Cái kính
Một hôm, cách đây chừng 7, 8 tháng, có người bạn hỏi tôi:
- Tại sao anh không đeo kính?
- Làm sao tôi phải đeo?
- Tuổi anh bây giờ là phải đeo rồi chứ còn sao nữa. Không đeo,
đến lúc mắt hỏng nặng, không nhìn thấy gì đâu!
Từ lúc người bạn đó ra về, mắt tôi tự dưng mờ hẳn. Nhìn gần
nhìn xa đều không rõ nữa.
Lâu nay tôi vẫn thầm mong cho tóc chóng rụng, cho trán hói
đi. Rồi đeo thêm chiếc kính vào cho ra dáng trí thức. Vì tôi cho như thế là dấu
hiệu của một anh trí thức. Ngay như anh bán thịt bây giờ mà để trán hói và mang
kính vào, tôi cho trông cũng không khác gì giáo sư đại học! Nhưng cái mơ ước ấy
của tôi không thực hiện được, vì tóc tôi mỗi ngày một dày thêm. Thế thì ít ra
tôi cũng nên sắm cái kính mà đeo vậy. Ai nhìn thấy tôi, người ta phải bảo: bác
học đấy!
Vậy là tôi đi khám đốc tờ. Khám xong, ông này bảo tôi:
- Anh bị cận thị! 1,75 đi-ốp!
Theo đơn ông ta dặn, tôi sắm một cái kính. Nhưng cứ động đeo
vào là tôi thấy mặt mày sa sầm, buồn nôn không chịu được. Thậm chí có lần, nói
vô phép các bạn, tôi nôn thật! Nôn thốc nôn tháo, nôn ra cả mật xanh mật vàng.
Không đeo thì không nhìn thấy gì, mà đeo thì tuy nhìn thấy được, nhưng lại bị cảm
giác buồn nôn. Thật đúng là khổ!
Một ông bạn khác thương hại bảo tôi:
- Tôi có thể giới thiệu với anh một ông bác sĩ giỏi. Anh hãy đến
ông ta khám xem!
Ông bác sĩ này xem mắt tôi, rồi xem chiếc kính.
- Thằng cha lang băm nào cho anh đơn mưa cái kính này thế? Có
phải anh bị cận thị đâu!
- Thế tôi bị làm sao ạ?
- Viễn thị! 2 đi-ốp!
Tôi lại mua kính mới. Đeo chiếc kính này tôi không còn thấy
chóng mặt buồn nôn nữa, nhưng lúc nào cũng bị chảy nước mắt. Đâm ra mắt tôi lúc
nào cũng đỏ hoe; như khóc ai vậy. Tôi bị cái cảm giác thương xót rất lạ. Cặp
kính này chỉ có đeo để đi đưa đám là hợp.
Một ông bạn thân tỏ vẻ ái ngại cho tôi:
- Thế này thì cậu đến mù mất! Cậu phải đi khám bệnh viện nhà
nước xem sao! ở đấy họ khám cẩn thận. Lại có giáo sư nhãn khoa nữa, chứ không
như mấy ông bác sĩ tư!
Bệnh viện nhà nước quả là có khác thật: máy móc nhiều, mà dụng
cụ cái gì cũng sáng loáng.
Tôi được một giáo sư khám. Tôi kể cho giáo sư nghe cái bất hạnh
của tôi:
- Người thì bảo tôi là cận thị, người thì bảo là viễn thị!
Giáo sư giận lắm:
- Quân ngu! Anh không phải cân thị, cũng không phải viễn thị,
mà là loạn thị!
Theo đơn của giáo sư, tôi mua đôi kính khác. Cặp kính này tôi
đeo vừa lắm, trông cái gì cũng rõ. Phải mỗi tội bây giờ cái gì như cũng lùi hẳn
ra xa. Mấy bức tường trong căn buồn tôi sống hàng chục năm nay dường như bị lùi
xa đến hàng ba chục thước. Tôi giơ tay chực bắt tay người quen, nhưng không sao
với tới được. Định viết, giấy đã chạy xa khỏi tay đến hai thước. Nhìn vật gì
cũng thấy bé tí xíu. Người thì chỉ bằng hạt đậu ván... Nhưng hại nhất là tôi
không ăn uống gì được. Vì vừa ngồi vào bàn là đĩa thức ăn đã chạy đi xa hai chục
thước rồi. Mùi súp nóng bốc ngay dưới mũi, nhưng cứ cầm thìa chực múc, thì bát
súp đã ở cách xa hàng hai mét! Tôi không ăn uống cử động gì được nữa. Một anh bạn
phải dắt tay tôi đến một bác sĩ khác tốt nghiệp ở Mỹ về. Khám xét cẩn thận xong
ông ta bảo tôi:
- Đứa nào cho anh đơn mua cái kính này đây? Đúng là đồ lang vườn
dốt nát! Anh cứ kiện lên phòng công tố cho nó bỏ mẹ!
- Thôi! Cứ để thánh Ala trừng phạt hắn! - Tôi nói.
Tôi lại thay kính mới. Bây giờ mắt tôi nhìn cái gì cũng hóa hai. Nhà tôi đang bảy người, bỗng nhiên thành mười bốn. Mỗi người lại có một
người giống hệt mình. Thật tôi chưa bao giờ thấy chuyện lạ như vậy. Chả lẽ lại
có những người giống nhau đến mức độ như thế hay sao? Vô lý quá! Nhìn xuống
chân thì thấy bốn chiếc ủng, nhìn bàn tay thì thấy có mười ngón!
Tôi đến một ông bác sĩ khác. Ông này học ở Đức về.
- Ai bảo anh đeo kính này?
- Làm sao ạ?
- Sai chứ còn sao nữa!
Hoá ra một mắt tôi bị viễn, còn mắt kia thì cận. Vị danh y mới
lại ghi cho tôi chiếc kính khác. Bây giờ tôi không phân biệt được sáng tối nữa.
Xung quanh tôi tối như hũ nút.
- Đứa dốt nào ghi cho anh chiếc kính này vậy hả? Mắt anh hoàn
toàn bình thường, có làm sao đâu?
- Nhưng tôi không thấy gì cả! Tối cứ như bưng ấy!
- Thế là anh bị quáng gà thôi, chứ chẳng có làm sao hết!
Lại uống thuốc, lại tiêm, lại kính mới... Bây giờ các vật ở
xa trông lại hoá gần. Chân đáng lẽ leo lên tàu thuỷ, thì lại bước ngay xuống biển...
Vì tàu chưa cập bến, nhưng trông cứ như đã ngay sát bờ. Không còn viên bác sĩ
nào trong tỉnh là tôi chưa mò đến! Ông này bảo mắt phải tôi cận, mắt trái viễn
thì ông khác nói ngược lại. Ông trước kêu bị loạn thị thì ông sau phán là bị đục
nhân mắt. Đeo kính của cái ông bảo tôi bị đục nhân mắt, thì cái gì cũng xa màu
xanh cả. Có ông còn đoán tôi bị chứng mù màu. Nhìn phía trước nhìn sang bên,
nhìn xa nhìn gần, cái gì cũng biến thành hai, màu sắc lẫn hết. Đi trên đường thẳng
mà tôi có cảm giác như bước xuống cầu thang, mỗi bậc cách nhau hàng bốn năm chục
phân. Tôi cứ phải bước từng bước dài như lạc đà vậy.
Một lần, đang đi trên cầu, thế quái nào tôi bước hụt một cái,
ngã lăn quay xuống dưới. Vì cứ tưởng những bậc cầu thấp hơn đến một mét. Cái
kính bị văng đi làm tôi không nhìn thấy gì nữa. Cái gì cũng mờ mờ ảo ảo. Người
ta đỡ tôi dậy:
- Cái kính của tôi đâu rồi? - Tôi hỏi.
Họ tìm thấy kính đưa cho tôi. Tôi đeo kính vào thì... Thánh
Ala ơi!... Mọi vật bỗng trở nên sáng sủa rõ ràng quá! Vật nào đúng vật nấy, rõ
mồn một! Rõ như chưa bao giờ tôi có thể nhìn rõ vậy. Hay kính của người khác chăng?
Không! Đích thị kính của tôi đây mà! Đúng gọng sừng to màu đen đây! Tôi sướng
không sao tả được! Bây giờ thì đừng hòng tôi bước chân đến một anh bác sĩ mắt
nào nhé! Tôi đã đọc được cả mấy dòng chữ nhỏ nhất trên báo và nhìn rõ cả tên
chiếc tàu thủy đậu tít ngoài xa. Tôi đi về nhà, lòng vô cùng sung sướng.
- Kính của anh sao thế kia? - Vợ tôi hỏi.
- Làm sao?
Tôi bỏ kính ra xem. Ngón tay thò qua được cả lỗ gọng! Té ra mắt
kính đã bị vỡ rơi mất rồi mà tôi không biết.
Y là điệp viên cỡ thượng thặng. Tên tuổi của y, ngay từ khi y
còn sống, đã được ghi vào lịch sử tình báo thế giới. Quãng năm dài hoạt động ở
phương Đông đã cướp đi của y nhiều sức lực, nhưng không vì thế mà trông y mất vẻ
điển trai rắn rỏi. Nhà nước đặt toàn bộ hy vọng vào người điệp viên OX-13 của
mình, coi y là niềm tự hào của ngành tình báo quốc gia.
Một ngày nọ, OX-13 được phái sang Thổ Nhĩ Kỳ để thực hiện một
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.
Trước khi đi hoạt động ở một nước nào, công việc đầu tiên của
OX-13, tất nhiên là phải học tiếng nói của nước ấy. Năng khiếu ngoại ngữ của y
quả là có một không hai. Kinh nghiệm cho y thấy rằng, học ngoại ngữ tốt nhất là
học trên giường, nên OX-13 quyết định cưới một người vợ bản xứ để hoàn thiện
thêm tiếng Thổ của mình. Việc chọn một cô gái thích hợp đối với y không phải là
điều khó khăn. Ngay cả cái điều kiện hóc búa mà bố mẹ vợ đưa ra, bắt chàng rể
tương lai phải theo đạo Hồi, y cũng vượt qua một cách dễ dàng. Vốn là một người
có tư tưởng dễ dãi và bình đẳng đối với các vấn đề tôn giáo, nên y đã dũng cảm
chịu đựng một phẫu thuật khá nguy hiểm cho một người ở vào lừa tuổi y, để đang
là Risa Vêlinh, y có thể biến thành Rêsát Vêli.
Chỉ sau chưa đầy 2, 3 tháng, tiếng Thổ của OX-13 đã có thể
coi là tuyệt hảo.
Vậy là cuối cùng, y đã tự thiết lập xong cho mình một vị trí
vững chắc trên đất nước xa lạ và tạo được những điều kiện hết sức thuận lợi để
hoàn thành sứ mạng mà người ta giao phó cho y ở xứ sở này. Nhưng chính vào lúc
đó, trong cuộc đời y đã xảy ra một biến cố bất ngờ. Chắc các bạn cũng biết, nhiều
khi một môi trường mới mẻ hay một hoàn cảnh xa lạ có thể làm cho con người bỗng
thay đổi hẳn. Đối với OX-13 cũng vậy. Việc chuyển theo đạo Hồi, việc cưới vợ Thổ,
về việc chung sống với những người Thổ làm cho trái tim đá, ý chí sắt và thần
kinh thép của y đột nhiên trở thành mềm yếu. Chuyện đó thoạt nghe có vẻ khó
tin, nhưng sự thực lại hoàn toàn đúng như vậy. Có thể, cái bầu không khí ấm áp
chân thành bao bọc xung quanh Rêsát Vêli đã làm cho lòng y trở nên hiền dịu.
Trách nhiệm của nghề tình báo bắt đầu làm y thấy nặng nề khó chịu: y cảm thấy
chán ghét cái công việc lén lút chống lại những con người dễ thương và tốt bụng
ấy. Y tự nhủ sẽ đến đầu thú tại cơ quan phản gián Thổ Nhĩ Kỳ, sẽ thú nhận hết mọi
chuyện với họ, rồi muốn ra sao thì ra!... Y đã chuẩn bị tất cả với ước vọng duy
nhất là làm sao thoát khỏi cái trò chơi mà y đang vướng vào, để được sống yên ổn
hạnh phúc trong cái tổ ấm gia đình, bên cạnh người vợ yêu và những con người
trung thực đáng mến.
Thế là y quyết định đi thực hiện ý định đó.
Rêsát Vêli bước vào một tòa nhà lớn. Chẳng hề đắn đo, y gõ cửa
căn phòng đầu tiên mà y gặp, rồi đứng ngay tại ngưỡng cửa, y báo ngay cho một
viên chức ở đó biết rằng: Y, Rêsát Vêli, hay Risa Vêlinh, hay OX-13, chính là
gián điệp của nước ấy nước ấy, và được phái sang đây để tiến hành một nhiệm vụ
đặc biệt.
Danh tiếng của đại cường quốc quả là có một tác động kỳ lạ đối
với người viên chức nọ: vừa nghe thấy cái tên ấy, anh ta không còn chú ý gì đến
hai tiếng "gián điệp" nữa, mà vội vàng đứng phắt dậy, cúi rạp người
trước Rêsát Vêli, kính cẩn tự giới thiệu tên tuổi và chức vụ của mình.
- Rất hân hạnh được quen biết ngài! Xin mời ngài ngồi! - anh
ta nhắc lại với giọng đầy xúc động.
Không! Rêsát Vêli quả là không nhầm khi nghĩ về cái dân tộc
đáng quý này! Ngay cả với một tên gián điệp họ vẫn tiếp đón với nụ cười niềm nở!
Y rút thuốc lá ra mời người viên chức, đoạn ngồi xuống ghế và bắt đầu nói:
- Tôi là điệp viên OX-13. Tôi được phái sang đây với mật danh
là Risa...
- Thưa, chúng tôi có thể giúp gì cho ngài? - người viên chức
nhã nhặn ngắt lời y - Ngài cần gì ở chúng tôi ạ?
Rêsát Vêli chưng hửng:
- Nhưng tôi là... gián điệp mà! - y do dự kéo dài giọng.
- À, tốt lắm!... - nhân viên nọ suy nghĩ - Chắc ngài muốn làm
việc cho chúng tôi phải không ạ? - rồi không đợi trả lời, anh ta nở một nụ cười
đon đả nói tiếp - Vậy xin mời ngài lên tầng 2, phòng 228 ạ!
Tại phòng số 228, người ta nghe Rêsát Vêli một cách hết sức
chăm chú, rồi cuối cùng hỏi y:
- Thế nhiệm vụ của ngài là gì?
- Đặt mìn gây các vụ nổ ngầm - Rêsát Vêli đáp.
- Bộ phận của chúng tôi hiện nay đã được bổ sung đầy đủ. Trong
thời gian tới chắc cũng chưa có chỗ khuyết. Nên rất tiếc chúng tôi không thể bố
trí cho ngài việc gì được!
Nhà tình báo nổi tiếng, vốn là người hết sức bình tĩnh, nghe
thấy thế bỗng cảm thấy thần kinh của mình không còn được bình thường nữa. Y nói
như hét:
- Nhưng tôi đã nói với các ngài rằng tôi là một điệp viên! một
tên gián điệp!...
- Tuyệt lắm! Nhưng ngài muốn gì ở chúng tôi? Ngài muốn chúng
tôi che chở cho ngài ư?
- Nhưng tôi là một điệp viên nước ngoài! Chả lẽ ở đây không có
ai giải quyết vấn đề của tôi cả hay sao? - rồi bằng một giọng run run, Rêsát
Vêli nói tiếp - Tôi sẽ khai hết tất cả các điều bí mật!
- Á, à! Thế thì lại là chuyện khác! Nếu vậy xin ngài quá bộ
leo lên một tầng nữa, sau đó rẽ tay phải, rồi đi theo hành lang đến căn phòng
cuối cùng. ở đó người ta phụ trách các vấn đề nổ mìn.
Rêsát Vêli leo lên tầng 3.
- Thưa ngài, tôi là nhân viên tình báo...
Viên quan chức ngồi ở bàn thậm chí không thèm ngẩng đầu lên.
- Ai bảo ông đến đây?
- Không ai cả, tôi tự đến...
Viên quan chức tức giận rời mắt khỏi đống giấy tờ:
- Tôi hỏi, ai chỉ cho ông đến phòng tôi?
- Ở phòng 228 người ta cho tôi biết là ngài phụ trách vấn đề nổ
mìn.
- Vâng, đúng rồi! Nhưng nổ mìn cũng có nhiều cách khác nhau.
- Tôi chuyên về phá cầu.
- Đấy! Ông thấy chưa? Nếu thế thì lại không thuộc bộ phận
chúng tôi! Mìn là mìn, mà cầu là cầu chứ!...
- Thế thì tôi phải đến gặp ai ạ?
- Gặp ai ấy à? - viên quan chức suy nghĩ một lát rồi đáp - à,
phải rồi! Ông hãy lên tầng 4, ở đó họ sẽ chỉ dẫn cho!
Khoảng 10' sau, Rêsát Vêli đã ngồi trong một căn phòng khác
và đang trình bày. Người ta nghe y rất chăm chú rồi hỏi y:
- Ngài chuyên làm nổ các loại cầu gì?
Nghe hỏi thế Rêsát Vêli cảm thấy như chính mình cũng sắp bị nổ
tung.
- Sao? Chả lẽ các ngài không biết có những loại cầu gì nữa hay
sao?
- Chúng tôi biết. Cầu thì có cầu đá, cầu bê tông, cầu gỗ...
Nhưng mỗi loại cầu chúng tôi có bộ phận nghiên cứu riêng.
- Nếu vậy, tôi chuyên về cầu bê tông - Rêsát Vêli thú nhận.
- Nếu thế thì ngài đến nhầm chỗ rồi! Ngài phải lên tầng năm,
phòng số 501 cơ! ở đó họ phụ trách vấn đề của ngài.
Sau khi nghe Rêsát Vêli trình bày, viên quan chức phòng 501
suy nghĩ một lát rồi cầm lấy máy điện thoại.
- Bẩm ngài!... Có một người đến chỗ chúng tôi tự xưng là điệp
viên và khai ra biết làm nổ các cầu bê tông. Xin ngài cho biết phải xử trí với
anh ta thế nào ạ? Dạ... dạ! Bẩm vâng ạ! Và với vẻ hài lòng, anh ta quay sang
Rêsát Vêli, lúc này bỗng thấy hy vọng là chuyện của mình sẽ được giải quyết - Tốt
nhất là ngài hãy làm theo lời khuyên của cấp trên chúng tôi và hãy tìm gặp ngài
Hasim.
Ngài Hasim chăm chú lắng nghe từ đầu đến cuối câu chuyện của
Rêsát Vêli rồi hỏi:
- Xin lỗi, ngài có thể cho biết ngài phá nổ cầu bằng phương
pháp gì không ạ?
Rêsát Vêli nóng bừng mặt:
- Nhưng... bằng phương pháp nào thì các ngài cần gì phải biết?
- Xin ngài hãy bình tĩnh...! E... hèm! Ngài bảo ngài là một điệp
viên mà ngài lại dễ xúc động quá!... E... hèm... Chắc ngài cũng biết rằng ở chỗ
chúng tôi người nào thần kinh không vững thì không thể làm việc được... Tại sao
tôi hỏi ngài như thế? Là vì đặt thuốc nổ có dây cháy chậm rồi châm ngòi là một
chuyện, còn gài mìn giờ, hoặc mìn điều khiển theo cự ly lại là chuyện khác! Mỗi
cách chúng tôi có bộ phận phụ trách riêng...
- Tôi có thể sử dụng cả hai cách! - Rêsát Vêli cáu tiết quát -
Tôi là điệp viên! Các ngài có hiểu không? Một điệp viên ngoại hạng! Tôi biết
làm tất cả! Các ngài rõ chưa?
- Nếu vậy, đó không phải vấn đề chúng tôi phụ trách! Xin mời
ngài xuống tầng một, phòng thứ ba, bên phải cơ ạ!
Tuy đã gần như tuyệt vọng, nhưng Rêsát Vêli vấn kể lại từ đầu
đến cuối. Giọng y đã uể oải, chán nản. Viên quan chức cửa phòng ba, bên phải, tầng
một, vừa nghe y nói, vừa đổi chân luôn luôn, ra chừng khó chịu. Y đã đứng lên mặc
áo măng tô, chốc chốc lại liếc nhìn đồng hồ.
- Tốt lắm, ông bạn thân mến ạ! Mọi việc rõ cả rồi. Nhưng sao
ông đến muộn quá vậy? Giờ làm việc hết mất rồi! Văn phòng đã đóng cửa. Mà chuyện
của ông lại rất quan trọng và đòi hỏi mất nhiều thời gian!...
- Nhưng có phải lỗi tại tôi đâu! Suốt ngày tôi cứ bị người ta
đuổi đi hết phòng này đến phòng khác.
- Ồ, ông bạn ạ! Tôi rất hiểu ông. Nhưng ông cũng phải hiểu cho
tôi chứ! Là hết giờ làm việc mất rồi!
Rêsát Vêli há hốc mồm. Nhưng viên quan chức đã bước ra phía cửa.
- Thôi, xin lỗi ông bạn! Ngày mai thế nào ông cũng đến nhé!
Nhưng nhớ đến sớm một chút đấy!
Rêsát Vêli, tức Risa Vêlinh, cũng tức điệp viên trứ danh
OX-13, vừa mệt mỏi lê bước trên phố vừa miên man suy nghĩ: "Thế là rút cuộc
ta không thoát khỏi cái trò chơi quái gở này... Lại phải tiếp tục cái công việc
quái gở... Và hơn nữa, lại ở cái đất nước cũng hết sức quái gở này!...".
Quê ta vạn tuế
Nếu cậu tin những chuyện sau đây là thật thì tớ cũng coi như
một người đã chết - anh ta nói.
Chúng tôi tựa lưng vào tường ngục sưởi nắng. Viên coi tù
Darưpoócxôn chắp tay sau đít đi qua mặt chúng tôi ra vẻ muốn nói rằng hai tay hắn
đã đáo lên những ngọn đồi kia.
- Thế thì ai mới là người sống? Cái gì chả thế - tôi đáp - cậu
phải cảm ơn trời đất mới phải. Có những người còn cơ cực hơn chúng ta nhiều ấy
chứ. Thôi vui lên, còn cái xác là may rồi!
- Đâu có thế, ông bạn, - anh ta phản đối - không còn ai có thể
cơ cực hơn được. Phải khẳng định là tớ đã không còn tồn tại nữa. Bây giờ thậm
chí tớ cũng không thể giải thích cho cậu được... Cậu có nhìn thấy tớ thật,
nhưng cái đó chẳng nghĩa lí gì: tớ vẫn cứ là đã chết rồi, tớ không còn tồn tại.
Đầu tiên tớ biết là tớ không còn nữa vào lúc tớ 12 tuổi. Trước đó ở quê tớ
không có trường công. Năm đó nhà nước công bố bảng chữ cái và những nhà có học ở
quê tớ quyết định phải đưa con vào trường công. Bố tớ tự cho mình là người có học
thức nên cũng muốn tớ vào đó. Thế rồi ông ấy cầm tay tớ dắt đi. Ông hiệu trưởng
đòi bố tớ cho xem giấy khai sinh của tớ.
- Chúng tôi chưa khai cho cháu - bố tớ nói - hay ông lấy giấy
của tôi vậy!
Tất nhiên là không được. ở trường Đavuđa Khôđji, học trò học
chữ cũ, không cần khai sinh.
Bố tớ cứ muốn tớ học trường mới...
Phải cầu cứu đến người làm đơn thuê ngồi trước phòng thị
chính. Sau đó cầm đơn vào phòng khai sinh... Một thầy ký nhận đơn, rồi rút ra
những sổ sách gì gì, sau đó lục mãi mới thấy phần ghi về bố tớ.
- Ông là Rêsít? - người ấy hỏi.
- Dạ phải - bố tớ đáp.
Thầy ký lần sách đọc những số liệu về bố tớ:
- Năm sinh 1897... quận Đêghimentep phố Tavaxbaga, số nhà cũ
là 51, mới là 28... Năm 1911 lấy vợ là Khađgiê. Sinh con trai là Êmin. Phải vậy
không?
- Đúng ạ - bố tớ đáp - Tôi muốn làm giấy khai sinh cho thằng
cháu Êmin. Tôi định cho cháu vào học trường công. Trước đây người ta không đòi
khai sinh.
Thầy ký nghi hoặc nhìn bố tớ:
- Cha nội ơi, khai sinh nào cơ? Con ông chết lâu rồi còn gì!
- Ấy chết, ngài nói vậy! - bố tớ sửng sốt - cháu nó đây, nó
đang đứng cạnh tôi mà.
Thầy đọc lại mấy hàng trong sổ:
- Ông là Rêsít?
- Đúng, Rêsít.
- Bố ông tên là Mêmét?
- Ông lấy vợ tên là Khađgiê, sinh con tên là Êmin.
- Hoàn toàn đúng. Đích thực là vậy. Và bây giờ tôi muốn khai sinh cho thằng cháu Êmin ấy đây.
- Hoàn toàn đúng. Đích thực là vậy. Và bây giờ tôi muốn khai sinh cho thằng cháu Êmin ấy đây.
- Thế là thế nào? Mọi cái đều đúng, mà riêng chuyện thằng Êmin
chết thì lại sai? Sổ ghi là nó chết, mà người chết thì làm sao lấy giấy khai
sinh được nữa.
Tớ khóc oà lên.
- Nín đi - bố tớ quát - có phải sổ ghi chết là mình phải chết
đâu mà sợ.
- Nhưng thầy ký bảo con đã chết rồi, hu...hu...!
- Kệ thầy ấy. Cứ nghe bố nói là đúng.
- Sổ đã ghi là không có bao giờ sai - thầy ký lý sự - đã ghi
là y như thực. Ông có mưu gì chăng. Tôi không làm đâu. Không ai đi cấp khai
sinh cho người chết rồi.
- Mưu gì là thế nào kia ạ? - bố tớ rụt rè hỏi.
- Nhà các ông bao giờ cũng lắm chuyện lắm - thầy ký đáp - ông
muốn mặc cả với người nhà nước đòi người chết ra người sống hả? Tráo trở thật.
- Vậy xin hỏi, cháu nó chết ngày giờ nào ạ? - bớ tớ hỏi thêm.
Thầy ký liếc sổ:
- Đại chiến thứ nhất nó bị đi lính. Năm 1915 hi sinh ở
Tranacal. Nó được xoá sổ vì có giấy báo tử của đơn vị số 331/85.
Bố tớ nổi đoá:
- Bẩm ông, ông nghe đây, ông xem lại sổ xem, tôi lấy vợ năm
1911 cơ mà.
- Phải - thầy ký đáp - có ghi: ông lấy vợ năm 1911.
- Thế cứ cho rằng con trai tôi sinh vào ngày cưới tôi đi, thì
năm 1915 nó mới có 4 tuổi. Làm sao trẻ con 4 tuổi lại đi lính và chết trận được.
Thầy ký bối rối, lão nhìn tớ, nhìn sổ, rồi nhìn bố tớ, rồi lại
nhìn sổ, cuối cùng kết luận:
- Thằng Êmin nhà ông sinh năm 1896. Vậy là khi chết nó 19 tuổi.
- Con tôi sinh năm 1896? - bố tớ hỏi lại - Thánh Ala phù hộ
cho ông, thế còn tôi sinh năm nào, ông xem lại sổ xem.
Thầy ký xem sổ.
- Ông sinh năm 1897. - lão nói.
- Ông ơi, ông chớ có nói rằng hoá ra tôi lại sinh sau con tôi
một năm cơ đấy?
Mấy thầy ký khác cùng phòng bước lại, nhưng không ai biết đằng
nào mà lần.
- Sổ đã ký như thế thì chịu - thầy ký của tớ bảo thế - Tất
nhiên, là có khiếm khuyết gì đây, nhưng chưa biết chỗ nào?
- Thưa các thầy - bố tớ bảo các thầy ký - có thầy nào ở đây đẻ
sau con mình không?
Một thầy sửng cồ:
- Đừng lôi cổ bố người khác vào chuyện của mình. Người chết
chúng tôi không cấp khai sinh, thế thôi!
Bố con tớ lên chỗ ông trưởng phòng khai sinh kể lại đầu đuôi.
Ông trưởng phòng theo bố con tớ xuống chỗ mấy cuốn sổ cái. Hai bên cùng xem lại
hồ sơ.
- Đúng hết - ông trưởng phòng nói - Sổ đã ghi thế. Con ông hy
sinh năm 1915 - Rồi ông lại ra chiều suy nghĩa, cuối cùng lại dứt khoát - Hẳn
là thế. Vợ ông nhiều tuổi hơn ông. Đúng là ông đã lấy một quả phụ. Bà có con
riêng tên là Êmin. Thẳng con ghẻ Êmin của ông hơn ông một tuổi, nhưng, sổ vẫn
ghi cho ông là bố.
Tớ khóc rống lên.
- Im đi, con - bố tớ giận dữ nói - Ai là người biết rõ bố của
con, ta hay là sổ?
Ngài trưởng phòng kính cẩn nói:
- Sao ông nói lạ thế? Rành rành đây còn gì nữa!
Dù bố tớ không biết đọc biết viết nhưng ông không thuộc hạng
người dễ dàng đầu hàng.
- Khađgiê, con gái ông Bêkia, sinh năm 1904 - ông trưởng phòng
đọc trong sổ.
- Vậy theo ông - bố tớ nói - vợ tôi sinh năm 1904, còn thẳng
con Êmin của bà ấy sinh năm 1896, phải vậy chứ gì? Ông nghe tôi nói này, có bao
giờ ông thấy con ra đời trước mẹ nó 8 năm không?
Theo cuốn sổ ấy thì tớ sinh trước bố tớ một năm và trước mẹ tớ
tám năm. Mẹ tớ lấy bố tớ năm lên 8 tuổi và sinh ra tớ 15 năm rồi mới đến hôn lễ.
Các thầy ký và ông trưởng phòng xúm quanh cuốn sổ, thảy đều
cúi đầu trầm tư mặc tưởng. Bỗng ông trưởng phòng nghĩ ra:
- Hẳn là thế này: trước đó bà Khađgiê đã lấy một đời chồng, người
chồng ấy có một đứa con riêng tên là Êmin. Đứa con ghẻ ấy của bà Khađgiê hơn bà 8
tuổi. Chồng chết, bà không bỏ rơi cậu nghĩa nam kia mà vẫn nuôi nó khi lấy ông
Rêsít. Thấy chưa, thằng Êmin hơn mẹ kế nó 8 tuổi và hơn bố dượng nó 1 tuổi.
- Đúng thế - thầy ký của chúng tớ nói - chỉ có thể là như vậy.
- Quỷ thật! - bố tớ phát cáu - Lại còn thế nữa! Vợ tôi lấy tôi
năm lên 8 tuổi, mà trước đó lại còn một đời chồng nữa?
- Hẳn chứ - ông trưởng phòng nói - làm sao khác được? Nếu nhà
ông giải nghĩa được đúng hơn, xin mời!
Tớ lại khóc.
- Làm gì mà gào lên thế con - bố tớ an ủi - Thôi, vào trường
Đavađa Khôđji mà học, thế là xong.
Nhiều năm sau, lúc tớ lớn lên, lại có chuyện.
Các cậu có thể tin được rằng người ta bắt tớ vào lính hay
không? Vì tớ chết rồi cơ mà. Tớ đã chết ở Tranacal rồi. Làm sao người chết còn
đánh nhau được? Nhưng bố con tớ không làm sao cho họ hiểu ra. Bọn cảnh sát tóm
được tớ dẫn đến bàn tuyển quân. Bố tớ cũng đi theo.
- Bẩm ngài, trong sổ đã có mục khai tử cho nó rồi đấy ạ. Cháu
nó có đâu. Nếu nó sống thật thì nó đã được cấp giấy khai sinh.
Bố tớ chưa kịp nói hết câu, lão trưởng ban đã gào lên:
- Sao, nhà ông muốn giấu thằng này khỏi quân dịch à?
Tớ bị đưa về đơn vị ngay tút suỵt. Thực ra, tớ cũng mừng. Như
thế nghĩa là tớ vẫn còn sống. Tốt quá. Rồi đến lúc mãn hạn. Bạn bè tớ được giải
ngũ, còn tớ không được cấp giấy cho về. Làm sao lại cho một thằng như tớ xuất
ngũ được? Muốn xuất ngũ phải có giấy nhập ngũ đã chứ. Mà tớ lại không có cái giấy
ấy. Đơn vị tớ người ta gửi lên ban quân ngũ xin giấy cho tớ. Chưa đầy một tháng
có giấy báo về: "Người mà các anh đòi xin giấy đã hy sinh năm 1938 khi thi
hành quân lệnh trong chiến dịch Đécxim."
- Người ta nhầm đấy - tôi nói với ngài sĩ quan chỉ huy đại đội
- không phải tôi chết ở Đécxim, mà là ở Tranacal cơ. Tốt nhất là ngài hỏi về
phòng khai sinh, ở đấy có đủ số liệu.
Tớ đã tốn bao nhiêu công sức để đi chứng minh rằng mình vẫn
còn sống. Không chứng minh thế, không giải ngũ được. Cuối cùng người ta cấp cho
tớ một tờ giấy in nói rằng tớ đã mãn hạn quân dịch và được thả về.
Đến nhà, tớ mới hay rằng bố tớ đã chết, nhưng ông ấy còn một
món nợ ngân hàng 5000 đồng vào 2000 đồng thuế nhà nước chưa trả. Mà tớ lại là kẻ
nối dõi tông đường duy nhất, tớ đành phải gánh nợ. Mấy ông phán sở tái chính
không cho tớ một phút nào yên tĩnh.
- Các ông ơi, tôi có còn sống đâu! Ông nào không tin cứ đến
phòng quân vụ mà hỏi. Đến đấy chưa tin xin hỏi tiếp đến phòng khai sinh. Người
chết làm sao trả nợ thay bố?
- Thế anh không phải là con trai ông Rêsít hay sao? Anh định
trốn nợ cha đấy hả?
- Không, tôi nào có trốn. Nhưng tôi chết thật rồi mà...
Chà! Giải thích thế nào được! "Muốn sao thì sao anh cũng
phải trả nợ cho cha!" Tớ đã định bụng không trả, nhưng bọn họ nói rằng còn
nợ thì chưa được thừa kế gia sản. Bố tớ lại còn một ít ruộng, một nhà ở và một
cửa hàng. Tớ bèn vay tiền trả nợ. Tớ nghĩ, được hưởng gia tài rồi tớ sẽ trả hết.
Lúc trả nợ thậm chí tớ còn thấy vui trong bụng. ít ra khi trả nợ người ta cũng
còn cảm thấy được rằng người ta còn sống. Nhưng đến cái khoản gia tài thì lại
khắc hẳn! Làm sao chứng minh được rằng tớ là con bố tớ? Lại phải khai sinh!
"Nhà anh chết rồi, sao còn thừa kế được gia tài? Mà anh còn chết trước bố
anh nữa ấy chứ."
- Người ta tuyên bố với tớ như vậy. Thế là tớ lại không chứng
minh được rằng tớ còn sống. Tớ bảo họ: "Thôi được, thế bây giờ tôi có đứng
trước mặt các ngài hay không? Các ngài có nhìn thấy tôi hay không đấy? Đứng trước
mặt các ngài là người thật hay tượng gỗ? Tôi có tòng quân không? Có trả nợ
không?"
- Những cái đó chẳng có nghĩa lý gì - họ bảo - Trước pháp luật
anh là kẻ chết.
- Nhưng tôi đã chết đâu - tớ cãi.
- Không chết, nhưng liệt hạng chết!
Tớ đâm đơn ra tòa. Tớ thuê thầy cãi. Trước tòa, luật gia bộ
tài chính phản bác tớ. Vì đại diện cho quyền lợi ngân khố quốc gia, lão ta khẳng
định rằng một khi bố tớ đã không có người thừa kế thì tài sản kia phải nộp ngân
khố. Lão cứ khăng khăng một lẽ: người thừa kế đã chết. Trạng sư của tớ nói rằng
tớ sống, còn lão ta thì rằng tớ chết. Cứ thế cãi nhau tùm lum. Luật gia bộ tài
chính đưa ra những giấy tờ hợp thức đến nỗi suýt nữa tớ cũng phải đồng ý và thừa
nhận rằng tớ chết thật rồi.
Vụ kiện kéo dài 2 năm. Không có giấy khai sinh tớ không xin
đâu được việc làm. Nợ nần ngập cổ, một hôm tớ điên đầu lên và nói lảm nhảm những
gì không nhớ. Tớ bị bắt và bị tống ngục. Tớ bảo: Này các người, sao lại bắt
tôi? Tôi chết rồi mà! Làm sao còn bắt người chết?
- Anh bạn ơi! Người chết thì sao lại nói được? Tán như ranh mà
kêu là chết rồi!
Các cậu thấy không? Bị vào tù, tớ lại thấy vui là khác. ít ra
trong lòng tớ còn loé lên một niềm tin rằng tớ vẫn sống.
Ra tù tớ lại thấy buồn vì mình chẳng được hưởng cái gia tài
kia. Các chủ nợ bắt đầu thúc ép. Tớ phủi tay chuồng đi Xtămbun, nhưng vẫn không
được đi làm. ở đó tớ gặp một cô gái và định cưới. Nhưng cưới sao được khi phòng
khai sinh chỉ cho giấy khai tử? Tớ đành sống ngoại hôn với nàng. Nhưng lấy gì
mà sống? Tớ đành tìm một người đứng tên để mở cửa hàng. Tớ là người chết thì
sao làm được chủ tiệm. Được một năm thì người đứng tên cuỗm tiền của tớ chuồn mất.
Tớ phải nộp thuế. Tớ tuyên bố rằng tớ chết rồi, nhưng ma nào tin.
Làm thế nào được? Tớ đành đi ăn cắp. Bị tóm, tớ bảo rằng:
"Trước pháp luật tôi là người chết.", nhưng không ai thèm nghe. Người
chết mà lại ăn cắp được! Đã ăn cắp được nghĩa là vẫn sống. Sự thể thế đấy: mày
muốn đi học, người ta bảo mày chết rồi, lúc có quân dịch mày là người sống, lúc
cần giải ngũ - lại chết, trả nợ cho bố thì sống, còn hưởng gia tài - mày có sống
đâu, nhưng cần bỏ từ thì mày lại sống.
Tớ cũng vui vì lại vào tù. Dù sao bây giờ trước mắt mọi người
tớ cũng hiện hữu, mặc dầu chính thức thì đã là chết. Nhưng tớ còn 4 đứa con,
chúng không ra sống cũng chẳng ra chết; trước pháp luật chúng chưa ra đời. Bố
chúng không có thì sao chúng ra đời được?... Thôi, còn 3 ngày nữa tớ ra tù rồi,
tớ sẽ lại không còn sống trước pháp luật nữa.
Viên cai ngục nâng coi lên miệng.
Tù nhân dạo chơi phải vào khám, chúng tôi cũng đứng lên.
- Cậu ạ - anh ta nói - trước pháp luật chúng ta không sống,
nhưng dẫu chúng ta có sống phỏng đã ích gì? Cái chính là làm sao đất nước hùng
cường phải không? Quê ta vạn tuế. Còn chúng ta, chúng ta không sống chăng, cũng
được.
Có nên làm bác sĩ không con?
Chúng ta thiếu thầy thuốc là thế, nhưng một số người vẫn phải
chạy sang Âu, sang Mỹ kiếm ăn! Thì ra có những nhà thông thái nửa mùa của chúng
ta muốn rằng các bác sĩ trẻ học ở nước ngoài trở về trước hết phải qua một kỳ
sát hạch rồi mới được hành nghề.
- Anh về nước làm gì? - một bác sĩ già, giàu kinh nghiệm, làm
giám khảo hỏi.
- Để làm việc, để chữa bệnh ạ.
- Hừm, tất nhiên... Ngoài ra anh còn biết làm gì nữa?
- Thế là thế nào ạ?
- Thế là thế, chứ còn thế nào nữa? Thí dụ, biết sáng tác nhạc,
làm thơ, đóng phim, buôn bán... Hay cũng có thể anh có khả năng làm nghị viện,
làm bộ trưởng, làm chính khách... Tất nhiên anh sẽ phải làm một việc gì như thế
chứ.
- Dạ, không. Cháu chỉ chữa bệnh thôi ạ. Cháu con nhà nghèo,
làm cho nhà nước lương không đủ ăn, nên cháu sẽ làm tư...
- Hà... hà... hà... Không có ham chánh, phó giáo sư mà đòi làm
tư? Thế lấy ai dẫn khách cho anh lúc đó?
- Tức là dẫn bệnh nhân ấy ạ?
- Phải, khách ấy mà...
- Chắc là bệnh nhân tự đến lấy...
- Làm sao bệnh nhân tự đến được?
- Nếu bệnh nặng thì có xe chở đến...
- Được rồi, vậy cái người chở bệnh nhân ấy tên là gì?
- Làm sao cháu biết được tên anh ta, anh ta đã chở cho cháu
bao giờ đâu.
- Tôi không hỏi tên riêng mà hỏi cái loại người chở khách bệnh
nhân ấy gọi là gì?
- Loại đó gọi là lái, như là lái buôn ấy... Đằng này là lái y
học. Như anh chẳng hạn, anh cũng không bao giờ gửi bệnh nhân phòng khám công đến
bác sĩ tư, phải không nào? Nếu không ai chỉ thì sao bệnh nhân đến chỗ anh được?
Một điều như thế mà ở nước ngoài người ta cũng không dạy anh hay sao? Thôi được,
bây giờ anh nói đi, thế nào là hữu ái nghề nghiệp?
- Là tương trợ lẫn nhau, phải không ạ?
- Thế là anh không biết rồi, để tôi giảng cho mà nghe. Giả dụ
bây giờ có người đến kêu với anh là bị bệnh trĩ. Anh khám xong rồi gửi đến cho
một người chuyên về phụ khoa...
- Người ta bị trĩ sao lại gửi đi phụ khoa?
- Bạn anh ăn tiền rồi lại gửi cho một người bạn khác chữa
răng...
- Nhưng...
- Tay nha sĩ ấy lại gửi đi da liễu, da liễu lại gửi đi chiếu
điện, chiếu điện lại gửi đi nhãn khoa. Cuối cùng hắn ta bị gửi đi thần kinh. Đến
lúc ấy thì thần kinh của hắn cũng suy sụp thật... Nếu hắn còn đủ cơm ăn nước uống
thì rồi tự hắn sẽ khỏi bệnh, nhược bằng không thì hắn sẽ chết và bệnh cũng hết.
Chết rồi hắn lại còn phải rơi vào tay thầy thuốc một lần nữa, đó là tay giải phẫu
lâm sàng. Thôi, bây giờ anh nói đi, anh phải làm gì để được nổi tiếng?
- Cháu sẽ cố gắng điều trị giỏi và sống có lương tâm...
- Hức!... Nghe đây! Anh phải lăng xê lên báo một câu quảng
cáo: "Người nghèo khám không lấy tiền. Hàng ngày khám sau bữa cơm
trưa." Khi khách đến hơi đông anh rút xuống chỉ khám thứ hai, thứ năm...
Sau đó mỗi tuần một lần, sau đó mỗi tháng một lần... Khi khách đã kéo đàn kéo
lũ mà đến thì anh thôi không khám suông nữa. Từ đó về sau anh cứ tăng dần tiền
khám. Người ta sẽ nghĩ rằng chắc anh phải có những bí quyết gì ghê gớm lắm thì
mới lấy đắt như vậy. Thế là tất cả bệnh nhân đổ xô đến... Sau đó anh lại phải
cho đăng báo những lời bệnh nhân gửi đến tri ân... Thôi, còn trường hợp này, nếu
một bệnh nhân đến mà anh không tìm thấy bệnh gì thì anh xử lý như thế nào?
- Cháu sẽ bảo rằng anh ta khoẻ...
- Chặc... chặc...! Thế mà cũng đòi làm bác sĩ! Chẳng lẽ trên đời
lại có người hoàn toàn khoẻ mạnh? Mà nếu như quả thật hắn ta không có bệnh gì
thì anh cũng phải cho hắn một cái đơn chữ rất ngoáy đến nỗi hắn không tài nào đọc
được rồi bảo hắn ra hiệu thuốc... Dù anh có viết trời đất gì đi nữa thì thằng
chủ hiệu rất tâm lý kia sẽ tìm ra ngay vô khối bệnh tật cho khách... Hừ, anh
càng viết mờ mịt bao nhiêu thì tờ hóa đơn lại càng rành mạch bấy nhiêu... Ngoài
ra anh lại phải thường xuyên viết báo về nhiều vấn đề khác nhau, chẳng hạn
"Bàn về chế độ thuê nhà", "Công tác bảo vệ rừng", "Đạo
đức người lái xe", "Vì sao người ta mất trí"... như thế là để
tên tuổi anh thường xuyên xuất hiện trên mặt báo và mọi người sẽ nói rằng: anh
ta hiểu biết ghê thật! Phải khéo léo làm sao sau này lên được chức thị trưởng,
tỉnh trưởng, nghị sĩ hoặc thậm chí bộ trưởng... Đó, ta nhìn thấy rất rõ rằng
anh không thể làm nổi bác sĩ đâu... Tốt nhất là anh nên quay lại chỗ anh mới học
bên Đức, bên Mỹ gì đó!
- Cháu xin cám ơn, chúc bác khỏe!
- Anh cũng khoẻ nhé, đừng có ốm đấy!
Không thể thành người
Trong bọn tôi chỉ cần có một kẻ nào đó hoài nghi kêu lên:
"Không thể được, anh em ơi, lũ chúng ta không thành người được!" là lập
tức mọi người gật đầu tán thưởng: "Đúng, chí phải, chí chí phải, không thể
thành người!..." Và không bói đâu ra một người phản bác: "Sao lại thế!
Phải tự trọng chứ!".
Hồi còn trẻ, có một lần, dạo ấy tôi vào quãng 25 tuổi, bầu
nhiệt huyết còn sôi sục, tôi đã cả gan chống lại luận thuyết đó.
Lần ấy tôi đi tàu thuỷ ra đảo Hoàng Nam. Trên tàu bỗng có một
người đàn ông đứng tuổi càu nhàu một mình, đến hung thần cũng không hiểu vì sao
tự nhiên lại thế.
- Xin lỗi các người, làm sao chúng ta có thể thành người được!
Mọi người có mặt trong phòng khách lúc ấy đều gật đầu đồng ý.
Riêng tôi thì nóng mắt cự lại:
- Sao lại không thành?! Còn thành thế nào nữa!... Dứt khoát là
thành!... Mà còn thành những người làm chấn động địa cầu là khác!
Mọi người trong phòng khách tưởng như ăn ý với nhau từ trước,
đồng thanh kêu ầm lên:
- Bậy nào, bậy nào, không thể thành người được!...
- Chúng ta còn lâu mới đuổi kịp thiên hạ!
-Chúng ta không thể thành người được!
Được mọi người hỗ trợ, ông già kia bớt nóng:
- Nghe thấy chưa, con?... Các vị đây đều nhất trí ủng hộ tôi đấy.
Như thế nghĩa là quả thật chúng ta không thành người được. Con xem, có ai buộc
các vị kêu lên thế đâu.
- Thành người!... Nhất định sẽ thành người! - tôi lặp lại.
Ông già cười nhạt:
- Đó, con vừa nói: "Nhất định sẽ thành người". Chữ sẽ
như thế nghĩa là trước đây và bây giờ chưa thành người chứ sao.
Từ bấy đến nay bao nhiêu năm trôi qua mà lúc nào tôi cũng băn
khoăn "Vì sao chúng ta không thành người được?".
Lần đi tù mới đây đã mở cho tôi đôi mắt: cuối cùng tôi đã tìm
ra câu đáp.
Trong tù tôi bị nhốt vào một khám lớn của tù chính trị. Quanh
tôi la cả một xã hội trí tuệ: các nhà doanh nghiệp nổi tiếng, các nhân sĩ lỗi lạc,
các ngài tỉnh trưởng, các quan đốc học, các cựu nghị sĩ, các chính khách xuất
chúng, các vị đại thần, các bậc kỹ sư, các bác sĩ danh vang toàn cõi. Hầu hết
những người này đều đỗ đạt tận Châu Âu, Châu Mỹ, đã từng xuất dương và biết đến
vài ba thứ tiếng.
Mặc dù cách nhìn đời của tôi và họ còn khác xa nhau, nhưng
trước hết là nhờ có họ mà tôi hiểu ra được rất nhiều điều về cái sự tại sao
chúng ta không thành người được.
Những ngày tiếp người nhà, tôi được nghe toàn những tin xấu:
lúc thì gia đình tôi không trả được tiền nhà, lúc thì chịu tiền ông chủ quán nước,
và biết bao nhiêu chuyện dằn vặt khác nữa. Tôi thấy nặng nề, ủ dột.
Tệ hơn nữa là tôi có mặc cảm tuyệt vọng.
Bấy giờ chỉ còn một lối thoát: phải lập tức ngồi viết tiểu
thuyết. May ra có một tờ báo nào chịu đăng tải thì tôi kiếm được ít tiền. Nội
dung cuốn sách đó tôi cũng đã thai nghén từ lâu.
Đã quyết là làm, tôi bèn đi kiếm một cây bút máy, một xấp giấy
rồi ngồi chéo khoeo trên giường mà viết. Không được lãng phí thời giờ! Phải chấm
dứt chuyện trò ba láp hoặc ngồi không nghĩ vơ nghĩ vẩn!
Chưa viết được 10 dòng thì một vị phạm nhân, đều óc sáng láng
đến gần tôi:
- Chúng ta không thể thành người được! - vị ấy tuyên bố ngay -
Quyết không, quyết không!
Tôi nín im.
Rồi ông ta kể lể dài dòng và cặn kẽ về cuộc sống ở 2 nước đó.
Tôi phát rầu rĩ vì bị quấy quả đột nhiên, nhưng biết làm sao được. Thỉnh thoảng
tôi đưa mắt nhìn xuống, cố ý cho ông ta hiểu rằng tôi rất bận và mong ông ta đứng
dậy. Than ôi! bạn tôi nào có biết phán đoán. Ông ta cứ thế mà nhớ đâu rồi đấy:
- Bên ấy anh sẽ thấy không ai không cầm sách vở. Một người Thuỵ
Sĩ hoặc một người bỉ có được vài phút rỗi rãi là họ mở sách ra ngay. Đi ô tô,
đi tàu hoả, chỗ nào cũng đọc. Mà giá anh thấy họ trong nhà cũng thế! Lúc nào
cũng đọc, đọc và đọc...
- Chà, ghê thật, ghê thật! - Tôi ngắt lời ông ta với hy vọng
ông ấy tha cho tôi nhờ.
- Ghê hẳn đi chứ lỵ! - ông ta nói tiếp - Còn bây giờ anh cứ thử
nhìn những người quanh đây xem. Ai cũng nhận mình là trí thức mà không có ai cầm
sách cả. Không, bạn thân mến của tôi ơi, chúng ta không thành người được.
- Ông nói quả đúng - tôi đồng ý.
Tôi vừa nói thế, ông ta liền hăng tiết lên gấp 2 lần và lại
tiếp tục câu chuyện người Bỉ người Thuỵ Sĩ đọc sách mọi nơi mọi lúc.
Đến giờ ăn trưa. Chúng tôi cùng đứng lên.
- Chúng ta không thành người được. Bây giờ anh đã rõ vì sao
như thế chưa? - Ông ta hỏi.
- Rõ - tôi đáp.
Thế là tôi mất đứt nửa ngày để nghe một bài giảng về lòng hiếu
sách của người Thuỵ Sĩ và của người Bỉ.
Nuốt vội vàng mấy hạt cơm trưa tôi lại leo lên giường viết
sách. Tờ giấy trên đầu gối, cây bút trong tay, tôi vừa ngồi vừa nghĩ.
Chưa viết được một chữ lại một người quen bước đến:
- Anh làm gì vậy?
- Tôi viết tiểu thuyết.
- Ở đây viết không ra cái gì đâu. Anh này ngộ thật!... Anh đã ở
Châu Âu lần nào chưa!
- Không, tôi chưa bao giờ ra khỏi đất Thổ.
- Tiếc quá! Thế thì anh phải đi Châu Âu mới được. Sống bên đó,
được tận mắt nhìn thấy mọi vẻ sinh hoạt là điều rất thú vị. Những chuyến đi ấy
làm con người mở rộng được tầm mắt. Tôi đã đi hầu khắp Châu Âu, có lẽ không nước
nào không đặt chân tới. Lâu nhất là thời kỳ tôi ở Đan Mạch, Hà Lan và Thuỵ Điển.
ở các nước đó mọi người tôn trọng nhau hết sức. Thậm chí người ta không nói to
để khỏi phiền người bên cạnh. Còn ở nước ta, anh xem! Muốn thủng hai màng nhĩ!
Có lúc tôi muốn chợp mắt một tý, muốn đọc hoặc viết một tý, tôi thiếu gì việc
phải làm hả anh, thế mà cũng không được. ồn như chợ vỡ thế này anh không viết
tiểu thuyết được đâu. Không thể viết được.
- Ồn như chợ vỡ tôi cũng viết được. Tôi chỉ không viết được
khi bị người khác lải nhải bên tai mà thôi.
- Bạn thân mến ơi, nhưng được yên tĩnh thì thích hơn biết mấy.
Có phải thế không? Mà họ có quyền gì quấy rầy anh kia chứ? Họ có thể nói nhỏ được
quá chứ lỵ. ở Đan Mạch, Thuỵ Điển, Hà Lan không có ai bất lịch sự như thế bao
giờ. Dân chúng người ta tân tiến vì biết tôn trọng lẫn nhau.
Ông ta cứ nói lảm nhảm hết chuyện này chuyện khác, lôi ra
trăm thứ dẫn dụ để minh họa cho trình độ lịch thiệp và giáo dục của người Châu
Âu.
Tôi cúi xuống mặt giấy và bắt đầu viết. Nói đúng hơn là tôi
làm ra bộ viết. Hẳn như thế là bất nhã nhưng tôi còn biết làm sao khác được?
- Đừng hoài công vô ích - ông bạn lại nói - không viết được gì
đâu. Viết thế anh chỉ làm hỏng đầu óc. Nước Thổ chứ có phải là Châu Âu đâu. Anh
có biết một người dân Châu Âu thì phải thế nào không? Trước hết là phải có lòng
tôn trọng người bên cạnh mình. Còn ta thì sao? Bạn thân mến của tôi ơi, chính
là vì lẽ đó mà chúng ta không nên người được đâu. Không, chẳng thể nào được!
Chắc ông ta chưa chịu kết thúc ngay, nhưng may quá, luật sư của
ông ta đến cứu nguy cho tôi.
Sợ rằng lại có người khác đến ám, tôi cùi gằm hẳn mặt xuống.
Vừa viết được 2 dòng, lại một ông bạn cùng xà lim bước đến.
- Chúc anh thành công! - ông ta nói.
- Cám ơn bác - tôi đáp.
Ông ta ngồi xuống giường tôi nói:
- Còn xa chúng ta mới thành những người chân chính!...
Tôi không hé răng nửa lời hòng chặn đứng câu chuyện ngay từ
khởi thuỷ.
- Anh đã sang Mỹ bao giờ chưa? - ông ta hỏi.
- Chưa.
- Tiếc thật! Anh được ở đó vài tháng anh sẽ hiểu ngay vì sao
chúng ta lạc hậu thế này. Người Mỹ đâu có như ta, họ khôn thích tán gẫu. Bên họ
có câu: "Time is money." "Thời gian là tiền bạc". Người Mỹ
chỉ đến với anh khi có việc. Họ nói vài câu cần thiết rồi đi làm việc khác. Còn
nước Thổ ta thì sao? Cứ lấy chúng ta mà xem. Chúng ta đang làm gì? Tán dóc chứ
sao. Tán hết ngày này qua tháng khác! ở Mỹ như thế thì đừng có hòng. Chính vậy
mà họ tân tiến.
Tôi thở dài liên tiếp, lòng thầm mong ông ta hiểu cho là tôi
rất bận và ông ta đi đi cho rồi. Nhưng ông ta cứ tiếp tục khoa đại ngôn như chẳng
hề hám chuyện gì cả.
Đến giờ ăn tối. Trước khi cáo lui ông ta bảo:
- Chúng ta không thành người được. Đúng thế. Cứ cái lôi sa đà
trò chuyện thế này thì chẳng có bao giờ nên người.
- Bác nói thật chí lý - tôi đáp.
Khoắng vội cho xong bát cơm, tôi quay về làm việc. Tiểu thuyết!
Phải viết tiểu thuyết!
- Cái chính là phải lao động. Những việc khác là phụ - tôi bỗng nghe có tiếng người nói.
Ngẩng đầu lên tôi tháy một bạn cùng khám đứng cạnh.
- Theo anh thì sao? - anh ta hỏi và ngồi xuống giường bên.
- Ai dám tranh luận chuyện đó? Lao động cần quá đi chứ - tôi
đáp.
- Bố mẹ tôi giáo dục tôi theo tinh thần nước Đức...
Tôi giận đến tím ruột.
Còn anh bạn thì sôi nổi tiếp tục:
- Tôi tốt nghiệp trường li-xê Đức ở Xtămbun rồi sang Đức học đại
học, sau đó tôi ở lại làm việc bên ấy nhiều năm. Người Đức chả có ai ăn không
ngồi rồi cả. Còn bên ta thì thế nào? Cứ lấy tất cả những người trong khám này
ra làm bằng mà xem. Không. Không, chúng ta không thể thành người được. Còn lâu
chúng ta mới là những người chân chính!
Tôi hiểu ra: ban ngày người ta không cho tôi viết tiểu thuyết.
Cố viết, tôi chỉ giết chết thần kinh của mình mà thôi. Bây giờ chỉ còn nước đợi
đến đêm cho mọi người đi ngủ cái đã.
Anh bạn không mời mà đến của tôi lại thao thao về đất nước Đức.
- Ở Đức mà ngồi không ăn bám là điều sỉ nhục. Người Đức dù bị
số phận xua đuổi đến đâu đi nữa cũng không bao giờ chịu ngồi bó gối, thế nào họ
cũng phải tìm được một việc gì đó mà làm. Một lẽ đương nhiên là không thể không
lao động được. Còn đây là một dẫn chứng phản diện: chúng ta đã nằm đây mấy
tháng rồi, thử hỏi có ai làm gì hay không? Đụng đến chuyện ấy là người ta lấy
làm lạ: trong tù thì làm gì được! Một người trí thức nước Đức sẽ không nói vậy.
Ông ta sẽ ngồi viết hồi ký, viết báo, lo nghĩ công việc của mình hoặc đọc sách
báo, tóm lại, ông ta không có chơi bời phí phạm. Còn chúng ta thì sao? Anh muốn
nói gì thì nói, chúng ta không thể thành người được.
Đến tận nửa đêm anh ta mới về. Bây giờ có thể làm việc được rồi.
Không còn ai đến ngồi quấy phá và lên lớp cho tôi về chuyện để lý do khiến
chúng ta không nên người được.
Chao ôi, tôi đã lầm to: lại có người đến. Người này dã lăn lộn
nhiều năm bên Pháp. Ông ta khe khẽ thì thầm sợ phiền đến giấc ngủ mọi người.
Theo lời ông, người Pháp là người biết làm việc ra trò, nghỉ ngơi và vui chơi
ra trò, dân tộc đó không bao giờ lẫn lộn thời gian làm việc với thời gian nghỉ
ngơi. Rồi ông ta khuyên tôi không nên làm việc quá nửa đêm như thế.
- Bây giờ anh đi ngủ ngay đi, sáng mai đầu óc tỉnh táo anh lại
tiếp tục viết. Bên nước ta mọi thứ cứ lùng chùng với nhau: lao động, nghỉ ngơi,
giải trí, không cái gì ra cái gì cả. Lúc nghỉ thì mình làm việc, giờ làm việc
mình lại muốn nghỉ. Đấy cứ bảo tại sao chúng ta không biết làm việc cho có năng
suất. Không bao giờ chúng ta thành người được đâu. Không bao giờ!
Lúc ông ta đi thì tôi cũng không còn sức để viết được nữa. Hai mí mắt tôi cứng lại. Tôi lăn ra ngủ vùi.
Sáng hôm sau tôi dậy thật sớm, lúc chưa ai dậy, và lại bắt
tay vào việc.
Có một người cùng khám mà tôi rất kính nể vừa đi ngoài về.
Thấy tôi ông ta bước lại.
- Mọi thứ ở bên Anh không có như ben ta - ông nhận xét - Anh đã
ở bên Anh bao giờ chưa?
- Chưa ạ.
- Anh cứ hình dung như anh đang ở bên ấy và đang đi tàu. Người
cùng phòng với anh suốt nửa ngày không thèm nói câu nào. Bên ta mà thế thì lại
bảo: "Cái thằng kênh kiệu! Mặt lạnh như tiền!" Nhưng đó có phải tại
người ta lạnh lùng và kênh kiệu đâu, đó là người rất có ý thức và rất tế nhị.
Biết đâu anh không thích nói chuyện với người ta thì áo. Cơn cớ gì mà người ta
làm phiền đến anh! Còn bên ta thì sao?... Anh ta có quen anh hay không, anh
đang bận hay đang rỗi, mặc! Anh ta cứ mở miệng tán phét. Chính vì thế mà chúng
ta chẳng bao giờ thành người được cả.
Tôi vò nát tờ giấy trên đầu gối, quẳng xuống gậm giường và
nhét bút vào túi.
Thế là hết!... Thế là tiêu tan cái mộng tiểu thuyết của tôi.
Phải, trong tù tôi không viết được gì cả. Nhưng mà tù đã mở ra cho tôi một chân
lý trăm ngàn lần quý hơn cuốn sách thai nghén kia. Tôi đã hiểu ra vì sao chúng
ta không thể thành người được.
Bây giờ chỉ cần một người nào đó đứng bên tôi bảo rằng:
"Không chúng ta không thể thành người được!..." thi lập tức tôi giơ
tay hô lớn:
- Tôi biết lý do rồi!
Tôi trưởng thành hẳn lên.
Phải ho lao mới được
Chúng tôi lấy nhau, sự thể là như vậy... Con người khi lấy vợ
rồi thì phải làm gì? Thì anh lấy vợ làm gì, một khi còn chưa biết điều gì đáng
phải làm? Bây giờ thì tôi biết rõ lắm rồi! Người ta lấy vợ xong, việc đầu tiên
là phải có than cho mùa đông. Tôi bèn đi hỏi bạn bè xem làm việc đó thế nào?
- Ô hô! - họ nói - Anh đừng hòng mua được.
- Sao lại thế?
- Anh không thể nào mua được chứ sao nữa!
- Nhưng tôi có quyền cơ mà! Ôi, Ala!
Tất cả những kẻ nào bảo tôi: "Cậu đừng hòng mua
than" đều được tôi lên lớp cho một bài ra trò về quyền công dân!
Tôi đến nhà trưởng phố. Sau khi chờ 10' cho ông lão dứt cơn
ho, tôi hỏi:
- Cụ ủng hộ phe nào ạ?
- Phe dân chủ! - Ông cụ làu nhàu nói.
- Hay lắm! Cháu cũng ủng hộ phe dân chủ - tôi đáp - Cháu ở phố
nọ, số nhà nọ, cháu muốn mua than. Cụ giúp chúng cháu với.
- Thế là từ trước đến nay anh mua than ở đâu?
- Cháu đã mua than bao giờ đâu. Đây là lần đầu tiên cháu định
mua đấy.
- Thế đầu đuôi làm sao mà anh lại đến đây?
- Thưa cụ, cháu vừa mới cưới vợ. Trước kia thì cháu thế nào
cũng xong. Bây giờ cháu muốn mua than để đôi chim trong tổ uyên ương chúng cháu
được sưởi ấm vào mùa đông.
Anh mang giấy chứng nhận nơi ở cũ của anh và của vợ anh đến
đây.
Thế là các điện khẩn, điện hoả tốc, điện kèm cước phí trả lời
bay đi tứ tung, và một tháng rưỡi sau chúng tôi nhận được giấy chứng thực. Lần
này trưởng phố bảo:
- Anh phải viết đơn cho sở phân phối than.
Chúng tôi nộp đơn. Họ đưa cho tờ giấy bảo là để trưởng phố điền
vào. Nào ai bảo là tôi không mua được than nào?!
Chúng tôi cầm tờ giấy. Trưởng phố điền vào. Chúng tôi lại
mang đến sở phân phối than. Cần một chữ ký! Thế là xo...o...ong! Giờ thì cứ để
họ xem tôi có mua được than hay không? Chữ ký có đây rồi. Phải, thưa các ngài,
dân ta là cứ muốn mọi thứ kề sẵn miệng cơ! Bảo là "cho tôi một tấn
than" rồi muốn người ta để than cho ngay lập tức cơ! Như thế mà được à!
Đây có phải quầy bán thức ăn đâu! Đến quầy bán thức ăn cũng phải xếp hàng đợi đến
lượt nữa là! ở đây lại có ngần ấy công thức, họ phải có việc gì mà làm chớ. Lại
cần thêm một chữ ký nữa...
Khi đã lấy đủ các chữ ký, viên công chức ngồi tận bàn ngoài
cũng mỉm cười hỏi:
- Than à?
- Vâng! Than ạ! - tôi xác nhận.
Nụ cười của viên chức công càng nở thêm ra:
- Ra anh muốn mua than đấy.
Tôi vốn ưa những người vui tính. Và tôi đáp, cố mỉm cười như
viên công chức niềm nở vui tính này:
Không biết các bạn có để ý thấy hầu hết các công chức của
chúng ta đều có bộ mặt nhăn nhó không? Thế mà viên công chức này thì lại vui
tính cười sằng sặc. Ông ta cười tướng lên:
- Thế nghĩa là than đấy!
Tôi cũng cười to gần như ông ta:
- Than, hẳn rồi! Than ấy mà!
Viên công chức lại càng cười khoẻ. Ông ta cười hô hố, còn tôi
thì sao, chả lẽ tôi đứng nhìn à? ừ thì tôi cũng cười. Khi người bạn đang tiếp
chuyện mình cười, lẽ nào anh lại nhăn nhó. Ông ta cười, và tôi cũng cười. Cứ thả
sức cho hai ta cùng vui.
- Thế ra, hahaha! Là than đấy! Haha! Haha!...
Một khi người ta đã đến cơn cười thì khó lòng mà nín lại được.
Tôi càng cười to hơn:
- Than!... Hahahaha!...
Chúng tôi ôm bụng mà cười đến chảy cả nước mắt. Chỉ thêm tí nữa
là tôi ngất đi mất.
- Ra là than à? Hahahaha!...
- Hahaha!... Than, hẳn đi rồi!...
- Thế thì không có.
- Sa...a...ao! Không có? Thế sao ông lại cười?
- Không có, thế nên tôi mới cười. Hahahaha!...
Bây giờ thì đáng lẽ tôi không còn cười được nữa, mà phải khóc
kia, nhưng tôi không kìm lại được. Chúng tôi cười vô hồi kỳ trận, cười không tự
chủ được nữa. Nhờ giời là họ đặt tôi ngồi xuống ghế, cho cốc nước, bóp má mấy
cái và cho ngửi nước đái quỷ. Khi hơi hồi lại, tôi hỏi:
- Thế là chúng tôi không mua than được à?
- Đến ngay bán cho các khách hàng quen chúng tôi cũng đã chật
vật lắm rồi, huống chi ông là người mới. Ông thì chẳng có đâu.
- Được rồi, nhưng lúc trời đông mưa rét thì tổ uyên ương của
chúng tôi sẽ ra sao?
- Ông có thể mua than với một điều kiện.
- Điều kiện gì?
- Nếu trong nhà ông có ai bị tê thấp, ông mang giấy chứng nhận
lại đây, chúng tôi sẽ bán cho ông một phần tư tấn.
- Nhà ta có ai bị tê thấp không? - tôi gào lên từ ngưỡng cửa.
Bà mẹ vợ vội đáp:
- Lạy giời, tìm được thuốc rồi à? Đã mười năm nay mẹ đến khổ
vì bệnh tê thấp. Chỉ có giời biết được là thế nào!
Bà mẹ vợ đã mở miệng thì còn đủ mọi chuyện... Vậy mà cũng có
khi bệnh tê thấp của bà mẹ vợ lại được việc đấy. Và chúng tôi lấy được giấy chứng
nhận.
Chà, nếu lần này mà tôi mua được than thì không hiểu tôi sẽ
làm gì với những kẻ bảo tôi: "Cậu không mua nổi than đâu!" Hừ, những
giống bi quan! Đang có người ốm thì ai lại đi bán than cho người khoẻ cơ chứ. Cứ
bị tê thấp đi, người ta sẽ bán than cho.
Tôi mang giấy chứng nhận đến.
- Giấy này không hợp lệ.
Hẳn họ nghĩ là giấy làm giả mạo.
Kể ra thì họ cũng có lý. Bây giờ thiếu gì các kỹ sư ẩm muội,
các bác học giả danh, các thầy kiện cãi láo, các bác sĩ giả hiệu: họ làm sao mà
biết được là bác sĩ thật hay giả đã cấp giấy chứng nhận. Vì thế nên họ đòi giấy
chứng nhận của nội đồng y khoa cấp. Không lẽ cả hội đồng là giả hiệu được!
Thủ tục xin giấy chứng nhận của hội đồng y khoa xem ra còn rắc
rối hơn việc mua than nhiều!
Đến đây thì đừng có tiếc công, cứ cậy cục đến cùng! Một tháng
sau, tôi lấy được giấy chứng nhận của hội đồng.
Tôi tóm tờ giấy và bây giờ mới yên lòng.
Tôi đem giấy cho họ.
- Rất đáng tiếc là... không được!
- Sao? Giấy chứng nhận đây mà!
- Giấy chứng nhận của ông là giấy chứng nhận có bệnh tê thấp.
- Thì chính các ông đòi giấy chứng nhận bị tê thấp mà. Giá các
ông có đòi giấy chứng nhận mắc bệnh ung thư thì chúng tôi cũng đem đến được.
- Trước kia chúng tôi có bán than cho người bị tê thấp, nhưng
nay than lại ít hơn trước nên chúng tôi không bán cho người bị tê thấp nữa.
- Nguy to rồi!... thế chúng tôi lấy gì mà sưởi tổ ấm uyên
ương?
- Nhà ông có ai bị lao không?
- Không!
- Không thì chúng tôi biết làm thế nào? Muốn mua than thì phải
bị ho lao mới được.
Hừ, tôi ghét những giống bi quan ấy làm sao! Họ bảo:
"người ta không bán than đâu.". Họ chẳng bán cho người bị ho lao đấy
là gì?
Các bạn cứ xem, nhờ giời, chúng tôi còn khoẻ mạnh sống qua được
mùa đông này, đến sang năm tất cả nhà sẽ được mua than cho mà xem. Vì nói gì
thì nói, chứ cứ sống ở chỗ lạnh lẽo không có gì sưởi ấm thì chắc chắn là được
ho lao rồi.
Tất nhiên là nếu đằng nào cũng phải bán than cho những người
bị ho lao thì giá cứ bán ngay cho họ trước khi mắc bệnh có phải tốt hơn
không... Không, như thế không được.
Mà nếu bao giờ chúng tôi bị ho lao, có khi họ lại sẽ bảo:
"Muốn mua than thì trước hết anh phải chết đi đã. Chúng tôi chỉ bán than để
đun nước lau rửa cho người chết thôi."
Thế mà có kẻ dám bảo: "người ta không bán than đấy".
Đã có sự qui định, có luật lệ đặt ra để thi hành. Nếu anh không chết đi thì họ
làm sao mà bán than cho anh được? Chuyến này tôi mua được than, tôi sẽ chở đến
và vãi ra trước mũi những kẻ nào bảo "Cậu đừng hòng mua than" cho mà
xem.
Xót tiền dân
Khách sạn gì mà xây lâu đến thế kia chứ!
- Chứ gì, ngần ấy thời gian thì xây được cả thành phố đâu phải
chỉ một khách sạn.
- Sao lại lâu thế nhỉ? Hay là ta chọn nhầm cách thầu khoán.
- Khách sạn này cũng có mấy nhà thầu nước ngoài xin việc không
hiểu sao các ông ấy lại ưng nhà này: cũng chẳng phải vì nhà ấy đòi ít, cũng chẳng
phải họ làm tốt các hợp đồng khác cũng chẳng phải vì họ chiều mình. Sự thể ra
sao tôi phải quan sát đã rồi mới dám nói.
Hóa ra là quan trên cũng nhiều mà cung cách cũng lắm: nào mở
tiệc ăn mừng, nào cắt băng khởi công, nào quan lớn tự tay đặt viên gạch đầu lấy
mau. Rồi chiêu đãi dưới trên, ăn một miếng, nhớ một đời, rồi báo chí rùm beng,
bài to, ảnh nhớn.
Một hôm có 3 chiếc xe con đò cạnh công trường. Nào phải ai xa
lạ, chính là các vị quan chức nước nhà bước xuống xem xét bề thế công trường.
- Sao hành lang lại hẹp thế nhỉ? - ngài trưởng nhóm hỏi.
- Bẩm quan, cái đồ án thiết kế nó vậy - người kỹ sư đáp, hành
lang đã rộng đến 5 mét...
- Chắc ông cho rằng chúng tôi không thấy cái khách sạn nào bao
giờ hẳn? Tôi đã ở các ô-ten ngoại quốc, hành lang của họ còn rộng nữa. Thôi được,
cứ cho rằng hành lang theo thiết kết đi, nhưng số lượng hành lang ít quá...
Khách sạn mà có mấy cái hành lang như thế. Không làm thì thôi, đã làm thì làm
ra làm. Tiền dân, tiền nước! Phải biết xót chứ...
Ông kỹ sư ngậm tăm.
- Còn các ông nghĩ thế nào? Khách sạn lớn mà có mấy hành lang
như thế chẳng phải là ít hay sao? - quan lớn hỏi bầy tùy tùng.
- Hơi ít, thưa ngài.
- Dạ bẩm ít ạ.
- Ít quá chứ ạ...
Và thế là hợp đồng với nhà thầu ấy bị hủy.
Trong lúc chờ giám định phân xử, bản thiết kế được thay đổi:
hành lang nhiều hơn, rộng hơn.
Việc thi công đồ án mới đang triển khai thì một bữa kia lại
có mấy chiếc xe con dừng bánh bên đường. Lại có mấy nhà đương chức đến nom việc.
Đi đầu là một ngài bệ vệ nhất. Vừa thấy cái lỗ cửa ra vào, ngài hỏi liền:
- Chỗ này làm gì đấy?
- Dạ, phòng khách đấy ạ - đại diện hãng thầu mới đáp.
- Phòng khách? Phòng khách quái gì mà thế này?
- Dạ bẩm, việc chưa xong mai kia chúng con lát đá, sơn tường,
kẻ hoa...
- Hiểu rồi, tức nghĩa là phòng khách chứ gì... Nhưng ta hỏi,
phòng khách có phải là nơi đấu ngựa không? Làm gì có phòng khách như bãi quần
ngựa ấy? Tiền dân, nghĩ mà xót ruột...
- Bẩm ngài, chúng con làm theo thiết kế...
- Lạy chúa, cái mà các anh gọi là thiết kế, nó không phải là
bài kinh Côran bất di bất dịch. Phải thay thiết kế, phải thay đi mới được.
Nhà thầu chịu nghe không dám ho he. Theo ý mới, các phòng
khách đều được thu nhỏ.
Công việc đang chạy thì một hôm lại có mấy quan phóng xe con
đến xem khách sạn. Ngài dương quyền dẫn đầu đội khảo hạch nói chung là vui,
nhưng lúc ra đến cửa, ngài mới nhìn lên trần băn khoăn hỏi:
- Thế không làm mái vòm, trần cuốn à?
Câu hỏi làm nhà kiến trúc sư trẻ tuổi bủn rủn đầu gối, anh ta
chết lặng đi mất mấy phút, bấy giờ mới đủ sức định thần để hỏi lại:
- Xin ngài thứ lỗi, con không hiểu, ngài định nói mái vòm, trần
cuốn thế nào ạ?...
- Đó mới là kiến trúc lối Thổ. Những người vào khách sạn sẽ là
khách nước ngoài, vì thế khách sạn phải theo lối Thổ ta... Anh xem nhà cửa nước
Thổ bao giờ lại không có mái vòm, trần cuốn.
- Nhưng thưa ngài, trong bản thiết kế...
- Thiết kế là cái gì? Nhờ nhà thầu nước ngoài làm thiết kế bao
giờ chả vậy. Họ biết gì về kiến trúc và tâm hồn ta nào?
Các quan tuỳ tùng cúi cả đầu xuống.
- Nhà thế này thì ai cần? Nhất thiết phải có mái vòm, trần cuốn.
Trông thấy tiền dân, tiền nước mà xót cả ruột!
Làm mái vòm trần cuốn cho cả nhà thì tổn phí quá, nhà thầu chỉ
dám theo tinh thần dân tộc ở một đôi chỗ dễ nhất.
Công việc xây cất đã đến lúc hòm hòm thì giới quyền chức lại
theo bánh xe con lăn đến. Ngài quyền cao đi trước buồn rầu nhận xét:
- Úi dà! Sao lại làm nhiều hành lang thế nhỉ... Phòng thì ít,
lối lại nhiều. ở đây dễ đến lạc như vào rừng... Thật xót tiền dân!...
Làm đi làm lại mãi chẳng còn biết thời hạn ra sao? Công việc
mịt mùng không dứt. Báo chí đã bắt đầu đưa đẩy. Muốn nhanh nhà thầu lại phải đổi
kiểu mái. Nhưng những cuộc tranh luận bất đồng lại nổi dậy. Dùng ngói gì bây giờ?
Ngói bản xứ hay ngói Mácxây. Cuối cùng phương án ngói bị đổ và mái được làm bằng
bê-tông thường.
Công việc gần xong thì bỗng bụi đường tung dưới bánh xe con.
- Thế gạch men đâu? Khách sạn thổ mà không có gạch men là thế
nào? - các quan khách kinh ngạc hỏi.
Sau đó mọi người vào phòng khách. Phòng khách không có một
cây cột. Ngài trưởng đoàn bảo:
- Ở đây không có cột, mà cột lại cần. Cầu trời cho mái đừng sập...
- Bẩm ngài an tâm, không sập được đâu ạ, chúng con đã tính.
- Đã tính? Đến lúc nó sập thì đem tính của các anh ra mà trừ
à?
Ngài quay lại đám sau lưng:
- Thế nào, các ông, trần sập được chứ?
- Bẩm, được ạ...
- Thế nào cũng đổ, nặng thế kia cơ mà? Lại còn đồ đạc trên ấy
nữa... Rồi người vào lại đông... Thế nào cũng đổ.
- Nổ như bom ấy chứ...
- Bao nhiêu là tiền vứt qua cửa sổ... Thật xót tiền nhà nước...
Các anh nghe không? Ai cũng bảo đổ... Thêm mấy cái cột có phải lại lạ kiểu...
Chiều ý mới, các phòng khách đã có thêm cột.
- Một ngài dẫn đầu một đoàn lãnh đạo khác đã biến dãy cột
vuông thành gạch vụn. Trong các sách giáo khoa thư ngài học hồi bé, ngài có thấy
những bức ảnh đền đài Hy Lạp toàn cột tròn cả, chứ không lai căng thế này. Tiền
nhà nước vứt ra cửa sổ thật là xót ruột.
- Bẩm quan, dễ như trở bàn tay thôi, chúng con sẽ có cột tròn.
Đến lúc tường ngoài đã chạm trổ hoa văn thì một quan lớn đến
thăm, trách cứ:
- Những công trình hiện đại người ta dựng mặt tiền bằng kính
chứ!
Cuối cùng rồi cũng đến lúc mọi việc coi là xong xuôi. Chỉ còn
một việc cuối cùng. Một ngài quan khác nhận xét rằng cầu thang dốc quá, người đứng
tuổi lên có phần mệt.
- Bẩm quan, còn thang máy. Vị nào trọng tuổi thì có thang máy.
- Nếu vậy thì xây cầu thang làm gì? Các anh chả biết xót tiền
quốc gia! Cầu thang cũng phải có ích chứ?
- Một kiến trúc trứ tác! Xứng đáng làm đại bản doanh Liên hiệp
quốc!
Gạch men mặt tiền và trên tường, mấy hành lang, mái vòm, trần
cuốn, chấn song sắt hình hoa kim hương, mái nhà có ô văng, những thứ đó hoàn
toàn theo tinh thần Thổ Nhĩ Kỳ. Ngược lại chóp mái lại theo đúng phong điệu Bắc
Âu. Những cầu vồng phòng khách mượn lối cung đình Thổ. Phòng khách chính giống
lối đại sản, thậm chí còn lớn hơn những đại sảnh Aten. Rồi lại còn những mẫu mực
xuất sắc của lối kiến trúc ý... Nhà tắm, nhà vệ sinh theo kiểu Mỹ. Rồi lối xây ấn
Độ, đường nét Trung Hoa... Tất cả cùng nhau chen vai thích cánh.
- Tuyệt! - nhà đại kiến trúc ngoại bang thốt lên - làm sao các
ông có thể đưa nổi mọi lối kiến trúc vào một lâu đài thế này.
- Chúng tôi xây đi xây lại cái trứ tác này suốt chín năm đấy!
Mà lại còn tằn tiện được bao nhiêu tiền dân! - ông chủ nhiệm công trình tự hào
đáp lại.
Thanh tra sắp đến
Sở chúng tôi có 29 thầy phán và gần 20 loong toong. Chắc hẳn
các bạn có nghe nói về hưu trí được hưởng nguyên lương. Tất cả mọi người chúng
tôi đều ra sức thực hiện câu châm ngôn đó. Không, chúng tôi không có ai bỏ việc
và trong giờ chính quyền mỗi người đàng hoàng một ghế... Có điều, thế có gọi là
là làm việc hay không thì chưa biết? Làm lụng quái gì! Tôi ở Sở này được 9 năm
mà không nhớ là có làm được việc gì hữu hiệu hay không. Xem chứng thượng cấp
cũng quên chúng tôi. Có chúng tôi hay không có chúng tôi điều ấy thượng quan
không cần biết. Đúng ra, cũng có một dạo Sở tôi làm việc. Một vị "tai to mặt
nhớn" có đến nhưng rồi biến ngay. Từ đó không hiểu sao chúng tôi bị trên
cũng quên mà dưới cũng chẳng nhớ. Tất nhiên, đúng lề đúng thói, thỉnh thoảng
cũng thấy dội từ trên xuống mấy cái thông tri, vài cái trát đòi. Nhưng đến một
hôm có trát đòi mà không có phục tín. Quan đốc Sở tôi, một người có đầu óc rất
mực thực tế, đã không thèm nhìn nhận đến trát đòi của quan trên nữa. Còn quan
trên thì cũng chẳng muốn quản ngại đến chúng tôi làm gì. Sở tôi muốn sao thì
sao, các vị phủi tay hết. Người ta quên chúng tôi, tựa hồ chúng tôi không có mặt
trên đời. Nhưng giải tán Sở này thì không ai nói đến nửa lời. Mà thực ra, làm
sao giải tán được một công sở quốc gia to tát như thế chỉ vì nó không đáp ứng mấy
cái trát đòi của quan trên?...
Cuộc đời quan phán từng ấy năm dài đã mở mắt cho tôi nhìn ra
được một chân lý. Tôi hiểu rằng ai làm nhiều, kẻ ấy bị tống thêm việc. Hy vọng
làm cho chóng xong, tên viên chức khốn khổ kia ra sức mà cố gắng, nhưng liền
ngay đó hắn bị giao thêm việc mới. Ngược lại, càng lười, càng thờ ơ, người ta
càng ít muốn giao việc. "Thằng ấy đù đờ, bất tài lắm". Còn anh nào cố
gắng thì tất nhiên người ta cũng càng cố gắng giao thêm nhiều việc. Xoay xở hết
việc này việc kia, thế nào chẳng có sai sót. Thế là anh chàng phát bực, tính
tình sinh ra cáu bẳn... ở đời bao giờ chả thế: làm nhiều thì có sai sót và tất
nhiên người ta càng dễ công kích. Con người không làm gì thì lỗi lầm không có.
Tâm hồn anh ta bao giờ cũng được thanh thản.
Các công sở cũng thế mà thôi. Chẳng hạn có hai cơ quan: bệnh
viện thú ý và sở hợp đồng thương mại. Sở này làm ăn tấp nập, ngược lại, bệnh viện
thú ý chẳng làm gì hết.
Thế thì sao, cuối cùng sự nghiệp thú ý nước nhà cũng chẳng
đình đốn chỉ vì cái bệnh viện ấy ăn không ngồi rồi. Các bạn hãy tin rằng hoàn
toàn không có chuyện gì xảy ra cả, chỉ có điều là những công việc dành cho bệnh
viện thú ý sẽ chồng chất lên vai cái sở hợp đồng thương mại rất năng nổ và mẫn
cán đó.
Có thể có người biết một công sở siêng năng nào đó đang phải
làm những phần việc của chúng tôi chăng? Cũng có thể chẳng ai làm thay chúng
tôi vì chẳng ai cần đến chúng tôi cả!
Cầu trời độ trì cho ngài quan đốc đã giúp cấp trên quên đi sự
tồn tại của lũ chúng tôi.
- Thế được rồi, nhưng cấp trên vẫn không quên trả lương các
anh đấy chứ?
- Khô... ô... ng! Việc đó chúng tôi giải quyết đến mức xuất sắc.
Người ta không thể quên chúng tôi được. Giá chúng tôi cứ bỏ lỡ đi một hai tháng
thì có lẽ người ta cũng quên thật. Nhưng tháng nào chúng tôi chả đi lĩnh lương.
Kế toán thì lên sổ sách, chúng tôi thì ký tên. Một đại diện đến sở tài chính
lĩnh tiền về chia. Nhân đây xin nói rằng ở Sở chúng tôi ký tên vào sổ đã được
coi là công việc nặng nhọc nhất. Nếu không có cái khoản chức phận đó thì có thể
cho rằng tiền lương ấy là tiền biếu không chúng tôi.
Các bạn có biết những ý nghĩ gì thường nảy ra trong đầu mỗi
khi tôi nghĩ đến Sở tôi, nơi tôi đã làm việc 9 năm hay không? Tôi thường tự bảo,
giá cấp trên không quên hẳn chúng tôi thì không hiểu công việc có nhích lên
chút nào hay không? Hay một trường hợp khác. Các bạn thử nghĩ, liệu có gì thay
đổi không, nếu cấp trên quên hẳn đi một vài sở nữa, như họ đã quên chúng tôi?
Trật tự trên trái đất liệu có bị phá vỡ không? Hay mọi sự vẫn như xưa? Hay biết
đâu công việc lại chạy hơn! Tôi rất khao khát biết những điều ấy.
Nhưng sự đời cái gì rồi cũng chấm dứt. Cuộc sống dông dài của
chúng tôi kết thúc khi quan đốc tôi về hưu và có ngài Xápphét về thay. Tôi chỉ
băn khoăn một điều: làm sao người ta biết được có cái ghế bỏ trống khi quan đốc
tôi về hưu? Không những người ta biết mà còn cử được quan đốc khác đến ngồi cái
ghế ấy! Thế mà trước đây tôi cứ tưởng rằng viễn cảnh cuối cùng của Sở tôi là lũ
chúng tôi lần lượt xếp bút về hưu, không còn ai đến thay chỗ chúng tôi nữa. Rồi
cùng với thầy phán nào về hưu cuối cùng, cả cái sở này sẽ nhắm mắt yên giấc
vĩnh hằng.
Bây giờ thì hoá ra quan trên không quên hẳn chúng tôi, một
khi còn cử được về một quan đốc mới! Ngài Xápphét lập tức hăng hái bắt tay vào
việc. Việc đầu tiên là ngài khiển trách bác làm vườn, anh thường trực, cậu
loong-toong và bác gác cổng.
Đúng 9h sáng ngài đến sở. Hiển nhiên là chưa ai đến. Không một
bóng người. Các bạn nghĩ xem, mới 9h sáng!... Có ai đi làm giờ này? Tất nhiên,
đến cũng được, nhưng đến làm gì? Giá thử có việc gì đó thì tôi xin lấy mạng sống
tôi ra mà thề... anh em chúng tôi có thể đến được từ 8h chứ chẳng phải 9h đâu.
Lại nói, ông ta đến lúc 9h, cửa còn khoá. Quan đốc phải đứng
ngoài đợi. 10h bác gác cổng Maxta mới đến, bác ta đang định mở cổng thì quan đốc
hỏi:
- Bác là ai?
Cần phải nói rằng Sở chúng tôi vẫn thường đảm bảo dân chủ tuyệt
đối. Chẳng hạn, quan đốc cũng thế, nhân viên gác công cũng thế, ai cũng bình đẳng
như ai. Vì vậy câu hỏi kia làm bác Muxta kinh ngạc. Vả lại, không kể những chuyện
khác, đã nhiều năm nay trong Sở cũng như gần Sở, bác ta có gặp người lạ mặt bao
giờ đâu. Vì thế, bác ta cũng hỏi lại đúng cái câu đó:
- Vậy bác là ai?
- Việc gì chẳng được! Còn bác làm gì ở đây? - Bác gác cổng ngỡ
là gần Sở mới có một thằng ma cà bông lạ mặt, hoặc có thể là một gã mật thám,
nên suýt nữa tóm cổ quan đốc mới vào đồn. Cũng may quan đốc kịp đoán ra:
- Trước mặt nhà bác là quan đốc mới Sở này!
- Còn trước mặt ngài là người gác cổng Sở này với 14 năm nghiệp
vụ thâm niệm. Xin chào! - bác Muxta đáp lại.
- Thế, ngoài bác ra ở đây không còn ai hay sao?
- Sao lại không, tất nhiên là có chứ!
Sau này hỏi bác Muxta, chúng tôi mới biết là ngài Xápphét còn
hỏi thêm bác một câu:
- Bây giờ 9h mà cửa còn khoá. Nếu nhân viên đến sớm hơn thì
làm sao vào được?
- Mỗi người họ có một chìa riêng. Ai đến sớm, người ấy tự mở.
Ngài đừng lo, hôm nay tôi sẽ thửa riêng cho ngài một chìa.
Lúc tôi đến nơi, không khí toàn Sở im lặng như trong huyệt mộ.
- Xin chào các người anh em, có chuyện gì vậy? - tôi hỏi mọi
người.
- Gay rồi. Người ta đặt lên đầu chúng ta một lão quan đốc tởm
tợm.
Chúng tôi chưa kịp đôi hồi thì bác Muxta đã vào phòng bảo
tôi:
- Quan đốc gọi anh.
Tôi lên phòng quan.
Trước mắt tôi là một người mặt dài ngoẵng. Ông ta ngồi chống
cùi tay lên tấm kính mặt bàn.
- Tôi lấy làm hân hạnh được gặp ngài! - Tôi nói và đưa tay trước.
Quan lưỡng lự giây lát ra chiều suy nghĩ có nên đưa tay ra
không, cuối cùng ngài bắt tay tôi.
- Công việc của ông là gì? - ngài hỏi.
- Tôi ấy ạ, bẩm ngài?
- Phải.
- Dạ, nhân viên văn phòng.
- "Nhân viên" là thế nào?
Câu hỏi ngốc ơi là ngốc!
- Dạ, tức là phán chức.
- Tôi hiểu rồi, thưa ông, nhưng ông là phán chức gì? Ông đảm
lãnh công việc gì?
- Dạ, lạy trời, anh em chúng tôi không có sự phân biệt. Vậy
nên...
- Hàng ngày ông đến Sở lúc mấy giờ?
- Tôi không dám nói chắc, nhưng bao giờ cũng trước bữa ăn trưa
ạ.
- Thế các ông không phải đến lúc chín giờ à?
- Đến làm gì ạ, thưa ngài? Đến sớm thế tôi biết làm việc gì được?
- Nếu vậy ông cứ ngồi nhà. Đừng bao giờ đến nữa.
- Bẩm ngài xá cho, có thể nào người ta từ sáng đến tối chịu được
tiếng vợ con eo xèo! ít lâu nữa ngài sẽ phải thừa nhận rằng khó có thể ngồi nhà
được từ sáng đến tối. Thế nào ngài cũng phải mò đến Sở làm việc.
Quan đốc không mời tôi ngồi, nhưng để ngài khỏi ngượng vì bất
lịch sự, tôi bèn ngồi xuống ghế bành.
Rồi tôi rút bao thuốc bóc ra đưa mời.
Nhưng quan bảo:
- Ông về được rồi.
Lão ta tệ hại thật! Tôi đút thuốc vào túi, bước ra.
Lão Xápphét không cho chúng tôi yên. Đầu tiên lão nghĩ ra (chết
cha chúng tôi!) một kiểu điểm danh mới. Ai cũng phải đến đúng 9h sáng và không
ai được về trước 5h chiều. Phút đầu và phút cuối phải ghi sổ.
Lão tính rằng bằng cách đó lão sẽ phát hiện được ai đi làm,
ai đi chơi, ai đi đúng giờ, ai đến muộn. Nhưng sổ ấy của lão Xápphét không đạt
yêu cầu: chẳng ai buồn ghi vào cả.
- Quét mạng nhện đi!
- Lau cửa kính đi! - thỉnh thoảng lại thấy vang lên những tiếng
quát lợm giọng của quan đốc. Ai quát nấy nghe. Chẳng ai để tai đến cả.
- Ghi phiếu công vụ đi!
- Phiếu công vụ là gì ạ?
- Tất cả nhân viên đều phải làm lý lịch và nộp cho tôi!
Lý lịch? Bố ai biết được đã bao nhiêu lâu rồi tôi chẳng làm một
thứ lý lịch nào cả. Bụi trong tủ đầy đến đốt ngón tay.
Mỗi ngày lão nghĩ ra một trò làm khổ chúng tôi.
- Chúng ta sẽ lập một sổ đăng ký công văn!... Chúng ta sẽ lập
một sổ kiểm tra hành chính.
- Lạy trời, sổ đăng ký là cái quái gì? Chúng ta làm gì có công
văn. Có gì mà đăng với ký?
Ngày nào lão cũng có một tối kiến gì đó. Mặc xác lão! Chẳng
ai để ý! Lão làm việc lão, chúng tôi làm việc chúng tôi. Một bữa, các bạn đồng
sự yêu cầu tôi:
- Cậu đi giải thích cho cái lão ấy biết nội tình của chúng ta
chứ.
Tôi đi luôn.
- Thưa ngài - tôi nói - Ngài thật hoài công làm khổ chúng tôi.
Sở này có như các Sở khác đâu. ở đây không có việc làm! Ngài bày việc ra làm
gì!
- Các ông có ăn lương không đấy? - lão hỏi.
- Có chứ ạ - tôi đáp.
- Vì sao các ông hưởng lương?
- Thưa ngài, chúng tôi phụng sự quốc gia thì tất phải được tiền
chứ ạ. Chẳng lẽ mang tiếng là nhân viên nhà nước mà lại không lương à?
- Nếu vậy các ông phải làm việc!
- Chẳng lẽ có việc mà chúng tôi không làm hay sao? Cái Sở này
đã bị quên rồi, thậm chí chẳng còn ai biết đến nó nữa.
Quan đốc giận tím mặt. Ngài vung tay, gầm lên:
- Việc nước phải cho ra việc nước. Tôi bắt các ông phải phục
tùng tôi!
Ông ấy cứ bắt đi mà xem! Có điều ông ấy phải lo thân trước
đã.
- Tôi sẽ phê vào lý lịch của ông...
Ông cứ phê đi mà xem!...
- Tôi sẽ bẩm lên thượng cấp!
Ông cứ bẩm đi! Sợ gì?
Ông ấy có làm gì cũng chẳng ăn thua. Không sao xoay nổi chúng
tôi. Mạng nhện trên trần không quét được, bụi trong tủ không lau được. Vẫn như
xưa, chẳng ai nhớ phải đi làm mấy giờ, tan sở mấy giờ, sổ kiểm danh cũng chẳng
ai ghi. Rồi đến lượt chúng tôi phải gửi giấy lên quan đốc:
"Ông cứ kệ thây chúng tôi. Ông cứ ngồi đâu ngồi đấy. Nếu
ông không nhượng, chúng tôi sẽ đồng tình làm đơn khiếu ông."
- Các ông muốn làm gì thì làm. Tôi sẽ không bao giờ thò mũi
vào việc các ông nữa! - cuối cùng ngài Xápphét khoát tay nói.
Chúng tôi lại trở lại cuộc đời xưa. Có quan đốc hay không,
không ai cần biết. Thực ra, ngày nào ông cũng vẫn đến Sở đúng 9h sáng và ra về
đúng 5h chiều. Cái lão khốn khổ ấy cứ ngồi từ sáng đến chiều thu lu trong văn
phòng của mình. Lão làm gì chúng tôi không ai hay biết!
Một hôm người đưa thư mang đến Sở một bì công văn màu vàng.
Ala! Lạy thánh Ala! ở đâu thế này? Chúng tôi bối rối không biết làm gì. Mọi người
xúm lại bảo nhau: "Anh bóc ra xem!" Nhưng không ai dám bóc cả.
Ông Mucxin bảo bác Huyxammettin:
- Nào, bác bóc ra đi!
Bác Huyxammettin hoảng sợ, kêu lên:
- Sao ông không làm mà lại xúi tôi?
- Trời ơi, nhưng bác là phần văn thư kia mà!
- Sao ông biết?
Để khỏi cãi nhau, tôi cầm lấy phong bì, bảo:
- Chúng ta bóc làm gì? Chỉ tổ mang thêm trách nhiệm. Cứ để cho
quan đốc bóc lấy.
Chúng tôi kéo nhau đến, tôi đi trước, anh em đi sau.
- Thưa quan đốc - tôi nói - ngài có thư ạ.
Quan đốc dùng dao cắt giấy mở phong bì ngay trước mắt chúng
tôi. Cái gì bên trong thế nhỉ? Quỷ thật! Mọi người chúng tôi đều hồi hộp chờ đợi
một con thỏ nhảy chồm ra hay một con bồ câu bay vụt lên. Và lao quan nào là người
nghĩ ra cái trò gửi công văn về Sở chúng tôi thế nhỉ? Cuối cùng, quan đốc lôi
được trong phong bì ra một tờ công văn, liếc mắt rồi đọc:
- Sở chúng ta xếp vào khu thanh tra thứ ba. Trong tháng 4 sẽ
có kiểm tra công việc.
- Trời ơi - ông Mucxim kêu lên.
- Kiểm tra? Thanh tra sắp đến? - bác Huyxammettin không tin lỗ
tai mình, lắp bắp - Cơ khổ!
- Chẳng lẽ tháng 4 đã về?
- Làm sao bây giờ, các người anh em?
Chỉ riêng quan đốc còn giữ được vẻ bình thản:
- Thanh tra chứ có phải thánh Ala đâu. Hắn chẳng làm gì chúng
ta được.
- Trời ơi, ngài Xápphét, ngài nói gì vậy. Hay là trong đời
ngài chưa thấy thanh tra lần nào? Ngày xưa đã có lần thanh tra đến đây...
- Thì lão ấy cũng không phải là Thần chết... Sao, lão ấy cắt cổ
chúng ta à?
- Chao ôi, nếu thế thì đã phúc tổ... đằng này lão ấy hành hạ
còn chán. Lão ấy sẽ đuổi cổ chúng ta đi xa, sẽ ném chúng ta đi mỗi người một xứ
như xua chim non vậy.
- Tôi đã sắp đến kỳ tăng lương. Nếu phải đi tỉnh khác thì hỏng
bét cả.
- Tôi cũng vậy. Thằng cháu trai đang học trung học, còn cháu
gái đại học!
- Cái bọn thanh tra có bao giờ chịu hiểu hoàn cảnh người khác,
chúng chỉ biết thải người cho gọn tay!
Nhưng còn quan đốc thì sao? Tựa hồ lão ta chả can hệ gì.
- Thanh tra thì mặc thanh tra! Họ chẳng làm gì được đâu. Nghĩ
đến làm gì...
Không, các bạn thử nhìn mặt thanh tra mà xem. Mỗi người chúng
tôi đều còn nhớ những chuyện ngày xưa rắc rối vì cái lũ thanh tra ấy.
- Ngày xưa có một lão thanh tra đến Sở mình. Các bạn nhớ lại
mà xem, lão đuổi thẳng cánh ngay một thầy phán, cầu trời cho thầy Xulâyman ấy
được mạnh giỏi chỉ vì thầy ấy có pha cà phê trong giờ làm việc.
- Bọn thanh tra ấy có biết thương ai bao giờ. Có một lần chúng
đến chỗ bọn mình...
Nhưng lão quan đốc vẫn cứ bình chân như vại. Làm sao bây giờ?
Chúng tôi đành xắn tay lên làm vệ sinh. Ala, lạy thánh Ala, bẩn ơi là bẩn. Rác
rưởi chở đi hết xe này đến xe khác. Bụi bậm lưu cữu trong tủ thành một lớp dày
đến nỗi người đến kẻ đi, không ai đừng được, ai cũng phải lấy ngón tay viết một
dòng lưu niệm hay ít ra thì cũng vạch loằng ngoằng mấy nét rồng rắn.
Một nhân viên nhìn thấy trên gương tủ, nơi vứt lỏng chỏng mấy
thứ văn phòng phẩm dòng chữ:
"Suban, con của Khưđưa, sinh năm 1330, làng Baylemgiu, tổng
Xivát", nhưng anh ta cũng chẳng buồn lau.
- Đây là bút tích bạn cũ của tôi, xoá đi sao đành! - anh
khuyên chúng tôi.
Bụi hết, rác sạch. Tường nhà quét vôi khang trang. Mọi người
chung tay sơn cửa to, cửa nhỏ. Anh nọ trách anh kia lơ là. Thế là có cái cầu
thang ai cũng tranh nhau quét. Văn phòng trông khác hẳ. Đồ đạc bóng loáng. Sạch
sẽ cũng thích thật. Có người nói lão thanh tra đến một huyện lỵ nọ. Lão kiểm
tra một công sở. Lão rờ ngón tay vào một máy chữ và bảo: "Bụi này mấy chục
năm rồi đây?" Tất nhiên, thế là sự nghiệp một quan phán nào đó đi tong.
Bác làm vườn của chúng tôi đã cắt hết rau để trồng hoa. Đi
đâu chúng tôi cũng kháo nhau về thanh tra. Toàn những tin đồn sấm sét: Đến công
sở nào thấy ai bỏ giờ hành chính là đuổi ngay. Ai chểnh mảng công việc là có
ngay tờ trình thượng cấp! Chúng tôi bèn đi làm không phải 9h, mà là 8h sáng.
- Các người anh em ạ, vì Chúa, mỗi người anh em phải tìm lấy
cho mình một việc mà làm. Có phải ngày xưa tháng nào chúng ta cũng làm một bản
lập bô, phải không nhỉ?
- Rút các tờ phiếu ra!
- Chuẩn bị các bản thông báo đi!
Chúng tôi triển khai hoạt động như điên. Cả guồng máy đã quay
tít. Ngày nào chúng tôi cũng trình quan đốc giấy tờ các ban bệ, tổ nhóm. Chúng
tôi vừa đệ báo cáo lên trên, đã thấy trên gửi trát xuống. Tha hồ các máy chữ
lách cách, ngòi bút soàn soạt, các bản thảo được viết đi sửa lại. Văn phòng đã
được khách làm ăn để mắt đến. Nhan nhản trên các mặt bàn là dấu tem thư, chữ
ký, bản in, quyết định...
- Mang cái này sang phòng bên!
- Đưa sang bàn kia lấy chữ ký!
- Trả cho tiền lệ phí!
- Nộp 12 ảnh làm giấy chứng nhận!
- Ông trưởng phòng hai có duyệt không ạ?
- Cần một con tem 270 xu.
Tin đồn về lão thanh tra ngày càng sấm sét hơn. Lão bước chân
đến văn phòng nào thì ở đó rơi lông rụng cánh.
Mỗi ngày chúng tôi không phải chỉ làm 8h, mà làm đến 10h, thậm
chí chủ nhật cũng không bỏ ra khỏi công sở. Thế mà việc vẫn không hết.
Rồi bỗng có tin báo là quan thanh tra sẽ đến vào ngày thứ 4.
Cả văn phòng sôi lên. Để chờ ký giấy, các thầy xếp thành hàng dài. Điệu này nếu
không cho thêm biên chế chúng tôi đến chết bẹp dưới đống giấy tờ tồn lại này mất.
Chỉ riêng quan đốc biết quan thanh tra sắp đến mà vẫn không mất
bình tĩnh.
- Bẩm ngài Xápphét, đến thì đến là thế nào ạ? Với lão ấy không
đùa được đâu. Có những nguồn tin đáng tin cậy cho chúng tôi biết rằng thứ 4 này
lão ta sẽ đến.
- Lão ấy không ăn thịt được ta! Đến thì cứ đến!
- Ngài chắc chưa bao giờ làm việc với thanh tra?
- Các bạn thân mến, vậy theo các bạn chúng ta phải làm gì đây?
- Dọn buồng riêng này, mở tiệc chiêu đãi này. Chẳng lẽ những
việc ấy lại không cần hay sao?
- Chả... a... a cần! - ngài Xápphét nói - Sở ta chẳng có xu
nào để làm việc ấy cả.
Từ xưa tới nay các bạn đã thấy người nào gàn như thế chưa? Vì
lão thanh tra đến, suốt 2 tháng rưỡi nay chúng tôi đã phải đổ mồ hôi sôi nước mắt.
Chúng tôi làm việc cật lực bởi vì rằng không nay thì mai lão ta sẽ đến. Mà ngày
đó chúng tôi lại không tổ chức nổi một bữa tiệc hay sao. Bê bối không thể tưởng
tượng được. Nếu không cho lão ta được một bữa chén thì công lao chúng tôi đều
xuống biển hết.
Thế là anh em đồng sự chúng tôi gom tiền nhau lại đặt một bữa
tiệc vào thứ 4 tại câu lạc bộ thương mại.
Đêm thứ 3 tôi không sao nhắm mắt được. Tôi dậy sớm rửa mặt, cạo
râu rồi đi làm từ lúc 7h30. Thế mà vẫn là người cuối cùng. Tôi thấy ai nấy đều
mặc quần áo mới cứng, người nào chỗ nấy đàng hoàng.
Như thường lệ, quan đốc vẫn đến lúc 9h và vào phòng riêng làm
việc.
Cả sở tôi sôi động công việc. Ai cũng muốn làm tốt hơn, nhanh
hơn. Mãi đến trưa cũng chẳng thấy tăm hơi thanh tra đâu cả.
Hay là mai lão ấy mới đến? Chúng tôi bàn đến câu lạc bộ
thương mại xin chuyển bữa tiệc sang ngày mai. Để một ngày thức ăn cũng có hỏng
đâu mà sợ!
Có tiếng chuông điện thoại, rồi có tin điện đến, mọi người nhớn
nhác chờ tin thanh tra. Nhưng rõ ràng là không ai nghe được gì về lão, không ai
nhìn thấy mặt lão.
- Chính bác là người tung tin ra phải không?
- Chết, bác nhớ lại xem, đây có phải là chuyện đùa đâu?
Tối hôm đó chúng tôi tự khao mình một bữa. Mọi chuyện đều
xoay quanh lão thanh tra:
- Này, sao lão ta không đến nhỉ?
- Bao giờ lão ấy mới đến?
- Rồi xem, bao giờ lão ta cũng đến chộp chúng ta bất thình
lình.
Đến cuối bữa, không kìm được nữa, quan đốc mới cười phá lên:
- Thưa các ngài! Chẳng có thanh tra thanh triếc gì cả. Tin ấy
chính là tôi tung ra đấy. Cái thư báo tin lão ấy đến cũng là tôi gởi.
ái chà, đồ lừa đảo, khiếp quá, đồ đểu!
- Thì tôi biết làm thế nào khác nữa? Mọi biện pháp của tôi đều
không đạt kết quả gì! Tôi không sao đưa các ông vào nề nếp được. Chính các ông
buộc tôi phải lừa dối, phải bịa ra chuyện quan thanh tra đến. Bây giờ các ông
thấy không, công việc đã chạy đều răm rắp!
Bữa tiệc chẳng làm chúng tôi vui lên tí nào. Những ngày sau
dù chúng tôi có cố gắng bao nhiêu cũng không làm cho công sở trở lại trạng thái
mấy hôm trước được, không khí nó cứ thế nào ấy.
Nhưng bộ máy đã khởi động. Các cấp trên cũng đã biết đến
chúng tôi và bắt đầu dội xuống trăm thứ giấy tờ lục vấn. Khách làm việc bắt đầu
ra vào. Dù chúng tôi có cố tránh cũng không tránh được họ. Hơn nữa, họ còn quát
tháo chúng tôi:
- Cái này ông này, chúng tôi đến nộp thuế chứ làm gì. Chính tiền
lương của các ông cũng nằm trong này cả đấy. Làm đi, làm việc đi chứ, chúng tôi
lại bẩm quan trên bây giờ!
Từ độ đó chúng tôi không chây lười được nữa. Sợ thay, công việc
mỗi ngày một nhiều hơn, không sức đâu làm xuể được. Sở tôi đã nhận thêm 10 người
mà việc vẫn không giảm. Tội vạ ấy chính là do cái lão già Xápphét lừa đảo kia
mà ra cả.
Thế đấy, chúng tôi chẳng thấy mặt mũi quan thanh tra đâu,
nhưng đầu óc không lúc nào rời được lão. Bao giờ chúng tôi ngồi làm việc cũng
dường như có con mắt cú vọ của lão theo dõi.
Tối nào cầu nguyện, chúng tôi cũng chỉ xin một điều:
- Lạy thánh Ala vĩ đại, xin người ban cho chúng tôi một viên
giám đốc như viên giám đốc ngày xưa. Cầu cho lão ấy nhổ toẹt vào công việc
trong sở và cấp trên quên hẳn chúng tôi!
Cả một ổ
Tại bến tàu ở Kađưkây một người phụ ưữ trẻ tuổi đang kêu la:
- Ối giời đất ơi! Cái ví của tôi, cái ví của tôi...! Bắt lấy
nó!
Đám đông nhốn nháo lên. Thằng ma cà bông đi chân đất chạy
trên cầu tàu, nhảy từng 3 bậc một. Người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp van nài những
người đứng bên cạnh:
- Đuổi nó hộ tôi với! Tóm lấy nó!
Thằng ăn cắp đã chuồn mất. 5' trôi qua. Bỗng một viên cảnh binh
trẻ tuổi hiện ra. Tay viên cảnh binh đặt trên vai thằng ăn cắp đã xoáy chiếc
ví.
- Ví của ai đây?
Chiếc ví màu đen, to, bóng loáng. Người phụ nữ trẻ trung xinh
đẹp vui sướng vùng ra khỏi đám đông chạy bổ đến bên người cảnh binh.
- Của tôi! Chà, đội ơn ông quá!
Thằng ăn cắp đi đất, cởi trần, trên người không có chỗ nào mà
túm được cả. Viên cảnh binh luồn tay vào nắm lấy mớ tóc dài giữ cho hắn khỏi chạy
mất. Thân hình bẩn thỉu của thằng ăn cắp lộ ra từ những chỗ thủng ở chiếc quần
lính cũ giờ đã biến thành mớ giẻ rách.
Viên cảnh binh trẻ tuổi bảo người phụ nữ:
- Mời bà theo tôi về bốt.
- Để làm gì? Ví này là của tôi mà! Ai cũng trông thấy thằng
cha này giật ví ở tay tôi.
- Phải ghi lời khai của bà để trình toà.
Họ đi về bốt, viên cảnh binh và thằng kẻ cắp đi trước, người
đàn bà theo sau. Nghe người phụ nữ khai xong, viên cảnh sát trưởng kinh tởm
nhìn thằng ăn cắp người nồng nặc mùi súc vật chết:
- Thằng kia, mày không biết xẩu hổ à? Khoẻ như con lừa ấy! Giá
đi làm ăn gì có phải hơn không!...
Thằng ăn cắp thong thả ngẩng đầu lên:
- Thế còn những kẻ khác làm nghề gì? - nó nói.
- Câm ngay!
Viên cảnh sát trưởng hỏi người phụ nữ trẻ:
- Hanưm Ephendi, trong ví của bà có những gì?
- Tiền, sáp môi, chiếc gương, hộp phấn...
- Có bao nhiêu tiền?
Người phụ nữ nín lặng. Viên cảnh sát trưởng thò tay định cầm
chiếc ví nằm trên bàn, nhưng người phụ nữ ngăn lại:
Song viên cảnh sát trưởng đã cầm lấy chiếc ví và dốc ra mọi
thứ bên trong: hộp sáp môi, chiếc gương, hộp phấn, ít tiền lẻ và... 200 đồng
đôla.
- Bà lấy tiền đôla này ở đâu ra? - viên cảnh sát trưởng hỏi.
- Tôi không thưa kiện gì người này cả - người phụ nữ chỉ tay
vào tên ăn cắp nói vội - Tôi chỉ yêu cầu cho tôi xin lại chiếc ví, tôi về!
- Tôi đang hỏi về số đôla này.
- Lạy Trời, mà thôi, tôi cũng chẳng cần chiếc ví nữa. Cứ để lại
chỗ các ông cũng được. Tôi đi về đây.
- Bà không về được! Bà lấy đôla ở đâu ra?
Người phụ nữ cúi mặt xuống:
- Madam Eleni mới đưa cho tôi sáng nay.
Thằng ăn cắp ngẩng đầu lên ngó viên cảnh sát trưởng và cười
khẩy.
- Thế Madam Eleni này ở đâu?
Người phụ nữ thì thầm tiết lộ địa chỉ.
Thế là cảnh sát trưởng cảnh binh, thằng kẻ cắp và người phụ nữ
lên xe hơi của sở cảnh sát đi đến nhà madam Eleni. Ngay trong gian phòng đầu
tiên họ chạm trán phải một cặp đang ở trong tư thế không lấy gì làm tao nhã cho
lắm. Trong khắp 6 căn buồng, viên cảnh sát trưởng bước chân vào bất kỳ chỗ nào
cũng đều thấy những cặp như vậy cả.
Cảnh sát trưởng xông tới madam Eleni:
- A, chính mụ là chủ nhà chứa. Chúng ta đã hoài công tìm kiếm
mụ Eleni suốt 6 tháng nay đây?! Mụ lấy đâu ra số tiền đôla này?
- Có một khách chơi là Rida trả cho tôi.
Những người đàn ông vừa bị bắt gặp trong cảnh bậy bạ ấy được
thả ra, vì họ la đàn ông. Còn đàn bà thì vì không phải là đàn ông nên bị đưa đến
nhà thương ở Ahưcapư để khám bệnh. Sau đó viên cảnh sát trưởng, thằng ăn cắp,
người phụ nữ xinh đẹp và madam Eleni lại đi xe hơi của sở cảnh sát đến nhà
Rida. Tại nhà Rida, trên tầng thứ 7, đang tiến hành xây dựng.
- Các người làm gì ở đây?
- Có gì đâu!
- Có gì đâu à?! Thế công nhân với những người coi việc này là
cái gì? Nghĩa là các người đã xây nhà phạm pháp!
Thằng ăn cắp ngẩng đầu lên nhìn viên cảnh sát trưởng và lại
cười khẩy. Sau khi đã lập biên bản về việc xây dựng bất hợp pháp, cảnh sát trưởng
hỏi Rida:
- Anh lấy số đôla này ở đâu?
- Ali đưa cho tôi.
Cảnh sát trưởng gọi dây nói đến cục an ninh xin một xe vận tải
kín mít. Tất cả số hành khách cũ và Rida lên xe. Họ đến nhà Ali.
Cảnh sát trưởng hỏi Ali:
- Ông có đưa số tiền đôla này cho Rida không?
- Có!
- Sao ông lại đưa cho hắn?
- Ông ta bán sắt làm nhà cho tôi.
Cảnh sát trưởng quay lại Rida:
- Sắt làm nhà? Thế anh có giấy phép không?
Không à? Thế đấy!... Nghĩa là anh lại còn đầu cơ cả sắt nữa!
Sau đó hắn lại hỏi Ali:
- Anh lấy tiền đôla này ở đâu?...
- Tôi được bạc đêm qua ở nhà Huxây.
Thằng ăn cắp vẫn luôn luôn cúi đầu xuống lại ngẩng lên nhìn
viên cảnh sát trưởng và cười khẩy. Người cảnh binh, viên cảnh sát trưởng, thằng
ăn cắp, ngườ phụ nữ khả ái, Rida và Ali ngồi lên xe vận tải đến nhà Huxây.
Trên những bàn trải dạ xanh có 10000 đồng, những quân súc sắc
và cỗ bài. Sau khi những con bạc đã được đưa đến công tố viên, cảnh sát trưởng
hỏi Huxây:
- Anh lấy đâu ra tiền đôla này?
- Chiếc tàu Ghêmisgơsêk sang Mỹ mới quay về. Nuri đưa cho tôi.
Anh ta làm thợ máy ở đấy.
Các hành khách cũ và Huxây lên xe vận tải đi đến nhà người thợ
máy Nuri. Trong nhà tay thợ máy Nuri này còn tìm thấy 10 cân thuốc phiện trắng
nguyên chất. Nuri thú nhận là đã nhận tiền đôla của Ixan. Ixan tức thì bị bắt
quả tang đang phạm tội ở toà biệt thự trên đời Bôcpho. ở đây hắn sản xuất thuốc
phiện trắng.
- Anh lấy tiền đôla của ai?
- Của Rêsan.
- Rêsan là ai?
- Hắn buôn lậu quần áo lót phụ nữ bằng nylông từ Bâyrút đưa về.
Thằng ăn cắp thong thả ngẩng lên nhìn viên cảnh sát trưởng và
cười khẩy. Tất cả lại lên xe vận tải, bây giờ thì đến nhà Rêsan.
Rêsan nói đã cầm đôla của mụ Nêvin buôn quần áo lót nylông và
áo tắm chun.
Song mụ này không có nhà. Mụ vẫn ở Pari hay La Mã như thường
lệ.
Viên cảnh binh nói:
- Lạy Chúa, cũng may mà không có mụ ta ở nhà; trong xe cũng
không còn chỗ nào trống nữa rồi.
Thằng kẻ cắp ngẩng đầu lên nhìn cảnh sát trưởng và cười khẩy.
Viên cảnh sát trưởng quát:
- Này, thằng bợm kia! Không việc gì mày cứ phải cười khẩy mãi
thế! Rõ ràng là trong bọn này thì mày vẫn còn lạ kẻ nhẹ tội nhất!
Thằng bợm bị xử tội ăn cắp và ngồi tù 3 tháng.
Bây giờ nó làm ăn lương thiện rồi. Và thấy bóng chiếc ví đầm
đâu là nó tránh cho xa như tránh bệnh hủi vậy.
Nếu tôi là đàn bà
Xêliamét vào làm gác cổng cho một xưởng dệt kim. Hàng tháng hắn
được lĩnh 80 đồng. Với 80 đồng ấy thì đến một phần tư con người cũng không sống
nổi, chứ đừng nói đến một người. Nhưng hắn hy vọng ở sự cần mẫn của hắn. Cuối
cùng rồi thế nào ông chủ cũng sẽ đánh giá đúng được tinh thần cố gắng của hắn
mà tăng lương. Chức gác cổng đối với hắn thật quả là thấp kém, nhưng biết làm
thế nào? Thời buổi này, có biết bao nhiêu người đi gác cổng cho những kẻ còn
không đáng mặt làm nghề gác cổng nữa kia. Chủ nhà và người gác cổng đã thế chỗ
cho nhau.
Hắn làm ngày làm đêm, không quản công tiếc sức để hòng tiền
lương được thêm đồng nào hay đồng nấy. Ôi, nếu như hắn có thể trở thành người
gác đêm!... Người gác đêm ở xưởng này được lĩnh những 200 đồng một tháng. Mà
công việc lại yên tĩnh hơn nhiều. Hết lòng mong muốn điều gì, người ta nhất định
sẽ đạt được. Một ngày kia, lão chủ gọi hắn vào, bảo:
- Ta rất hài lòng vì anh.
- Đa tạ ông.
Lão chủ hỏi:
- Anh có vợ rồi chứ?
Như thể bị vạch tội, hắn sượng sùng đáp:
Và để được yên lòng sau khi đã thú nhận hết tội lỗi của mình,
hắn cúi đầu xuống nói tiếp:
- Bẩm ông chủ, con còn 2 đứa con nữa ạ.
Lão chủ vừa ra chiều thông cảm, vừa làm hắn hổ thẹn:
- Ái chà chà! Thế anh làm sao mà sống được?
- Dạ, bẩm ông chủ, chật vật lắm ạ.
- Ta làm ơn cho anh điều này nhé. Anh có thể vừa gác cổng, vừa
canh đêm được không?
- Được lắm, bẩm ông chủ.
- Kể ra thì anh cũng chỉ phải đứng ở cửa có 6h. Cộng thêm với
8h gác đêm nữa, vị chi là 14h. Anh hãy còn những 10h tự do nữa. Bằng lòng
không?
- Xin đa tạ ông chủ.
- Ta sẽ tăng thêm cho anh 30 đồng về công việc gác đêm nữa.
- Dạ, xin đa tạ ông chủ.
Người gác đêm vẫn lĩnh 200 đồng một tháng lập tức bị đuổi vì
tội ngủ quá say và người ta lấy anh chàng gác cổng của chúng ta thế chân vào đấy.
Ban ngày đứng canh cửa, còn ban đêm, đeo chiếc đồng hồ kiểm tra trên cổ hắn đi
canh gác xưởng. Tiền lương của hắn bây giờ được 110 đồng.
Hắn vốn là người chăm chỉ và cẩn thận. Hắn nghĩ: cuối cùng
lão chủ cũng chẳng phải đồ ngốc, nhất định lão sẽ nhận thấy sự cố gắng của người
làm và tất nhiên sẽ lại làm ơn cho hắn lần nữa. Chẳng hạn, lão sẽ giao cho hắn
làm thư ký xưởng thì hay biết mấy! Thư ký được lĩnh những 300 đồng 1 tháng!...
Hết lòng mong muốn điều gì, người ta nhất định sẽ đạt được. Một
hôm lão chủ gọi anh chàng gác cổng vào:
- Ta rất hài lòng về anh nên lại muốn làm ơn thêm cho anh một lần
nữa. Ban đêm thực ra thì anh cũng không đến nỗi bận lắm. Anh có ưng làm công việc
giấy tờ văn phòng không? Ta sẽ trả thêm cho anh 60 đồng nữa.
Người gác cổng suy tính. Nếu vậy thì hắn sẽ được lĩnh 170 đồng...
- Cầu trời phù hộ cho ông, bẩm ông chủ - hắn trả lời.
Viên thư ký xưởng vẫn lĩnh 300 đồng 1 tháng lập tức bị đuổi về
tội thường để cho những ý nghĩ vẩn vơ, cà phê và thuốc lá choán hết giờ làm việc
của mình, và người ta lấy anh chàng gác cổng của chúng ta vào thế chân. Giờ
đây, ban ngày đứng canh cửa, đêm đến lúc canh xưởng, hắn lôi máy chữ ra đánh
các giấy tờ.
Hắn làm việc đổ mồ hôi hột. Cuối cùng lão chủ cũng chẳng phải
là kẻ ngu đần. Sớm muộn lão cũng sẽ phải nhận thấy mọi cố gắng của hắn và tất
nhiên là sẽ thưởng công. Lão kế toán của xưởng lĩnh những 400 đồng 1 tháng.
Chà, nếu như có thể làm kiêm cả chân kế toán nữa!...
Hết lòng mong muốn điều gì, người ta nhất định phải đạt được.
Một ngày kia lão chủ lại gọi hắn vào:
- Tôi hiểu rằng ở thời buổi, chúng ta thì 170 đồng chưa thấm
vào đâu - lão nói - nên tôi muốn tăng lương cho anh.
- Xin đa tạ ông chủ ạ.
- Anh hẳn là còn thì giờ rồi. Ngồi không ở nhà làm gì, anh nên
nhận làm thêm việc tính toán sổ sách cho xưởng còn hơn.
- Dạ vâng, bẩm ông chủ.
- Hay lắm, tôi tăng thêm cho anh 45 đồng nữa.
Viên kế toán của xưởng vẫn lĩnh 400 đồng 1 tháng lập tức bị
đuổi về tội cứ nhầm trừ thành cộng, nhầm chia thành nhân.
Bây giờ anh chàng gác cổng của chúng ta được lĩnh 215 đồng 1
tháng. Ban ngày hắn đứng canh cửa 6h, ban đêm 8h gác xưởng và đồng thời đánh
máy, còn khi về nhà thì lại tính tính toán toán.
Hắn làm việc thật nhiều, cần mẫn, cố làm cho nhiều hơn mức
người ta đòi hỏi ở hắn. Giờ này hắn lại mơ tưởng đến chức thủ kho. Thủ kho được
lĩnh những 450 đồng 1 tháng!
Nếu như con người hết lòng mong muốn điều gì, điều đó nhất định
phải đạt được. Lão chủ lại gọi hắn vào:
- Tôi lại muốn làm ơn cho anh lần nữa. Anh nghĩ sao, nếu tôi mời
anh nhận chức thủ kho?
- Được như vậy con rất lấy làm mãn nguyện, bẩm ông chủ.
- Hay lắm, lương anh sẽ được tăng thêm 35 đồng. Anh đi mà nhận
kho!
Viên thủ kho, một con người lơ đễnh - đã chở nhầm về nhà đôi
thứ hàng mà đáng lẽ anh ta phải chở về kho, lập tức bị đuổi, và anh chàng gác cổng
của chúng ta bắt đầu làm phận sự của mình.
Hắn làm ngày làm đêm không quản sức, không tiếc thì giờ gì hết.
Lão chủ chẳng phải con lừa, cuối cùng thế nào lão cũng đánh giá đúng mực sự hy
sinh ấy. Và quả nhiên... Lão chủ gọi anh vào:
- Cám ơn anh, tôi rất hài lòng về anh. Người làm việc tốt thì
ai cũng biết đến! Các công việc khác thì anh vẫn cứ giữ nguyên, riêng việc gác
cổng thật không xứng đáng với anh nữa. Và từ nay tôi bổ nhiệm anh làm quản đốc
phân xưởng.
Làm quản đốc? Hắn đâm ngơ ngẩn cả người! Lâu nay hắn vẫn nhăm
nhe cái chân quản đốc. Hết lòng mong muốn điều gì, người ta nhất định sẽ đạt được.
Và thế là hắn đã được làm quản đốc.
- Tôi thêm lương cho anh 80 đồng - lão chủ nói.
Kiêm làm quản đốc nên lương hắn được thêm 90 đồng, song vì
thôi gác cổng lại mất 80 đồng, vậy cả thảy giờ đây hắn lĩnh 260 đồng 1 tháng.
Viên quản đốc cũ vẫn lĩnh 500 đồng lập tức bị đuổi vì tội tán
tỉnh cô thư ký của ông chủ.
Trong phân xưởng có 40 công nhân, 2 thợ cả và 20 chiếc máy.
Làm công nhân thì hắn chẳng màng, vì hắn có biết nghề ngỗng gì đâu, mà làm thợ
cả thì lại càng không nổi. Hắn cũng không thể thay cho máy móc được... mà trong
văn phòng thì ngoài hắn, chỉ còn có cô thư ký đánh máy nữa thôi.
Lúc rảnh việc, hắn tán chuyện với cô thư ký, khen ngợi lão chủ.
- Cầu trời phù hộ cho ông chủ, một con người quý hóa quá. Tôi
vào làm gác cổng cho xưởng được 80 đồng 1 tháng. Ông chủ cho làm thêm chân gác
đêm, thế là tôi được 110 đồng. Sau đó, ông còn cho tôi làm thư ký! Lương tôi
tăng lên đến 170 đồng. Sau ông lại tin cẩn giao cho làm kế toán và trả tất cả
215 đồng. Rồi ông giao cho cả việc giữ kho, tôi được 250 đồng. Và bây giờ thì
không kể mọi khoản tiền trên, tôi còn làm quản đốc. Và lương của tôi những 260
đồng!
Cô thư ký cũng khen ngợi ông chủ:
- Thoạt tiên, tôi vào làm chân quét dọn ở đây được 40 đồng.
Sau đó tôi nhận thêm việc dọn dẹp. giặt giũ ở nhà ông chủ và được tất cả 60 đồng.
Rồi tôi lại kiêm cả làm thư ký đánh máy. Lương tôi tăng lên đến 80 đồng. Sau
tôi làm thêm việc nấu nướng và giúp đỡ việc nội trợ cho ông chủ, ông ta bèn
tăng cho tôi lên 100 đồng. Rồi sau nữa... sau nữa anh biết đấy, tôi đã trở
thành người có quan hệ thế nào với ông chủ. Và lương tôi được tăng thêm 15 đồng.
Bây giờ tôi được lĩnh 115 đồng!
Hắn bảo cô thư ký:
- Cô làm việc nhiều như thế chắc mệt lắm đấy!
- Thế công việc anh làm không nhiều à? Lương anh như vậy không
ít hay sao? Hay là anh không muốn được tăng lương nữa?
Hắn nhìn cô thư ký. Hắn nhớ ra rằng trong văn phòng không còn
ai ngoài hắn và cô thư ký nữa. Hắn nghĩ đến đống công việc của cô ta.
- Không, không - hắn nói - Tôi không còn muốn một khoản nào
thêm nữa. Cám ơn cô. Nhưng nếu như tôi là đàn bà thì sao? Thì hắn ông chủ sẽ đuổi
cả cô và tăng lương cho tôi thêm 20 đồng... Không, không!... Như thế này tôi đã
toại nguyện... vâng, nhưng... nếu tôi là đàn bà!
Xin mời bác cứ đến chơi...
Một ông văn sĩ rất có tiếng nọ vừa kỷ niệm ngày sinh thứ 60 của
mình xong, ấy thế mà không hiểu tại sao lắm độc giả cứ khăng khăng cãi là ông
phải nhiều tuổi hơn thế nhiều. Hay có chuyện lạ đời như vậy có lẽ là vì những
cái nổi tiếng nói chung dễ được người ta gán thêm cho tuổi tác, để tăng thêm phần
danh giá, mà cũng có thể là vì chính bản thân sự vinh quanh làm cho người ta
già đi, vì nó luyện cho người ta phải biết sống dựa vào chút tiếng tăm còn dư lại
của ngày xưa.
Quả thật, không hiểu tại sao người ta cứ hay nghĩ là các văn
sĩ nổi tiếng thì không những phải già hơn, mà còn phải giàu có hơn cái thực tế
của họ nhiều. Chứ lại không à! Tiếng tăm lừng lẫy như thế mà bảo không giàu thì
ai mà tin được! Cứ gọi là trong nhà phải có một hòm vàng, phải không còn thiếu
thứ gì nữa! Đồ đạc thì chả phải nói, tất nhiên là phải toàn sập gụ tủ chè rồi!
Vậy thì ông văn sĩ mà chúng ta vừa nói bị người ta cho rằng
già hơn tuổi là cũng đúng thôi. Bởi lẽ là giống như tất cả những người trải đời,
trông ông sớm già và sớm có một vẻ gì tiều tuỵ, hom hem. Còn chuyện bảo ông
giàu, thì tất nhiên cũng không phải không có lý. Thì cứ xem ngay cách ăn mặc của
ông thì biết, chả lúc nào là không nuột nà chải chuốt. Tủ quần áo của ông tuy
chưa đến mức chật ních, nhưng lúc nào cũng treo dăm sáu bộ, may cách đây tuy đã
chục năm, nhưng bộ nào bộ nấy trông hãy còn mới nguyên. Mà bộ nào ông mặc trông
cũng nền lắm! hai nữa, tuy có lúc trong túi chỉ vẻn vẹn còn có chục bạc, nhưng
ông ăn tiêu vẫn rộng rãi và sang lắm, nên người ta cứ ngỡ ông phải có đến chục
nghìn. ấy thế nhưng thực ra thì ông rất túng, và túng đã lâu rồi. Có cái là ông
hết sức giấu không để ai biết chuyện đó mà thôi.
Bởi đã đến lúc tiếng tăm của ông không còn đem lại cho ông
nhiều tiền bạc nữa. Không biết vì thị hiếu bây giờ đã thay đổi, hay vì một
nguyên nhân già khác, nhưng ách của ông người ta không in nữa. Đến các báo cũng
không tờ nào buồn đặt ông viết bài. Các nhà xuất bản cũng chả nhà nào hỏi han
gì đến ông. Thử hỏi thế thì ông, một người chỉ biết sống bằng ngòi bút, và suốt
đời hy sinh cho sự nghiệp văn chương còn biết làm gì nữa?
Nhưng ông lại cứ tưởng rằng tiếng tăm của ông hãy còn lững lẫy
lắm. Hay ông tưởng nhầm? Nếu tưởng nhầm, thì tại sao độc giả vẫn nhớ đến ông,
khi đi đường ta vẫn chào hỏi ông và lúc chuyện trò người ta vẫn nhắc đến tên
ông?...
Trước đây, có một thời gian ông làm cho các báo. Nhưng khổ nỗi
là các ông bạn làm báo quen biết hồi xưa nay chẳng còn ai. Giá như họ vẫn còn
làm ở các tòa soạn thì hẳn ông đã đến gặp để xin việc rồi. Còn những đồng nghiệp
mới thì ông lại không quen, tuy rằng nếu có đến gặp thì chắc họ vẫn biết ông,
vì ông là một văn sĩ nổi tiếng, và vẫn tiếp đãi ông một cách niềm nở, thậm chí
vẫn thưa gửi với ông một cách kính cẩn nữa là khác.
Nhớ lại hồi xưa, đến tờ báo nào, ông cũng được người ta đón
tiếp thật là niềm nở, và ngược lại ông cũng hết sức vui vẻ thân mật với họ, vì
thế họ lại càng mến ông và đặt ông viết lúc thì một bài báo, lúc thì một bài dịch,
lúc thì một bài châm biếm.
Sáng hôm nay, ông ăn mặc cẩn thận hơn mọi ngày: ông quyết định
đến thăm tờ báo mà ngày xưa ông thường lai tới và đã có lần đăng truyện của
ông. Khi bước đến cửa tòa soạn, cái cửa mà mọi khi ông vẫn quen ra vào tự do,
ông bị người gác cửa giữ lại:
- Ông hỏi ai?
Ông trả lời là muốn gặp ông chủ bút.
- Ông tên là gì để tôi vào thưa?
Ông xưng tên. Người gác cổng chừng cũng biết tiếng ông, nên
khi nghe ông xưng danh, y bông sốt sắng đứng dậy.
- Xin ông chờ cho một phút!
Nói đoạn y gọi dây nói báo cho viên chủ bút biết rồi bảo:
- Xin mời ông vào.
Nhà văn bước vào buồng ông chủ bút. Khách và chủ chưa quen biết
nhau mấy, nhưng chủ đã nhanh nhẹn đứng lên đón, lễ phép bắt tay, rồi niềm nở
kéo ghế mời khách ngồi. Sau đó, lại ân cần hỏi khách quý muốn dùng gì.
- Xin ông một tách cà phê vừa ngọt thôi ạ!
Bây giờ chắc thế nào viên chủ bút cũng sắp hỏi: "Ngài có
mang gì đến cho chúng tôi không ạ?" à mà không, cứ xem cái dáng điệu quá lễ
phép của ông ta như thế thì chưa chắc ông ta đã dám hỏi thẳng câu ấy, mà phải hỏi
một câu gì khác, đại khái như "Ngài có điều gì cần dạy không ạ?" kia!
Không biết nên trả lời ông ta thế nào đây? Chả lẽ lại nói thẳng là mình đến xin
việc? Vì thế, để tránh trước câu hỏi ấy, nhà văn ta mới vào đề bằng câu:
- Tôi rất thích những bài báo của ông viết, nhất là cái bút
pháp độc đáo của ông.
- Dạ, ngài quá khen!
- Không hôm nào tôi bỏ được các bài xã luận của ông.
- Dạ, cảm ơn ngài đã quan tâm...
- Hôm nay nhân tiện đi ngang qua đây tôi muốn rẽ vào thăm...
- Dạ, thật là quý hoá quá!...
- À mà tôi không làm phiền gì ông đấy chứ?...
- Ấy chết, sao ngài lại nói thế ạ! Được ngài đến thăm thật là
hân hạnh cho chúng tôi...
Nhưng rồi cà phê đã cạn và những câu trao đổi xã giao cũng đã
hết. Biết nói gì nữa đây?
Viên chủ bút chắc sắp phải hỏi về mục đích cuộc viếng thăm của
ông, vì đã lâu nhà văn không đến thăm tòa báo, mà hôm nay bỗng lại đến... Tất
nhiên lúc đó ông sẽ nói rõ mục đích ông đến thăm và viên chủ bút chắc sẽ hỏi:
"Ngài có cuốn tiểu thuyết nào viết xong rồi không ạ? Giá ngài cho phép bảo
chúng tôi được đăng thì thật là hân hạnh quá..." Và ông sẽ bảo: "Rất
tiếc là tôi không đem theo cuốn nào. Nhưng hiện nay tôi đang viết 2 cuốn tiểu
thuyết và một cuốn sắp viết xong..."
Khốn nỗi câu chuyện cứ loanh quanh mãi mà vẫn không chịu vào
đề. Nhà văn đành phải hỏi lái sang chuyện khác:
- Các ông làm chính trị, chắc phải theo dõi tất cả các sự kiện.
Vậy các ông có ý kiến thế nào về bài diễn văn gần đây của ngài thủ tướng?
Hỏi xong câu ấy nhà văn mới thấy ân hận, vì khi viên chủ bút
trả lời, ông có nghe và có hiểu gì đâu.
Câu chuyện vẫn rôm rả, nhưng viên chủ bút vẫn chẳng hề ngỏ ý
nhờ ông viết cho cái gì: tiểu thuyết, báo hay truyện ngắn...
- Thôi xin phép ông, kẻo làm ông mất thời gian.
- Ấy chết, ngài cứ nói thế!... Mấy khi chúng tôi hân hạnh được
ngài đến chơi... lúc nào có dịp, xin mời ngài cứ đến ạ!
Vừa xuống cầu thang, nhà văn vừa nghĩ: Không hiểu câu ông ta
nói: Xin ngài cứ đến chúng tôi rất hân hạnh" là có ý gì? Chỉ là một câu
nói xã giao hay là một lời mời thành thực? Có thể, lần này ông ta chưa dám để
nghị mình viết cho cái gì, chỉ vì sợ hơi đường đột chăng? Nếu vậy lần sau đến,
chắc thế nào ông ta cũng phải mời mình viết cho một bài báo... Mà cũng có thể
quả thật hôm nay ông ta chưa có việc gì cần nhờ đến mình...
Nhà văn nổi tiếng nghĩ vậy rồi đi đến tờ báo khác. Ông quyết
định phải gặp viên giám đốc tờ báo này, vì hồi xưa ông có quen biết cố thân
sinh ra ông ta. Lúc đầu, ông có thể gợi chuyện về bố ông ta, tỏ ý thương tiếc
ông cụ, rồi dần dần sẽ lái sang chuyện làm ăn.
- Ông cần gặp ai? - người gác cổng hỏi.
Ông trả lời là muốn gặp ông giám đốc. Nhưng người ta cho ông
biết ông giám đốc đi Châu Âu mất rồi. Đã định quay về, nhưng ra đến cửa, đứng tần
ngần một lúc, nghĩ thế nào ông lại quay lại bảo người gác cửa:
- Nếu vậy bác cho tôi gặp ông phụ trách mục văn nghệ.
- Ông cho tôi biết tên để tôi vào báo.
Ông xưng tên và người ta cho ông vào.
Câu chuyện giữa ông và ông phụ trách mục văn nghệ mở đầu cũng
na ná như câu chuyện giữa ông với viên chủ bút tờ báo trước. Có điều lần này
ông phải tìm cách nói khéo ngay cho chủ nhân biết là ông sẵn sàng viết một cái
gì đó, thậm chí ông còn nói thẳng là từ lâu ông vẫn viết truyện ngắn cho các
báo. Đoạn ông nói thêm:
- Chỉ tiếc là có lẽ ông không còn nhớ cái hồi đó...
- Ố, sao bác lại nói thế! Tôi nhớ lắm chứ! Truyện nào của bác
tôi cũng đều đọc cả. Bác viết truyện hay lắm, quên thế nào được.
- Các nhà văn trẻ bây giờ kể ra cũng có viết - nhà văn lại nói
tiếp - nhưng... không biết diễn đạt thế nào cho đúng... chứ thật ra thì truyện
của họ chưa thể gọi là truyện được. Vì viết được một truyện hay có phải dễ đâu!
- Vâng, tất nhiên rồi, bác bảo bây giờ tìm đâu ra những người
viết hay như hồi các bác được!
"Thì hắn đang ngồi lù lù trước mặt anh đây mà anh mù hay
sao!" Nhà văn suýt buột mồm kêu lên như vậy, nhưng may lại kìm được.
Khi chia tay, viên phụ trách mục văn nghệ cũng lại bảo:
- Xin mời bác có dịp cứ ghé lại chơi. Chúng tôi thật lấy làm
hân hạnh.
Suốt một tuần liền, nhà văn cứ đi hết tòa báo này đến tòa báo
khác, nói chuyện với đủ mọi người, từ giám đốc đến chủ bút, thư ký... Lúc thì
nói về các bài xã luận, lúc thì bàn về tiểu thuyết. Nhưng lần nào cũng vậy, ông
đều được người ta trả lời bằng một câu giống nhau "Xin mời bác cứ đến,
chúng tôi rất hân hạnh". Có vài tòa soạn ông đến hàng hai, ba lần, nhưng
chẳng lần nào có ai thuê ông viết lấy một chữ, hay đề nghị ông làm cho việc gì.
Có lẽ họ không dám nói với ông vì sợ thiếu tế nhị chăng? Nhưng cũng có thể họ
cho rằng một nhà văn tên tuổi như ông thì chắc phải sống ung dung lắm rồi, việc
gì còn phải làm việc nữa.
Thế cho nên ông mới phải nói thẳng với họ rằng ông cần việc
làm, hay thậm chí một chân gì trong tòa soạn cũng được. Kinh nghiệm lâu năm cho
ông biết rằng những chức vụ như trưởng ban, biên tập viên, bình luận viên, hay
tầm thường như một phóng viên thôi, cũng chả đời nào họ dành cho ông cả. Với lại,
ông cũng chả màng đến các chức ấy. Ông sẵn sàng làm bất cứ việc gì, miễn là có
miếng ăn là được rồi.
Ông đi hết tòa soạn này đến tòa soạn khác. Nhưng cái sách mời
chào quá trịnh trọng của những người đón tiếp ông, những câu "Dạ, thưa
bác" quá lễ độ của họ khiến ông đâm lúng túng, không dám thú nhận cái cảnh
nghèo túng của mình. Đã có lần ông tìm cách nói thẳng với họ rằng cứ ngồi nhà
mãi không có việc gì làm thì cũng buồn, rằng tuy thế ông cũng chưa phải già đến
mức không thể làm việc được nữa, không thể giúp ích gì cho mọi người được nữa,
rằng ông đã chán ngấy cái cảnh ăn không ngồi rồi, rằng ông rất sung sướng nếu
có bất cứ việc gì để làm.
Nhưng người ta thì bảo ông: "Dạ, bác cứ nói thế, chứ ở tòa báo đâu có việc gì đáng cho bác làm... Bác bảo muốn làm bất cứ việc gì, nhưng
cũng phải là việc quan trọng to tát chứ như các công việc ở tòa soạn này thì
đâu có đáng để bác bận tâm. Nói thế mong bác cũng bỏ quá cho..."
Rồi lúc tiễn ông ra về, người ta còn nói thêm: Dạ xin mời bác
cứ đến chơi với chúng tôi, thế là hân hạnh lắm rồi ạ!"
Từ đó, ông quyết định không có quanh co úp mở gì nữa, mà cứ
nói toạc ra là ông đang cần tiền và sẵn sàng làm cả chân sửa bài.
Nhưng người ta lại bảo:
- Ấy chết, sao lại thế ạ. Ngài mà lại phải đi làm cái việc sửa
bài thì có họa là...
Nhưng nhà văn không chịu thua. Ông bảo nếu không có việc sửa
bài, thì có thể cho ông bất cứ việc gì khác cũng được.
Người ta lại tưởng ông đùa và bảo:
- Dạ ngài cứ nói đùa vậy chứ ạ...
Đã thế, ông tự nhủ, phải nói thẳng hơn nữa! Đến một tòa soạn
khác, ông đã kể cho họ biết rằng đã 3 tháng nay ông không có tiền trả tiền nhà,
rằng ông đang mắc nợ như chúa chỏm, và bây giờ nếu có việc gì làm thì thật ông
sung sướng biết mấy. Mà chả lẽ bao năm nay ông làm việc cho các báo mà bây giờ
lại không xin được việc gì làm hay sao?
- Trời ơi, ngài có ý định giễu cợt chúng tôi hay sao mà cứ nói
những chuyện như thế ạ! Chả lẽ ngài lại muốn làm bất cứ việc gì thật hay sao?
Ông lại đến một tòa soạn khác. Và lần này thì ông không còn
giấu giếm chuyện gì nữa, mà bảo thẳng với họ rằng ông đang sống dở chết dở đây,
rằng bao nhiêu quần áo ông đã phải bán hết, chỉ còn độc một bộ đang mặc trên
người đây thôi. Thử hỏi thành thực đến mức ấy thì thôi chứ còn gì nữa? Cuối
cùng, ông xin người ta cho ông làm cái việc sửa bài hay bất cứ công việc gì ban
đêm cũng được.
- Ấy chết, ngài cứ dạy thế, chứ một nhà văn có tiếng như ngài
mà phải đi làm những việc như thế thì còn ra làm sao ạ!
Lúc đầu, nghe người ta nói: "ấy chết, ngài cứ dạy thế!"
ông cũng cảm thấy hãnh diện, nhưng sau ông mới hiểu rằng người ta nói thế chẳng
qua chỉ cốt để chối khéo ông mà thôi...
Thế nhưng ông vẫn cứ đi lạy lục hết tòa soạn này đến tòa soạn
khác để xin việc. Để rồi lại được nghe những lời rất tử tế:
"ấy chết... Xin mời ngài cứ đến chơi ạ. Thật là quý
hóa!"
Khốn nỗi, chỉ nghe những lời tử tế suông thôi, người ta đâu
có thể no bụng được!
Những điều trớ trêu của kỹ thuật
International Hister Corporation" - Một công ty lớn nhất ở
Mỹ, xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ đủ mọi thứ đồ điện, máy móc, động cơ, tủ ướp lạnh,
máy thu thanh, máy kéo, xe vận tải, soong đun có còi báo, tóm lại là tất cả những
mặt hàng tối tân nhất của thế kỷ 20. Nhưng "International Hister
Corporation" không phải chỉ hoạt động trong phạm vi như vậy là hết. Công
ty đã ký hợp đồng xây dựng một kênh đào và tiến hành thăm dò địa chất ở miền
Trung Anatoli.
Nhưng mọi điều đó vẫn không ngăn trở đại diện công ty ở Thổ
Nhĩ Kỳ ngày ngày gửi các đơn khiếu nại về nhà máy ở Milwork. Các loại hàng hóa đưa vào Thổ Nhĩ Kỳ, kể từ dao cao râu chạy điện cho đến ô tô buýt và xe vận tải,
chỉ qua một thời gian là hỏng, là không tài nào chữa được nữa.
"International Hister Corporation" có 105 đại lý, chi nhánh và cửa
hàng ở khắp 5 châu, nhưng đơn khiếu nại gửi về hãng nhiều nhất vẫn là từ Thổ
Nhĩ Kỳ. Để đáp lại các đơn khiếu nại ấy, việc kiểm tra những mặt hàng xuất sang
Thổ đã được tăng cường, số lượng phụ tùng kèm theo cũng tăng lên nhưng đơn khiếu
nại vẫn cứ gửi đến mãi.
Lúc này công ty bèn đặt vấn đề nghi ngờ các hãng cạnh tranh với
mình đã mưu hại, mà cạnh tranh với công ty này là những hãng lớn: "Jo
Chalmers Co" và "Truck company". Người của "International
Hister Corporation" đã được đưa vào những hãng này để phá hoại. Thế là những
đơn khiếu nại cũng lại gửi tới tấp đến chỗ họ.
Sau khi ký hợp đồng về các công trình xây dựng,
"International Hister Corporation" bèn bắt tay vào việc điều tra
nguyên nhân thực sự đã gây ra những vụ khiếu nại. Người ta quyết định là viên tổng
giám đốc công ty sẽ sang Thổ còn trưởng ban kỹ thuật là kỹ sư Harry Scott sẽ đảm
nhiệm việc nghiên cứu các đơn khiếu nại nhận được các khách hàng. 3 xưởng đi
Anatôli để nghiên cứu các vụ khiếu nại. Họ dựng lều ở một thung lũng lớn, nơi định
tiến hành các công trình thăm dò địa chất. Làng gần nhất ở cách chỗ họ 18 cây số.
Sau khi sang Thổ được một hôm, mixtơ Harry Scott cũng 2 kỹ sư, 2 kỹ thuật viên và
1 phiên dịch lên xe hơi đi đến từng làng.
Tại làng thứ nhất, người phiên dịch nói với xã trưởng và
khách hàng trong quán cà phê những lời như sau:
- Các ông các bà có thể mang đến đây những thứ hàng của công
ty "International Hister Corporation" bị hỏng. Chúng tôi sẽ chữa
không lấy tiền. Những ông này sang đây chính là để làm việc đó.
Thoạt tiên những người nông dân không hiểu gì cả, và tay
phiên dịch lại giải thích:
- Chả lẽ trong làng này không ai có máy kéo, máy liên hợp,
rađiô, máy khâu à?
- Có! Có! - những người nông dân kêu lên.
- Nếu các ông bà có đồ dùng của công ty này làm ra bị hỏng thì
các kỹ sư đây sẽ chữa cho không mất tiền!
- Các ông xem giúp tôi cái rađiô - Một nông dân rụt rè nói.
Ông ta bảo con trai về lấy chiếc máy thu thanh bị hỏng. Khi
thằng con mang lại, các kỹ sư và kỹ thuật viên bắt đầu xem xét. Nhưng họ cố
công tìm mãi mà vẫn không thấy nhãn hiệu chiếc máy thu thanh đâu cả: Nó đã bị
xoá đi mất và trên vỏ máy đầy các hình vẽ và những dòng chữ vạch bằng dao nhíp.
Trên mảnh vải thô cũng ở vỏ máy có gài những chữ cái bằng đồng làm thành chữ
"mashallah", và bên cạnh đó không biết vì sao lại treo một hạt cườm
xanh. Từ bên trong hộp máy thò ra những cái đinh, trong số đinh có 3 cái bị bẻ
cong. Giữa các bộ phận trong máy có buộc các dây thừng và dây gai thậm chí cả
những giẻ rách mầu sặc sỡ nữa.
Xem xong sơ đồ máy, các kỹ thuật viên ngơ ngẩn nhìn nhau.
Harry Scott hỏi người phiên dịch:
- Đây là cái gì?
Phiên dịch hỏi những người nông dân:
- Họ hỏi đây là cái gì?
- Lão ta mù hay sao? Rađiô chứ còn cái gì nữa! - tức thì có tiếng
trả lời.
Harry Scott trợn ngược mắt lên vì ngạc nhiên:
- Đây là máy thu thanh? - lão hỏi lại - Chắc là hàng sản xuất ở
địa phương. Máy đã chạy bao giờ chưa?
- Chạy rồi chứ - người nông dân đáp - chúng tôi đã nghe được mấy
tuần lễ.
- Thế cái đinh to tướng này để làm gì? - Harry Scott hỏi qua
phiên dịch.
- Chỗ núm vặn bị gãy mất, tôi bèn lôi cái đinh ở chiếc gậy vẫn
dùng để đuổi bò ra và cắm vào máy.
- Còn những sợi dây thép này? - Harry Scott chỉ vào những sợi
dây điện thoại to tướng thò ra lòng thòng từ trong máy.
- Những dây cũ mảnh lắm, lúc chúng bị đứt tôi bèn cho những
dây này vào.
Các kỹ sư và kỹ thuật viên lại ngắm nghía cái hộp nằm trước mặt
họ lần nữa, những vẫn chịu không dám gọi nó là chiếc máy thu thanh. ở đây họ đã
trở nên bất lực, và do đó cảm thấy mình hết sức lúng túng.
- Tôi cũng có chiếc máy thu thanh như thế - một nông dân khác
nói xen vào - Nhưng tôi đã tìm được cách trị nó. Chạy suốt một năm nay rồi.
Và người nông dân bắt đầu biểu diễn cách "trị" của
mình. Ông ta nối những dây thép và các dây rợ lòng thòng vào các bộ phận máy, vặn
cái đinh thay cho tay vặn và... đèn cháy lên. Nhưng chiếc máy thu thanh vẫn yên
lặng. Người nông dân bèn đập vào vỏ mấy lần và bằng tiếng nhạc tự nhiên từ
trong máy bật ra. Những người kỹ sư ngơ ngác kinh ngạc. Mấy phút sau chiếc máy
lại nín bặt. Người nông dân bèn nhấc bổng nó lên và lắc mạnh. Chiếc rađiô bắt đầu
chạy nhưng lại im ngay. Khi ấy, chẳng cần suy nghĩ lâu la gì, người nông dân
bèn giáng luôn một quả đấm thật mạnh vào máy. Và kỳ lạ chưa kìa! Kính trong các
cửa sổ quán cà phê cũng phải rung lên vì tiếng hát.
- Chỉ có thế là nó mới hiểu được - người nông dân giải thích
hành động của mình - Nếu thôi không chạy thì cứ mang nện xuống đất là lại kêu
ngay!
Những người kỹ sư há hốc mồm vì kinh ngạc, kéo ra khỏi quán
cà phê, lên xe hơi đi đến một thị trấn, nơi họ phải xem xét những máy móc hỏng
mang nhãn hiệu "International Hister Corporation" gồm 2 ô tô buýt, một xe vận tải, một máy kéo và một xe du lịch. Đến thị trấn, họ đi xem chiếc xe hơi của
lão chủ khách sạn. Chiếc xe đậu ở một ngõ quặt chật hẹp. Từ cửa ô tô thò ra ống
khói của một bếp lò bằng sắt. Làn khói nhẹn toả ra từ chiếc ống khói. Trên các cửa
sổ có treo những rèm cửa bằng vải hoa sặc sỡ, chiếc kính hậu vỡ được thay bằng một tờ báo căng ra. một cánh cửa bằng gỗ dán và đeo trên 2 chiếc nẹp da. một bánh xe
không có lốp. Tại chỗ một bánh xe khác có chèn kích. Những cánh chén bùn bánh sau
không có. Các đèn pha đều vỡ, lò sưởi điện giống như cục bột nhão rúm ró. Chỉ
có con mắt thật tinh tường mới nhìn ra được màu sơn xanh ban đầu của chiếc xe dưới
những vệt bẩn đủ màu sắc phủ bên trên. Số xe được viết bằng keo màu.
- Đây la cái gì? - Harry Scott sửng sốt hỏi phiên dịch.
- Mắt ông không nhìn thấy à? Chả nhẽ ông ta chưa trông thấy
chiếc xe hơi bao giờ hay sao? - có tiếng đáp lại.
Harry Scott và những người đi theo choáng váng vì kinh ngạc.
Những người dân trong thị trấn xúm lại quanh chiếc xe hơi.
Con trai lão chủ khách sạn nói rõ thêm:
- Chúng tôi mua chiếc xe này nửa năm trước đây. Được 4 tháng
thì hỏng mất! Thế là đành phải đem cho thuê làm chỗ ở vậy.
- Chiếc ô tô buýt của tôi cũng y như thế - có tiếng nói từ
trong đám đông - nhưng tôi đã tìm được lối thoát: mọi ngày tôi chạy không quá
100 cây số! Nó dừng thì tôi lại sửa. Nói chung thì tôi đã biết cách điều khiển
nó thế nào rồi.
Họ rót xăng vào chiếc xe hơi của lão chủ khách sạn, nhưng
thùng chứa xăng bị chảy. Lỗ thủng được bít lại bằng nhựa cây. Người con trai
lão chủ ngồi vào sau chiếc tay lái gãy.
- Nào, lạy đức Ala! - tay chủ ô tô buýt thốt ra, chạy lấy đà
và đẩy mạnh chiếc xe hơi.
Động cơ bắt đầu nổ lạch bạch.
Những người kỹ sư tỏ vẻ ngỡ ngàng giang hai tay ra.
Bây giờ họ phải xem chiếc máy kéo hỏng. Trên máy béo có treo
những túm hanh, tôi, chiếc giày cũ, cái móng ngựa, những giãi vải; trên mui xe
ngổn ngang các túi và bọc chằng dây thừng.
Thật khó lòng tin nổi rằng đây là chiếc máy kéo! Vì thế nên
những người kỹ sư lại đành chịu không hiểu nổi nó hỏng ở chỗ nào.
Thấy vậy, một người nông dân đứng dấy bèn lấy búa giáng mấy
cái vào chiếc máy kéo, và động cơ bắt đầu nổ.
- Ông đã biết cách làm cho máy chạy rồi còn khiếu nại gì nữa?
- Harry Scott hỏi.
- Cứ nện vào đầu thì ai mà chẳng phải làm! - chủ nhân máy kéo
đáp.
Những người kỹ sư tiến lại chiếc xe ô tô buýt. Thùng xe được
ghép bằng các khung cũ có lắp các bảng ghi những đoạn trích trong sách kinh
thánh Côran. Trên chiếc gương dán tờ lời cầu nguyện "giúp cho thoát khỏi mọi
tai họa"; các ghế đệm êm có trải chiếc chiếu giống như những chiếu trải
trong quán cà phê. Trên thành xe kẻ các dòng chữ lớn: "lên đường bình
an", "trở về mạnh giỏi", "Ala phù hộ cho tôi",
"phượng hoàng của tôi!".
Những người kỹ sư không sao tin được rằng chiếc ô tô buýt,
này đã làm ở Mỹ. Người ta đẩy chiếc ô tô buýt, lấy búa gõ, nhưng xe vẫn không
chạy.
- Hượm tý đã! - người dân địa phương kêu lên.
Quay lưng lại mọi người, anh ta nhấp nắp che máy lên và đái
vào môtơ.
- Bây giờ thì thế nào cũng chạy, tôi đã hãm cho nó nóng lên một
tý rồi.
Và động cơ bắt đầu nổ thật.
Ngay chiều hôm ấy, Harry Scott một nhọc trở về lều, đã viết một
bức thư cho viên tổng giám đốc công ty "International Hister
Corporation".
"Về phương diện kỹ thuật - ông ta báo tin - thì người Thổ
đã vượt xa chúng ta và các nước khác rất nhiều. Họ ngấm ngầm chế tạo tại các xưởng
máy của họ những chiếc ô tô, máy thu thanh, máy kéo và xe vận tải theo các sơ đồ
và bản vẽ bí mật. Họ che giấu toàn thế giới việc sản xuất của họ. Người Thổ, những
kẻ có sức mạnh xưa nay ai cũng biết, đã dùng quả búa nện để trị máy kéo, dùng
nước tiểu đối với ô tô buýt. Điều bí mật về kỹ thuật ấy còn cao hơn bí mật
nguyên tử. Để khám phá ra bí mật đó đề nghị phái ngay sang đây các đặc vụ
chuyên về lãnh vực này. Quyền lợi của công ty đòi hỏi phải làm như vậy".
Aziz Nesin
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét