1. Trong thời gian gần đây xuất hiện nhiều công trình đề cập
đến Hán văn Việt Nam trong giới Hán Nôm học. Những công trình đó góp phần quan
trọng cho việc nghiên cứu, giải thích thực thể Hán văn Việt Nam, bước đầu tìm
ra những nét riêng biệt của Hán văn Việt Nam. Theo mục tiêu đó của Hán Nôm học,
chúng tôi nghĩ rằng cần đẩy mạnh nghiên cứu Hán văn Việt Nam từ góc độ song ngữ
hay liên ngữ. Bởi vì, là sản phẩm của môi trường song ngữ, Hán văn Việt Nam, một
mặt, phải tuân thủ những quy tắc nghiêm ngặt của văn ngôn, mặt khác, lại chịu
áp lực của hoàn cảnh ngôn ngữ nơi nó thể hiện và hành chức trong những điều kiện
xã hội - ngôn ngữ Việt Nam trong suốt hai chục thế kỷ...
2. Có một điều dễ nhận thấy: khối lượng các văn bản Hán văn
Việt Nam cho đến nay vẫn còn được giữ lại chủ yếu từ sau khi nước nhà giành được
quyền tự chủ. Sự độc lập dường như đã không ngăn cả Hán văn được dùng một cách
rộng rãi, mà có vẻ như ngược lại. Sau độc lập, Hán học ở Việt Nam lại càng phát
triển và mở rộng... Phạm vi phổ biến chữ Hán ngày một rộng thêm, số lượng văn bản
nhiều hơn... Đã có những ý kiến giải thích về vấn đề này theo từng góc độ khác
nhau - góc độ lịch sử, góc độ văn hóa... và cả từ góc độ song ngữ. Chính tiếng
Việt phát triển trong môi trường song ngữ Việt - Hán (hay Hán - Việt) đã là
nhân tố quan trọng thúc đẩy, tạo điều kiện cho việc học chữ Hán.
3. Song ngữ Việt - Hán từ khi nước nhà độc lập khác với song
ngữ Việt - Hán ở thời Bắc thuộc về chất. Bởi lẽ, ở thời độc lập, tiếng Việt đã
phát triển cả về chức năng lẫn cấu trúc. Còn Hán văn chỉ là ngôn ngữ viết (thư
diện ngữ) (Lưu Quang Khánh, 1995). Song ngữ Việt - Hán không những chỉ khác với
chính mình ở giai đoạn trước đó mà còn khác với nhiều song ngữ hiện đại ở các
nước châu Phi hay châu á, nơi tiếng Anh, tiếng Pháp là ngôn ngữ thứ hai, ngôn
ngữ vay mượn nhưng là sinh ngữ... (Diebold, 1961). Các ngôn ngữ thành viên của
từng song ngữ hiện đại phân chia nhau về phạm vi các chức năng sử dụng... Tuy
có những điểm riêng như vậy, nhưng dù sao, các văn bản Hán văn Việt Nam - vì được
viết bằng ngôn ngữ- văn tự vay mượn, ngôn ngữ thứ hai..., nên vẫn phải mang những
đặc điểm chung của loại văn bản vốn không phải là tiếng mẹ đẻ. Do vậy, tự
nhiên, chúng phải chịu ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ của người viết và cả các nhân
tố xã hội - ngôn ngữ khác nữa...
4. Nghiên cứu song ngữ nở rộ trong khoảng những năm 50-60 và
cho đến nay vẫn là một vấn đề có tính thời sự trong ngôn ngữ học. Nghiên cứu
song ngữ nảy sinh trong nhu cầu thực tế của việc dạy, học và sử dụng ngôn ngữ
thứ hai. Những tư tưởng về so sánh ngôn ngữ không phải là mới xuất hiện ở thời
hiện đại, song, kế thừa những tri thức của ngôn ngữ học so sánh - lịch sử,
nghiên cứu song ngữ chủ yếu nghiên cứu quá trình tạo văn bản bằng ngôn ngữ thứ
hai. Do vậy, nó nghiêng về mặt ứng dụng, giúp cho người học ngôn ngữ thứ hai nắm
ngôn ngữ này nhanh hơn, tránh được những lỗi có thể tránh (Gak, 1989).
5. Việc dạy, học và sử dụng ngôn ngữ thứ hai xét từ góc độ
song ngữ tuỳ thuộc vào các nhân tố sau đây: tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ cần học, cần
viết. Hai điểm xuất phát này sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng các văn
bản của ngôn ngữ thứ hai sẽ được xây dựng trên nền liên ngữ này. Có thể hình
dung sự tác động và liên kết đó bằng sơ đồ dưới đây nếu ta xét các nhân tố này
trong môi trường song ngữ Việt - Hán:
Muốn tìm hiểu Hán văn Việt Nam, tìm ra những nét (đặc điểm)
riêng của nó, cần phải tìm hiểu không gian liên ngữ. Dường như Hán văn Việt Nam
trong không gian liên ngữ được tạo tác trong sự ảnh hưởng và pha trộn của cả
hai ngôn ngữ, nó được hình thành trong trạng thái động. Chúng ta hãy xem sự tác
động của từng nhân tố thành viên lên quá trình hình thành các văn bản Hán văn
Việt Nam. Trước hết là nhân tố tiếng mẹ đẻ.
6. Nhân tố tiếng mẹ đẻ có ảnh hưởng lớn đến quá trình học, sử
dụng ngôn ngữ thứ hai, trong đó, ảnh hưởng dễ nhận ra nhất là ở lĩnh vực vốn từ.
Khả năng nắm bắt vốn từ của ngôn ngữ thứ hai, ngôn ngữ vay mượn và sau đó sử dụng
chúng một cách nhuần nhuyễn để tạo tác văn bản, có phần phụ thuộc trực tiếp vào
trình độ và khả năng nắm bắt vốn từ tiếng mẹ đẻ, phụ thuộc vào mức độ phong
phú, của vốn từ tiếng mẹ đẻ có đáp ứng nổi hay không những khái niệm tương
đương được diễn đạt ở vốn từ ngôn ngữ thứ hai. Vì thế, sự phát triển và mức độ
phong phú của vốn từ ngôn ngữ mẹ đẻ sẽ tạo điều kiện cho việc nắm vốn từ ngôn
ngữ thứ hai. "Nhân tố mạnh mẽ hơn cả có ảnh hưởng đến quá trình nắm vốn từ
của ngôn ngữ thứ hai chính là vốn từ của tiếng mẹ đẻ" (Robert Lado, M,
1989, tr 38). Con đường làm phong phú vốn từ của tiếng Việt trong giai đoạn
song ngữ chính là sự vay mượn vốn từ tiếng Hán [Chủ yếu từ văn ngôn, nếu như ở
giai đoạn tiếp thu qua các kinh điển của các trào lưu triết học cổ Trung Quốc
và qua các văn bản văn ngôn cải cách nếu như ở những năm đầu thế kỷ XX] (Nguyễn
Ngọc San, 2-94). Nắm tiếng mẹ đẻ nhất là vốn từ của nó sẽ tạo điều kiện cho những
người đi học và sử dụng chữ Hán được tốt hơn, song đồng thời cũng chuẩn bị cho
các khả năng chuyển nghĩa, sang dòng, biến nghĩa... trong cách hiểu một loạt từ
của văn ngôn tiếng Hán trong nhận thức ngôn ngữ của người Việt Nam đi học và sử
dụng chữ Hán. Tiếng Việt qua hệ thống sách giáo khoa dạy chữ Hán và thực tế giảng
dạy chữ Hán của nền Hán học Việt Nam truyền thống đã đóng vai trò cần yếu trong
việc học chữ Hán (Phạm Văn Khoái, 1996. tr. 136 -149).
Tương tác giữa tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) và ngôn ngữ thứ hai
(Hán văn) đã diễn ra trong chu trình phụ thuộc vào sự giống nhau và khác nhau
giữa hai ngôn ngữ này. Có thể nhìn thấy sự giống nhau và khác nhau giữa hai loại
ngôn ngữ này về phương diện qua các công trình nghiên cứu loại hình (Stankevich
N.V., H 1982; Nguyễn Quang Hồng, H. 1994; Chúc Ngưỡng Tu, H. 1995) v.v...
Tựu trung sự giống nhau và khác nhau thể hiện ở mấy điểm sau:
- Giống nhau về hình thức nhưng khác nhau về ý nghĩa.
- Giống nhau về ý nghĩa nhưng khác nhau về hình thức.
- Khác nhau về hình thức và cả về ý nghĩa.
- Giống nhau về ý nghĩa cơ bản, nghĩa gốc nhưng khác nhau về
nghĩa rộng.
- Giống nhau về ý nghĩa nhưng khác nhau về sự phân bổ theo từng
nhóm văn bản hay từng vùng. Có thể qui những hiện tượng thuộc loại này là giống
hay khác theo đặc điểm "phương ngữ", có tính chất "phương ngữ".
Sự giống và khác về từ và ngôn ngữ nói chung trong không gian
liên ngữ Hán - Việt còn được thể hiện qua tự dạng. Các văn bản tiếng Việt ở
hoàn cảnh ngôn ngữ song ngữ Việt - Hán chủ yếu được ghi bằng chữ Nôm - một loại
văn tự phát sinh từ chữ Hán..., cho nên, những khác biết giữa tự dạng của chữ
viết tiếng Việt - chữ Nôm trong môi trường song ngữ Việt - Hán, đến lượt mình
cũng góp phần "tích cực" để tạo nên những sự "lệch chuẩn" về
tự dạng trong thực tế sử dụng chữ Hán. Những ví dụ do nhà nghiên cứu Vũ Tuấn
Sán nêu ra, đặc biệt là trường hợp khác biết về cách viết của chữ Việt (ẵ)
trong Khang Hy tự điển và các Hán Việt tự điển khác và trong thực tế viết chữ
Hán nói chung cần được hiểu trong bối cảnh song ngữ. Giao thoa (interference) ở
đây không chỉ dừng ở các cấp độ của ngôn ngữ mà còn cả phương diện tự dạng nữa
(Vũ Tuân Sán, 1/1996). Như vậy, các nét khác biệt về tự dạng giữa chữ Hán và chữ
Nôm đã tiềm tàng khả năng "lệch chuẩn" ngay cả về phương diện chính tả.
Có thể nghĩ rằng, ở người viết chữ Hán khi người đó đã biết chữ Nôm ngầm có khả
năng khiến anh ta có hướng viết chữ Hán theo tinh thần viết chữ Nôm (ở mức độ
nào đó). Tất nhiên đây là trường hợp rất ít khi xảy ra vì chuẩn chính tả của chữ
Hán rất bảo thủ và nghiêm ngặt. (Sofronov. M.V, 1979), ngay cả những ngôn ngữ có
chính tả bảo thủ nhất cũng không thể so sánh với mức độ bảo thủ và nghiêm ngặt
của chữ Hán. Do vậy, như nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Sán có nhận xét, những trường hợp
khác biệt về tự dạng giữa các văn bản Hán văn Việt Nam và chữ Hán Trung Quốc là
ít thấy. Cho dù là như vậy, song khả năng "lệch chuẩn" (interference)
ở đây là hoàn toàn có thể, là khả năng luôn luôn tiềm tàng.
Các biểu hiện giống và khác nhau giữa tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ
thứ hai cũng tiềm tàng những khả năng "lệch chuẩn", chúng ta có thể dễ
nhận ra, đồng thời cũng có khi rất khó có thể nhận ra. Không nên nghĩ rằng vốn
từ Hán Việt có trong tiếng Việt ở các giai đoạn là hoàn toàn giống tiếng Hán.
Điều này có nghĩa là ngày cả các bộ phận được tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) vay mượn
ngôn từ thứ hai (ở đây là tiếng Hán), nhưng trong quan hệ với ngôn ngữ thứ hai ở
môi trường song ngữ Việt - Hán thì cái bộ phận vay mượn này cũng thể hiện vai
trò, tính chất và nhiều nét nghĩa, hình thức khác với ở cội nguồn ban đầu của
mình (tiếng Hán). Tất nhiên những khác biệt này rất khó nhận ra và thường được
che dấu bởi các hình thức bề ngoài giống nhau (nhất là tự dạng trong song ngữ
Việt - Hán). ở nhiều trường hợp, chúng giống nhau cả về hình thức và ý nghĩa,
còn khác nhau ở đây chủ yếu là về ý nghĩa phái sinh, nghĩa phát triển, nghĩa mới,
nghĩa văn cảnh... và có khi chúng lại biến nghĩa, chuyển nghĩa... Tựu trung, đó
là những khác biệt về nghĩa rộng. Sự khác biết này rất tế nhị, chỉ có những người
am hiểu cả hai ngôn ngữ mới nhận ra. Hệ quả tự nhiên là xuất hiện các cách nói
mới, cách diễn đạt mới, nét nghĩa mới có tính chất Việt Nam trong cách sử dụng
chữ Hán. Nhìn vào ở một phương diện nào đó trong mối quan hệ với tiếng Hán (Hán
văn) có thể coi đó là những "biến thể có tính chất phương ngữ"
7. Dường như sự phức tạp của vấn đề không chỉ dừng ở mức độ
các khác biệt về nghĩa rộng hay "biến thể có tính chất phương ngữ" mà
nó còn thể hiện ở chỗ khác. Theo cách dạy, học và sử dụng chữ Hán trong môi trường
song ngữ Việt - Hán, những cách dùng khác nhau theo nghĩa rộng đã được truyền lại
từ thế hệ này sang thế hệ khác, rồi do tập quán mô phỏng người đi trước nên nó
được lưu lại với thời gian, dần dần mọi người quen dùng và chấp nhận. Chính các
biểu hiện này dần dần dẫn đến "tính ly tâm tương đối" của cách dùng
Hán văn ở Việt Nam. "Tính ly tâm tương đối" ngày càng tích tụ lại, tiềm
ẩn khả năng "sang dòng" (tất nhiên cũng là tương đối), khả năng trở
thành "gạch nối", khả năng "chuyển nghĩa"... trong thực tế
sử dụng chữ Hán và văn ngôn ở Việt Nam nếu như chúng ta xem xét chúng với văn
ngôn chính gốc. Cho đến bây giờ chúng ta có những công trình lớn thống kê,
nghiên cứu những hiện tượng "gạch nối", "sang dòng" trong
Hán văn Việt Nam, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể nghĩ đến khả năng này từ góc
độ song ngữ.
8. Nhiều lần trên đây chúng tôi đã nhắc rằng: Không gian liên
ngữ và các thành tổ cấu thành song ngữ Việt - Hán không phải đứng yên tại chỗ
mà ngược lại, chúng luôn luôn biến đổi... Ngay thành tố văn ngôn chính gốc (văn
ngôn Trung Quốc) cũng thường xuyên vận động, trải qua nhiều cuộc cải cách. Nhiều
phong cách, trường phái văn ngôn ra đời trong khoảng thời gian hơn hai mươi thế
kỷ đã làm cho văn ngôn không phải là một lược đồ ngôn ngữ khô cứng, không phải
hoàn toàn là một tử ngữ mà ngược lại nó cũng luôn biến đổi. Về vấn đề này chúng
tôi đã đề cập trong các bài viết về văn ngôn nói chung, văn ngôn hậu kì nói
riêng, cũng như các cuộc cải cách văn ngôn ở Trung Quốc thời trung thế kỷ (Phạm
Văn Khoái, 1 - 1996; 4-1996).
Môi trường liên ngữ đóng vai trò quan trọng trong việc cắt
nghĩa các nét riêng của ngôn ngữ thứ hai khi nó được phổ biến ở nước ngoài so với
nguyên gốc của nó ở trong nước trong sự tương tác với tiếng mẹ đẻ của người đi
học. Như vậy, nghiên cứu môi trường liên ngữ, không gian liên ngữ hay nghiên cứu
liên ngữ trở thành một trong những nội dung chính để nghiên cứu liên ngữ trở
thành một trong những nội dung chính để nghiên cứu những đặc điểm Hán văn Việt
Nam. Nghiên cứu liên ngữ thực chất là nghiên cứu "sự thể hiện của các ngôn
ngữ (trong không gian liên ngữ) hơn là nghiên cứu ngôn ngữ cụ thể như nó đã có
sẵn" (Carl James, M., 1989, tr. 208).
Đương nhiên, sự thể hiện của các ngôn ngữ trong không gian
liên ngữ là một quá trình, có tính tiến hoá... "Sự thể hiện của các ngôn
ngữ vốn là khái niệm mang trong mình nội dung tiến hoá (theo cách nói cuả F.
Saussure), từ đó có thể thấy rằng phân tích đối chiếu liên ngữ tựa hồ thuộc
phương diện lịch đại hơn là đồng đại: (Carl James, M, -> 1989, ->
tr.208). Điều này có nghĩa là những nét riêng của Hán văn Việt Nam cần phải được
giải thích trong mối quan hệ của hai ngôn ngữ trong môi trường song ngữ Việt -
Hán, cần phải được xem xét trong không gian liên ngữ, trong sự thể hiện mình của
các ngôn ngữ thành viên qua các thế hệ người sử dụng chữ Hán.
9. Có cơ sở để nghĩ rằng các khả năng "lệch chuẩn"
và các thực tế "sang dòng" trong Hán văn Việt Nam đã phần nào làm cho
Hán văn Việt Nam trong môi trường liên ngữ Việt - Hán đóng vai trò của
"ngôn ngữ - người trung gian" (Akhmanova O.S, Melchuk I.A,... MGU,
1961) mà ta thường gọi là chuyển ngữ để xây dựng vốn từ tiếng Việt. Có thể
trình bày mối tương tác đó bằng sơ đồ sau đây:
Trong cơ chế đó, văn ngôn Trung Quốc (hay Hán văn nói chung)
và Việt ngữ đều là những ngôn ngữ nguồn, ngôn ngữ xuất phát. Trên đây chúng tôi
đã nhấn mạnh áp lực của tiếng Việt lên quá trình học và sử dụng chữ Hán từ góc
độ nghiên cứu liên ngữ... Kết quả là Hán văn Việt Nam, với thời gian, dần dần
trở thành một biến thể Việt Nam của Hán văn nói chung, nó như là một "ngôn
ngữ - người trung gian", có "tính tự trị" và "li tâm tương
đối" ... Đồng thời cũng chính trong cái không gian liên ngữ này, tiếng Hán
(văn ngôn) thông qua Hán văn Việt Nam - "ngôn ngữ - người trung gian"
đã ảnh hưởng đến tiếng Việt. Song vấn đề này sẽ được đề cập ở một dịp khác.
10. Trên đây chúng ta đã nói đến sự tương tác các yếu tố ngôn
ngữ trong không gian liên ngữ, chúng ta cũng nói đến sự giống và khác nhau giữa
hai ngôn ngữ đã dẫn đến hình thành một biến thể của ngôn ngữ thứ hai do những
người đi học và sử dụng ngôn ngữ thứ hai, ngôn ngữ vay mượn - mà cụ thể ở đây
là Hán văn Việt Nam dần dần bị lệch chuẩn so với Hán văn chính gốc. Cũng cần
nói đến các bước đi và nhịp độ của sự lệch chuẩn (interference) ở mức độ khái
quát nhất. Nếu như ở các ngôn ngữ biến hình (các ngôn ngữ ấn - Âu) sự giao thoa
trước hết biểu hiện ở phương diện hình thức "thoạt đầu diễn ra quá trình
giản lược bao gồm quá trình đánh rơi các biến tố, các liên từ, các từ biểu thị
chức năng quán từ, sau đó lại có những quá trình phức tạp hơn (Carl James, M,
1989, tr 214). Như thế, những giao thoa đó có thể nhìn thấy nhờ các tiêu chí
hình thức. Còn ở các ngôn ngữ đơn lập như tiếng Hán và tiếng Việt, giao thoa sẽ
xảy ra chủ yếu ở phương diện cú pháp và sử dụng từ. Có thể có nhiều cách dùng từ
và cú pháp của tiếng Việt đã ảnh hưởng đến cách đặt câu trong Hán văn Việt Nam.
Chẳng hạn ở Quán Sứ tự công đức bi kí có câu: Àố ³¯ ầ° ệđ ẩý ạơ ậÄ ạơ ... thì
cách đặt câu "Lê triều tiền chi tam cung tứ quán..." rõ ràng chịu ảnh
hưởng của cú pháp tiếng Việt. Một số địa danh cũng có hiện tượng này như Hoa Lư
- Hoa lau... có trật tự cú pháp khác với tiếng Hán. "Con người thiên về
mang những hình thức và ý nghĩa từ tiếng mẹ đẻ và văn hoá của cộng đồng, dân tộc
mình vào tiếng nói và văn hoá nước ngoài" (Lado, M, P, 1989, tr 32-60).
11. Như vậy, hình thành trong môi trường song ngữ Việt - Hán,
Hán văn Việt Nam trong những mức độ nhất định đã có những biểu hiện "lệch
chuẩn". Đó cũng là đặc điểm chung của mọi văn bản viết bằng ngôn ngữ thứ
hai. Vậy cần xem mối quan hệ giữa Hán văn Việt Nam mang những đặc điểm bị giao
thoa với các "chuẩn" thông thường của văn ngôn (cụ thể là văn ngôn
Trung Quốc) như thế nào? Khái niệm "chuẩn" dù mặc nhiên được mọi người
thừa nhận, song không phải là không có vấn đề cần bàn, "Nhiều nhà ngôn ngữ
học chẳng cần thảo luận cũng dễ chấp nhận định đề mà theo đó, một trong những đặc
trưng cơ bản để một cộng động trở thành dân tộc là ở chỗ phải có một ngôn ngữ
chuẩn. Từ góc độ này, dường như một ngôn ngữ được coi là chuẩn khi có sự thừa
nhận chung về phát âm, chính tả, ngữ pháp và cách dùng từ, sự thừa nhận ấy là bắt
buộc cho mọi thứ ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết bao gồm cả ngôn ngữ văn học dân
tộc thống nhất và ngôn ngữ học thông dụng hiện đại nữa... Song, dường như đó là
quan niệm lý tưởng tuyệt đối. Hoàn cảnh ngôn ngữ tồn tại trong thực tế ở từng
nước khác rất xa ý tưởng này" (Ferguson C, P. 1989, tr.125). Dẫn ra lời
phát biểu trên đây về chuẩn ngôn ngữ, chúng tôi muốn nói rằng ngay trong phạm
vi một ngôn ngữ, vấn đề chuẩn cũng không phải lúc nào cũng là tuyệt đối. Việc
xây dựng ngôn ngữ chuẩn trong một cộng đồng, trong một dân tộc cũng còn vấp phải
một loạt những khó khăn. Chuẩn luôn luôn được xét trong quan hệ với các phương
ngữ. Ngay trong điều kiện hiện đại, cho dù ý kiến xây dựng ngôn ngữ chuẩn đã được
mọi người mặc nhiên thừa nhận thế mà cũng bị coi là "quan niệm lý tưởng
tuyệt đối" phương chi là vấn đề chuẩn tuyệt đối đối với việc sử dụng một
ngôn ngữ vay mượn, ngôn ngữ thứ hai ở ngoài chính quốc. Được sản sinh và vận
hành trong môi trường liên ngữ, khả năng giao thoa hóa của ngôn ngữ thứ hai là
hiển nhiên. Nguyên nhân làm cho giao thoa chính là do tiếng mẹ đẻ và do các
nhân tố văn hóa, xã hội, tâm lí khác nữa. Giao thoa của Hán văn trong không
gian liên ngữ Việt - Hán đã tạo nên biến thể Việt Nam của Hán văn nói chung, tạo
nên sự đa dạng trong việc sử dụng chữ của các nước đồng văn Đông Á. Bằng việc
nghiên cứu Hán văn Việt Nam trong môi trường song ngữ, chúng ta sẽ từng bước hiểu
rõ các bước đi và nhịp điệu dẫn đến các hiện tượng giao thoa trong Hán văn Việt
Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN:
1. Alexander. B.W Vietnam an the chinese model. Harvard
Univesity. Press, Cambridge. 1971.
2. Nguyễn Tài Cẩn. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc
Hán Việt. Nxb. khxh. H, 1979.
3. Nguyễn Tài Cẩn. Giáo trình ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Nxb.
Giáo dục, H.1996.
4. Diebold A. Incipient bilingualism. Language. 1961, 37, 1.
5. Ferguson A. Background to second language problems (trong
Novoe b lingvistike. XXV. U. , Progress, 1989).
6. Fishman J. "Standard" and "dialect" in
bilingual education "Modern languages Journal", 1977, 61,7.
7. Gak. V.G. Tổng luận về ngôn ngữ đối chiếu trong tập Novoe
v lingvistike XXV, M, 1989).
8. Nguyễn Thạch Giang. Thư tịch cổ Trung Hoa với chữ nghĩa
văn Nôm. Tạp chí Hán Nôm. 2-1993.
9. Haugen D. Bilungualism in the Americass. Alabama city, the
Americandialect society, 1956.
10. Nguyễn Quang Hồng, Âm tiết và loại hình ngôn ngữ. Nxb.
Khxh, H, 1994.
11. James C. Constrastive annalysis, trong tập Novoe v
lingvistike. XXV. M. 1989
12. Phạm Văn Khoái. Một số vấn đề về sách giáo khoa dạy chữ
Hán trong kho sách Hán Nôm trong tập: Thông báo Hán Nôm học. Nxb. KHXH., H.,
1996.
13. Phạm Văn Khoái. Vài nét về văn ngôn. Tạp chí Hán Nôm Số
1-1996
14. Phạm Văn Khoái. Hai cuộc cải cách văn ngôn lớn trong lịch
sử văn ngôn Trung Quốc. Tạp chí Hán Nôm 4-1996.
15. Phạm Văn Khoái. Song ngữ Hán Việt và sự phát triển về chức
năng của tiếng Việt. Tạp chí khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1-1996.
16. Lado R. Lingustics across cultures trong tập Novoe v
lingvistike XXV. M., 1989.
17. Mel'chyk. O Tochnikh metodakh issledovanija Jazyka. MGU,
1961.
18. Những cơ sở triết học trong ngôn ngữ học. Nxb. Giáo dục;
H; 1988.
19. Vũ Tuấn Sán. Chữ Hán của người Việt. Tạp chí Hán Nôm.
1-1996.
20. Đặng Đức Siêu. Ngữ văn Hán Nôm. Tập I. H, NXB Giáo Dục,
1992.
21. Sofronov M.V. Kitaiske jazyk i kitaiskoe osestvo. M,
Nayka, 1979,
22. Chúc Ngưỡng Tu. Một vài vấn đề về đặc điểm của âm, văn tự
tiếng Việt và tiếng Hán theo cách nhìn của người học ngoại ngữ. Ngôn ngữ,
3-1995.
23. Chu Quang Khánh. Hán ngữ dữ Trung Quốc tân văn hóa khải
mông. Đài Bắc. 1995.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét