Văn thiêng không ở ngôn ngữ (Linh văn bất tại ngôn ngữ
khoa) (1)
Quê hương Hà Tĩnh có một vị trí sâu nặng trong lòng Nguyễn Du. Nguyễn có nhiều
bài thơ gửi gắm tâm sự về quê hương qua những thi tứ được gợi nên khi thì ở cảnh núi sông cây cỏ, khi thì ở tình huynh đệ, gia quyến, làng thôn…
Qua những phần trong Thơ Chữ Hán, viết về sông (Nguyễn
có gần vài chục bài), tất cả đều toát lên một tâm trạng chung - nỗi buồn,
sự luyến tiếc, hoài niệm về quá khứ, tâm trạng mà ta đã bắt gặp nhiều trong
thơ Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Gia Thiều, với những hình ảnh “lối xưa xe
ngựa”, “nền cũ lâu đài”... rồi mủi lòng cho cảnh bèo bọt thân phận đương thời.
Trong thơ Nguyễn khi thi hoài cổ một thời vàng son:
Nhớ xưa cha ta về hưu/ Cờ lọng xe ngựa rợp bến sông này
… Từ độ áo xiêm không còn nữa/ Hai bờ cây cỏ bùi ngùi xiết
bao.
(Giang đình hữu cảm)
Khi thi băn khoăn về thời cuộc, nỗi buồn về thân phận:
Quê xa ngàn dặm, nhìn trăng rơi lệ/ Bên dòng Long giang
ngoàì thôn Nam Đài
Tiếng sóng lạnh tiễn đưa kim cổ
(Đêm xuân)
Xuôi dòng âu thỏa vẫy vùng/ Thân này lận đận bềnh bồng bao
thôi (Sông Đồng Lung)
Những nỗi buồn dâng trào xoay quanh cái trục, cái suy ngẫm của
nhà thơ về lẽ biến
dịch của cuộc đời. Cái cảm quan triết học đó bộc lộ khá
rõ trong nhận thức của thi sĩ về sự lên xuống của các triều đại để tự an ủi:
Bên sông Vị quân doanh đồ sộ/ Bến xưa ngựa uống bóng chiều/
Xưa nay chưa thấy triều đại nào nghìn năm…
(Quân doanh Vị hoàng)
Một trong nhiều bài thơ về sông của Nguyễn có dáng vẻ riêng, đó là bài về
sông quê Lam giang, một bài thơ ghi lại xúc cảm cũng như lòng trắc ẩn của
tác giả với người dân quê lam lũ, mà cảm hứng nghiêng về phía hiện tại, chứa đựng
một cảm thức triết học khá tích cực.
Sáng sớm ngắm sông Lam/ Mùa thu nước sông lớn/ Cá giải đùa bãi
gò/ Ngựa trâu lạc bờ bến
Bờ lở sấm vang ầm/ Sóng xô quỷ lạ hiện/ Nguy hiểm nản
lòng người/ Sụt lở ý trời khiến
Ta trông đầu sông Lam/ Tấc lòng thường áy náy/ Không may
lỡ sảy chân/ Chìm lĩm sâu tận đáy
Cớ sao người thế gian/ Nguy hiểm không sợ hải?/ Người
trước ào ào đi/ Nguời sau ùn ùn tới
Lòng trời vốn thương người/ Sao để như thế mãi?/ Muốn
đem Thiên - nhẫn sơn/ Lấp bằng sông Lam lại.
(Phạm Khắc Khoan, Lê Thước
dịch)
“Sông quê” là một đề tài ta gặp ở nhiều tác giả (sông gắn với
tình yêu, với tuổi thơ, với cha mẹ…) nhưng Lam giang của Nguyễn Du lại
có một cái nhìn hướng về hiện thực về thân phận người nông dân lao khổ. Cái
riêng thể hiện ở cảnh, tình nhưng đặc biệt ở cái triết lý nhân sinh mà tác giả
ôm ấp, suy tư.
Trước hết xin nói đôi điều về cảnh quê, đặc biệt là Sông Lam - con sông mà Nguyễn
Du nhắc đến. Đây là con sông khá nổi tiếng từng là nơi diễn ra nhiều trận
đánh thời Trịnh Nguyễn phân tranh và thời nhà Lê chống quân Minh. Nhưng cái in
dấu sâu đậm trong lòng người dân xứ này thời bấy giờ là nạn lụt lội hãi hùng mà
sông gây nên.
Sông Lam là một con sông
cực kỳ hung dữ gây ra nhiều cảnh lụt lũ đáng sợ cho người dân trong vùng.
Sách “An Tĩnh cổ lục” (Le vieux An Tĩnh) của nhà nghiên cứu người Pháp
Hippolyte Le Breton (2) có nhiều trang ghi lại cảnh tàn phá của con sông này:
… Bởi một sự cuồng điên, sông Lam gặm nhấm mặt các bờ của làng
mới… Sông Lam đã tàn phá hoàn toàn làng Triều Khẩu, làm lở sâu vào phía tả ngạn
trên một chiều rộng hơn một cây số, cách bờ sông cũng hơn một cây số, sâu 8
mét… ( tr.131)
Ngay dưới triều Gia Long những năm Nguyễn Du sống cũng xảy ra
những trận lũ lụt ghê gớm:
… Trong một trận lũ ghê gớm, nước dồn về mở rộng lòng sông,
phá tan dãi đất rộng của các làng mới lập lên ở đây. Thảm họa kéo dài suốt ba
năm liền… Cả năm làng bị tiêu hủy toàn bộ, một phần bởi sông Lam, từ thượng
lưu đến hạ lưu là: Quảng Dụ, Nghĩa Liệt, Vệ Chính, Khánh Sơn và Triều Khẩu
(tr. 212-213).
Theo lời các cụ trong vùng thì có những khúc sông sau nhiều mùa lũ lụt đã đổi
dòng hàng chục đến hàng trăm mét. Như đoạn qua Rú Thành xuống gần Hồng
Lĩnh qua quê Nguyễn Du mà dân gian ở đây thường gọi với cái tên nôm na là sông
Rum, hằng năm mùa lũ lụt hai bờ bồi lỡ thất thường hiện
nay so với ngày trước đã nắn dòng xê dịch về phía Nam một
chặng khá dài. Sự hung dữ đó còn để lại dấu vết ở cái tên Đan Nhai (3) -
nơi sông Lam đổ ra gặp bể khi xưa, nay là Cửa Hội.
Để hiểu bài thơ cần gắn nó với hiện thực thiên nhiên trong xã hội nông
nghiệp cũ, hiện thực mà ca dao tục ngữ nói nhiều về sự tác động lũ lụt Tháng
bảy nước nhảy lên bờ. Quê Nguyễn, nơi sông Lam chảy qua, một địa phương
tiêu biểu của miền Trung mà lũ lụt hàng năm tác oai, tác ác nặng nề.
Đầu bài thơ, cảnh mùa thu nước sông lớn, rất hung dữ, những
hình ảnh… Ngựa trâu lạc bờ bến/ Sóng xô quỷ lạ hiện/ Bờ lở sấm
vang ầm đã nói rõ điều này. Cảnh dữ ở khúc sông này ta còn gặp nhiều lần
trong thơ Nguyễn… Núi Tam Điệp nhiều hổ báo/ Sông Lam lắm thuồng luồng/ Đường đi hiểm trở khó khăn (Ghi lại giấc mộng).
Trước cảnh đó, tác giả vô cùng lo lắng, cái chết gần trong
gang tấc: Tấc lòng thường áy náy/ Không may lỡ sảy chân/ Chìm
lĩm sâu tận đáy. Nhưng sự thật diễn ra trước mắt tác giả lại ngược lại,
không hề sợ nguy hiểm, người nối người quyết chí bền gan: Nguời
truớc ào ào đi/ Nguời sau ùn ùn tới. Hai câu thơ nguyên tác đối
nhau về âm vận gợi sự trùng điệp, người người lớp lớp. (Khứ
giả hà thao thao/ Lai giả thượng dị vĩ)
Một câu hỏi lớn xuất hiện trong tâm tư nhà thơ: Cớ sao
người thế gian/ Nguy hiểm không sợ hải? Một băn khoăn thường tình
nhưng với Nguyễn Du lại đầy tâm trạng “Cớ sao người thế gian… không
chùn chân trước cái chết?” Người đọc có thể hiểu được và giải thích: vì
mưu sinh. Cuộc sống người dân quê trong xã hội cũ đói khó quanh năm, nhất là
mùa lũ lụt, “túng phải tính, liều thân”, lại thêm tư tưởng định mệnh ăn
sâu bao đời, họ đành phó mặc, phải liều thân vào chỗ chết mong tìm cái sống!
Nhưng lòng tác giả không yên, vì cái bất nhẫn của cuộc đời, của tạo
hóa: Lòng trời vốn thương người/ Sao để như thế mãi? Một
băn khoăn triết học về cuộc đời, về kiếp người! Câu hỏi lớn đầy day dứt Sao?
Cớ Sao? lặp lại trong tâm tư tác giả. Lòng thương người, đức hiếu sinh
Trời Phật ở đâu “nỡ để dân đen mắc nạn này”! Trách trời cao nhưng cao xanh
vẫn bó chịu, đành gửi vào giấc mơ, vào ước vọng - một ước vọng chung của những
nhà nhân đạo trong xã hội cũ, người thì muốn có nhà trăm gian che mưa lụt cho
người nghèo, người thì mong áo mặc, cơm ăn cho những kiếp cơ nhỡ.
Nguyện vọng, tấm lòng nhân cao cả của các vị, nhưng thực
tế bế tắc lại hoàn bế tắc. Lóe lên một “ánh sáng”, khi Nguyễn Du bày tỏ Muốn
đem Thiên nhẫn sơn/ Lấp bằng sông Lam lại. Câu thơ nói lên điều gì để
hai trăm năm sau người đọc còn phải suy nghĩ?
Như trên đã
nói, Nguyễn có nhiều bài thơ về sông, trực tiếp gửi tình về quê (Ninh
giang, Long vĩ giang, Lục đầu giang…), đôi khi thoáng tự hào về vẻ đẹp cảnh trí
thiên nhiên, khi thì Lam thủy Hồng sơn túc vịnh ngâm, hay Lam thủy Hồng
Sơn vô hạn thắng, riêng bài này trực tiếp tả sông, tả tình, tả cảnh
nhưng lại ẩn chứa nhiều sắc thái suy tư triết lý. Có nhiều cách giải thích: Phải
chăng bài thơ thể hiện triết lý “liều thân cứu mạng” của người lao động? Hay là
tư tưởng định mệnh “sống chết do trời” ảnh hưởng Nho giáo? Đa phần nghĩ về
tình thương, triết lý về lòng nhân của nhà Phật, một Chủ nghĩa nhân đạo lớn
bàng bạc trong nhiều tác phẩm của các thi sĩ và đã tạo thành một vệt lớn xuyên
suốt nhiều thế hệ văn chương Việt! Nguyễn Du, người đã đọc kinh “Kim cương” hơn
nghìn lần, rất am tường Phật Pháp, ở đây vượt lên lòng nhân bình thường
của đạo giới, tác giả đề cao một tư duy hành động, cải tạo hoàn cảnh Muốn
đem Thiên nhẫn sơn/ Lấp bằng sông Lam lại, tránh nguy nan cho mọi người.
Một ý chí mạnh mẽ một tinh thần trách nhiệm trước cuộc sống của nhà nho mà sau
này ta còn gặp lại trong thơ Cao Bá Quát một cách bức xúc, dằn vặt hơn:
... Hàn lao nãi liên phát
Tai lê huống vị tô
Thái bình vô nhất lược
Lộc lộc sỉ vi nho
(Độc dạ)
... Nhưng nạn rét, nạn lụt cứ phát sinh liên tiếp
Huống chi dân đen bị tai nạn chưa được hồi phục
Không có một sách lược gì làm cho đời được thái bình
Thẹn cho nhà nho mà lại tầm thường đến thế!
Cùng một nỗi lòng cảm thông cảnh
cùng cực của dân đen, áy náy, xấu hổ vì chưa làm được gì cho đời được thái
bình, dân đỡ khổ lụy! Cũng bởi nỗi xót xa này mà về sau Cao đã cùng nông
dân nổi dậy chống bọn vua quan đương thời, mong tìm sự đổi đời. Phải
chăng câu thơ Nguyễn Du là một điểm sáng nối tiếp triết lý hành động của dân Việt trong những hoàn cảnh cam go từng thể hiện trong ca dao, tục ngữ!
Đọc, ngẫm nghĩ, liên hệ cuộc đời
chìm nổi, những dằn vặt khôn nguôi của ông cho đến khi nhắm mắt, ta thấy bài
thơ hình như còn chứa đựng một bề sâu tư tưởng khác của Nguyễn Du về cõi nhân
sinh, một tư duy rộng rãi sâu nặng hơn về mọi kiếp người trong cõi đời.
1/ Khi Nguyễn nói về sự liều thân của người dân mùa thác lũ
ta còn cảm thấy, Nguyễn đã nói đến cái “sức mạnh liều lĩnh” tự phát của người
nông dân xứ này, cái liều lĩnh do nghèo đói. Cái tư tưởng này ta đã nghe Nguyễn
nói một lần khác “Dân đen không chịu nỗi đói rét/ Lo bát cơm manh áo mà
xem nhẹ tính mạng… Chỉ cần cứu tế một chút thì dân tự yên” (Trở binh hành). Nó
nhắc nhở những kẻ chăn dân phải giải quyết cái mầm liều lĩnh đó tạo sự bình yên
trong xã hội.
2/ Cuộc đời đầy gai chông, đầy sóng gió nguy nan, ấy vậy mà bao kiếp người hoặc vì mưu sinh hoặc vì lòng dục cứ luẩn quẩn trong vòng tham, sân, si cứ lao vào cái vực xoáy như những con thiêu thân. Nguyễn muốn cảnh tỉnh con người bằng một ý thức: hãy biết dừng lại trước cái vực xoáy do những dục vọng mê muội tạo nên!
2/ Cuộc đời đầy gai chông, đầy sóng gió nguy nan, ấy vậy mà bao kiếp người hoặc vì mưu sinh hoặc vì lòng dục cứ luẩn quẩn trong vòng tham, sân, si cứ lao vào cái vực xoáy như những con thiêu thân. Nguyễn muốn cảnh tỉnh con người bằng một ý thức: hãy biết dừng lại trước cái vực xoáy do những dục vọng mê muội tạo nên!
Muốn đem Thiên
nhẫn sơn/ Lấp bằng sông Lam lại, ước vọng thật đáng quý, nhưng than
ôi, để cải tạo được thiên nhiên thì phải cải tạo được xã hội như ngày nay nhiều
nơi trên thế giới người ta đã đào núi lấp sông, làm những công trình vĩ đại,
nhưng xã hội ta thời ấy, ý nguyện của Nguyễn Du chỉ là một ảo vọng. Giới hạn lịch
sử, nhưng tấm lòng, ý chí của Nguyễn sáng mãi trong lòng người, để tên tuổi ông
bất tử.
Chú thích:
(1) Nguyễn Du - Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh
Thạch đài.
(2) Người dịch Nguyễn Đình Khang, Nguyễn
Văn Phú - Đô thành hiểu cổ xuất bản 1936 - NXB VHTT và TT Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây - tái bản 2014.
(3) có hai cách giải thích:
- “nhai” đọc trệch từ “nha”, có nghĩa là răng, mồm. Thanh
long là rồng xanh, cái mồm con rồng mùa lũ hóa thành đỏ, “đan nha” có nghĩa
đen như vậy
- “nhai” có nghĩa là bờ sông, dốc núi (theo Hán Việt từ điển -
Đào Duy Anh), mùa lũ cửa sông có màu đỏ (đan nhai).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét