Bàn về khứu giác trong thơ
Nhân kỷ niệm 20 năm báo QUÊ VIỆT,
tờ báo của Hội Người Việt Nam tại Ba Lan (tháng 4/1999 - tháng 4/2019), tôi viết
bài này nhằm sẻ chia về một trong những nguồn cảm hứng sáng tác của người cầm
bút khi làm báo, góp phần để người đọc nhớ lại và hiểu hơn về tờ báo của chúng
ta, tờ báo trải qua thăng trầm đã tồn tại và góp phần phản ánh cuộc sống của cộng
đồng người Việt tại Ba Lan trong hai thập kỷ vừa qua. Xin cảm ơn BBT và các cộng
tác viên cùng toàn thể độc giả báo QUÊ VIỆT qua mọi thời kỳ.
Người có năm giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, vị
giác và khứu giác.
Ở đây tôi muốn bàn về cảm nhận mùi trong thơ, hay nói cách
khác, về khứu giác của các nhà thơ.
Xin nói trước, tôi chỉ đề cập đến những nhà thơ mà mình quen
biết và có tác phẩm của họ trong tay.
Nhà thơ đầu tiên để lại ấn tượng sâu sắc về việc thể hiện mùi
trong thơ là BẰNG VIỆT.
Năm 1963 nhà thơ đã cho ra đời tác phẩm được mọi người yêu
văn học đón nhận nồng nhiệt và được đưa vào chương trình giảng dạy văn học ở
trường phổ thông:
Bài thơ BẾP LỬA:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm/ Một bếp lửa ấp iu nồng đượm/
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa/ Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói/ Năm ấy là
năm đói mòn đói mỏi/ Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy/ Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt
cháu/ Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
… Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen/ Một ngọn lửa
lòng bà luôn ú sẵn/ Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Cái "mùi khói” "nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!” thực sự
đã tác động hết sức mạnh mẽ vào tâm hồn hàng triệu người dân Việt Nam, nó gắn
liền với bếp lửa, "Ôi kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa”, thứ tạo ra và duy trì sự
sống, sự bình yên, no ấm của mọi nhà, mọi người ở mọi nơi, mọi thời đại.
Một bài thơ khác, bài VỀ NGHỆ AN THĂM CON cũng có đoạn nói về
mùi:
Con đường ra bến sông/ Mỗi ngày bom lại thả/ Vẫn tiếng súng
phòng không/ Nổ rền theo vách đá/ Vụ chiêm mùa vất vả/ Mùi cơm thơm cứ thơm!/
Ôi nùn rơm, nùn rơm/ Sợi vàng vương mái tóc/ Con che rơm đi học/ Vai nhấp nhô
đường xa...
Cái mùi cơm thơm, nùn rơm là mùi gắn bó mật thiết với người
dân Việt, với nông thôn Việt Nam được Bằng Việt nhắc đến ở đây thật nhẹ nhàng,
đáng yêu, đáng nhớ, đặc biệt trong khung cảnh chiến tranh, ở một vùng đầy bom đạn,
với bé gái ngày ngày cắp sách tới trường.
Trong bài NGHĨ LẠI VỀ PAUXTÔPXKI, trên "Đồi trung du phơ
phất bóng thông già/ Trường sơ tán, hồn trong chiều lặng gió” Bằng Việt lại
nhắc đến "Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ
trong đầu!” và "Mùi cỏ dại trên cánh đồng xa thẳm/ Một bầu trời vĩnh
viễn ướp hương hoa...” Ở đây ”mùi cỏ dại” và "bầu trời vĩnh viễn ướp hương
hoa” gợi cho tác giả một thời đã xa - "Thời thơ ấu sau lưng”, nhưng mùi ấy
sống mãi trong tâm trí người đọc.
Đặc biệt tôi vô cùng yêu hương sen trong bài TRÒ CHUYỆN VỚI
THÀNH PHỐ CỦA ĐỜI MÌNH
Thành phố tuổi hoa niên. Thành phố ấy là em./ Em - với màu áo
hoa mơ, chân trần trên cỏ ướt,/ Đứng thảng thốt reo lên bên bờ sen ngập nước:/
Trời ơi! Buổi sớm quá chừng thơm!”/ Không bao giờ tôi quên/ Em đã khắc hương
sen ngày ấy vào vĩnh cửu!/ Tôi chưa hề biết yêu em/ Chỉ biết yêu thành phố/
Trong ánh xanh lạ lùng buổi ấy dâng lên...
Bao nhiêu năm qua/ Đột nhiên nhớ một góc đường Yên Phụ/ Vị
bánh tôm thơm nóng tuổi thơ đầu.
Mười lăm năm... chỉ còn mùi hương của những giờ tình tự,/ Cho
lớp con em ta mới lớn/ Mắt sáng hơn và môi đỏ hơn!... Đúng là nhà thơ "đã khắc
hương sen vào vĩnh cửu!”, khiến chúng ta thêm say mê, thêm yêu, thêm nhớ "thành
phố của đời mình” và sự hồn nhiên của thế hệ trẻ chúng ta.
Nhà thơ thứ hai để lại ấn tượng mạnh khi nói về mùi trong thơ
là PHAN THỊ THANH NHÀN với bài HƯƠNG THẦM, viết năm 1969:
Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa/ Giấu một chùm hoa trong
chiếc khăn tay/ Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm/ Bên ấy có người ngày mai
ra trận/... Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối/ Anh không dám xin/ Cô gái chẳng dám
trao/ Chỉ mùi hương đầm ấm thanh tao/ Không giấu được cứ bay dịu nhẹ/ Cô gái
như chùm hoa lặng lẽ/ Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu... Rồi theo từng hơi thở của
anh/ Hương thơm ấy thấm sâu vào lồng ngực/ Anh lên đường hương sẽ theo đi khắp/
Họ chia tay vẫn chẳng nói điều gì/ Mà hương thầm thơm mãi bước người đi.
Nữ thi sĩ đã đưa hương bưởi vào tình yêu đôi lứa thật tuyệt vời,
thiết tha, dịu dàng, trong sáng. Có lẽ ít nhà thơ nào nói về hương thơm của một
loài hoa kín đáo, thầm lặng và mê đắm đến nhường ấy.
Nhà thơ ANH NGỌC lại nhắc đến HƯƠNG SẮC HOA XOAN (viết năm
1969):
Ta lại nhận ra giữa muôn trùng hoa lá/ Cái mùi hương thân thuộc
những mùa xoan/ Chiều quê hương mưa xuân bay bạt ngàn/ Nối sắc hoa xoan nhòa
vào mây biếc/...
Ôi cái mùi hương tỏa tự hôm qua/ Bay suốt hôm nay còn bỡ ngỡ?
Bâng khuâng thơm trước cửa/ Như thể khách quen sắp sửa bước vào nhà/ Xoan ơi,
phải mẹ đợi chờ ta?/ Từ chiến sĩ ra đi mùa xuân thành sứ giả/ Xoan vẫn thơm nơi
con mắc áo ngày xưa/ Em nhỏ trên cành xoan sang sảng tiếng loa/ Tin chiến thắng
theo hương xoan về trăm ngõ/ Mẹ không còn mằng em: hoa xoan nhiều bọ/ Mày ngửi
xoan nhiều rồi thối tai.../ Hương xoan giờ nối những dặm đường dài/ Nối tuổi
thơ con với tuổi già của mẹ/ Ôi mùi hương rất trẻ/ Khi xuân sang đầu mẹ trắng
như hoa!
Anh Ngọc còn nhắc đến TIẾNG MÍA QUÊ TA (1967): Ru cả đất
trời trong ngọt lịm/ Giấc ngủ trưa thơm mùi mật mùi đường. Trong bài HOA
DÀNH (viết năm 1969 đề tặng Lưu Quang Vũ):
Cây hoa dành mọc trong vườn ta/ Tự bao giờ không ai nhớ nữa/
Sáng hôm nay bỗng vô cùng bỡ ngỡ/ Bông hoa dành thơm trong vườn ta. Soi vào hoa
ta gặp lại chính hồn ta/ Trong lửa khói đạn bom hay dưới lòng sâu địa đạo/ Nơi
nào cũng một màu trắng đó/ Cũng một mùi hương như lạ như quen/ Như đóa hoa dành
đây ta nửa nhớ nửa quên/ Từ những thuở tổ tiên ta theo nguồn sông lấn ra hướng
biển/ Người đến đâu là hương hoa bay đến/. Hoa dành ơi hoa là nỗi hồn nhiên/ Điều
không thể nói lại là điều không thể giấu/. Và hoa chính là thơ mãi mãi ngạc
nhiên/ Ngàn lần nở vẫn là lần thứ nhất/ Cho ta bỗng run tay không dám ngắt/
Bông hoa dành thơm trong vườn ta.
Nhà thơ HỮU THỈNH trong bài thơ THƯ MÙA ĐÔNG viết ở Mèo Vạc
tháng 3 năm 1982 chỉ dành một đoạn ngắn nhắc về hương bồ kếp nhưng lại gây ấn
tượng mạnh trong lòng người đọc:
Gạo thường lên sớm, thư thời chậm/ Đài mở thâu đêm đỡ vắng hầm/
Bao năm không thấy màu con gái/ Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em/ Mây đến thường
rủ anh mơ mộng/ Biết vậy, khuya em đỏ ánh đèn/ Ước gì có chút hương bồ kếp/ Cho
đá mềm đi, núi ấm lên. Chỉ trong mấy câu thơ mà tác giả đã đánh thức cả thị
giác, thính giác, khứu giác và xúc giác của người đọc. Sao thương chàng trai sống
nơi đầu sóng ngọn gió, nơi biên cương của Tổ quốc, nơi thiếu vắng bóng người
con gái đến vậy. Hữu Thỉnh cũng có những câu thơ khá lạ về mùi:
Chim đầy mùi trời/ Trời đầy mùi thiên hạ (TRƯỜNG CA BIỂN).
Trời làm gì có mùi, nói "chim đầy mùi trời” có lẽ là cách nói ngược, có thể hiểu
là "trời đầy mùi chim”, chim nhiều đến mức mùi bay ra lan tỏa khắp bầu trời.
Người đọc liên tưởng đến những đàn hải âu bạt ngàn bay liệng trên đảo xa. Còn
"Trời đầy mùi thiên hạ” cắt nghĩa thế nào? Chắc tác giả muốn nói đến mùi của vạn
vật, của hoa lá, của đất, của nước và của con người tồn tại dưới gầm trời này!
Dẫu sao thì „mùi thiên hạ” cũng là một khái niệm lạ do nhà thơ đưa vào để chúng
ta suy ngẫm.
Bây giờ nói về cảm nhận mùi trong thơ tôi.
Trong tờ VĂN VIỆT số 2 (tháng 12 năm 1999 - chuyên san Văn
nghệ của báo QUÊ VIỆT) Hoàng Văn Thơ (tức HOÀNG TRỌNG HÀ, nguyên giảng viên Văn
học Nga - Xô viết Trường Đại học Đà Lạt, đã mất năm 2013) đánh giá về thơ của của
người Việt ở Ba Lan đã viết:
"Khi những nhà khoa học - những thương gia làm thơ trái tim họ
say đắm chân thành và thiết tha. Nguyễn Văn Thái - nhà trắc địa với cái nghề tưởng
rất khô khan không chỉ tìm thấy chất lãng mạn trong công việc của mình ("BAY")
và trong đời sống thường nhật ("SA PA") anh còn viết về tình yêu bằng một trí
tưởng tượng bay bổng:
Chiều qua có trận gió to/ Áo em bay mắc giàn nho bên này/
Hương thơm vương đầy bàn tay/ Tối đem áo trả thoáng say hương người (HƯƠNG
ÁO).
Trong bài thơ sự „bịa đặt” đến độ không thể tin được. Làm gì
có chuyện một chiếc áo bay mắc vào giàn nho giữ được "hương người”! Có chăng chỉ
là mùi... bột giặt! Anh chàng đa tình trong bài thơ chẳng qua "phịa” chuyện
hương áo để thổ lộ lòng mình mà thôi. Chính cái lối nói khoa trương táo bạo, lại
vừa bóng gió đã làm nên một bài thơ hay. Tôi bỗng nhớ LÝ BẠCH - nhà thơ nổi tiếng
đời Đường - với bài thơ "KÝ VIỄN" (Gửi người phương xa) bất hủ:
Người đẹp còn đây nhà đầy bông/ Người đẹp đi rồi nhà bỏ
không/ Giường không nệm cuốn nào ai ngủ/ Nay đã ba năm hương còn nồng.
"Đã ba năm hương còn nồng” dẫu là thứ hương đặc biệt cũng chỉ
là sản phẩm của trí tưởng tượng của nhà thơ, chỉ có LÝ BẠCH viết như thế”.
Đó là nói chuyện hương áo, hương người.
Trong bài thơ MỘT ĐỜI THƯƠNG tôi viết:
Có phải Bích Câu kỳ ngộ nên duyên/ Hay bởi Phật thương xe tơ
kết tóc/ Một thoáng Hòe Nhai hương chùa man mác/ Để chúng mình gắn bó một đời
thương.
Đó là mấy câu thơ viết về tình yêu của chúng tôi. Lúc đó nàng
làm việc ở Văn phòng nhà máy xe đạp Thống Nhất, phố Bích Câu, Hà Nội, nhà ở cạnh
chùa Hòe Nhai. Giai thoại chàng thư sinh Tú Uyên gặp nàng Giáng Kiều xinh đẹp ở
Bích Câu cùng chuyện Phật thương xe tơ kết tóc vừa huyền bí, thăng hoa nhưng
cũng rất thực. Ở đây vai trò của "hương chùa man mác” cũng góp phần vào mối
tình của vợ chồng chúng tôi, gắn kết để có MỘT ĐƯỜI THƯƠNG.
Tuổi học trò ai mà chẳng có những kỷ niệm gắn với hoa lan.
Hương ngọc lan đã quyến rũ tôi, khiến cứ gặp cây ngọc lan ở đâu là tôi lại nhớ
đến thời thơ ấu. Mấy chục năm sống trên đất Ba Lan, không có dịp thấy lại ngọc
lan, nhưng tháng 4 năm 1999:
Tôi đi đúng nửa vòng Trái đất/ Về giữa Sài Gòn bất chợt gặp
ngọc lan/ Lòng bỗng bâng khuâng nhớ về đất Bắc/ Cánh hoa thơm cài trên mái tóc
nàng/ Ôi thuở xa xưa cái gì cũng đẹp/ Bông hoa nâng niu trong chiếc khăn tay/
Cánh hoa ấp giữa những trang vở học/ Dẫu héo rồi hương vẫn tỏa ngất ngây/ Và em
nữa trong tôi em vẫn thế/ Nghĩa là em vẫn mơ mộng, thơ ngây/ Em vẫn dịu hiền và
em vẫn trẻ/ Quanh em hương lan kín đáo dâng đầy... (HOA NGỌC LAN VÀ EM).
Hương ngọc lan, hương chùa, hương áo và hương người là những
mùi hương mà tôi cảm nhận được và thể hiện trong thơ. Bài thơ khác, bài HƯƠNG BỒ
KẾT, đã nói khá nhiều về sự hòa quyện các loại mùi: mùi bồ kết, mùi cốm chanh,
mùi tóc, mùi da thịt, mùi người. Xin trích ra đây bài thơ ấy:
Anh vẫn thường gội đầu cho em/ Đến bây giờ tay còn thơm bồ kết/
Anh lóng ngóng nên em thường nhắc/ Ướt hết em rồi, mắt anh nhìn đâu?/ Tóc mình
dài trùm kín cả miệng thau/ Nước bắn ra ngoài mình đừng trách nhé/ Ai bảo cổ
mình trắng tròn đến thế/ Ướt áo mình anh sẽ giặt đền ngay!/ Đừng trách anh sao
quá mạnh tay/ Cha mẹ sinh ra đã vụng về như vậy/ Da mình mỏng mịn màng nhường ấy/
Gượng nhẹ rồi nhưng tay anh đầy chai!/ Đừng trách anh sao để nước vào tai/ Tại
cái vành tai thon hồng mỏng quá/ Mùi tóc, hương người đến là kỳ lạ/ Cứ quyện
vào nhau thơm nồng như men!/ Anh vẫn thường gội đầu cho em/ Đến bây giờ còn say
mùi bồ kết/ Say mùi cốm chanh, say mùi tóc ướt/ Say vành tai hồng và bờ
vai trắng phau! ...
Trong bài thơ trên có sự tác động của hầu hết mọi giác quan
con người, nhưng vai trò của khứu giác là hết sức quan trọng. Sự hòa quyện các
loại mùi khiến lòng ta say đắm như ngấm men, ngất ngây như say rượu và để lại
trong ta nỗi nhớ không thể nào nguôi! Mùi trong thơ, hay khứu giác của người
làm thơ được thể hiện vô cùng đa dạng. Mùi có thể là ngát hương, thơm nồng, man
mác, êm ái, dịu dàng, ngọt ngào, thầm kín hay khét lẹt, cay nồng..., tùy thuộc
vào tâm trạng người thơ!.
4/2019
Nguyễn Văn Thái
Theo http://queviet.eu/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét