Đôi lời thưa ngay cho rõ.
Xin thưa ngay là Áo màu xanh của tôi chẳng có liên quan, dính
dáng gì đến những chiếc áo xanh mà trên túi ngực có gắn thêm cái huy hiệu có
cánh tay nắm cây cờ đỏ sao vàng đang tung bay trên nền tròn vạch xanh, chung
quanh có dòng chữ đỏ bắt đầu bằng từ ĐOÀN... Tôi thì biết cái gì về chiếc áo
xanh đó mà… lảm nhảm.
Chẳng qua là đang đọc lại một số bài và thơ của Tuệ Sỹ, trong
đó có bài thơ mà nhiều danh sĩ đã tốn giấy mực ngợi ca, mở đầu bắng hai câu:
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang...
nên dẫn dắt một sự
lan man thế thôi.
Và sẵn trớn, thôi thì cũng có đôi lời vòng vèo cà kê về cái
chuyện đầu đề của bài thơ luôn thể.
Khi nói đến sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Hiến Lê, người ta
hay dùng câu “trước tác đẳng thân” nhưng có một người nữa, theo tôi nghĩ, tác
phẩm viết ra cũng “chất cao bằng người”; đó là Tuệ Sỹ. Cái thuở S.G. nổi danh
“võ lâm ngũ bá” (về tri thức, tư tưởng và trước tác văn chương) thì quanh hoặc
đúng hơn là tại viện đại học Vạn Hạnh đã chiếm hết bốn trong đó có Đông tà Tuệ Sỹ. Ngặt nỗi sách ông, đại đa số, chuyên về triết và Phật học nên khô khan, rất
kén người đọc, nên không nổi đình đám trên thị trường chữ nghĩa. Ông cũng làm
thơ rất nhiều, nhưng vào cái “thời” của ông - tức là khoảng 66-73 ông chưa hề xuất
bản một thi tập nào cả. Mãi sau này, tức là sau 1998 ni cô Tuệ Hạnh mới thu nhặt
lại in thành thi tập Ngục Trung Mị Ngữ do Quảng Hương Tùng Thư xuất bản và Giấc
Mơ Trường Sơn do nhà An Tiêm xuất bản, Cali, 2002. Vậy thì chính danh, tức
là được lưu hành bằng một bản in ấn xuất bản rõ ràng - trong thi tập Giấc Mơ Trường
Sơn - bài thơ có hai câu tôi nêu lên trên kia có tên là Khung Trời Cũ.
Vừa rồi có một trí giả viết một bài khá công phu, nhiều “cảm”
và “thức” về thơ Tuệ Sỹ. Ngay phần đầu, tác giả bài viết có trích dẫn Bùi Giáng
mà không chú giải gì thêm; dễ khiến những người đọc bài, nhất là những độc giả
trẻ ở tuổi sinh viên dễ hiểu lầm theo văn mạch là bài thơ khởi đầu:
“Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn…”
(có tên là Không Đề).
Bởi Bùi Giáng viết “Đi vào cõi thơ” là hồi từ năm 1969 trở về
trước, nhà Ca Dao xuất bản, Sài Gòn, 1969. Mà lúc ấy, Bùi Giáng đọc thơ của Tuệ Sỹ
chỉ toàn bằng bản thảo. Còn có chuyện Tuệ Sỹ làm được 2 câu thơ chữ Hán, đưa Bùi Giáng bảo làm sao thành một bài tứ tuyệt và Bùi Giáng đã làm thêm hai câu sau để
thành một bài tứ tuyệt tuyệt cú nữa kia. Thành ra cái chuyện Bùi Giáng đọc bài thơ
trên của Tuệ Sỹ chưa có đầu đề và đặt là “Không Đề” là việc rất khả dĩ.
Vậy thì hôm nay, 2013, phải nó cho rõ, xin đừng có theo Bùi Giáng (1969); Bài thơ “Đôi mắt ướt…” là bài Khung Trời Cũ có 3 khổ 12 câu. Còn
bài “Không Đề” là một bài khác. Bài “Không Đề” có hai mươi câu - Bến bờ lạ chút
tư tình với bóng - Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm…
Ôi, tôi thật là cà kê dông dài vô bổ.
… Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang...
Cuối năm, trời quê lạnh ngắt. Người người bưng bít thân mình
trong áo gió, áo len, áo lạnh. Mà các thứ áo này làm gì có màu xanh. Không hiểu
sao mà ba chữ này lại “ám” tôi lắm thể. Hay nói đúng hơn là gập trang sách lại
rồi mà câu thơ cứ còn đeo tôi mãi. Phải chi ngoài kia có nắng hanh vàng, hay
chí ít, một vài sợi nắng vàng vươn trên ngõ nhỏ, mà hồn mơ hồ guộn nhẹ áo xanh
qua..
Áo màu xanh... Áo ai xanh... Sao dễ làm người ta nghĩ về một
bóng hình yểu điệu, một buổi nắng hanh hao. Mà khổ thơ quen thuộc của Nguyên Sa
lại dễ dàng mau về làm vậy
… Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường…
Mà nào phải chỉ riêng ta. Bùi trung niên thi sĩ cũng đã nghe
làm vậy. Trong hồn nhiên phiêu bồng của cõi thơ ca, ông đã buông ra niềm liên
tưởng, - mà lại thêm phần đoan chắc là mình chẳng thể sai ở đoạn sau...
“… Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ".
Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai? Vì sao ướt? Vì lệ trào hay vì
quá long lanh?
Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng
phóng nhiệm cho thơ. Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối... Hoặc là đôi mắt
thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ...
Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối
chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã
đánh mất rồi chăng?
... Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang…
Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường,
gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối?.
Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở
Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt…” (Bùi Giáng -sách đã dẫn ở
trên).
Thi sĩ khi phóng bút ra thơ, có thể nghĩ và không nghĩ về
mình. Người đọc thơ khi đọc lên câu thơ cũng có thể nghĩ về… thơ, nghĩ về mình
và cũng có thể đem cái tâm trạng mình ra mà giải thơ, mà liên tưởng, mà tâm tư,
mà u hoài tâm sự… Nghĩa là, anh có thể “làm” bất cứ thứ gì. Thì đã chẳng có người
lấy câu thơ ra làm..mái chèo đó sao. Nhưng cái sự “chặt” câu thơ, tôi nghe ghê
ghê làm sao ấy... Và trong vô hạn của sự “làm” khi đọc thơ kia, anh, tôi, và Bùi Giáng đều có quyền nghĩ tới chiếc áo màu xanh của yểu điệu thục nữ phơ phất trên đồi
hoang. Nhưng. Mô Phật. Vị giáo sư đại học thông tuệ thuở nào; Ngài thiền sư
muôn vàn khả kính giờ đây, Ngài đã xuất gia từ năm lên bảy tuổi thì khung trời
cũ khó mà có cái bóng hình mà chúng ta dễ liên tư, dễ thoáng thấy vừa rồi.
Thôi thì chi bằng cứ “… theo lối ngẫu nhiên tao ngộ. Cơ duyên
dun rủi… “lời nhận định” cũng đến rồi đi...” như lời ngài Bàn Dúi Bán Dùi
cho nó vui vầy.
Hai đêm vừa rồi, tôi gắng thức khuya để đọc hết cuốn hồi ký của
một vị Linh mục. Đêm nay, tôi đọc thơ và những “bình” và “nhận định” về thơ của
một vị Thiền sư.
Tôi chẳng biết gì về chân lý của Phúc âm nhưng qua một quãng
đời khổ lụy đau thương “tận đáy địa ngục” của tác giả, tôi tin lời Ngài, một
Linh mục, rằng “Lòng nhân đạo của con người có giới hạn. Nhưng sự độc ác của
loài người là vô tận; nhất là khi sự độc ác được dung dưỡng bởi hoàn cảnh xấu
xa”, và “Tình yêu của Thiên chúa luôn luôn lớn hơn tội lỗi của con người”.
Và giờ đây, trong đêm khuya vắng, lạnh, tôi dạo bước vào
trong cõi thâm viễn u miên của một vi Thiền sư. Ai dám bảo là đã hiểu thơ. Một
nhà thơ. Một bài thơ. Thậm chí là một câu thơ. Nhưng trong phiêu nhiên lai láng của
ngôn ngữ, của nhạc điệu và của bao la tình... Tôi nghe như vị Thiền sư trên
kia tôi đã thừa, không cần kéo theo một tính từ nào đâu - đã gọi lên một tiếng.
Ngài đã nói về KIẾP NGƯỜI. Về xúc cảm. Về tư duy. Về hoài niệm của CON NGƯỜI.
Đêm khuya cuối năm trời quê lạnh ngắt. Nỗi niềm vừa thâm u vừa
minh tường của những bậc thông tuệ nhưng cũng trải qua đủ những cung bậc trầm
luân của một kiếp người… Tôi nghe lời kêu gào của nhân thế hằng trăm năm nay,
ngày càng khẩn thê, càng bức bối, nhất là từ sau thế chiến đến nay đã sang
thiên niên kỷ khác hơn chục năm rồi…
Ai cũng mong ngày mai nắng ấm sẽ lên. Cây và hoa sẽ đơm mọc khắp
đồi hoang, và áo màu xanh sẽ phất phơ bay xanh mãi cùng ngàn hoa muôn bướm… khi
lương tri trở về soi tỏ trong khắp cõi nhân sinh; khi tình thương chan hòa sưởi
ấm mọi kiếp người không chỉ trong đêm đông lạnh lẽo; khi giá trị đích thực hằng
viễn của con người được thực sự lên ngôi...
30/12/2013
Lang Vườn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét