Quan niệm nghệ thuật và
TÓM TẮT
Từ Baudelaire, Mallarmé, Valléry…, quan niệm thẩm mỹ về cái Đẹp
và triết lý sáng tác thơ, truyện của nhà văn Mỹ Edgar Allan Poe - nhà thơ, lý
thuyết gia của quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, ông tổ của truyện trinh
thám, kinh dị và phiêu lưu huyễn tưởng thế giới - đã “nhập tịch” vào quan niệm
nghệ thuật của nhiều nhà thơ, nhà văn lãng mạn Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX. Đó là quan niệm nghệ thuật về Cái Đẹp thuần khiết, độc lập với Đạo đức và
Chính trị, và “Nỗi buồn là địa hạt chính đáng nhất của thơ ca”. Đặc biệt hơn,
Poe còn đề cao lý trí, cho rằng “nghệ thuật là sản phẩm của trí tuệ”. “Triết lý
sáng tác” kỳ lạ của ông tuy ban đầu bị nhiều cây bút lên án, nhưng đến nay, đã
trở thành những công thức sáng tác mẫu mực không chỉ cho văn học Mỹ mà còn cả
văn học thế giới, trong đó có văn học Việt Nam.
1. Mở đầu
Giới nghiên cứu lâu nay vẫn cho Edgar Poe là một nhà thơ chủ
trương “Nghệ thuật vị nghệ thuật”, là “lý thuyết gia” đầu tiên của thi phái
này. Có lẽ bởi sáng tác của ông không quan tâm đến những vấn đề chính trị, xã hội,
mà chỉ hướng về nội tâm con người. Và có thể bởi Poe quá chú trọng đến hình thức
nghệ thuật sáng tác. Thực ra vấn đề này không phải không có những tranh cãi, phủ
định, xuất phát từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Có người cho rằng sáng tác của
ông có ý đồ kỹ thuật quá đậm, nhà thơ chỉ là một “thợ văn” hơn là một
thiên tài nghệ thuật đích thực. Thậm chí còn đánh giá tác phẩm của ông “chỉ là
những mảnh ráp nối từ cuộc đời ông”, “chỉ là sản phẩm của một kẻ loạn thần
kinh, đầu óc bệnh hoạn, thiếu thăng bằng”. Ngay cả James Russell Lowell, mặc
dù là một nhà văn thiên tài cũng cho rằng “hai phần năm trong số những tác phẩm
của Poe chỉ là những chuyện tầm phào” (Lê Đình Cúc, 2001, 154). Thế nhưng,
ngày nay, đã có nhiều bài báo, công trình đặt lại vấn đề này, và đề cao “nhà
thơ điên” Edgar Allan Poe là “thiên tài bí ẩn, kỳì lạ nhất” của văn học Mỹ và thế
giới, người để lại nhiều ảnh hưởng nhất ở các nền văn học Đông Tây thế kỷ XIX
đến nay. Bài viết này tập trung tìm hiểu quan niệm thẩm mỹ độc đáo của Poe về
cái đẹp và những cách tân độc đáo của ông trong việc sáng tạo ra “triết lý”
sáng tác thơ, thiết lập các nguyên tắc thẩm mỹ trong truyện ngắn, để lại nhiều
dấu ấn trong nghệ thuật sáng tác văn chương Việt Nam.
2. Quan niệm nghệ thuật về Cái Đẹp của Edgar Allan Poe
2.1. Cái Đẹp thuần khiết
và Tự nó
“Trước Poe chưa có nền văn học Hoa Kỳ” (J.
Cabau, 2009, 35), thế hệ của Poe chính là người khai sinh nó. Edgar Allan Poe
được coi là người mở đường cho trường phái thơ tượng trưng, là “lý thuyết gia”
đầu tiên của quan điểm “Nghệ thuật vị nghệ thuật” với quan niệm độc đáo, khác lạ
về sáng tác so với những tác gia cùng thời. Trong các tiểu luận phê bình tiêu
biểu của Poe, nhiều lần ông khẳng định bản chất của thơ là phải đẹp.
Dù muốn tả một cảm xúc, một tâm trạng hay một chân lý thì những
thứ đó cũng phải được bao phủ bởi cái đẹp, nếu không thì không thể
thành thơ. Theo Poe, Cái Đẹp thuần khiết trong sáng vốn không ràng buộc bởi
bất kỳ yếu tố khách quan nào, hoàn toàn nằm trong tưởng tượng của nhà thơ. Nếu
tách tưởng tượng ra khỏi vạn vật thì cũng có nghĩa là đi ngược với quy luật của
tự nhiên, làm cho hiện thực cuộc sống trở nên nghèo nàn trần trụi đi, và, sẽ
không còn cái đẹp (Sonnet - To Science). Quan niệm này rất được các nhà tượng
trưng Pháp đề cao. Với Poe, “Cái Đẹp là lĩnh vực chính đáng duy nhất của thi
ca. Đó là một niềm vui thích rất mãnh liệt, rất cao cả, và cũng rất thuần khiết
mà con người chỉ có thể tìm thấy trong sự chiêm ngưỡng cái đẹp” [1]. (Baym
Nina, 1989,1322). Có lẽ Poe cũng là người đầu tiên sớm phân biệt rõ Cái Đẹp với
chân lý và sự đam mê: “Trong thực tế, chân lý đòi hỏi sự chính xác còn đam mê
thường là thô thiển (những người thực sự đam mê sẽ thông cảm với tôi), mà cả
hai điều này (sự chính xác và thô thiển) lại hoàn toàn đối lập với cái Đẹp” [2]. Và thơ của
Poe đã thuần túy đi vào cái đẹp bởi cái đẹp của chính nó, chính mục đích của
thi ca.
Trong tiểu luận khá nổi tiếng khác, Nguyên lý thơ (The
Poetic Principle) Poe đã định nghĩa bổ sung: “Thơ ca như là sự sáng tạo nhịp
điệu của cái Đẹp. Trọng tài duy nhất của nó là Thẩm mỹ. Với Trí tuệ hoặc
lương tâm, nó chỉ có mối tương quan phụ. Trừ phi ngẫu nhiên, nó không có mối
liên hệ gì với trách nhiệm hay sự thật.” [3]. Poe cũng
nhấn mạnh: “bản thân của nguyên lý thơ - nói một cách đơn giản và chặt chẽ - là
sự Khát khao của con người về cái đẹp cao cả, sự biểu lộ của nguyên lý này luôn
luôn căn cứ vào việc nâng cao sự phấn chấn của tâm hồn, hoàn toàn độc lập với Cảm
xúc là sự say sưa của trái tim, hoặc với sự thật là sự thỏa mãn của lý trí” [4].
2.2. Nỗi buồn là giọng điệu phù hợp nhất của thơ ca
Mặt thứ hai trong quan niệm về Cái Đẹp của Poe cũng khác hẳn
những quan niệm quen thuộc thông thường khi ông cho rằng: “Cái Đẹp ở bất
cứ kiểu loại nào, khi đạt tới cực độ thì bao giờ cũng làm người ta
phải nhỏ lệ, do đó giọng thơ phải buồn. Vì thế, u buồn chính
là giọng điệu phù hợp nhất của thi ca” [5]. (Baym
Nina, 1989, tr.1323). Và ông chọn: “Cái chết của người phụ nữ đẹp (trẻ) là đề
tài thơ mộng nhất” (The Philosophy of Composition). Hình tượng trung tâm trong
nhiều tác phẩm của ông đều có nhân vật nữ chính hoặc điên loạn chết, hoặc ốm yếu
và tàn tạ đến chết bởi một căn bệnh quái ác: lao phổi. (Ligeia, Moreilla,
Berenice, Sự sụp đổ của ngôi nhà dòng họ Usher, Bức chân dung hình ô-van…).
Chính vì luôn tự dày vò trong suy nghĩ đau đớn về cái chết, nhiều bài thơ của
Poe mang trạng thái tuyệt vọng - một thứ khoái cảm trong sự tự hành hạ dày vò
chính mình, một kiểu bệnh tâm lý (sadism). Bài thơ Con quạ (The Raven)
với điệp khúc “Nevermore- không bao giờ nữa” vì vậy đã trở thành một kiệt tác
làm nên tên tuổi của Poe và quan niệm về Cái Đẹp của ông: Cái Đẹp là cái u
sầu. Nỗi - đau - mất - người - phụ - nữ - yêu - dấu đã trở thành kiểu
đề tài “độc quyền” của Edgar Poe. Cũng như nói đến Edgar Poe là người ta nghĩ đến
hình ảnh con quạ và nỗi ám ảnh: “Và con quạ vẫn không bay đi, còn đậu đó (…),
ánh sáng đèn giội lên nó, rọi bóng nó trên đất, và tâm hồn tôi không bao giờ thoát
lên khỏi cái bóng chập chờn trên đất ấy, không bao giờ nữa!” (Nguyễn Hiến Lê,
1957, 29).
Song, cũng cần phân biệt đề tài Cái chết của Poe không nhằm
miêu tả bản thân cái chết mà là quá trình con người nhận thức về cái chết và kiểu
chết. Suy nghĩ và phản ứng của con người ra sao trước cái chết. Đối mặt hay sợ
hãi, chạy trốn? Poe thường miêu tả thật chi tiết những cảm nhận của con người
khi đang dần chết đi và những nỗ lực vùng vẫy của họ để được trở về dương thế.
Theo Poe, nhận thức quy luật về cái chết không phải là sự yếu đuối mà chính qua
đối mặt với cái chết, sức mạnh con người lại được khẳng định. Trong nhiều truyện
huyễn tưởng kì ảo của Poe, nhân vật của ông đều trở về từ cái chết. “Không có sự
đổi mới nào tránh được cái chết. Con người, như một cuộc chạy đua, không nên mất
hết hy vọng, anh ta phải được sống lần nữa”[6]. (E. Poe,
1984, 597). Gia tài nghệ thuật của Poe, ngoài những thông điệp về Cái chết,
Tình yêu và Nỗi buồn còn mang nặng những trăn trở giằng xé phản thân của con
người khi tự đối bóng để đi tìm cái bản ngã đích thực của mình (William Wilson,
Con người của đám đông, Trái tim thú tội, Con mèo đen…).
2.3. Nghệ thuật vị linh hồn con người
Có thể nói một cách khách quan hơn, theo cách dùng từ của
Eric Calson, tuy đề cao cái Đẹp, cho trọng tài duy nhất của thơ ca là Thẩm mỹ
và đối lập nó với Đạo Đức, Lương tâm…, Poe không hoàn toàn chủ trương “Nghệ thuật
vị nghệ thuật” (Art for Art’s Sake) mà đúng hơn là đi theo quan điểm “Nghệ
thuật vị linh hồn con người “(Art for the Soul ‘s Sake) (Eric Calson,
1973, 3). Có lẽ điều này mới thật phù hợp với quan điểm nghệ thuật của Edgar
Poe. Nghệ thuật trước hết vì chính bản thân việc thoả mãn những cảm xúc thuần
túy của con người trước Cái Đẹp, đồng thời cũng là sự khám phá thế giới tâm hồn
đa dạng phức tạp của con người. Đó cũng là con đường tuy không trực tiếp nhưng
cũng phục vụ cuộc sống, phục vụ nhân sinh chăng? Hiểu được, hiểu đúng về con
người phải chăng cũng chính là mục đích mà thơ ca nói riêng và văn chương nói
chung luôn hướng tới để làm cho cuộc sống này, thế giới này ngày một tốt đẹp
hơn. Chính nhà văn Mỹ Emerson, người hoàn toàn không theo quan niệm “nghệ thuật
vị nghệ thuật” cũng thấy rằng: “bao giờ cái đẹp cũng phục vụ cho tư tưởng và sự
nâng cao tinh thần” (Nguyễn Đức Đàn, 1997, 126).
Những quan điểm thẩm mỹ tưởng như kỳ lạ này của Poe về Cái Đẹp,
Cái Chết và Kiểu trở về từ cái chết, cũng như sự nhận thức về cái chết đã được
tiếp nhận và tiếp biến trong văn chương Việt Nam. Thơ lãng mạn Việt Nam từ những
năm 30 cũng đầy ám ảnh về cái chết, có lẽ không chỉ đơn thuần là cái nhìn bi
quan yếu đuối mà còn ẩn một thông điệp của sự phản kháng, phủ định thực tại đen
tối và khẳng định sức mạnh con người? Còn “cái chết của người con gái đẹp - người
yêu dấu” của Poe, cho đến nay, đã trở thành một trong những chủ đề được nhiều
cây bút tài hoa ưa thích và khai thác thành công nhất. Quan niệm nghệ thuật của
Edgar Poe đã được Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê và một số nhà văn,
nhà thơ Mới khác tiếp nhận trong buổi giao thời với tâm thế khao khát cách tân
văn học nước nhà theo con đường hiện đại hóa phương Tây. Chính thức hoặc không
chính thức, các nhà thơ Mới này đều có những tuyên ngôn độc đáo về thơ và vai
trò của người nghệ sĩ. Có lẽ, với họ, Cái Đẹp tuyệt đối, cái Đẹp thuần khiết,
không chịu ảnh hưởng của đạo đức, luân lý ràng buộc, khát khao giải phóng cái
Tôi ở mọi cung bậc cũng chính là “khát vọng thành thực” phá vỡ xích xiềng lạc hậu
sáo mòn của văn học ảnh hưởng văn hóa Hán ngàn năm trước, trong những năm đen tối
ngột ngạt nô lệ của đất nước, tìm một hướng đi mới cho văn học dân tộc. Nghĩa
là, ở một mặt nào đó, đã phục vụ nhân sinh?
3. Quan điểm sáng tác: “Nghệ thuật là sản phẩm của trí tuệ”
Poe rất tôn thờ Nghệ thuật, coi đó là nữ hoàng cao cả nhất. Và nhà thơ,
như một thiên mệnh, là người trung gian giữa ý tưởng của Thượng Đế và khát vọng
của con người. Ông tự ví tâm hồn mình “như một dây đàn”, chỉ rung lên bởi
cảm xúc mãnh liệt mà Nàng Nghệ thuật mang đến. Những giấc mơ xa xôi với những
“Nàng Thơ”, “Nàng Tiên” - thường được Poe đề cao với một vẻ đẹp thiên
thần, bất tử - như là một phương tiện, một phương thuốc nhiệm màu “Để giải
thoát trái tim tôi, và những hy vọng sắp tàn”. Bởi vì hễ khi nào: “Còn tin
vào những giấc mơ. Tôi còn bị quyến rũ bởi Nàng thơ.” (Gửi nàng Louise Olivia
Hunter) [7]. Mà như
chúng ta biết, cuộc đời lẫn thơ của Poe luôn đầy những giấc mơ. Đó là chuỗi kiếm
tìm trong vô vọng “thiên đường đã mất” (Paradise Lost), là sự trốn lánh “thực tại
đau buồn đầy hỗn loạn và dục vọng đua chen”. Giấc mơ là một phần đời
của Poe. Bởi, với nhà thơ bất hạnh này:
“Tôi chỉ hạnh phúc trong giấc mơ.
Tôi hạnh phúc.
Và tôi yêu điều đó [8].
(Những giấc
mơ)
Tuy
nhiên, cần hiểu rõ hơn những tuyên ngôn tưởng chừng như đầy mâu thuẫn của Poe.
Có lẽ Poe là nhà văn đầu tiên có ý thức phân định rạch ròi: Bản chất của thơ ca
là Cái Đẹp thuần khiết, còn quá trình sáng tạo ra bài thơ lại hoàn toàn là vấn
đề của lý trí. Đề cao lý trí, “Etga Pô đã quan niệm sáng tác thơ ca không phải
là một hoạt động thần bí, hoặc có tính may rủi ngẫu nhiên mà chịu sự chỉ đạo chặt
chẽ của lý trí.” (Hà Minh Đức, 1997, 147). Trong tiểu luận Nguyên lý
thơ (The Poetic Principle), Poe viết: “Chia thế giới trí óc thành ba phần
khác biệt rõ ràng, chúng ta có Trí tuệ thuần tuý, Thẩm mỹ, và Ý thức Đạo đức.
Tôi đặt Thẩm mỹ ở vị trí giữa, bởi nó chỉ có thể chiếm vị trí này trong trí
óc.” (Baym Nina, 1989, 1334)[9] Từ những
“tuyên ngôn” của Poe, Nguyễn Hiến Lê cũng rút ra kinh nghiệm sáng tác: “hứng
thú “chỉ quan trọng có 5%, còn chín mươi lăm phần trăm nữa là công phu” (Nguyễn
Hiến Lê, 1957, 38). Việc chọn bài thơ ‘Con quạ’ để giải thích quá trình
sáng tác của Poe có lẽ cũng là việc làm độc nhất vô nhị thời bấy giờ. Poe đã chứng
minh “không có một điểm nào trong bố cục của bài thơ có thể quy cho sự ngẫu
nhiên hay trực giác, mà tác phẩm đã phát triển từng bước cho đến khi hoàn thành
với kết quả chính xác và nghiêm ngặt của một bài toán” [10]. (Baym
Nina, 1989, 1321). Dù còn dè dặt, Hà Minh Đức cũng đánh giá trường hợp cá biệt
của Poe mang ý nghĩa tích cực bởi thể hiện được “ý thức của nhà thơ chỉ đạo chặt
chẽ quá trình sáng tác” và đã “nói lên được một cái gì chung cho hoạt động thơ
ca.” (Hà Minh Đức, 1997,148). Nghệ thuật là sản phẩm của trí tuệ. Quan điểm
sáng tác rất lạ, rất mới so với kinh nghiệm thẩm mỹ sẵn có từ trước này của Poe
đã vượt ra khỏi tầm đón đợi của thời đại ông sống, từng khiến thời đại của ông
lúng túng, chưa chấp nhận ngay được nên không ít nhà phê bình đã phản ứng, coi
ông là ‘kẻ điên rồ”!
Ở Việt Nam cũng không ngoại lệ, diễn trình tiếp nhận quan điểm này vẫn còn nhiều
ý kiến đối thoại, tranh cãi, bất đồng. Ngay chính Nguyễn Hiến Lê, người dịch và
phê bình đầu tiên tiểu luận này, tuy thán phục tài năng nhưng cũng không coi đó
là mẫu mực cho sáng tác thơ ca vì theo ông: “phương pháp của Edgar Poe chỉ có
thể dùng để sáng tác những tiểu phẩm khéo mà không hồn.” (Nguyễn Hiến Lê, 1957,
32). Ngược lại, nhà thơ Nguyên Sa thì đồng tình: “sáng tạo không phải lên đồng
hay cầu cơ và nghệ sĩ ngồi đó như cái xác không hồn để cho ngọn gió từ phương
xa, tinh thần từ thế giới khác nhập vào”, mà ý thức về nghệ thuật sáng tạo thể
hiện qua sự trăn trở tìm tòi về kỹ thuật sáng tạo, bởi ý thức này “có mặt trước
khi, trong khi và sau khi cấu tạo tác phẩm” (Nguyên Sa, 1967, 120). Điều này
cũng tương đồng với quan niệm quen thuộc của E. Poe về lối thơ duy lý, óc suy
luận trong nhiều truyện ngắn của ông.
Đến những năm đầu thế kỷ XXI, quan điểm sáng tác kỳ lạ của Poe lại được thế hệ
những nhà văn mới khẳng định. Tiếp cận nhiều tác phẩm của Poe từ tiếng Nga,
kinh nghiệm đọc E.A.Poe của nhà văn - nhà nghiên cứu- dịch giả Ngô Tự Lập lại
đưa đến một sự đồng cảm sâu sắc với quan điểm khác thường của Edgar Poe. “Ngay
từ trước khi viết văn, tôi vẫn nghĩ rằng viết văn là giải một loại bài toán”.
Quan điểm “Nghệ thuật là sản phẩm của trí tuệ” của Edgar Poe đã trở thành lời động
viên quý báu cho con đường nghệ thuật của Ngô Tự Lập. Đây là một sự tiếp nhận
chủ động và rất ý thức, bởi với tác giả, ý tưởng của Poe đã giúp ông khẳng định
chuẩn thẩm mỹ của mình, vì cho dù: “Poe có mô tả đúng những gì diễn ra trong
quá trình sáng tác bài thơ nổi tiếng của ông hay không, nhưng có một điều chắc
chắn: sự ra đời văn học hư cấu cũng đồng thời là sự lên ngôi của trí tuệ.” (Ngô
Tự Lập, 2005, 32).
4. “Triết lý sáng tác” trong truyện và thơ
4.1. “Triết lý” về kỹ thuật xây dựng truyện
Hầu hết truyện của Poe đều là
thể loại truyện ngắn. E.A.Poe cũng chính là người khai sinh lý thuyết về
truyện ngắn qua nhiều bài báo, phê bình tiểu luận của ông, và đã “mang
lại cho nó một định nghĩa mà không ai vượt qua nổi” (Lê Huy Bắc, 2003).
Trong Triết lý về sáng tác (Philosophy of Composition), kỹ thuật xây dựng
cốt truyện được Poe nói rõ: “Mọi cốt truyện đúng như tên gọi là cốt
truyện phải được xây dựng nhằm vào sự mở nút của nó trước khi ngòi bút động đến
những vấn đề khác”. Và phải làm sao cho “những tình tiết và đặc biệt là những
giọng điệu ở mọi điểm đều hướng về sự phát triển của ý đồ” [11].
Poe cũng nhấn mạnh nên “bắt đầu bằng sự cân nhắc một hiệu quả cho tác
phẩm.” Nhất là “luôn phải giữ quan điểm về sự độc đáo - bởi vì những
ai liều lĩnh sử dụng nguồn hứng thú quá rõ và quá dễ dàng đạt được vì có sẵn
thì sẽ lâm vào tình trạng giả dối với chính mình” [12].
Ngoài ra, dung lượng của tác phẩm được Poe cho là cần xem xét đầu
tiên, bởi theo ông “Nếu như một tác phẩm văn học quá dài, không thể đọc được một
mạch (one sitting), chúng ta sẽ bỏ mất hiệu quả quan trọng phát sinh từ sự thống
nhất ấn tượng (unity of impression) - bởi vì, nếu như phải đọc làm hai lượt,
những công việc sự vụ trên đời này sẽ xen vào và cái tổng thể lập tức bị phá huỷ” [13].
Điểm này cũng được ông nêu cụ thể hơn trong tiểu luận Phê bình những
truyện kể hai lần của Hawthorne (Review of Hawthorne Twice Told Tales).
Muốn đạt hiệu quả ấy, nhà văn phải cân nhắc, tính toán trước những
hiệu ứng nào sẽ gây ra nơi người đọc rồi mới chọn lựa, kết hợp các
biến cố, các tình tiết để xây dựng thành tác phẩm, phải tạo ra
những phương tiện biểu hiện làm tăng hiệu quả của sự rùng rợn và
khiếp sợ. Và cũng có thể nói thiên tài của Poe là ở chỗ phát hiện rất sớm vai
trò người đọc trong thời điểm bấy giờ. Nguyên tắc viết truyện ngắn này đã
được Poe thử nghiệm trong nhiều tác phẩm của ông. Poe thường đặt bối cảnh
truyện vào ban đêm, trong bóng tối; tập trung miêu tả những hình ảnh
tưởng tượng ghê rợn đến kì lạ vốn không có trong hiện thực như
trong Mặt nạ tử thần đỏ, Sự sụp đổ của ngôi nhà Usher, Cuộc
trò chuyện với một xác ướp, Linh hồn, Con quỷ trên gác chuông, Con
mèo đen… chuyện “nhập xác” trong Ligeria, chuyện Egaeus vì quá
thương tiếc người yêu mà trong cơn mộng du đã đào huyệt…mang về 32 cái
răng nhỏ trắng của nàng trong Berenice… Bản thân những hình ảnh ấy đã
gợi trí tò mò và sự kinh hãi nơi người đọc. Tính biểu tượng về màu sắc,
ánh sáng, âm thanh cũng góp phần tạo nên hiệu ứng khiếp sợ này. Poe đã miêu tả
được trạng thái đặc biệt của tâm hồn con người qua tâm lý trái ngược lạ
lùng, càng sợ hãi, người ta càng bị sự tò mò thôi thúc và muốn chiến
thắng nỗi sợ hãi bằng cách khám phá nó đến cùng.
Cách kể chuyện trong hầu hết các truyện của Poe thường
đi theo thời gian hồi tưởng, nhân vật trần thuật thường là ngôi thứ nhất nên
truyện của Poe mang dáng dấp những tự thuật, tự thú, dằn vặt, gợi liên tưởng đến
những giá trị phê phán xã hội, kinh tởm sự độc ác của con người, dù Poe tuyên bố
tách rời văn chương với luân lý, đạo đức…. Giọng người trần thuật Ngôn ngữ độc
thoại do chính nhân vật -cũng là người kể chuyện tự kể lại những câu chuyện kì
dị, khủng khiếp của mình là chọn lựa khá phù hợp của Poe. Kỹ thuật này góp phần
phơi bày những giằng xé nội tâm của nhân vật, hoặc tự phân tích nguyên nhân gây
ra tội ác và khiến người đọc như chứng kiến được toàn bộ quá trình phạm tội và
cảm thông, sợ hãi, kinh hoàng hay tự đưa ra những phán xét. Những lý thuyết
truyện ngắn trên đã tạo nên phong cách tiêu biểu cho truyện ngắn của Poe mà
ngày nay đã trở thành khuôn mẫu của thể loại.
4.2. “Triết lý sáng tác” trong thơ ca
Trong tiểu luận nổi tiếng “Triết lý về sáng tác”,
Poe đã kể lại cách mình sáng tác bài thơ ‘Con quạ’ như thế nào. Những luận
điểm cơ bản về quan niệm nghệ thuật của Poe trong tiểu luận trên chúng tôi đã
giới thiệu (phần 2.1.) nên không lặp lại, chỉ nhấn mạnh kĩ thuật xây dựng cấu
trúc và ngôn ngữ thơ của Poe bởi các bước sáng tác của ông khá trái ngược với lối
thông thường. Trước tiên, Poe cân nhắc độ dài của bài thơ không nên
dài quá vì sẽ làm người đọc không thể đọc liền một mạch. Bước thứ hai là chọn lựa cảm
xúc định gây nơi người đọc, mà theo Poe, cảm xúc đó phải là sự thích thú,
và giọng thơ phải buồn đến ảo não, bi thảm. Thứ ba, điều căn bản nhất là “bài
thơ phải có một điểm làm điệu chính, có tính cách nghệ thuật, kích thích.
Điểm đó sẽ là điệp khúc (refrain). Nhưng điệp khúc chỉ được lặp lại về
âm thanh, chứ không được đơn điệu về ý tưởng.” (Nguyễn Hiến Lê, 1957, 15). Để
tránh sự nhàm chán, trong mỗi điệp khúc, âm thanh không thay đổi mà ý tưởng thì
phải thay đổi để gây cảm xúc mới cho người đọc. Tất nhiên, điệp khúc cũng không
nên dài quá, tốt nhất là những từ đơn, đặt ở cuối mỗi đoạn. Điệp khúc này, theo
Poe, phải có âm vang và dài. Đó là bước thứ tư. Rồi ông xét hết thảy các âm tiếng
Anh và chọn kết hợp âm O và R thành điệp khúc “nevermore”. Thủ pháp này gần như
là thủ pháp nghệ thuật chính trong thơ ông. Điệp khúc ở cuối mỗi khổ
thơ, điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, điệp đầu câu, điệp vòng tròn… đều
có mặt dày đặc trong hầu hết các bài thơ kiệt xuất của ông.
Trong một tiểu luận trước đây, Nghệ thuật tượng trưng
trong thơ Edgar Allan Poe, chúng tôi đã từng nói rõ hơn về đặc điểm này. Có thể
dẫn chứng tóm tắt lại những cách sử dụng điệp khúc ấn tượng rõ nét trong một số
bài thơ nổi tiếng nhất của Poe như The Raven, The Bells, The
Coliseum và Annabel Lee như:
Nothing more (6
lần), Nevermore (11 lần), my chamber door (7 lần), his chamber door
(2 lần) - (The Raven)
Not all (6
lần) our power, our fame,
the magic, the wonder,
the mysteries, the memories (The Coliseum)
Keeping
time, time, time (4 lần) (The Bells)
From
the bells, bells, bells, bells,
Bells, bells, bells -
Of the bells, bells,bells, bells
Bells, bells, bells - (7 lần) - (The Bells)
In a kingdom
by the sea (5 lần), my Annabel Lee (3 lần), the beautiful
Annabel Lee (3) (Annabel Lee)
Với ý thức chọn lựa âm thanh công phu, đúng là Poe
đã tạo nên những âm thanh kỳ diệu bởi ngôn từ. Có thể thấy, chỉ riêng từ “bells”
đã xuất hiện 61 lần/ 112 dòng thơ của bài ‘Những tiếng chuông’. Các từ thính
giác và thị giác được liên kết tạo thành một giai điệu bất tận, lan tỏa, diễn tả
sự tương hợp xúc cảm giữa con người và vũ trụ. Thủ pháp điệp khúc độc đáo này
đã làm tăng nhạc tính cho thơ mà không bị cùn mòn về nghĩa. Rimbaud, Verlaine
và nhiều nhà thơ Pháp rất ngưỡng mộ và ít nhiều chịu ảnh hưởng kỹ thuật sáng
tác này từ Poe.
Bấy giờ
mới đến bước thứ năm là tìm ý chính cho toàn bài. Chọn được đại ý rồi
ông bắt đầu kiếm ý cho mỗi khổ và viết ngay khổ kết là khổ
buồn thảm nhất và lấy khổ ấy làm chuẩn để viết các khổ trước nó. Cuối cùng ông
mới chọn khung cảnh phù hợp cho bài thơ để làm tăng cảm xúc bi thảm
đã định. Có thể thấy, Poe đã tính toán hết sức tỉ mỉ các yếu tố hình thức của một
bài thơ từ âm thanh, từ ngữ, số câu, số đoạn đến hình ảnh và cảm xúc theo
phương pháp hình thức quyết định nội dung. Giới phê bình Âu Mỹ và cả Việt Nam
chúng ta đã có biết bao tranh cãi, hoài nghi về các bước hình thành bài thơ của
Poe dù không phủ nhận tiểu luận này là tư liệu quý giá cho các nhà nghiên cứu
như đã nêu ở mục 3.
Tính nhạc chính là luận điểm quan trọng xuyên suốt nhiều
tiểu luận phê bình của Poe và sau này trở thành nguyên tắc quan trọng của thơ
tượng trưng. Âm nhạc giúp thơ mở ra những chân trời mới không cùng cho tưởng tượng
của người nghệ sĩ. Trong “Thư gửi B” (Letter to B), Poe khẳng định: “Âm nhạc
mà không có ý tưởng chỉ đơn thuần là âm nhạc, còn ý tưởng mà không có âm nhạc
thì chỉ là văn xuôi” [14] (Baym
Nina, 1989, 872). Mặc dù một số nhà phê bình Mỹ cho rằng “cái đẹp trong nhịp điệu
và âm thanh của Poe thường chỉ có một nội dung trống rỗng” (Nguyễn Đức Đàn,
1996, 69), hoặc do ý đồ kỹ thuật quá đậm nên thơ của ông thiếu sự hồn nhiên,
thành thực. Nhưng nếu đã đọc từng bước tỉ mỉ, cẩn thận theo logic mà Poe giải
thích quá trình hình thành một bài thơ trong Triết lý về sáng tác, hẳn có
thể thấy Poe là một nhà thơ lao động nghiêm túc đến độ tận tụy khi khổ công tính
toán, chọn lựa hình ảnh, kết cấu, nhịp điệu cho thơ.
Về ngôn ngữ, Poe thường dùng nhiều định ngữ nghệ thuật
mang tính tráng lệ pha lẫn khoa trương tạo ấn tượng mạnh về cảm xúc. Các nhà
“Poe học” (Poe scholars) Mỹ và thế giới đã có nhiều công trình khảo sát diễn
ngôn nghệ thuật của Poe và đề cao ông là một nhà tu từ học, phong
cách học, người sáng tạo ngôn từ bởi sự tinh thông của ông về các phong
cách đa dạng của ngôn ngữ văn chương và sự sử dụng từ ngữ, âm thanh khéo léo,
tài tình đầy sáng tạo của ông. Burton R. Pollin đã liệt kê những từ đơn, từ
ghép và danh từ riêng tiếng Anh do Poe sáng tạo hoặc sử dụng đầu tiên trong
công trình Poe, Creator of Words của ông gồm 1143 từ mới xuất hiện
trong văn học, nhiều hơn cả Melville 200 từ. Trong Bản chất của thơ ca (The
Rationale of Verse), Poe nhắc lời Goold Brown định nghĩa: “Phép làm thơ là nghệ
thuật sắp xếp từ ngữ vào những dòng thơ có chiều dài tương ứng, phù hợp để tạo
sự hài hòa bởi sự thay đổi luân phiên của các âm tiết khác nhau (dài - ngắn) về
số lượng” [15] (E.Poe,
1850, 217) theo một sự tính toán chặt chẽ. Mọi sự sắp xếp này, nếu đo lường được,
có thể tìm thấy mối quan hệ toán học chính xác. Theo ông, “nguyên tắc sơ đẳng của
thơ có lẽ chỉ tìm được trong nhịp spondee, và mọi mầm mống của ý tưởng đều
có thể tìm được trong sự cân bằng của một nhịp có hai âm tiết” [16] (E.Poe,
1850, 223). Poe cũng đòi hỏi phải có sự hài hòa, tính chất du
dương tạo nên bởi tiết tấu trong từng vần thơ. Và, tính chất ấy chỉ có thể
được tạo nên bởi Âm nhạc. Nhiều bài thơ của ông đã chứng minh quan niệm
này. The Raven, The Bells, A Dream within a Dream, The City in the
Sea, Annabel Lee… là những đỉnh cao nghệ thuật của thơ Poe không chỉ qua
hình tượng nghệ thuật tượng trưng ám dụ, âm điệu u hoài mà còn là sức rung động
của từ ngữ, nhất là những từ tượng thanh, cách dùng các phụ âm, hiệp vần, điệp
khúc…, với một sự thấu hiểu kỳ lạ về nhiều chức năng của sự giao tiếp bằng ngôn
từ.
Trên đây là khái lược những nét cơ bản nhất về quan niệm nghệ thuật kỳ lạ, mới
mẻ về Cái Đẹp, quan điểm sáng tác, triết lý và những nguyên tắc sáng tác một
bài thơ, truyện ngắn của E.A.Poe thể hiện qua các tiểu luận phê bình độc đáo và
thực tiễn sáng tác của ông. Thời đại Poe sống đã chỉ trích, phê phán, cho là điên
rồ, nhảm nhí, chỉ một số rất ít đồng nghiệp của Poe tiếp nhận, bởi nó cách quá
xa những kinh nghiệm họ từng đọc, từng biết trước đó. Oái oăm thay, cũng chính
những tác phẩm bị nước Mỹ quê hương Poe ruồng bỏ lại được Châu Âu nồng nhiệt
yêu mến, tôn thờ. Nga, Pháp, Ý là những nước đầu tiên phát hiện và tôn vinh
thiên tài Edgar Poe. Và, một thế kỷ sau, từ các nhà tượng trưng Pháp, Poe lại
được sự đồng cảm lạ lùng bởi các nhà văn, nhà thơ lãng mạn Việt Nam.
CHÚ THÍCH:
[1] “Beauty is the sole legitimate province of the poem…That pleasure
which is at once the most intense, the most elevating, and the most pure, is, I
believe, found in the contemplation of the beautiful. [1, 1323]
[2] “Truth, in fact, demands a precision, and Passion, a homeliness
(the truly passionate will comprehend me) which are absolutely antagonistic to
that Beauty” [1, 1322]
[3] “In brief, the Poetry of words as The Rhythmical Creation of
Beauty. Its sole arbiter is Taste. With the Intellect or with the Conscience,
it has only collateral relations. Unless incidentally, it has no concern
whatever either with Duty or with Truth.” (The Poetic Principle).
[4] “this Principle itself is, strictly and simply, the Human
Aspiration for Supernal Beauty, the manifestation of the Principle is always
found in an elevating excitement of the Soul - quite independent of
that passion which is the intoxication of the Heart - or of that Truth which is
the satisfaction of the Reason” [1,1347]
[5] “Beauty of whatever kind, in its supreme development, invariably
excites the sensitive soul to tears. Melancholy is thus the most legitimate of
all the poetical tones” [1,1323]
[6] “I could anticipate no regeneration save in death. That man, as a
race, should not become extinct…he must be born again” (Cuộc trò chuyện của
Monos và Una- The Colloquy of Monos and Una).
[9] “Dividing the world of mind into its three most immediately
obvious distinctions, we have the Pure Intellect, Taste, and the Moral Sense. I
place Taste in the middle, because it is just this position which, in the mind,
it occupies.” (The Poetic Principle) [1,1334]
[10] I select "The Raven", as most generally known. It is my
design to render it manifest that no one point in its composition is referrible
either to accident or intuition - that the work proceeded, step by step, to its
completion with the precision and rigid consequence of a mathematical problem.
(The Philosophy of Composition), [1, 1321]
[11] “Nothing is more clear than that every plot, worth the name, must be
elaborated to its dénouement before any thing be attempt with the
pen. It is only with the dénouement constantly in view that we can
give a plot its indispensable air of consequence, or causation, by making the
incidents, and especially the tone at all points, tend to the developmentof the
intention” (Philosophy of Composition) [1, 1319]
[12] “Keeping originality always in view- for he is false to himself who
ventures to dispense with so obvious and so easily attainable a source of
interest” [1, 1320]
[13] “If any literary work is too long to be read at one sitting, we
must be content to dispense with the immensely important effect derivable from
unity of impression – for, if two sittings be required, the affairs of the
world interfere, and every thing like totality is at once destroyed.” [1, 1321]
[15] "Versification is the art of arranging words into lines of
correspondent length, so as to produce harmony by the regular alternation of
syllables differing in quantity."
[16] “The rudiment of verse may possibly be found in the spondee.
The very germ of a thought seeking satisfaction in equality of sound would
result in the construction of words of two syllables, equally accented. In
corroboration of this idea we find that spondees most abound in the most
ancient tongues.” (The Rational of Verse). Spondee: một nhịp được dùng nhiều
nhất trong thơ cổ, gồm hai âm tiết mạnh, có nhấn giọng - tạm hiểu tương đương
như vần trắc như trong luật thơ tiếng Việt).
* Những phần trích dẫn dịch từ nguyên tác không để tên người dịch
là do tác giả bài viết tạm chuyển ngữ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baym, Nina. 1989. The Norton
anthology of American literature, NewYork - Lond: W.W.Norton.
2. Cabau, Jacques. 2009. Edgar Poe,
khát khao sáng tạo và hủy diệt, Khổng Đức dịch, H : Nxb. Thời đại.
3. Carlson, Eric W. 1973. Poe on the
soul of man, Baltimore: Edgar Allan Poe society of Baltimore. S:1 - PSM, 1973.
4. Hà Minh Đức. 1997. Thơ và mấy vấn đề
trong thơ hiện đại, H:Nxb GD.
5. Jakobson. 2008. Thi học và Ngữ học
- Lý luận văn học phương Tây hiện đại, Trần Duy Châu biên khảo. H: Nxb.
Văn học, Trung tâm nghiên cứu quốc học.
6. Lê Huy Bắc. 2003. Cần chủ động hơn nữa
trong việc tiếp cận văn học Mỹ. Trả lời phỏng vấn. Việt Báo. Đăng ngày
14-3-2003. Nguồn:
http://vietbao.vn/
7. Ngô Tự Lập. 2002. Tuyển tập Edgar
Allan Poe. H: Nxb. Văn học.
8. Ngô Tự Lập. 2005. Minh triết của giới
hạn. H: Nxb. Hội nhà văn.
9. Nguyên Sa. 1967. Một bông hồng cho
văn nghệ. S: Trình bầy.
10. Nguyễn Hiến Lê. 1957. Luyện văn. SG: Nxb. Nguyễn Hiến
Lê.
11. Nguyễn Đức Đàn. 1996. Hành trình văn học Mỹ, H: Nxb
Văn học.
12. Poe, Edgar Allan, 1984. Complete Stories s and poems
of Edgar Allan Poe, USA: Publisher. Doubleday; Book Club edition (August 15,
1984)
13. Poe, Edgar Allan. 1850. “The Rationale of
Verse”, The Works of the Late Edgar Allan Poe, edited by Rufus Wilmot
Griswold. Vol.II. Poems and Miscellanies, New York: J.S.Redfield,Clinton
Hall. 1850, page 215-258.
14. Pollin, Burton R. (1973), (1998), Poe, Creator of
Words. Bài tham luận kỷ niệm 50 năm thành lập The Edgar Allan Poe Society ở
Baltimore, nguồn: http://www.eapoe.org/
Sài Gòn, tháng 5. 2011
Nguồn: * Bài đã đăng ở Tạp chí KHXH
Viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ,
số 10 (158) 2011, trang 26-35
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét