Bây giờ, văn chương thì để làm gì?
“Bây giờ, văn chương thì để làm gì?”. Khoan trả lời,
mà hãy “ngần ngừ” một chút trước câu hỏi “cắc cớ” này, có thể nhiều người sẽ thấy
ở trong đó, ngoài sự hoài nghi, còn thoáng một nỗi bi quan cho vận mệnh của văn
chương, cho lý do thực sự mà nhờ đó văn chương trụ lại được trong dòng đời sống
ngày hôm nay.
Nỗi bi quan ấy không ngẫu nhiên nảy sinh theo kiểu nảy sinh một
ý thích bất chợt. Nó có nguyên cớ của nó. Sự thui chột thói quen đọc sách,
trong đó có sách văn chương, ở một bộ phận lớn độc giả tiềm năng - cái mà giới
truyền thông Việt Nam ngày nay thường gọi là “sự khủng hoảng của văn hóa đọc” -
cần phải được cắt nghĩa vượt qua và nhiều hơn một tình trạng “suy bại tinh thần
xã hội” hay “học phong đình đốn” dễ dãi nào đó. Theo hướng ấy, một cách rốt
ráo, có lẽ nên đưa ra một câu hỏi khác, đầy tính thực dụng: Đọc tác phẩm văn
chương để được cái gì?
Cách đây một thế kỷ, thậm chí chỉ nửa thế kỷ thôi, câu trả lời
sẽ đến rất nhanh: Để được biết nhiều hơn về thế giới này. Người trả lời có thể
diễn giải như sau: Chúa nặn ra con người với tư cách là một sinh vật bất toàn,
một sinh vật bị đóng khung trong cái bi kịch của sự giằng xé giữa hữu hạn và vô
hạn. Nó sống ở đây, bây giờ, nhưng lại luôn thường trực niềm ham muốn được trải
nghiệm đời sống của mình ở mọi nơi, mọi lúc. Chỉ có một cây cầu để đưa nó đi từ
bờ hữu hạn sang tới miền vô hạn thôi, đó là văn chương. Đọc tác phẩm văn
chương, con người được lên rừng, xuống biển, vào lòng đất, ra sa mạc, tới thảo
nguyên, đang ở hiện tại bỗng trở về quá khứ rồi thoắt cái lại nhảy vọt đến
tương lai. Trong những cuộc dịch chuyển tọa độ không gian/ thời gian ấy, tri
giác địa - lịch sử của người đọc được mở rộng, mà kiến văn về địa - nhân học, về
địa - văn hóa của anh ta cũng trở nên dầy dặn thêm. Bởi anh ta được tiếp xúc với
các cộng đồng người cùng phong tục tập quán và các thiết chế văn hóa xã hội của
họ, anh ta được sống với các cuộc đời cá thể cùng bao niềm vui nỗi buồn, bao éo
le khuất khúc, bao bi kịch hài kịch và những tấn kịch nhân sinh chưa được gọi
tên khác. Biết được nhiều hơn về thế giới này cũng có nghĩa là biết được nhiều
hơn về chính mình, biết được những khả năng cùng những giới hạn, những sức níu
và những sức vươn nằm trong bản thân mình, một hạt bụi người trong thế giới. Tất
cả những điều đó, người đọc có được là nhờ tác phẩm văn chương. Nhưng, trớ trêu
thay, trong điều kiện của đời sống xã hội ngày nay, sức mạnh ấy của văn chương
chừng đã không còn nguyên vẹn như trước; hay nói cách khác, sau câu khẳng định
đã xuất hiện một vài câu hỏi nghi ngờ: Duy nhất văn chương làm được điều đó
chăng? Liệu có thể có những loại hình khác sẽ đảm nhận công việc với hiệu quả
cao hơn, và bởi thế, chúng sẽ đẩy văn chương xuống “bàn hai”?
Có. Báo chí, truyền hình, điện ảnh, đặc biệt là mạng xã hội,
đã và đang là những thế lực biến văn chương thành kẻ “ở chiếu dưới” trong việc
giúp con người hiểu biết nhiều hơn về thế giới này. Chúng mang cái thế giới rộng
lớn, đa chiều và dồn dập các sự kiện đến với con người nhanh hơn, cụ thể hơn, sống
động hơn nhiều so với điều tác phẩm văn chương có thể đem lại. Chỉ cần một cái
nhấp chuột hay một cái nhấn nút chuyển kênh, ngay lập tức ta đã có thể biết những
chuyển động ở thì hiện tại (hoặc quá khứ rất gần) trong thế giới mà ta đang sống:
bầu cử Tổng thống ở Hoa Kỳ, chiến tranh ở Iraq, căng thẳng chính trị ở bán đảo
Triều Tiên, sụt hầm mỏ ở Chile, bão lụt ở Trung Quốc, nạn đói và dịch bệch ở
Somali, biểu tình ở Hương Cảng v.v... Sự lệch pha về thời gian giữa “sự kiện
đang diễn ra” và “sự kiện đang được chứng kiến” là rất không đáng kể, và đó là
điều mà tác phẩm văn chương không có cách gì giải quyết được. Hoặc giả, một
cách chậm rãi hơn, nếu ta muốn biết về phong tục tập quán, đời sống xã hội, các
thiết chế và giá trị văn hóa của một cộng đồng người nào đó ở một vùng đất nào
đó trên bề mặt quả địa cầu này, rõ ràng là những chương trình truyền hình thực
tế hoặc những bộ phim tài liệu khoa học sẽ thỏa mãn nhu cầu ấy tốt hơn nhiều so
với một tác phẩm văn chương (Cần phải mở ngoặc đơn để nói thêm một chút ở đây:
Chẳng cần so với truyền hình và điện ảnh, trong trường hợp này, một tác phẩm
văn chương tốt nhất cũng không thể hơn được một ghi chép dân tộc học vào loại
“cẩn thận”. Tôi không tin khi đọc một tác phẩm văn chương nào đó về đời sống của
người Mường, tôi sẽ biết về người Mường nhiều hơn khi tôi đọc cuốn Người
Mường ở Hòa Bình của Trần Từ, tức nhà dân tộc học Từ Chi. Tương tự như vậy,
là người M’nông Gar trong Chúng tôi ăn rừng của G.Condominas, thổ dân
châu Mỹ trong Nhiệt đới buồn của C.Levi Strauss). Cách đây không lâu,
khi nhìn vào những thành tựu của văn học, khi phải cắt nghĩa giá trị của một số
tác phẩm, chúng ta thường nhấn mạnh đến khả năng thâm nhập hiện thực của tác giả,
cái cách anh ta sống cùng hiện thực, khám phá nó, rút tỉa nó, để từ hiện thực ấy
làm nên một hiện thực khác, chân thật hơn, sống động hơn trong cuốn sách của
mình. Những tác phẩm viết về đời sống của người dân công giáo vùng duyên hải Bắc
bộ của Nguyễn Khải vài chục năm trước là ví dụ khá tốt cho câu chuyện này. Thời
đó, khi mới ra đời, các tác phẩm loại này của Nguyễn Khải được đón nhận rất nồng
nhiệt, mà một trong những lý do chủ yếu là chúng đã mở ra trước mắt người đọc cả
một mảng đời sống phức tạp, có phong vị rất riêng, mảng đời sống mà lúc ấy
không phải ai cũng dễ dàng có điều kiện thâm nhập và trải nghiệm. Một tác giả ở
tạp chí Văn nghệ quân đội, khi nói về người tiền bối của mình, đã có nhận
xét khá tinh: Lúc đó, nhà văn không chỉ là nhà văn, mà nhà văn còn gánh luôn
công việc của nhà báo, tác phẩm của nhà văn là thông điệp nghệ thuật, và tác phẩm
ấy cũng kiêm luôn chức năng của thông tin báo chí. Vài chục năm trước là thế,
còn hiện nay, khi báo chí đã phát triển mạnh đến vậy, lại được sự hỗ trợ tối đa
của công nghệ hiện đại, điều hiển nhiên là nó sẽ vượt trên văn chương rất xa
trong việc đem lại cho con người những hình ảnh nóng ấm, tươi rói và hết sức cụ
thể về thế giới này.
Nhưng nói vậy không phải là nhà văn đã hết việc (cũng có
nghĩa là hết lý do để tồn tại, điều này sẽ nói sau), nhưng một cái nhìn khác đi
về chức năng của văn chương theo cách như vậy là cần thiết. Vài ba năm trở lại
đây ở ta rộ lên những ý kiến xung quanh nội dung “văn học phản ánh hiện thực đất
nước hôm nay”. Đã có hẳn mấy cuộc hội thảo như “Văn học với đề tài nông nghiệp,
nông thôn”, “Văn học với doanh nhân” v.v... Một mặt, có thể xem điều đó như một
nỗ lực nhận diện, đánh giá văn chương đương đại. Nhưng mặt khác, dễ nhận thấy
hơn, động thái ấy chính là lời thúc giục, là sự yêu cầu người sáng tác văn
chương phải lao mình vào những “dòng chảy lớn” của đất nước hôm nay, phải viết
về nó, phải biến văn học thành nơi in đậm hình ảnh của xã hội.
Có hai vấn đề cần phải/ đáng được bình luận ở yêu cầu này.
Thứ nhất, Phải chăng đang xuất hiện xu hướng coi văn chương
như một sự “chứng kiến” đối với những sự kiện, những vấn đề xã hội mà nhà văn
là người phải thể hiện sự có mặt của mình, bất kể anh có cảm thấy đủ điều kiện
và thời gian lắng đọng để làm điều đó hay không. Nông nghiệp, nông thôn ư? Việt
Nam ta chẳng phải là đất nước mà nông nghiệp chiếm một vị trí tối quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, nông thôn phủ trên đa phần diện tích lãnh thổ và
trong mỗi người dân - dù là thị dân nhiều đời - đều sống một “người nhà quê” đó
sao? Vậy tại sao nhà văn không viết về đề tài đó, nhất là khi nông thôn đang
chuyển mình mạnh mẽ dưới sự tác động tích cực của những chương trình hành động
lớn? Doanh nhân ư? Đó chẳng phải “một anh hùng của thời đại chúng ta”, một mẫu
người mới, mẫu người mang lại sự giàu có cho quốc gia, bởi thế rất đáng biểu
dương sao? Vậy vì cớ gì nhà văn chưa hăm hở viết về mẫu người này như trước đây
đã từng hăm hở viết về các nhân vật công - nông - binh? Yêu cầu được luận chứng
rất hợp lý, chỉ có một chi tiết dường như chưa được tính đến (hoặc cố tình bị bỏ
qua): với tư cách người sáng tạo tự do, nhà văn cần có đầy đủ điều kiện và cơ hội
để tiếp cận với đề tài một cách đầy đủ và toàn diện, và thực ra thì anh ta cũng
chẳng “dại gì” không viết nếu đó là một đề tài hấp dẫn và người viết tự thấy bản
thân mình có đủ năng lực để giải quyết nó.
Thứ hai, đặt ra yêu cầu công việc cho văn chương trước “hiện
thực đất nước hôm nay”, trước “sự kiện đang diễn ra” chính là yêu cầu nhà văn
phải trở thành nhà báo, trong khi, như đã nói ở trên, phương tiện tác nghiệp
báo chí của nhà văn cùn nhụt hơn rất nhiều so với phương tiện tác nghiệp báo
chí của nhà báo “thứ thiệt” trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như
vũ bão hiện nay.
Vậy nhà văn đành quay lưng ngoảnh mặt trước “hiện thực đất nước
hôm nay” chăng? Tôi không mấy tin vào cái kịch bản buồn bã này. Dù thế nào đi
chăng nữa, dù theo đường thẳng hay đường vòng, dù hữu ý hay vô ý, thế nào “hiện
thực đất nước hôm nay” cũng in dấu vết và lưu vọng âm của nó trong sáng tác của
các nhà văn đương đại. Ngay ở một cuốn tiểu thuyết tình rất “sến” như Phải
lấy người như anh chẳng hạn, đọc kỹ, ta sẽ thấy có những vấn đề của cuộc sống
đương đại, những vấn đề trong cách nghĩ và trong tình cảm của một bộ phận người
trẻ tuổi hôm nay. Mặt khác, có thể tin rằng văn chương ngày nay, cũng như văn
chương muôn đời trong mai sau, không bao giờ hết việc để làm nếu nó nhắm đúng
miền xác định của mình, cái miền mà báo chí chỉ có thể khoan thủng ở vùng ven.
Đó là thân phận Con Người. Con người như là nguyên nhân và kết quả của các thiết
chế xã hội, là sự bất mãn khôn nguôi trước hiện thực, con người với những giới
hạn không thể vượt qua, với sự giằng xé thường trực giữa các ham muốn, với những
nỗi đau có thật, có lời và không lời. Hoặc, mượn cách nói của Albert Camus (với
một chút thay đổi): Văn chương vẫn còn có thể làm được điều gì đó có ý nghĩa thực
sự nếu như nó bước thật chắc chân trên con đường độc đạo, giữa hai bờ vực: một
bên là thứ văn chương của những tràng vỗ tay tán dương tuyên truyền, bên kia là
thứ văn chương trưởng giả đầy những tình cảm xa hoa điêu trá.
8/8/2020
Hoài Nam
Nguồn: Văn nghệ số 32/2020
Theo http://vanvn.net/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét