vệ tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Trong công trình,
đứng trước một thực tế hết sức phức tạp của những thể tự sự ngắn trong giai đoạn
giao thời, trước những dạng thức phát triển mang tính trung gian, quá độ, dù
người nghiên cứu đã ý thức được tính đặc thù của giai đoạn văn học, anh vẫn tỏ
ra không thoát nổi cái nhìn về hệ thống thể loại hiện đại. Trước một cái tên
như “đoản thiên tiểu thuyết", tác giả đã liên hệ với một thể loại được dẫn
trong hệ thống phân loại trong công trình lý luận văn học của N.A. Gulaiép để
cho rằng có một thể “đoản thiên tiểu thuyết" độc lập trong giai đoạn giao
thời. Trên thực tế, thứ nhất hệ thống thể loại bao gồm tám thể loại nhỏ (anh
hùng ca, trường ca, trường ca tự sự - trữ tình, tiểu thuyết, truyện vừa, truyện
ngắn, đoản thiên tiểu thuyết, ký) là hệ thống hầu như chỉ gắn với thực tế văn học
Nga. Trong văn học các nước nói tiếng Pháp hoặc các nước nói tiếng Anh, hoàn
toàn không tồn tại hệ phân loại này [5] . Thứ hai, trong tư duy nghệ thuật của
nhà văn trong giai đoạn giao thời, hệ phân loại truyện ngắn - tiểu thuyết với
tư cách những thể loại phản ánh những phương thức tư duy nghệ thuật khác nhau
hoàn toàn chưa chưa tồn tại. Mối quan tâm chính của nhà văn trong giai đoạn
giao thời là mối quan tâm xung quanh tiêu chí phi hư cấu (của các thể văn xuôi
lấy tên chung “ký") và hư cấu (các thể văn gắn với cái tên “tiểu thuyết")
về phạm vi phản ánh, đề tài của tác phẩm văn xuôi [6] . Như vậy, rõ ràng tính đặc
thù của giai đoạn giao thời đòi hỏi người nghiên cứu phải dám vượt qua những định
kiến được xác lập từ những hệ thống lý luận được xác lập từ thực tế văn học hiện
đại hoặc những nền văn học ngoại lai.
Chính từ những giới hạn của
tình hình nghiên cứu nói trên, chúng tôi đề xuất một số định hướng nghiên cứu
chính đối với tự sự nghệ thuật trong giai đoạn giao thời như sau:
Chúng tôi đã nói về sự hạn
chế của việc sử dụng những tiêu chí ngoại lai hoặc hiện đại để đánh giá văn học
quá khứ. Vậy đâu là con đường dẫn đến ý nghĩa có tính lịch sử của những thể loại
văn học? Trong công trình “Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học
văn học", H. R. Jauss đã dẫn lại một phát biểu của H. G. Gadamer: “Chúng
ta chỉ thật sự hiểu một văn bản nếu chúng ta đã hiểu câu hỏi mà văn bản đó trả
lời". Đây chính là chìa khóa để hiểu ý nghĩa đích thực của một thể loại có
trong quá khứ. Giống như các nhà nhân loại học cấu trúc đã chứng minh, thần thoại
là biểu hiện của một cấu trúc bề sâu, một thứ tư duy nguyên thủy nên con người
hiện đại khi dùng những hệ tiêu chí của tư duy hiện đại để giải thích đều vướng
phải những điểm nan giải không thể vượt qua thì trong một giai đoạn lịch sử nhất
định, thể loại là sản phẩm của chính tư duy nghệ thuật mang tính thời đại. Bởi
vậy, đứng trước thực tế là một hiện tượng văn học trong quá khứ (thể loại),
công việc của người nghiên cứu không phải là dùng những hệ lý luận hiện đại để
áp vào thực tế văn học sử mà phải tìm cách khôi phục được cái lôgich chi phối sự
ra đời, sự hình thành của hiện tượng văn học đó. Phải dám gạt bỏ toàn bộ những
thành kiến của cái nhìn hiện tại. Lôgich đó bao gồm hai bình diện: hệ chuẩn mực
mang tính cộng đồng về văn học và ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Giống như Lời
nói (Parole), dẫu tác phẩm là sản phẩm của hành vi mang tính sáng tạo tự do của
cá nhân nghệ sĩ thì nó cũng bị chi phối bởi một thứ Ngôn ngữ (Langue) chung về
văn học mà trên cái nền của thứ ngôn ngữ chung đó, nhà văn có thể chấp thuận hoặc
chối bỏ, điều chỉnh (Mỹ học tiếp nhận định danh thứ Ngôn ngữ chung đó bằng khái
niệm Tầm đón nhận). Chính thứ Ngôn ngữ chung đó sẽ phản ánh ý nghĩa có tính lịch
sử của một hiện tượng văn học. Có một số thành tố cấu thành nên thứ Ngôn ngữ
chung đó: quan niệm về cái được coi là văn học và ý nghĩa của việc sáng tác văn
học, quan niệm về thể loại và lôgich phân chia thể loại đặc thù của mỗi thời đại.
Tất cả những điều đó có thể được biểu hiện dưới dạng những phát ngôn trực tiếp
của nhà văn (dưới dạng những lời tựa, lời đầu sách, những cuộc trả lời phỏng vấn,
hồi ký...), sự định danh thể loại của chính anh ta đối với tác phẩm của chính
mình nhưng đồng thời cũng thể hiện qua một loạt những yếu tố cận văn bản và bao
quanh văn bản: những cuộc tranh luận văn học, những bài phê bình báo chí... Vấn
đề ở đây là người nghiên cứu không được dừng lại ở việc mô tả những tư liệu thực
chứng mà phải chỉ ra được lôgich chi phối sự vận động của những hiện tượng. Trước
một tác phẩm như “Giấc mộng con", một truyện phiêu lưu huyễn tưởng, Tản Đà
định danh thể loại bằng cái tên “mộng ký"- ghi chép lại một giấc mộng- một
cái tên ít nhiều gợi nhắc đến văn học quá khứ. Công việc của các nhà nghiên cứu
không phải là chỉ ra “Giấc mộng con" là ký hay tiểu thuyết mà là nhận thấy
một sự giằng xé trong tư duy nghệ thuật của Tản Đà, một nhà Nho sáng tác văn chương
trong buổi bình minh của thời Hiện đại. Một mặt, ông bắt đầu ý thức về vai trò
của hư cấu, sáng tạo nghệ thuật, nghĩa là về văn chương như một hành vi sáng tạo
tự do của cá nhân nghệ sĩ nhưng mặt khác, trong ông, sự ám ảnh của tư duy nghệ
thuật truyền thống mà trong đó vai trò của nhà văn gắn với vai trò của người
chép sử, ghi chép, biên soạn và phẩm bình các sự kiện hiện thực vẫn còn hiện diện.
Ở một bình diện rộng hơn, có thể thấy, trong toàn bộ giai đoạn giao thời nhát cắt lớn nhất phân chia hệ thống thể loại văn xuôi nghệ thuật là nhát cắt giữa Ký và Tiểu thuyết (chỉ văn xuôi tự sự nói chung, không phân biệt truyện ngắn hay tiểu thuyết) mà nguyên lý chi phối là ý thức về vai trò của hư cấu trong tác phẩm văn xuôi nghệ thuật. Điều này phản ánh toàn bộ sự rạn nứt của tư duy văn học truyền thống và sự hình thành một tư duy nghệ thuật mới khẳng định sự tồn tại mang tính độc lập và có tính nghệ thuật cao của văn học. Như vậy, việc khảo sát những dấu hiệu của tư duy nghệ thuật đặc trưng của một thời đại sẽ cho phép không chỉ nhận ra ý nghĩa đích thực của một thể loại trong lịch sử, ẩn sau sự phức tạp của hệ thống tên gọi thể loại, đồng thời, cho thấy cả những quy luật chi phối sự vận động của một giai đoạn văn học. Đặc biệt, khi ý thức rằng giai đoạn giao thời là giai đoạn tái cấu trúc nền văn học mà nòng cốt của quá trình vận động là sự phân chia, sự định hình, những mầm mống khởi đầu thì sự khảo sát tư duy nghệ thuật lại càng cần thiết.
Ở một bình diện rộng hơn, có thể thấy, trong toàn bộ giai đoạn giao thời nhát cắt lớn nhất phân chia hệ thống thể loại văn xuôi nghệ thuật là nhát cắt giữa Ký và Tiểu thuyết (chỉ văn xuôi tự sự nói chung, không phân biệt truyện ngắn hay tiểu thuyết) mà nguyên lý chi phối là ý thức về vai trò của hư cấu trong tác phẩm văn xuôi nghệ thuật. Điều này phản ánh toàn bộ sự rạn nứt của tư duy văn học truyền thống và sự hình thành một tư duy nghệ thuật mới khẳng định sự tồn tại mang tính độc lập và có tính nghệ thuật cao của văn học. Như vậy, việc khảo sát những dấu hiệu của tư duy nghệ thuật đặc trưng của một thời đại sẽ cho phép không chỉ nhận ra ý nghĩa đích thực của một thể loại trong lịch sử, ẩn sau sự phức tạp của hệ thống tên gọi thể loại, đồng thời, cho thấy cả những quy luật chi phối sự vận động của một giai đoạn văn học. Đặc biệt, khi ý thức rằng giai đoạn giao thời là giai đoạn tái cấu trúc nền văn học mà nòng cốt của quá trình vận động là sự phân chia, sự định hình, những mầm mống khởi đầu thì sự khảo sát tư duy nghệ thuật lại càng cần thiết.
Cùng với việc khảo sát tự sự
nghệ thuật trong giai đoạn giao thời trên bình diện tư duy nghệ thuật, chúng
tôi đặt vấn đề mô hình hóa toàn bộ những phương thức tự sự trong tự sự nghệ thuật
giai đoạn giao thời. Công việc mô hình hóa bắt buộc phải sử dụng những công cụ
của những thành quả của Tự sự học, một khoa học nghiên cứu tự sự bắt nguồn từ
chủ nghĩa cấu trúc. Trong quá trình mô hình hóa, chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh
hai điểm: nguồn gốc và ý nghĩa của các cấu trúc tự sự. Đứng về nguồn gốc, giai
đoạn ba mươi năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn tái cấu trúc một nền văn học hiện đại
trên cơ sở diễn ra đồng thời cả hai quá trình: đổi mới nghệ thuật truyền thống
và du nhập bản địa hóa mô hình ngoại lai. Chính bởi vậy, trong cùng một khoảng
thời gian ngắn, sẽ thấy “đồng hiện" cùng lúc nhiều mô hình tự sự có nguồn
gốc khác nhau. Dễ thấy, trong những “tiểu thuyết", những tác phẩm tự sự cỡ
lớn dấu vết của các mô hình truyện Nôm và tiểu thuyết chương hồi kết hợp với những
mô hình tiểu thuyết phiêu lưu, tiểu thuyết bợm nghịch phương Tây thế kỷ XVII,
XVIII. Trong địa hạt của những thể tự sự ngắn có sự hiện diện đồng thời của tiểu
truyện ghi chép tiểu sử nhân vật, truyện ngụ ngôn, đối thoại truyền thống với
những mô hình mang dấu vết của truyện ngắn phương Tây. Nguồn gốc của những mô
hình tự sự nói trên có thể chứng minh được thông qua đối chiếu đặc điểm thi
pháp tự sự đồng thời thông qua việc khảo sát nguồn gốc học vấn và ảnh hưởng văn
hóa của nhà văn. Tuy nhiên, điều cần nhấn mạnh là sự biến dạng và tác động lẫn
nhau của cả truyền thống văn học bản địa và những ảnh hưởng ngoại lai [7] . Ở một
phía khác, chúng tôi đề xuất việc tìm kiếm tính nội dung của hình thức ẩn sau mỗi
cấu trúc hình thức, đặc biệt là các cấu trúc thể loại. Đây cũng chính là một
tiêu chí đánh giá vị trí của một tác phẩm trong tiến trình văn học sử. Một ví dụ
điển hình: hình thức tự sự ngôi thứ nhất của tiểu thuyết “Tố Tâm". Thực tế
thì tự sự ngôi thứ nhất không phải là một hình thức nghệ thuật hoàn toàn mới mẻ.
Trước Hoàng Ngọc Phách, từ cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Trọng Quản cũng đã sử dụng
hình thức tự sự này. Trong tiểu thuyết của ông, câu chuyện được phân tán vào lời
kể của ba nhân vật dưới những hình thức khác nhau (lời kể trực tiếp, thư, nhật
ký) không những thế, trong kết cấu tự sự, thường xuyên có sự giao cắt (thông
qua lời kể) giữa không gian sự kiện và không gian tâm trạng của nhân vật. Đồng
thời, trong “Tố Tâm", sự xử lý thời gian cũng có sự gia tăng hướng cá thể
hóa. Vấn đề ở đây không phải chỉ là làm đảo lộn trật tự tuyến tính của cốt truyện,
dù bản thân điều đó cũng là một dấu hiệu của sự cách tân mà quan trọng hơn nếu
đối chiếu thời gian của cốt truyện (temps du histoire) với thời gian của diễn
ngôn tự sự (temps du récit) sẽ thấy sự biến dạng của thời gian cốt truyện trong
văn bản tự sự. Sẽ có những đoạn tỉnh lược thời gian hoặc dồn nén nhiều sự vào
trong một dung lượng văn bản hạn chế để tăng tốc độ trần thuật. Toàn bộ những
thủ pháp nghệ thuật này được kết hợp trong một cấu trúc tự sự thống nhất mà chủ
âm là phương thức tự sự từ ngôi thứ nhất. Đó là dấu hiệu của một phương thức tiếp
cận hiện thực hoàn toàn mới mẻ: từ những cảm giác hiện tồn của con người cá
nhân. Nó khác với mô hình tự sự truyền thống với sự ghi chép hiện thực từ khoảng
cách sử thi, trong tính hoàn tất của hiện thực (tương ứng với cái nhìn siêu cá
thể của thơ trữ tình [8] ). Và kể từ “Tố Tâm", dẫu tự sự từ ngôi thứ ba vẫn
tồn tại như một hình thức phổ biến nhất của tự sự nghệ thuật thì trong phương
thức tự sự này đã có những biến đổi về bản chất so với tự sự từ ngôi thứ ba kiểu
truyền thống. Như vậy, tham vọng của chúng tôi là muốn làm tiếp chính điều mà
Chủ nghĩa hình thức còn treo lại: nối lại liên hệ giữa phạm trù hình thức và phạm
trù nội dung.
Không chỉ dừng lại ở những
mô hình hình thức, chúng tôi còn muốn tiếp tục đi sâu những khảo sát về Cái được
biểu đạt trong tự sự nghệ thuật giai đoạn giao thời. Theo định hướng của phản
ánh luận mácxít hiện đại, chúng tôi muốn thay thế việc tìm kiếm hình ảnh của một
thực tại xã hội cho trước trong tác phẩm văn chương bằng việc tìm kiếm cấu trúc
bề sâu của những tình cảm xã hội ẩn sau lớp vỏ hình ảnh, chi tiết, đề tài của
tác phẩm. Từ đầu thế kỷ, cùng với sự phát triển của tự sự dài bằng chữ quốc ngữ,
ở những tác giả như Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoàng Mưu, Hồ Biểu Chánh, Đặng Trần Phất,
sẽ thấy xuất hiện một mô hình tự sự gắn với sự lưu lạc và cảm giác lưu lạc của con
người trong thế giới hiện tại. Đặt trong hệ thống tổng thể của văn xuôi, nếu
liên hệ với những truyện luân lý của Nguyễn Bá Học, với loại truyện xã hội ba
đào ký của Nguyễn Công Hoan trên «An Nam tạp chí», đặt mục tiêu sáng tác hoặc ở
một cái nhìn mang tính phủ nhận tuyệt đối hiện tại từ điểm nhìn của luân lý
truyền thống, hoặc ở việc miêu tả thuần túy những cảnh đời, có thể nhận thấy một
tình cảm ẩn đằng sau tất cả những chủ đề đề tài đó: cảm giác xao động của con
người Việt Nam trước thời Hiện đại. Thế giới bắt đầu hiện lên trước con người
như một thế giới không còn hiểu nổi mà đứng trước nó, hoặc người nghệ sĩ chỉ
còn biết chối từ nhân danh những giá trị truyền thống hoặc lấy việc miêu tả
trung thực như thật làm mục đích duy nhất. Tuyệt đối hóa miêu tả trên một
phương diện cũng là một thể hiện sự bất lực trong việc nhận thức thế giới. Tiểu
thuyết mới chứng minh hết sức sinh động điều này. Và trong một thế giới mà con
người không còn có thể hiểu nổi, trong một thế giới mà con người bị đặt trước
những ngã ba đường của các giá trị thì cảm giác phổ biến là cảm giác lưu lạc.
Cái bi kịch vừa háo hức trước thế giới hiện tại, vừa vỡ mộng và lạc loài trong
chính nó cũng là một cảm thức phổ biến trong tự sự nghệ thuật và thơ Tản Đà.
Theo chúng tôi, đó là những cảm thức của một xã hội đang đầy lưỡng lự trước các
quá trình hiện đại hóa.
Như vây, dự án khoa học của
chúng tôi là mong muốn xác lập một cách tiếp cận mang tính tổng thể một hiện tượng
văn chương. Chúng tôi muốn nối lại những mối liên hệ giữa bình diện nội dung và
bình diện hình thức của tác phẩm, giữa hệ chỉnh thể của văn chương với hệ chỉnh
thể của văn hóa, xã hội. Nếu đặt trong một thời điểm cách đây một thập niên, một
dự án như vậy là khó có thể thực hiện được do những hạn chế về lý thuyết và tư
liệu. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện nay, với những bước tiến về lý thuyết và khảo
cứu tư liệu như chúng tôi đã trình bày ở trên, dự án đó hoàn toàn có tính khả
thi. Thực chất chúng tôi chỉ làm công việc nối dài thêm chiều dài của những con
đường từ những cánh cửa đã mở.
[1] Nguyễn Thanh Sơn,
Truyện ngắn Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1932, luận án Tiến sĩ bảo vệ tại Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội I, Hà Nội, 2001.
[2] Cao Thị Xuân Mỹ, «Quá
trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX»,
luận án tiến sĩ bảo vệ tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ
Chí Minh, 2001.
[3] Nguyễn Hoành Khung, Ngô
Văn Phú, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thanh Sơn (sưu tầm tuyển chọn), «Tuyển tập truyện
ngắn đầu thế kỷ XX», NXB Hội nhà văn,1999.
[4] Theo chúng tôi, đến lúc cần
phải làm một cuộc tổng đối chiếu giữa cái gọi là văn học hiện thực ở Việt Nam với
chủ nghĩa hiện thực châu Âu để từ đó thấy được những điểm đặc thù của cái gọi
là văn học hiện thực ở Việt nam.
[5] Trong văn học các nước
nói tiếng Pháp, chỉ có sự phân biệt giữa Roma (tiểu thuyết), conte (truyện kể)
và nouvel (truyện ngắn), trong văn học các nước nói tiếng Anh là nouvel (tiểu
thuyết) và short story (truyện ngắn).
[6] Vấn đề tư duy nghệ thuật
của nhà văn trong giai đoạn giao thời đã được chúng tôi bước đầu giải quyết
trong luận văn Thạc sĩ lấy tên «Sự hình thành và quá trình định hình thể loại
trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam giai đoạn giao thời (trên cứ liệu khu vực
văn học Bắc Kỳ» bảo vệ năm 1998 tại Khoa Văn học, Trường ĐH KHXH&NV.
[7] Xin xem bài viết của
chúng tôi «Sự thẩm thấu của một số mô hình tiểu thuyết phương Tây vào thực tế
Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX» công bố trên Tạp chí Hội nhà văn tháng 6 năm
2002.
[8] Xin xem Trần Đình Sử, «Những thế giới nghệ thuật thơ», NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001.
Nguồn: Kỷ yếu Hội nghị
các nhà khoa học trẻ Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.
Phạm Xuân Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét