Thứ Bảy, 1 tháng 3, 2025

Một hội thảo dưới tầm cuộc sống

 

Một hội thảo dưới tầm cuộc sống

Đọc lướt qua gần 600 trang của bản Tóm tắt báo cáo Hội thảo Việt học lần 3, tôi nhận ra biết bao điều mới lạ và thú vị. Hy vọng rằng những nghiên cứu mang công sức và trí tuệ của hàng trăm học giả trong và ngoài nước sớm được công bố rộng rãi, trở thành tài sản trí tuệ quý giá giúp chúng ta xây dựng con người và đất nước.

 

Tuy nhiên, cũng như ý kiến nhiều bạn bè, tôi cho rằng một hội thảo như vậy chưa xứng với tầm cuộc sống.

 

Thực tế cho thấy, chúng ta chưa có nền Việt học đích thực. Những gì được trình bày trong Hội thảo chỉ là những ảnh chụp, những ký họa một phần thực trạng xã hội và đất nước Việt Nam, mà thiếu đi diện mạo của một dân tộc, một nền văn hóa. Qua Hội thảo, ta chưa thấy được hai điều mấu chốt: Người Việt Nam là ai? Văn hóa Việt Nam là gì? Do chưa giải quyết được hai vấn đề rất cơ bản này nên Hội thảo lâm vào tình trạng nửa với. Cả “Hội nhập”, cả “phát triển” đều không có cơ sở!

 

Nhờ thành tựu mới nhất của di truyền học, chúng ta biết rằng, khoảng 70.000 năm trước, người hiện đại Homo sapiens đã từ châu Phi men theo bờ biển Nam Á tới Việt Nam. Tại đây, hai đại chủng Australoid và Mongoloid hòa huyết sinh ra 4 chủng người Việt cổ: Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Nhờ điều kiện sống thuận lợi, người Việt  tăng nhanh số lượng, lan ra Dông Dương, các đảo Đông Nam Á, châu Úc và 40.000 năm trước, đi lên khai thác Trung Quốc. Khoảng 30.000 năm trước, người Việt cổ lên Siberia, vượt eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ.

 

Khoảng 15.000 năm trước, từ trung tâm Hòa Bình, người Việt sáng tạo đồ Đá mới, giống kê, giống lúa, giống gà, giống chó cung cấp cho toàn Đông Á. Vào thiên niên kỷ IV TCN

 

Người Bách Việt ở Đông Á với nhân số hơn 60% thế giới đã xây dựng nền nông nghiệp lúa nước tiến bộ nhất thời đó. Đông Nam Á trở thành cái nôi của văn minh nhân loại.

 

Cùng với văn hóa vật thể, người Việt sáng tạo nền văn hóa phi vật thể là Việt Nho với nội dung Nhân Chủ, Thái Hòa, Tâm Linh cùng Đạo Việt An Vi. Khoảng 2600 TCN, do cuốc xâm lăng của người Mông Cổ chiếm lưu vục Hoàng Hà, một bộ phận người Lạc Việt từ đây trở về đất tổ Việt Nam dựng nước Văn Lang.

Hai ngàn năm qua, trải những thăng trầm của lịch sử, tộc Lạc Việt xây dựng nên quốc gia Việt Nam làm đât hương hỏa, nơi dung thân cuối cùng của Bách Việt.

Hai ngàn năm qua, nói cho cùng, mọi biến động của thế giới là sự tranh chấp khốc liệt giữa văn minh du mục và văn hóa nông nghiệp. Văn minh du mục không chỉ là vó ngựa Mông Cổ mà còn là những cuộc thánh chiến, những cuộc xâm lược của các cường quốc phương Tây, là hai cuộc chiến tranh, là chủ nghĩa phát xít, là chủ nghĩa Staline toàn trị, là sự tàn phá môi sinh, là cuộc xâm lăng văn hóa đang diễn ra và sự xuất cảng suy thoái kinh tế của phương Tây ra toàn cầu…

 

Trước mối đe dọa hủy diệt cuộc sống Trái đất, nhiều thức giả phương Tây hướng về phương Đông mong tìm phương cách cứu rỗi nhân loại. Họ đã tìm về Ấn Độ huyền bí, tìm về giáo lý đạo Phật, tìm về Khổng giáo, về Lão Tử… Nhưng cho tới nay, điều cần nhất vẫn chưa tìm được. Nguyên nhân dơn giản là nhân loại chưa thực sự hiểu về văn hóa cội nguồn của chính mình.

 

Bốn chục năm trước, bằng thấm đẫm văn hóa Việt, bằng giải mã thiên tài những huyền thoại, truyền thuyết Việt, triết gia Kim Định khám phá ra Việt Nho với nội dung Nhân Chủ, Thái Hòa và Tâm Linh. Trong vũ trụ tam tài Thiên, Địa, Nhân thì con người là trung tâm, là chủ thể. Vì là chủ thể nên con người phái sống một cách thái hòa với nhau và với tự nhiên. Để đảm bảo được nhân chủ và thái hòa, con người phải sống trong tâm linh. Vũ trụ trong quan niệm Việt Nho là vũ trụ “tham thiên lưỡng địa”: Vũ trụ phát triển, Dương trội hơn Âm, nhưng cùng lắm cũng chỉ 3 phần, còn dành cho Âm là đất mẹ, với vai trò nuôi dưỡng 2 phần! Đấy chắc chắn là sự khôn ngoan lớn nhất mà phương Đông cống hiến cho thế giới. Nhưng 40 năm qua, do nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên nhân then chốt nhất là chưa tìm ra cội nguồn thực sự của con người cũng như văn hóa Việt, khiến người ta chưa chấp nhận.

 

Với một hội thảo lớn như thế này, thiết tưởng những vấn đề căn cốt trên phải được bàn luận và giải quyết. Khi chưa giải quyết vấn đề nền tảng đó, mặc nhiên Hội thảo này cũng như cả điều quen được gọi là Việt học lâm vào tình trạng tiên thiên bất túc: người ta bàn thảo đã đời về người, về đất nước, về văn hóa Việt trong khi người ta chẳng hề biết người Việt là ai, có lịch sử thế nào, văn hóa Việt là gì, được tạo dựng ra sao cùng vai trò của nó trong văn hóa nhân loại… Có thể thấy, những học giả tham gia Hội thảo là những nhạc công, trong đó không ít người tài năng.

Bản hợp xướng nhạt nhẽo buồn tẻ là do nhạc trưởng. Làm sao mà dẫn đường khi học thuật đi sau cuộc sống?.

Sài Gòn, 30/12/2008

Hà Văn Thùy
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Trả lời tiến sĩ Đỗ Kiên Cường

 

Trả lời tiến sĩ Đỗ Kiên Cường

(Lời thưa: Bài này tôi viết để trả lời tạp chí Tia sáng. Sau khi đọc tác giả trên mạng, tôi sẽ có những bài tiếp theo, vì đây là câu chuyện dài)

Tạp chí Tia sáng số 17 ra ngày 5 tháng 9 năm 2008 đăng bài “Di truyền học và cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người” của Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường. Đó là khảo cứu công phu và hữu ích giúp cho người đọc tiếng Việt tiếp cận với cuộc cách mạng tri thức đang sôi động trên thế giới.

  

Tuy nhiên, có thực tế là, ngoài trường phái Mỹ mà tác giả sử dụng tư liệu chủ yếu, còn trường phái Anh, Úc, châu Âu (Ý, Tây Ban Nha)… nghiên cứu cùng chủ đề, công bố nhiều thông tin quan trọng. Mặt khác, cũng phải nhắc rằng, giống như lĩnh vực nghiên cứu hạ nguyên tử (sub-atomic), sinh học phân tử là khoa học đòi hỏi độ chính xác cao mà kết quả nghiên cứu phụ thuộc chặt chẽ vào phương pháp và công cụ thí nghiệm. Vì vậy nói tới chủ đề này cần có cái nhìn bao quát nhiều tư liệu của các trường phái khác nhau để rồi chọn lọc đưa ra chủ kiến của mình. Nếu chỉ tin một nguồn tư liệu, rất có thể sa vào trạng huống bi hài của những thầy bói xem voi.

 

Bài viết này, tôi chỉ xin trao đổi lại với tác giả về những điều liên quan tới tôi trong những dòng sau: “Không khó để thấy sai lầm của tác giả. Vì ông lập thuyết dựa trên cuốn Địa đàng phương Đông: Lục địa Đông Nam Á bị chìm, một cuốn sách phổ biến khoa học không được đánh giá cao của Oppenheimer, chuyên gia nhi khoa nhiệt đới người Anh và diễn giải sai công trình về bộ gen người Trung Quốc của Chu và 16 đồng tác giả đăng trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Science, ngày 29-9-1998”

 

1. Việc đánh giá cuốn Địa đàng ở phương Đông

 

Đáng ngạc nhiên về tư duy của một vị tiến sĩ. Thế nào là cuốn sách phổ biến khoa học không được đánh giá cao? Đấy phải chăng là tiêu chí chất lượng? Hơn nữa, ai đứng ra đánh giá? Một suy nghĩ mang  tư tưởng tiểu nông, bầy đàn. Vấn đề ở đây là cuốn sách sai hay đúng, đưa lại những gì mới?

 

Hơn 30 năm trước, Stephen Oppenheimer là bác sĩ nhi khoa vô danh tới làm việc tại các đảo Nam Thái Bình Dương. Khi đi khám, chữa bệnh sốt rét cho một số bộ lạc thiểu số, ông bỗng nhận ra mối liện hệ giữa bệnh sốt rét và sắc tộc. Từ đó ông vận dụng kiến thức di truyền, vẽ bản đồ phân bố bệnh sốt rét. Những bài viết đầu tiên của ông thông báo về gene miễn nhiễm sốt rét liên quan tới sắc tộc đã làm xôn xao y giới. Là nhà nhân bản lớn, từ phát hiện này, ông đi sâu vào nghiên cứu ngôn ngữ, phong tục tập quán, truyền thuyết, folklor của nhiều tộc người sống “ngoài rìa thế giới”. Hàng trăm bài báo đuợc đăng trên những tạp chí uy tín. Và công trình 20 năm của ông là cuốn sách trên. Những đóng góp trong đó có Địa đàng phương Đông giúp ông trở thành Giáo sư của Oxford, Trường Đại học danh tiếng hàng đầu thế giới.

 

Từ giữa thế kỷ trước đã có một số ý tưởng cho rằng văn hóa Đông Nam Á lâu đời, ảnh hưởng tới văn hóa Cận Đông… Nhưng chính S. Oppenheimer là người dũng cảm gạt bỏ mặc cảm tự hào da trắng để viết Địa đàng phương Đông, tập sách lớn đầu tiên mang ý nghĩa phát hiện về Đông Nam Á với tư cách là cái nôi văn hóa của nhân loại.

 

Đánh giá một công trình khoa học tùy thuộc vào nhận thức của từng người. Riêng với tôi, đấy là công trình quan trọng nhất, mang tính cách mạng về vận mệnh Đông Nam Á. Chẳng những đưa lại công bằng cho những tộc người từng có công khơi mở văn minh nhân loại, nó còn giúp cho các dân tộc Đông Nam Á giác ngộ, ngẩng đầu tự nhận thức về mình sau hàng trăm năm bị chủ nghĩa thực dân đầy đọa. Tôi cho rằng, sẽ tới lúc, đại gia đình ASEAN phải đúc tượng vàng vinh danh ông với tư cách người tìm lại văn hóa và nhà giải phóng tư tưởng lón nhất đối với Đông Nam Á.

 

Tuy quan trọng như vậy nhưng không thể lập thuyết dựa trên cuốn Địa đàng phương Đông. Cái chính yếu mà tôi nhận được từ cuốn sách là sự cổ vũ về tinh thần cùng với một định hướng công tác: đi tìm cội nguồn các dân tộc Đông Nam Á, từ đó tìm ra lịch sử, văn hóa đích thực của họ.

 

2. Về tài liệu của nhóm Y. Chu

 

Thực tế cho thấy, dù có trong tay Địa đàng ở phương Đông, Genographics của nhóm Spencer Wells hay Out of  Eden của S. Oppenheimer thì ta cũng chẳng có thể nói được gì về cỗi rễ người Đông Á. Thông tin về di truyền trong Địa dàng phương Đông không dành cho mục đích này. Còn hai công trình sau là những tài liệu di truyền học đại cương (general genetics), mô tả hành trình của con người nói chung rời châu Phi chiếm lĩnh Trái đất. Không thể dùng chúng để nghiên cứu riêng từng sắc tộc. Đó là nhiệm vụ của di truyền học sắc tộc (ethnic genetics).

 

Rất may là từ giữa năm 2004 tôi tiếp cận công trình của Giáo sư Y. Chu: Đa dạng di truyền người Trung Hoa (Chinese Human Genome Diversity Project). Phải nói rằng, ở thời điểm ấy, khi Bản đồ gen người chưa được công bố, đó là tài liệu duy nhất tôi có trong tay. Buồn ngủ gặp chiếu manh hay chết đuối vớ được cọc chính là tâm trạng tôi lúc đó.

 

Tài liệu Y. Chu có mấy điểm chính:

-          Người tiền sử từ châu Phi theo đường phương Nam đến Việt Nam khoảng 60-70.000 năm trước.

-          Dừng lại ở đây trong 10.000 năm, họ lai giống, tăng nhân số, lan tỏa khắp Đông Nam Á lục địa rồi 50.000 năm trước di cư tới châu Úc và 40.000 năm trước chiếm lĩnh các đảo ngoài khơi Đông Nam Á.

-          Cũng khoảng 40.000 năm trước, do thời tiết ấm lên, người từ Đông Dương đi lên lục địa Trung Hoa và khoảng 30.000 năm trước đi lên Siberia, rồi vượt eo Bering sang châu Mỹ.

-          Đặc điểm di truyền của người Trung Quốc phương Bằc khác người Trung Quốc phương Nam. Di truyền người Việt Nam gần gũi với dân Nhật Bản, Hàn Quốc và Nam Trung Hoa.

-          Người Mông Cổ, người Altaic cũng từ Đông Nam Á đi lên mà không phải từ Trung Á sang.

-          Người Việt Nam có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất trong các sắc dân Đông Á.

 

Trong các khảo luận của mình, tôi đã khai thác trung thành và triệt để tài liệu đó. Chính nhờ vào phát hiện mang tính đột phá của công trình này, tôi hoàn thành cuốn sách Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học – 2007). Sau đó, bổ sung tư liệu, cho in cuốn Hành trình tìm lại cội nguồn (NXB Văn học – 2008)

 

Đề nghị ông Đỗ Kiên Cường chứng minh xem tôi diễn giải sai ở chỗ nào? Gán cho người khàc tội diễn giải sai công trình về bộ gen người Trung Quốc của Chu mà không hề chứng minh, là thái độ kẻ cả, chủ quan khinh suất không nên có trong sinh hoạt học thuật.

 

Ở trên tôi có nói: vấn đề chúng ta đang bàn là đề tài nghiên cứu của nhiều trường phái, đưa ra những kết quả có khi mâu thuẫn nhau. Nếu không biết chọn lọc mà chỉ nghiêng hẳn về một trường phái có thể dẫn tới những ngộ nhận đáng tiếc.

 Trong bài viết của Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường, có những điểm đáng bàn sau:

 

-  Theo Wells, tác giả khẳng định 60.000 năm trước mới có đợt di cư quyết định cuối cùng và phủ định công bố của S. Oppenheimer cho rằng di cư chủ yếu từ 80-90.000 năm trước. Nhưng khảo cổ học đã phát hiện bộ xương Mongoloid ở LiuJiang, Quảng Tây có tuổi 68.000 năm trước. Cố nhiên nếu 60.000 năm mới rời khỏi châu Phi thì trước đó 8.000 năm không thể hiện diện ở Quảng Tây!(1)

 

 - Ông nói: “Theo Wells và nhiều người khác, từ Trung Đông lên Trung Á (Bắc Afginistan) mới là hành trình chủ yếu. Khoảng 90% cư dân ngoài châu Phi là hậu duệ của những nhá thám hiểm con đường này từ 50-40 ngàn năm trước.”

 

Nhưng tôi cũng có tài liệu của các nhà khoa học Tây-ban-nha, Ý và Georgia. Khi phân tích AND của 5000 chiếc răng hóa thạch tìm được ở châu Âu, đã phát hiện rằng, khoảng 40.000 năm trước, khí hậu cải thiện, những người từ Trung Đông đi lên châu Âu. Ở đây họ hòa huyết với những người từ châu Á tràn sang, sinh ra tổ tiên người châu Âu. Do số lượng người châu Á quá đông nên trong bộ gene người châu Âu, dòng máu châu Á là chủ thể! (2)

 

- Ông Đỗ Kiên Cường viết: “vậy người Hán có nguồn gien chủ yếu từ đâu? Chủ yếu từ người Mongoloid phương Bắc (có nguồn gốc Altai thuộc Siberia; Trung Á và Đông Nam Á, mà ban đầu cũng từ Trung Á), và từ người Mongoloid phương Nam (hậu duệ của người Mongoloid phương Bắc di cư xuống Tây Nam Trung Quốc,  Tây Bắc Đông Nam Á. Người Việt có thể có nguồn gốc Mongoloi là vì vậy.”

 

Có thể nói rằng, đó là cách hiểu sống sít đầy tính sách vở, thiếu thực tế. Xin hỏi: Có đúng người Hán có nguồn gen chủ yếu từ Mongoloid phương Bắc? Nếu vậy thì mã di truyền (genome) đại đa số người Hán phải là Mongoloid phương Bắc! Nhưng trên thực tế, chủng Mông cổ chỉ là một trong 53 tộc thiểu số bao gồm 200 triệu, trong khi 1.100 triệu là Mogoloid phương Nam!

Điều này tôi đã trình bày rõ trong bài Cội nguồn người Hán và sự hình thành nước Tàu. (3)

 

Những dòng ông Đỗ Kiên Cường dẫn trên có thể không sai. Nhưng lỗi chính là do ông không nắm được thời điểm hình thành rồi di chuyển của từng chủng người cho nên đưa ra một mớ bòng bong khiến người đọc bối rối.

 

Phải mất nhiều tâm trí, tôi mới gỡ được từ mớ bòng bong đó những sợi như sau:

- 84.000 năm trước đang thời Băng hà. Rời khỏi châu Phi, những người trụ lại Trung Đông, do thời tiết khắc nghiệt, không thể đi lên phía bắc, chịu đựng trạng thái tiềm sinh: mấy chục ngàn năm nhân khẩu tăng chậm và hầu như dậm chân tại chỗ về văn hóa. Trong khi đó những người đi về phía mặt trời mọc, tới được địa đàng. Khí hậu ấm áp, thức ăn dồi dào, họ hòa huyết, tăng nhanh nhân số, sáng tạo dồ Đá mới, lan khắp Đông Dương và các đảo Nam Thái Bình Dương. Khoảng 40.000 năm trước, khi khí hậu phia bắc tốt hơn, người từ Đông Dương đi lên Trung Hoa, rẽ về phía Tây, vượt cao nguyên Tibet, vào Trung Á. Cũng lúc này, cái nhóm người nhỏ nhoi sống èo ọt ở Trung Đông mới có thể đi lên châu Âu qua eo Bosporus. Nhưng chính ở đây họ đã gặp rất đông đảo người mạnh mẽ, giỏi giang hơn từ châu Á sang. Hai dòng hòa huyết tạo ra tổ tiên người châu Âu hiện đại. Chuyện người từ châu Âu quay lại Trung Á, vào Tây Tạng rồi đi lên Đông Bắc châu Á, sang châu Mỹ là có thực, nhưng muộn hơn, vào khoảng 20.000 năm trước. Những người Altaic trong số đó chỉ tạo thành nhóm thiểu số ở Đông bắc Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản (4). Họ không có vai trò đáng kể trong bộ gene dân cư Trung Quốc. Nhưng truy nguyên, chính họ cũng từ gốc Đông Nam Á đi lên theo con đường ngoắt ngoéo. Trên đường di cư, họ tiếp nhận ít nhiều yếu tố Europid (da trắng, rậm lông).

 

Một thực tế là, nếu chỉ có dữ liệu di truyền học, thì ngay cả di truyền sắc tộc như của nhóm Y. chu, cũng không giải quyết được những vấn đề phực tạp của dân cư Đông Á. Cùng lắm, chúng chỉ là cái la bàn cho ta phương hướng.

 

Tổng hợp tài liệu nước ngoài, dịch rồi công bố là công việc mà Khổng Tử gọi là “thuật nhi bất tác.” Nhưng khi chưng cất tinh túy của dữ liệu di truyền đem luyện với hồn vía những tri thức khảo cổ học, cổ nhân học, ngôn ngữ học, folklor, truyền  thuyết… đề xuất ý tưởng chưa từng có thi đích thị là “tác”rồi. Mọi sự “tác” khi mới ra đời đều mong manh, dễ bị tổn thương, nếu vùi dập sẽ gây ra oan nghiệt. Trong bài Thưa chuyện với sử gia tạ Chí Đại Trường (5), tôi phải cân nhắc nhiều mới dám hạ bút: “Dù với sự thận trọng của người dám chịu trách nhiệm, chúng tôi cũng buộc phải thưa rằng, sử gia Tạ Chí Đại Trường không thể chối bỏ tội lỗi với văn hóa dân tộc!” Nếu muốn trung thực, không thể viết khác. Vị sử gia này đã phủ định sạch trơn triết gia thiên tài Kim Định, góp phần đẩy lui học thuật và tư tưởng dân tộc nhiều thập kỷ!

 

Khi làm việc, tôi gắng sức tách mình ra, đứng cao hơn những tư liệu trước mặt để nắm bắt cái “hồn vía” của chúng. Điều mấu chốt với tôi là người tiền sử đã theo con đường phương Nam tới Việt Nam. Người Việt cổ đã từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Tổ tiên chúng ta mang theo rìu đá rồi giống lúa, giống kê, giống gà, giống chó xây dựng nông nghiệp lúa nước từ sông Hồng, sông Mã tới Trường Giang, Hoàng Hà, đưa Đông Nam Á thành trung tâm nông nghiệp tiên tiến và rực rỡ nhất thế giới cổ đại.                                   

                                                                            

Sài Gòn Trung Thu 2008- Bản của tác giả

 

1. Karen Rosenberg. University of Delaware, Deparment of Anthropology. New York. De 19716. USA

A late pleistocene human skeleton from Liujiang, China suggests regional population variation in sexual dimorphism in the human pelvis.  Variability and Evolution 2002.vol.10:5-7

2. Proceedings of the National Academy of Sciences

 (http://www.radio-canada.ca/nouvelles/Science-Sante/2007/08/07/004-europe-colonisation-asie.shtml?ref=rss)

3. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học. Hà Nội, 2008.

4. Hà Văn Thùy. Góp một cách nhìn về lịch sử Nhật Bản. havanthuy.ourprofile.net; vanchuongviet.org

5. Hà Văn Thùy. Sách đã dẫn.

Không biết dựa vào cơ sở nào mà Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường viết như thế này: “Một số tác giả, gồm cả các nhà nhân học và khảo cổ học, đã lên tiếng phản đối, nhưng đều bị Hà Văn Thùy át giọng bằng một số kiến thức nhân học phân tử…” Quả thật tôi rất mong nhưng chưa có bất cứ “nhà nhân học và khảo cổ học” nào “lên tiếng phản đối.” Phản đối tôi chỉ có một nhà văn và bây giờ là nhà vật lý, tức là những người ngoại đạo với vấn đề đang thảo luận. Mà thực ra, thời thế này một phó thường dân như tôi có quyền lực gì mà “át giọng” được ai? Sao lại bỗng dưng deo tiếng ác cho nhau?

 

Biết nói thế nào đây với người bạn tôi từng quý mến thời “43 Đồng Khởi*”?

 

Điều đáng tiếc đầu tiên là ông Đỗ Kiên Cường không hiểu tài liệu mình dẫn. Trong khi nhất quyết cho rằng Wells chủ trương  “Con người rời châu Phi 60.000 năm trước” thì ông cũng đưa ra: “Theo số liệu hiện nay, khoảng 60-50 ngàn năm trước, ba nhóm người tiền sử tới Sunda, với các dấu gien M (60 ngàn năm trước), M130 và M174 (cùng 50 ngàn năm trước)”.

Xin hỏi, đi bằng gì mà nhanh vậy, nhảy dù hay thuyền cao tốc mà vừa rời châu Phi đã tới ngay Đông Nam Á? Sự thực là, các công bố của Y. Chu, S.Oppenheimer và Wells thống nhất một điểm: người tiền sử tới Đông Nam Á khoảng 60-70.000 năm trước. Thời điểm tới là vậy. Nhưng đi từ bao giờ? Y. Chu không nói. Wells đưa ra giới hạn quá dài 200.000 – 60.000 năm. Chỉ có Oppenheimer cụ thể: 85.000 năm trước. Tôi cho rằng, con số này là thích hợp bởi thời đó, làm hành trình như vậy phải mất 15.000 năm! Mặt khác, công nghệ gene tìm ra những điểm nút thời gian này một cách dễ dàng. Hoàn toàn không có mâu thuẫn gì giữa Wells và Oppenheimer ở đây cả. Chỉ là sự hiểu lẩm. Báo hại tôi tưởng thật nên trong bài trước đã trưng bộ xương Liujiang 68.000 tuổi để phản bác sai lầm vốn không có của Wells!

 

Điều thứ hai: Nhóm nào trở thành đa số của thế giới?

 

Không khó để nhận ra sự thật là, đặt chân lên bán đảo A Rập, dòng người chia tay nhau. Những người ở lại đã sống hơn 30.000 năm đối mặt với hoàn cảnh ngặt nghèo: trên mảnh đất hẹp, sau lưng là quê nhà cằn cỗi dần với nạn nhân mãn. Trước mặt là bức tường thành băng giá. Vì vậy chắc rằng suốt thời gian đằng đẵng ấy nhân khẩu tăng rất chậm và văn minh cũng phát triển chậm theo. Trong khi đó, những người đi về phương Đông, tuy gặp muôn vàn gian lao nhưng đã đặt chân tới địa đàng. Họ sinh sản nhanh, sống tập trung, biết phân công lao động, thực hiện những sáng chế phát minh. Từ đây họ lan tỏa ra khắp Đông Dương.

Khoảng 52.000 năm trước, khí hậu được cải thiện, người từ A rập tiến lên phía Bắc, tới Cận Đông. Khoảng 50.000 năm trước họ vào châu Âu qua eo Bosporus.

Muộn hơn một chút, khoảng 45.000 năm trước, nhóm từ duyên hải Đông Á di cư về phía tây, qua Trung Á rồi vào châu Âu. Ở đây, họ hòa huyết với người từ Trung Đông lên, sinh ra tổ tiên người châu Âu.

 

Ở trên là hai dòng dân cư làm nên nhân loại ngoài châu Phi. Vấn đề là: dòng nào chủ đạo? Xin đưa ra hai bằng chứng.

 

Dẫn chứng 1:

- Buckminster Fuller, một nhà Địa lý kiêm Toán học người Anh cho rằng, có thể tìm ra nguồn gốc các nền văn minh căn cứ vào tỷ lệ thuận giữa trình độ văn hóa, di dân và mật độ nhân số. Từ lý thuyết đó, ông lập  Dymaxion world Maps (bản đồ động thái thế giới). Từ bản đồ của mình, B. Fuller kết luận: “duyên hải Ðông và Ðông Nam Á chỉ chiếm 5% diện tích thế giới nhưng có tới 54% nhân loại đang sống”.(1) Chỉ duyên hải với 5% diện tích đã có 54% nhân số thì toàn lục địa Đông Á, con số đó là bao nhiêu? Họ đều là hậu duệ của nhánh đi tới phương Đông.

 

 Dẫn chứng 2:

  -  “Từ trước đến giờ, các khảo cứu gia cứ lầm tưởng rằng người dân châu Âu là do những cuộc di dân, từ hàng triệu năm trước, của các sắc dân gốc Phi châu mà thành. Nhưng sau khi khảo nghiệm hơn  5.000 mẫu răng hóa thạch của những dân gốc Phi châu, Á châu và những giống người khác, các nhà nhân chủng học người Tây-ban-nha, Ý và Georgia đã kết luận rằng những cuộc di dân từ thời xa xưa đến Âu châu đúng ra phần nhiều là do những sắc dân gốc Á châu, chứ không hoàn toàn là từ Phi châu như những giả thuyết mà các khảo cứu gia đã đề quyết bấy lâu.” Đó là bản tin trên tờ báo mạng khoahoc.net.(2)  

 

Hai tài liệu trên cho thấy: người Á châu chiếm phần lớn dân cư thế giới. Ngay người châu Âu cũng do số đông người châu Á tạo nên.

Điều này bác bỏ ý tưởng cho rằng người từ Trung Đông đi lên tạo thành đa số nhân loại.

 

Điều thứ ba làm chúng ta bận lòng: mấy bà Eve?

Suy tưởng về giờ phút đầu tiên xuất hiện loài người, có lúc tôi hình dung những kịch bản sau:

a. Từ cộng đồng Homo erectus đột biến ra 3 cặp Homo sapiens: vàng, đen, trắng. Ba đại chủng của nhân loại được hình thành từ ba cặp tổ này.

b. Một bà và 3 ông với 3 mầu da vàng, trắng, đen.

c. Một ông và 3 bà với 3 màu da trắng, đen, vàng.

 

Tôi không hề nghĩ đến kịch bản 1 ông 1 bà, dù nó được kinh Thánh và Luật Hôn nhân bảo trợ! Trước hết, nếu điều này xảy ra, nhân loại sẽ bị lai cận huyết, hậu họa khôn lường! Điều vô lý hơn là nó trái với quy luật di truyền: dù cặp này có khác màu da cách sao thì con cái họ cũng không thể có 3 màu da. Ông tổ, bà tổ lúc đó nguồn gene tinh khiết lắm. Nếu ông đen, bà trắng, ta có hậu duệ với 25% trắng, 25% đen và 50% chocolate! Mặt khác, nếu tổ tiên đã có “phép thần kỳ” như vậy thì hẳn con cháu cũng “thần kỳ” theo: trong mỗi gia đình Giao Chỉ, việc bà xã “xón” ra một cục cưng đen hay trắng là chuyện bình thường! Nhưng thực tế đã không như vậy. Cả trong trường hợp ông trắng bà vàng thì một cục đen xuất hiện cũng chắc chắn là “đồ ngoại”.

  Ông Cường viết:

“Toàn bộ nhân loại trên trái đất hiện nay là hậu duệ của một người phụ nữ sống tại Đông Phi khoảng 200 ngàn năm trước.” Và  “Toàn thể nam giới trên hành tinh hiện nay đều có nguồn gốc từ người đàn ông duy nhất sống tại Đông Phi 60 ngàn năm trước. Đó là chàng Adam nhiễm sắc thể Y, đối tác của nàng Eva ti thể sống từ hơn 100 ngàn năm trước đó.”

 

Quả thật, tôi không hiểu nối ý tứ của tác giả trong những dòng này!

 

“Toàn bộ nhân loại trên trái đất hiện nay là hậu duệ của một người phụ nữ sống tại Đông Phi khoảng 200 ngàn năm trước.” Có thể, vì không có gì trái tự nhiên.

 

Nhưng “Toàn thể nam giới trên hành tinh hiện nay đều có nguồn gốc từ người đàn ông duy nhất sống tại Đông Phi 60 ngàn năm trước mà người đó lại là “đối tác” của người sống 140.000 năm trước mình?” Có vẻ không bình thường!  Nàng Eva của ông Cường sau 140.000 năm sinh ra bao nhiêu người nữ? Làm sao chàng Adam xuất hiện lúc đó lại là chồng của tất cả phụ nữ hiện có để sinh ra toàn thể đàn ông ngày nay? Người đàn ông này là dê hay là khỉ? Có lẽ phải là Tôn Ngộ Không phân thân hay tự nhân bản (clon) thành nghìn vạn để vừa diệt những đàn ông khác, vừa truyền giống rồi ngay đấy dắt díu bầu đoàn thê tử làm cuộc du lịch không tiền khoáng hậu rời châu Phi! Chàng Adam này là “đối tác” của cụ tổ 140.000 năm trước của mình là nghĩa làm sao?

Tư duy trên thể hiện sự bất cập về kiến thức Sinh học của tác giả. Ông mâu thuẫn lung tung với di truyền học và với cả lịch sử hình thành con người. Nếu thực sự có cặp tổ tiên duy nhất như ông nói thì cái cặp ấy cùng xuất hiện ở thời điểm 160.000 năm trước để cho ra cả loài người hiện nay!

 

“Ba bà Eva” có trong dự án, nhưng tôi chỉ dám chắc nhờ đọc bài của Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, chuyên gia Di truyền học Đại học Y khoa Garvan, Úc vào đầu năm 2006.

Cũng không thể ngờ ông Cường lại dùng Wikipedia với thông tin của 1987 làm cứ liệu duy nhất xây dựng luận điểm của mình. Wikipedia rất phong phú nhưng ai đảm bảo cho nó về sự chính xác? Tư liệu di truyền về “bà Eve” trước khi có Bản đồ gen người liệu có đáng tin?

 

Điều bất đồng lớn nhất giữa ông Cường và tôi là Người Việt có khai phá lục địa Trung Hoa 40.000 năm trước hay không?

 

Đây là vấn đề của lịch sử, trước hết hãy để lịch sử lên tiếng.

 

Trang 53 cuốn Việt lý tố nguyên (3) của Giáo sư Kim Định ghi: “Thoạt kỳ thủy, Viêm tộc theo dòng sông Trường Giang vào khai thác vùng Trường Giang thất tỉnh tức là bảy tỉnh thuộc Dương Tử Giang là Tứ Xuyên, Hồ Bắc,  Hồ Nam, Giang Tây, Giang Tô, An Huy, Chiết Giang rồi lần lần một mặt theo bình nguyên Hoa Bắc lên khai thác vùng Hoàng Hà lục tỉnh là Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Tây, Sơn Đông, Thiểm Tây, Cam Túc. Còn phía Nam thì lan tới khu vực gọi là Việt giang ngũ tỉnh gồm Vân Nam, Quý Châu, Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến… Theo Chu Cốc Thành trong quyển “Trung Quốc thông sử” và một số sử gia nữa thì Viêm tộc đã có mặt ở khắp nước Trung Hoa cổ đại trước khi các dòng tộc khác tràn vào, nên Viêm tộc kể là chủ đầu tiên.”

 

Với tôi, những dòng chữ trên vô vùng quý giá vì chúng xác nhận từ 10.000 năm trước người Việt là chủ nhân toàn bộ đất Trung Hoa.

 

Những thông tin của khoa học hiện đại từ Y. Chu góp phần khẳng định điều này nhưng quan trọng hơn, cung cấp cho tôi niềm vui không ngờ tới: Người Việt không phải từ Thiên Sơn xuống mà chính là từ đất Việt lên Trung Hoa 40.000 năm trước!

 

Khám phá này vô cùng quan trọng vì nó thay đổi hẳn lịch sử. Tuy là chủ nhân đầu tiên của Trung Hoa nhưng với cách nhìn cũ, chúng ta không có gốc gác mà chỉ là đám thực dân chiếm đất của người bản địa Đông Dương rồi đẩy họ lên rừng núi. Cái “tội tổ tông” đè nặng tâm tư. Thập kỷ 70, khi giao cho ngành Khảo cổ nghiên cứu văn hóa Đông Sơn mà không nghiên cứu văn hóa Hòa Bình, hẳn  trong lòng Thủ tướng Phạm Văn Đồng day dứt mặc cảm này: “Chúng ta đang chống Mỹ xâm lược lẽ nào lại xiển dương một tổ tiên thực dân từng tiêu diệt dân cư của nền văn hóa lớn Hòa Bình?” Nhưng khi biết rằng tổ tiên ta đặt bước chân đầu tiên lên dải đất chữ S này rồi đi lên mở mang Trung Quốc, chúng ta biết rằng mình có một gốc gác cùng lịch sử khác hẳn: vinh quang, nhân bản và trong sáng!

 

Vế nguồn gốc người Hán mà ông Cường thắc mắc, trước hết tôi xin được cải chính: trong bản in gửi cho Văn nghệ, tôi viết 2600 năm TCN. Nhưng lỗi đánh máy đã bỏ mất của tôi con số 2. Trong khi ở các bản khác, thí dụ Lâu đài trên mây hay dự cảm sáng suốt mà ông Cường có đọc, tôi đều ghi 2600. Mong ông  sửa lại dùm!

 

Dưới đây xin được trả lời ông Cường những câu chất vấn cụ thể:

 

1.  Theo tác giả, “người tiền sử tới nước ta gồm hai đại chủng Mongoloid và Australoid. Họ hòa huyết thành 4 chủng: Indonesien, Melanesien, Vedoid và Negritoid, đều thuộc loại hình Australoid”. Đây là lập luận ngược. Theo số liệu hiện nay, khoảng 60-50 ngàn năm trước, ba nhóm người tiền sử tới Sunda, với các dấu gien M (60 ngàn năm trước), M130 và M174 (cùng 50 ngàn năm trước); từ đó họ tới Australia rồi tiến hóa thành người Australoid (M130), tới vùng quanh Mông Cổ ngày nay để dần thành người Mongoloid (M174), chứ không như Hà Văn Thùy quan niệm.

 

Không hiểu có “ngược” hay không, nhưng đó là kết luận của nhà nhân chủng học hàng đầu Việt Nam Nguyễn Đình Khoa, từ khảo sát 78 sọ cổ ở Việt Nam cùng nhiều sọ khác trong khu vực. Trong cuốn Nhân chủng học Đông Nam Á,  ông viết: “Tuy không tìm được hài cốt của họ, nhưng trên cơ sở những sọ hiện có của bốn chủng Indonesien, Melanesien, Vedoid và Negritoid, chúng tôi cho rằng trước đó hai dại chủng Australoid và Mongoloid đã có mặt trên đất Việt Nam và hòa huyết cho ra những chủng kia.” (4)

 

Rõ ràng ông Cường lầm lẫn cho rằng “họ tới Australia rồi tiến hóa thành người Australoid (M130), tới vùng quanh Mông Cổ ngày nay để dần thành người Mongoloid (M174)”. Xin thưa, trong khoa nhân học, những từ như Australoid, Mongoloid, Indonesien, Melanesien… là thuật ngữ khoa học để chỉ những tộc người. Hoàn toàn không có chuyện “tới Australoid để tiến hóa thành người Úc” (!) Thực ra, ngay từ châu Phi, tổ tiên ta đã phân hóa thành 3 đại chủng da đen, da vàng, da trắng rồi sau đó được đặt tên là Australoid, Mongoloid, Europid!

 

Đúng  như ông cầu mong: “Không có kiến thức dân tộc học, nên người viết chỉ hy vọng rằng, Indonesien không chỉ là người Indonesia.” Thật vậy, Indonesien không chỉ là người Indonesia. Nhưng khi cho rằng Hà Văn Thùy “xem người Mông Cổ và người Úc hòa huyết tạo nên người da đen (Negritoid) cũng là quan niệm lật ngược thực tại,” thì lại là sai lầm! Đây chính là kiến thức ABC Sinh học: Australoid (đen) lai với Mongoloid (vàng) cho ra 4 chủng: Indonesien (vàng), Melanesien (ngăm), Vedoid (ngăm), Negritoid (đen). Đúng lẽ ra, Indonesien phải là chủng Mông Cổ điển hình. Nhưng trong thực tế, do số lượng cá thể da đen Australoid vượt trội nên yếu tố Australoid lấn át, làm cho suốt thời đồ Đá, trên đất Việt Nam không có Mongoloid, như Nguyễn Đình Khoa kết luận.

 

2. “Lập luận “có những nhóm Mongoloid riêng biệt từ Tây Đông Dương đi lên chiếm lĩnh vùng Tây Bắc Trung Quốc và địa bàn Mông Cổ hiện nay, trở thành tổ tiên những bộ lạc Mông Cổ sống du mục thuộc chủng Mongoloid phương Bắc” cũng là lập luận ngược. Người hiện đại tới vùng Sunda, ngược lên Đông Bắc Á rồi rẽ vào Siberia và Mông Cổ và thành người Mongoloid phương Bắc.”

 

Đến mức này thì tôi không còn biết nói sao được nữa! Xin hỏi, người hiện đại tới vùng Sunda là ai, thuộc đại chủng nào? Không nắm được thông tin này thì biết nói gì? Wells,  Chu, rồi cả Oppenhaimer không cho ta biết! Và do không biết nên ông Cường dồn cả đám vào một bị, đưa lên Mông Cổ, dũ họ ra để đồng loạt trở thành Mongoloid phương Bắc! Thưa ông, sự đời đâu có đơn giản vậy? Khi tìm được mấy dòng của Ballinger đại ý: “Người tiền sử thường di cư theo từng nhóm nhỏ” và “người Mongolid phương Bắc cũng từ Đông Nam Á đi lên” tôi phải đánh vật với bao kiến thức lịch sử, cổ nhân, dân  tộc học để lọc ra rằng họ gồm 2 đại chủng Australoid và Mongoloid, lại đi riêng rẽ, vậy thì tại sao không có chuyện những nhóm nhỏ da vàng đi lên tây bắc, cố giữ gìn trinh tiết để không hòa huyết với đám “dân đen” đông đúc. Và điều kỳ diệu xảy ra, họ đã mang được nguồn gene nguyên chủng lên đất Mongolia! Nhờ vậy sau này được khoa học đặt tên là Mongoloid.

 

Có thể dẫn ra nhiều nhiều nữa những điều ông Cường phản bác tôi. Nhưng với mỗi điều như vậy lại phải giải thích cho ông hàng loạt kiến thức cơ bản không chỉ Sinh học mà Dân tộc học, Khảo cổ học, Cổ nhân học… không phải là việc của tôi!

 

Nói cho cùng, sự hình thành dân cư, lịch sử, văn hóa của mỗi tộc người là vấn đề của khoa học nhân văn. Công nghệ di truyền, dù sao cũng chỉ là “ngón tay chỉ trăng”. Cần nhưng không đủ để giải quyết vấn đề. Nếu “dễ ăn” thế có lẽ chả  đến lần chúng ta đâu bạn ạ! Năm sáu năm trước ở Úc có nhóm Tư Tưởng, trong đó có những nhà Di truyền học bậc thầy. Họ tiếp cận sớm nhất với Địa đàng ở phương Đông, công trình Y. Chu và đã cố áp dụng giải bài toán cội nguồn dân Việt. Nhưng kết quả không như ý muốn. Không chỉ tri thức di truyền mà ở đây còn cần hiểu biết thấu đáo lịch sử, văn hóa, tâm linh phương Đông và cũng cần rất nhiều… may mắn!

 

Gần chục năm không gặp, tôi vẫn giữ hình ảnh ông Đỗ Kiên Cường trong niềm quý mến. Chắc rằng tôi cũng chưa làm gì khiến ông phải buồn lòng. Bài viết này có lẽ ông lo rằng tôi “đa ngôn loạn ngữ”, không lợi cho tâm thức cộng đồng? Nhưng thưa ông, không phải vậy. Năm ngoái nhà sách Thành Nghĩa giúp tôi in cuốn Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt. Năm nay, trong cơn bão giá, tôi phải bỏ tiền túi 25 triệu đồng để in Hành trình tìm lại cội nguồn hẳn không phải để chơi! Chúng ta đang đứng trước phát kiến lớn nhất của lịch sử Việt. Với phát kiến như vậy không chỉ những cuốn sử phải viết lại mà đến vận mệnh dân tộc cũng thay đổi theo. Góp vào đó chút sức mọn là điều mà tôi không thể không làm.

* Tôi quen tác giả khi làm báo Văn nghệ, trụ sở 43 Đồng Khởi, thành phố Hồ Chí Minh

Tham khảo:

1. Vũ Hữu San. Tripod.com

2. http://www.radio-canada.ca/

3. Kim Định. Việt lý tố nguyên. An Tiêm. Sài gòn 1970.

4. Nguyễn Đình Khoa. Nhân chủng học Đông Nam Á. NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp. H. 1983.

Tân Phú, 17/9/2008

Hà Văn Thùy
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Đi tìm người dịch địa bạ triều Nguyễn

Đi tìm người dịch
địa bạ triều Nguyễn

Bài của nhà văn Hà Văn Thùy in trong cuốn Góp với văn đàn (Nxb Văn Học, 2006, trang 130) chỉ viết về mặt công sức, còn việc thỏa thuận như thế nào giữa 2 tác giả về việc dịch thuật là cần thiết không thấy nói đến. Thiết nghĩ việc dịch và nghiên cứu không chỉ là một lãnh vực. Mong các vị biết chỉ giáo cho.
VCV
Cho tới năm 1997, bộ Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn của nhà nghiên cứu Nguyễn Ðình Ðầu đã in được 14 tập. Với mỗi tập dầy hơn 300 trang, đây là công trình có tầm cỡ vào bậc nhất hiện nay. Không chỉ có quy mô đồ sộ về số lượng trang chữ, đó thực sự là một trong những công trình lớn nhất về khoa học lịch sử ở cuối thế kỷ XX của chúng ta, như đánh giá của nhà sử học lão thành Trần Văn Giàu.
Giá trị của công trình này không những ở chỗ lần đầu tiên dịch và công bố địa bạ 11 tỉnh nước ta từ Huế trở vào (theo địa giới cũ) được lập trong vòng 31 năm thời Nguyễn (1805-1836) mà tác giả còn có công nghiên cứu và trình bày những biến động về ruộng đất, ranh giới hành chính, dịa danh ở các tỉnh đó một cách hệ thống cho tới ngày nay. Công trình còn là bộ sưu tập lớn các loại bản đồ giúp cho việc nghiên cứu được thuận tiện. Chính nhờ những nghiên cứu cập nhật này mà Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn thoát khỏi số phận một tử thư, trở thành tài liệu tham khảo không thể thiếu cho bất cứ ai nghiên cứu về nông thôn Việt Nam.
Thông thường ở ta, một công trình loại này phải do một viện cấp nhà nước chủ trì với sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu và số kinh phi không nhỏ. Công trình Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn đã ra ngoài thông lệ đó. Nó chỉ do duy nhất một người đứng tên. Ðiều này càng có ý nghĩa bởi đây là tâm huyết và trách nhiệm của tác giả. Ngoài việc lao tâm khổ tứ, tác giả còn bỏ ra không ít tiền của, điều rất đáng kể với chúng ta ở vào thời kỳ tồn tại được đã là khó.
Tuy vậy, có điều chắc chắn rằng, công trình này vượt quá sức của một con người, không chỉ ở thời gian vật chất mà còn là sự thách đố của tri thức, bởi lẽ là làm được việc này cần đến cả một viện hàn lâm.
Từ suy nghĩ đó, chúng tôi nảy sinh câu hỏi: "Phép màu nào đã giúp một người làm được những việc như thế?"
Ðọc Lời cảm ơn ở đầu sách, thấy có nhắc đến ông Vũ Văn Kính và Tăng Văn Hỷ là những người cộng sự viên. Do có ít nhiều quen biết hai vị túc nho này, chúng tôi đánh đường tới thăm.
Ông Vũ Văn Kính sinh năm 1919, nhận bằng Cao học Văn chương Việt Nam năm 1974, là tác giả các cuốn Từ điển chữ Nôm, Tìm nguyên tác Truỵện Kiều, hiện đang chuẩn bị cho in Ðại từ điển chữ Nôm với 37.000 từ. Ông Kính cho biết, năm 1986 ông làm địa chí Long An cho Viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh nên thường vào Kho Lưu trữ Trung ương 2 để đọc Ðịa bạ Long An, Bến Tre. Tại đây ông gặp ông Nguyễn Ðình Ðầu đang làm Ðịa chí Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đấy hai ông quen nhau và ông Ðầu do năng lực Hán Nôm có hạn nên thường hỏi ông Kính những chữ khó. Thấy ông Ðầu có ý muốn nghiên cứu Ðịa bạ triều Nguyễn, ông Kính ủng hộ, hứa sẽ cùng làm. Cuối năm 1986 ông Kính hưu trí, hai ông thỏa thuận: Ông Kính giúp ông Ðầu dịch địa bạ, ông Ðầu trợ giúp ông Kinh khoản thù lao tương đương 10 (mười) kilogam gạo một tháng. Ông Kính kể: "Lúc đó tôi rất túng nhưng do vị thế nhà nho, kẻ sĩ nên giữ ý. Có một ông tới làm, yêu cầu thù lao 50 kg gạo, không được nên ông ấy nghỉ." Ông Ðầu nói với ông Kính: "Hai anh em mình ráng làm. Ông thông cảm với thù lao ít ỏi đó. Tôi đang xin tài trợ. Nếu được, tôi sẽ bàn với ông xem ta sử dụng tiền thế nào. Tôi không phải người tham lam." Hàng ngày, sáng sáng ông Kính tới Kho lưu trữ dịch tài liệu, chiều về nhà đánh máy lại. Thấy công việc quá nhiều, một mình làm không xuể, ông Kính rủ thêm ông bạn già Tăng Văn Hỷ, ông Ðinh Tấn Dung, ông Vũ Hiệp và ông Trần Văn Mãi là những người bạn học Văn khoa ngày trước, lập thành nhóm công tác. Ông Ðầu đưa tới bản dịch Ðịa bạ Lục tỉnh Nam Kỳ là phần tương đối dơn giản hơn các tỉnh ngoài Bắc (theo Lời cảm ơn ở đầu sách.). Nhóm ông Kính chịu trách nhiệm hiệu đính phần đó và dịch toàn bộ phần còn lại, khoảng 10.000 xã. Sau vì thù lao quá hẻo, không đảm bảo cuộc sống, các vị khác bỏ cuộc, còn lại ông Hỷ kéo dài được 2 năm và ông Kính đeo đẳng suốt 5 năm. Ông Kính cho biết, tài liệu ở kho lưu trữ có nhiều vi sinh vật và chất bảo quản diệt trùng nên độc, khi đọc bị chảy nước mắt. Sau thời gian dịch địa bạ, ông bị hỏng mắt. Thời gian đó có câu chuyện thế này, một hôm tới nhà ông Ðầu, hai ông gặp giáo sư Trần Văn Giàu. Ông Giàu hỏi: "Mấy chú tới đây làm gì?" Khi được biết tới dịch địa bạ, ông Giàu nửa đùa nửa thật chỉ tay vào ông Ðầu, nói: "Coi chừng nhé, tay học phiệt này nó lợi dụng mấy chú đó!" Chuyện đùa vui, mọi người đều cười.
Thời gian qua đi, đến năm 1994, khi được Công ty Phát hành sách Thành phố biếu cuốn Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, ông Kính mới biết sách được in. Mừng quá, ông tới thăm ông Ðầu. Ông Ðầu nói về việc in sách, việc mình sắp đi Pháp rồi xin lỗi: "Chưa biếu sách bác được vì bây giờ tôi phải mang sang Pháp biếu. Ðể tái bản tôi sẽ tặng bác vậy!" Cố nhiên không ai hài lòng với cách ứng xử này. Chúng tôi hỏi: "Trong sách có nói TOYOTA Foundation tài trợ, ông có biết việc này không?" Ông Kính trả lời: "Sau này biết có tài trợ nhưng ông Ðầu nói tiền thành phố giữ!"
Vui chuyện, ông già 80 tuổi đưa chúng tôi xem những bản in thử cuốn Ðại từ điển chữ Nôm của ông. Ông rất mãn nguyện vì tìm được một cô viết chữ thật đẹp. Cô không chịu nhận thù lao, ông ép cô phải nhận để làm việc có trách nhiệm hơn. Hỏi về đời sống, ông nói: "Tôi không khá cũng không thiếu, đủ điều kiện để làm việc." Rồi ông cười hồn hậu: "Ra đời vẫn còn những người tốt bụng ông ạ! Ðó là một đêm, khuya rồi tôi nhận điện thoại. Sau khi tôi xưng tên, người đầu dây bên kia cũng nói tên tuổi. Ông ta gọi cho tôi khi đang đọc cuốn sách của tôi. Ông ta nói cảm ơn tôi vì những cuốn sách đã đọc. Ông ấy hỏi thăm đời sống, công việc của tôi. Ông động viên tôi ráng hoàn thành cuốn Ðại từ điển. Mấy ngày sau tôi nhận được bưu phẩm của ông ta. Bên trong có thư, gói chè Bắc và 100 đô la Mỹ. Bất ngờ quá, tôi chẳng hiểu sao, có lẽ ông ta lầm chăng? Tôi viết thư hỏi lại thì ông ta trả lời... Ông già dừng lại, lục trong phong bì đưa cho chúng tôi bức thư chữ vi tính to đùng, toàn những gạch đầu dòng:
"- Ðang đọc cuốn 5000 chữ Nôm của Cụ, trong đó nói một người Nhật đã in Tự điển chữ Nôm, tôi rất chạnh lòng và nghĩ ngay đến Cụ.
- Biết tin Cụ đang cần phục hồi thị lực để hoàn thành Ðại từ điển và nhiều cuốn sách khác.
- Là người lao động chân chính nên quý trọng những tác phẩm của Cụ.
- Việc tỏ lòng kính trọng với Cụ - nhân tài đất nước là việc làm có tính truyền thống của gia đình tôi.
- Ðiều mong mỏi duy nhất của tôi là mong Cụ phục hồi thị lực, dồi dào sức khỏe để cống hiến nhiều hơn nữa cho hậu thế. Rất mong Cụ thông cảm việc làm của tôi".
Ông Kính đưa chúng tôi cuốn Tổng kết nghiên cứu Ðịa bạ Nam Kỳ lục tỉnh. Trên trang đầu có những dòng chữ viết tay: "Trân trọng tặng bác Vũ Văn Kinh người cố vấn và cộng sự viên tài đức nhất của tôi để thực hiện được công trình vượt khả năng mình này. Xin bác nhận lời cảm tạ chân thành của tôi. Tp Hồ Chí Minh, ngày 2-9-1994. Nguyễn Ðình Ðầu." Ðề tặng như thế có thể nói là đã "phải lời". Tiếc một điều là khi lên màn ảnh nhỏ của Ðài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả không một lời nhắc đến người cố vấn tài đức này!.
12/3/2009
Hà Văn Thùy
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Truân chuyên đường tới Việt y đạo

Truân chuyên đường
tới Việt y đạo

Hai mươi năm trước, từ Rạch Giá đến với các bạn mình ở Trung tâm Y sinh thuộc Học viện Quân y tại thành phố Hồ Chí Minh, tôi được nghe anh Bùi Quốc Châu nói về Việt y đạo. Nhận ra đó là một sáng tạo tuyệt vời của trí tuệ Việt, tôi chắc rằng sự nghiệp của anh thuận buồm xuôi gió. Nay gặp lại anh, tôi biết mình lầm. Sự đời không êm xuôi vậy…
I. Những người nổi tiếng ca tụng một thiên tài.
Xin nói trước, sự tôn xưng lớn lao này không phải của tôi mà của vị trí thức hàng đầu của Việt Nam, Giáo sư Trần Kim Thạch. Ông viết:
“Thân gởi bạn Bùi Quốc Châu, một thiên tài y học của Việt Nam.
Tôi bị trụy tim vì lao tâm lao trí trong mấy công trình nghiên cứu một lúc: Điều nghiên Côn Đảo, Quy hoạch rừng Sát Cửa Dinh, Điều tra tổng hợp đồng bằng sông Cửu Long. Đi bệnh viện và uống thuốc không hết, đành chịu khổ mấy tháng liền cho tới khi ngã quỵ.
Đêm nay đến thăm anh Châu, được anh truyền cho năng lực qua một điểm ở gò má. Tôi cảm thấy một luồng nóng chạy vào người, tràn xuống ngực trái, và lạ thay, trong người khỏe hẳn ra.
Sau đó anh Châu còn dò huyệt trên mặt, chẩn luôn những bệnh và tật trong người  mà chỉ có tôi biết, như về thận, phổi… Kỳ diệu thay lý luận và thực tiễn kết hợp làm một!
Tôi theo con đường khoa học từ nhỏ đến lớn, tốt nghiệp Tiến sĩ khoa học tại một đại học danh tiếng của nước Anh, nay mới thấy được một điều vô cùng khoa học và biện chứng. Con người tuy phức tạp dường ấy, nhưng vừa là một dạng của năng lượng vừa là một bộ máy chỉ có thể chạy bằng năng lượng của vũ trụ, nếu biết được quy luật vận hành của nó thì giúp nó được trở thành vạn năng. Người biết nó một cách phân tích chi li thì quá nhiều, người biết nó một cách tổng hợp thì quá ít. Anh Châu quả là một thiên tài mà sách vở kinh điển không chứa đựng nổi.
18/7/87
Giáo sư Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi
“Sống ở thành phố Hồ Chí Minh mấy năm nay, tôi được nghe rất nhiều ý kiến khác nhau về công việc làm của anh Bùi Quốc Châu.
Hôm nay đích thân đến thăm anh Bùi Quốc Châu, tôi thấy công việc của anh BQ Châu đã làm và tiếp tục làm không khác gì tình trạng của những phương pháp chữa bệnh dùng thuốc của nền y học cổ truyền dân tộc Việt Nam: Kết quả thì có nhưng giải thích theo như logic của y học khoa học mà mọi người đã được học thì không được. Do đó chỉ có một con đường: cứ làm. Quần chúng bệnh nhân khỏi bệnh là người thầy cãi hùng hồn nhất. Thành ủy và Ủy ban để cho anh làm thế là tốt và là đủ. Thời gian sẽ trả lời. Và tôi tin công việc của anh BQ Châu trước sau cũng sáng tỏ.
Tôi tin rằng anh sẽ thành công. Anh hãy còn trẻ quá. Anh sẽ thấy được kết quả rực rỡ công việc của anh. Trước mắt anh hãy vui trước kết quả khỏi bệnh của những bênh nhân họ đã tìm đến anh và vui mừng trước những kết quà do anh chữa cho người ta.”
TP Hồ Chí Minh 18/10/87
Học giả Giản Chi:
“… Rồi mới đây, tôi có duyên may lại được hầu chuyện Bác sĩ, tôi nhận thấy Bác sĩ là một học giả bác học, đa văn và độc đáo…Thật là kỳ diệu. Tiếp Bác sĩ, tôi liên tưởng đến bậc tiên hiền Hải Thượng Lãn Ông xưa. Đâu chỉ Trung Quốc mới có Hoa Đà, Biển Thước.”
Tp HCM 13/10/94
Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, Bộ trưởng Y tế:
“Biện pháp chữa trị tốt nhất, theo tôi, là “tự mình chữa bệnh cho mình”
Trung tâm Diện chẩn-điều khiển liệu pháp đã thực hiện ý trên!
Rất hoan nghênh lương y Bùi Quốc Châu đã trao cho bệnh nhân phương pháp đó. Mong sao mỗi người VN nắm vững phương pháp để phòng bệnh và chữa bệnh cho mình và giúp đỡ đồng bào với dụng cụ đơn giản: một cây kim, một cái gõ bằng cao su, một cây hương, một chiếc lược với một miếng cao dán và một cái gương soi mặt mà đem lại hạnh phúc cho người đau khổ.
Kiên trì giúp đồng bào, đồng bào sẽ cho ta phần thưởng cao quý nhất!”
11.2.1981                                 
Đại tướng Võ Nguyên Giáp:
“Lĩnh vực rất mới. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu và qua thực tiễn mà xác định những hướng nào thu được nhiều kết quả nhất. Nói tóm, thực tiễn phải là căn cứ để đánh giá một phương pháp trị liệu.
Chúc tiếp tục cố gắng.”
Tp. Hồ Chí Minh, Tết Canh Ngọ (1990)
Kayxỏn Phomvihẳn Chủ tịch nước Lào
“Vientiane ngày 29-1-1992
Đồng chí Bùi Quốc Châu,
Qua một buổi nói chuyện và tiếp xúc với đồng chí, tôi rất cảm kích. Đồng chí đã dùng một phương pháp rất mới để chữa bệnh và luyện tập khí công mà hiện nay tôi đang cố gắng luyện tập. Điều mà tôi muốn nhấn mạnh là đồng chí đã cố tìm tòi phương pháp rất mới phát triển lên một bước những phương pháp đã quen dùng. Phương pháp mới tiếp thu có chọn lọc và có sáng tạo và cải tiến những phương pháp hay dùng. Điều đáng nói nhất là phương pháp mới của đồng chí rất đơn giản nhưng làm có hiệu quả khá cao. Tôi suy nghĩ, nếu đồng chí tiếp tục suy nghĩ nghiên cứu và nâng cao qua thực tiễn thì phương pháp mới này sẽ có lợi cho nhân dân bảo vệ sức khỏe chống lại bệnh tật và đó là thiết thực đem lại hạnh phúc cho nhân dân.
Cảm ơn đồng chí và chúc đồng chí và gia đình có sức khỏe và đạt nhiều thành tích mới trong lĩnh vực chữa bệnh mà đồng chí đang tiến hành.   
“Chúc Tết vui vẻ.”
Giáo sư Phạm Song, Bộ trưởng Bộ Y tế
“Thành phố Hồ Chí Minh 7-1-1989
Tôi được nghe anh Bùi Quốc Châu báo cáo về phương pháp chữa bệnh bằng diện chẩn-điều khiển liệu pháp vào các huyệt vùng mặt, đầu, cổ, gáy. Tôi khuyến khích phương pháp này.
Tôi sẽ tổ chức hội nghị đánh giá theo những tiêu chuẩn pháp quy hiện hành.
Tôi hy vọng tôi sẽ có đủ tài liệu để công nhận phương pháp chữa bênh này.
Tôi chúc anh Châu và các cộng sự sức khỏe, kiên trì khắc phục khó khăn, khẳng định giá trị phương pháp chữa bệnh của mình.”
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
“Tôi quen Bùi Quốc Châu đã rất nhiều năm. Quen như một người bạn gặp một người bạn. Dạo ấy hồi chưa có ý định tìm hiểu về Diện chẩn hoặc những gì liên quan đến vấn đề chữa bệnh của Bùi Quốc Châu. Nhưng rồi tên tuổi của Bùi Quớc Châu cứ mỗi ngày một lan rộng và trở thành quen thuộc trên môi miệng của những người ít nhiều quan tâm đến sức khỏe của chính mình.
Thế rồi, trong câu chuyện ở mỗi lần gặp gỡ, anh Châu và tôi thường vô tình  để mình lạc vào những mộng tưởng y học lúc nào không hay. Bao giờ cũng bắt đầu bằng những câu chuyện triết học dẫn đến những tư tưởng mênh mông của phương Đông rồi chuyển qua những câu chuyện dân gian dẫn về những con đường hương hoa mờ ảo của ca dao, tục ngữ. Cái lý thú ở đây không phải là bàn luận về triết học, về ca dao mà từ cõi tư tưởng và thi ca đó, Bùi Quốc Châu đã phát hiện ra những ý đồ tiềm ẩn của một nền y học vừa mang tính cách dân gian vừa bác học của phương Đông…
Từ đó tôi bắt đầu tin vào các phương pháp suy diễn không mộng mị chút nào của anh Bùi Quốc Châu và cũng từ đó tôi thể nghiệm trên chính bản thân mình. Đã có những kết quả trông thấy ngay như trị bệnh đau bụng trong phút chốc. Và đi xa hơn nữa, tôi thử tập thở theo phương pháp âm dương khí công. Lại cũng có kết quả riêng cho mình.
Tôi nghĩ rằng nếu ngành y tế trong nước quan tâm và tạo điều kiện gúp đỡ thì những phương pháp độc đáo này sẽ có cơ hội mang đến những lợi ích vô cùng thiết thực vừa phù hợp với điều kiện của một xã hội chưa bị ô nhiễm trầm trọng bởi thuốc men đủ loại từ các phòng thí nghiệp phương Tây.
Phòng thí nghiệm của Bùi Quốc châu chính là cuộc đời và từ cuộc đời anh phát hiện ra cái huyệt cần phải đặt một ngón tay lên đó giải tỏa cơn đau.
3.94
TS. BS. Marie – France Muller: 
“… Với sự tham gia của các người cộng sự, ông (TS. Bùi Quốc Châu) đã sáng tạo ra một phương pháp phản xạ học phức tạp hơn và hiệu quả hơn phương pháp châm cứu… Điều quan trọng là tuy đặt trên nền tảng y thuật Đông phương, nhưng nó khác hẳn với phương pháp châm cứu vùng mặt (Diện Châm) của y học Trung Quốc, mà là một phương pháp hoàn toàn độc đáo và riêng biệt….”
(trích trong tác phẩm: Facial Reflexology, a self -care manual - Bản tiếng Anh - NXB Healing Arts Press 2006 – Hoa Kỳ. Bản gốc tiếng Pháp: le grande livre de la réflexologie faciale – NXB Jouvence .2004)
GS. TS Trần Văn Khê: Khi đề tặng sách hồi ký của GS cho anh Bùi Quốc Châu:
“Thương tặng cháu Bùi Quốc Châu, người làm rạng rỡ dân tộc Việt Nam, bằng cách phổ biến phương pháp Diện Chẩn mà cháu đã phát hiện”.
Tạp chí Thérapeutiques Naturelles (Pháp) số 101 tháng 10-11. 1992 gọi Bùi Quốc Châu là «một nhà khoa học, một thầy thuốc lớn, dầu ấn của một trí tuệ lớn» (un homme de sciences, un grand médecin, un être empreint d’une grande spiritualité).
Đoàn đại biểu Phân viện Viễn Đông Viện Hàn lâm Khoa học Liên xô anh Bùi quốc Châu là «một giáo sư đã đạt được một bước mới trong việc phát triển thêm ngành y học cổ truyền của Việt Nam… bảo đảm cho hướng nghiên cứu này một tương lai bền vững và xán lạn…Một trong những người sáng lập ra phương hướng mới của nền y học cổ truyền Việt Nam» (18.10.1088).
Sau 8 tháng được mới sang giảng dạy tại Cộng hòa Cuba, ngày 28.1.1989, Đại sứ Cuba Armando viết về Bùi Quốc Châu: «Chúng tôi xin cảm ơn đồng chí về những kinh nghiệm mà đồng chí đã truyền đạt tới các bác sĩ chúng tôi trong chuyến đi Cuba của đồng chí và mong chờ đồng chí trở lại Cuba để tíêp tục truyền đạt những kinh nghiệm của đồng chí»
Sau những ngày anh Bùi Quốc Châu được mời sang chữa bệnh ở Liên xô, Phó tổng Biên tập báo Lao động (Trud) viết: «Hình như bác sĩ Châu cùng các bạn đồng nghiệp Việt Nam và Liên xô của ông đã tiến rất gần đến thần thoại»
Có lẽ tôi dẫn quá dài. Nhưng đó chỉ là phần rất nhỏ trong hàng nghìn cảm nghĩ của những người đã từng được ông Bùi Quốc Châu chữa bệnh.
Con người sinh ra vốn trắng tay nên để sống còn nó buộc phải tằn tiện. Lời khen với đồng loại có lẽ là thứ phải tằn tiện hơn cả vì họ hiểu rằng, cũng như tiền, càng in nhiều càng mất giá. Vì vậy có thể yên tâm mà tin rằng những lời trên là những đồng tiền thật. Tự chúng nói lên tất cả, chẳng cần những lời bình tán vụng về.
2. Đường đến Việt y đạo
Bùi Quốc Châu sinh năm Nhâm Ngọ, có lẽ là năm tốt. Thời sinh viên ngành Triết của Văn khoa Sài Gòn, chàng trai trẻ mê triết Đông, đặc biệt những bài giảng về Việt Nho, Đạo Việt An Vi của Thầy Kim Định. Anh cũng mê y học phương Đông nên từ năm 1964 tìm tới học với lão danh y Lê Văn Kế, rồi Trần Đắc Thưởng, Khương Duy Đạm. Sau giải phóng học với bác sĩ Trương Thìn. Không biết từ bao giờ, Bùi Quốc Châu mang hoài bão lớn: làm được điều gì đó khiến rạng danh dân tộc Việt. Linh tính mách bảo rằng, dường như những lẽ thường hằng “trong Dương có Âm, trong Âm có Dương”, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” rồi những câu ca nôm na “Trông mặt mà bắt hình dong” và cả những tục ngữ “miệng làm sao, ngao làm vậy”… ẩn chứa bí mật sâu thẳm của văn hóa phương Đông và Văn Hoá Việt.  Đi sâu khám phá những bí ấn ấy sẽ cho kho tri thức vô tận…
Sau 1975, Bùi Quốc Châu tham gia Thanh niên xung phong. Từ 1977 anh làm việc ở Trường cai nghiện ma tuy Bình Triệu. Châm cứu cắt cơn nghiện cho bệnh nhân, Bùi Quốc Châu quan sát hàng ngàn khuôn mặt trong nỗi thống khổ. Rồi lúc nào đó, anh ngộ ra, những cơn đau trong cơ thể thường biểu hiện trên khuôn mặt. Học cách “đọc” những nỗi đau ấy, anh nhận ra mối liên hệ của mỗi vết tàn nhang, vết ban hiện lên trên mặt đều ứng với một bênh tật nào đó sâu trong cơ thể. Mỗi khi lên cơn, con nghiện thường đau thốn ở cột sống thắt lưng. Một ý tưởng hiện lên trong đầu là phải chăng sống mũi có liên hệ đến sống lưng, và ngay sau đó anh đã thử châm một cây kim vào một điểm trên mũi tương ứng với vị trí thắt lưng. Điều thần diệu xảy ra: lập tức bệnh nhân hết đau lưng. Ngày 26.3 của năm 1980 và người bệnh có tên Trần Văn Sáu trở thành cột mốc lịch sử của một sự nghiệp lớn. Lặp lại nhiều lần trên nhiều bệnh nhân khác nhau, Bùi Quốc Châu đặt tên đó là huyệt số 1. Rồi cứ theo con đường như thế, những huyệt mới được phát hiện. Những quy luật của tự nhiên được Bùi Quốc Châu vận dụng vào công việc của mình.
Nhớ câu “Đồng thanh tương ứng - Đồng khí tương cầu” anh suy luận ra những bộ phận cùng tên trên cơ thể quan hệ với nhau: Cổ có mối liên hệ chặt chẽ với cổ tay, cổ chân. Đầu có liên hệ với đầu ngón tay, đầu ngón chân… Cũng từ đó anh đặt thêm một vế vào câu trên của cổ nhân là  đồng hình tương tụ: sống mũi thể hiện sống lưng. Ổ mắt, cung mày vừa là cánh tay vừa là tinh hoàn, buồng trứng. v.v… Từ đây anh phát hiện ra quy luật phản chiếu của các bộ phận cơ thể trên khuôn mặt. Một phương pháp chữa bệnh mới ra đời: Diện Chẩn-Điều khiển liệu pháp.
Nhưng từ đấy, Bùi Quốc Châu gặp lực cản đầu tiên. Người bác sĩ phụ trách trạm cai ma túy phản đối vì cách chữa trị này không có trong các sách kinh điển về Y học. May mà lúc đó thủ trưởng của anh, một cán bộ từ rừng ra, không quá nệ các quy định, đã ủng hộ anh: cách chữa nào cũng được, miễn là khỏi bệnh!
Tìm ra bí quyết chữa bệnh mới nhưng Bùi Quốc Châu không giữ làm của riêng mà sau đấy anh mở lớp học truyền bá phương pháp mới. Bị thu hút bởi thực tế chữa trị, nhiều người trong đó có nhiều bác sĩ Tây y và lương y đến học với anh và cùng anh nghiên cứu tiếp. Tiếng tăm chữa bệnh bằng Diện Chẩn của Bùi Quốc Châu truyền khắp thành phố.
Một hôm anh được thông báo là Bí thư thành Uỷ Võ Văn Kiệt mời anh báo cáo về công trình nghiên cứu y học của anh. Sau khi nghe anh và các bác sĩ trong nhóm báo cáo. Ông Kiệt nói: “Diện chẩn-diện châm” là một sáng tạo về y học của dân tộc Việt nam.” Ngay sau đó, ông chỉ đạo cho các ban ngành có liên quan như Sở Y tế, Ủy ban Khoa học kỹ thuật, Sở Lao động… tạo điều kiện cho tác giả nghiên cứu ứng dụng phương pháp này. Ông Nguyễn Văn Linh cũng hoàn toàn ủng hộ. Nhờ vậy, Bùi Quốc Châu được tiếp tục nghiên cứu.
Từ huyệt đầu tiên khám phá ra năm 1980, đến nay đã hơn 500 huyệt được anh phát hiện. Cùng với huyệt là hơn 20 đồ hình thể hiện mối tương quan giữa mặt và các bộ phận cơ thể. Căn cứ vào sinh huyệt và đồ hình của Thầy Châu, học trò của anh không những được hướng dẫn tỷ mỷ cách chữa từng bệnh cụ thể mà còn tự mình sáng tạo những phác đồ chữa trị mới, làm phong phú thêm kho kinh nghiệm chung. Bùi Quốc Châu còn khám phá nhiều phương pháp trị bệnh khác như Âm Dương khí công, Ẩm thực dưỡng sinh, Thể dục tự ý, Thai giáo Việt Nam và Ngừa thai.
Với toàn bộ sáng tạo của mình, Bùi Quốc Châu vươn tới mục tiêu lớn: sáng lập trường phái y học riêng cho dân tộc Việt, đó là Việt y đạo. Đây là một quan điểm về  y học độc đáo: “Biến bệnh nhân thành thầy thuốc, biến người bệnh thành người chữa bệnh.” Một trường phái y học kỳ diệu ra đời: người bệnh có thể trở thành thày thuốc tự chữa bệnh cho mình, chỉ bằng những dụng cụ đơn giản rẻ tiền, không cần thuốc, không dùng kim châm.
Mục tiêu như vậy không mới vì đó là mơ ước truyền đời của nhân loại chịu nhiều khổ đau vì bệnh tật. Nhưng cho tới nay vẫn chỉ là mơ ước như trong truyện thần tiên. Nhưng hôm nay, cơ sở lý thuyết cũng như cơ sở vật chất hiện thực để đạt được mơ ước đó đã được Bùi Quốc Châu cống hiến. Trong một dự báo về y học, người ta cho rằng, phải đến năm 2077, con người mới biết cách tự chữa bệnh cho mình. Như vậy, với Việt y đạo, Việt Nam đã đi trước thế giới gần 100 năm. Nhiều người khôn ngoan đã tiếp thu phương pháp của Bùi Quốc Châu. Theo thống kê chưa đầy đủ, đến nay trong cả nước, 25 tỉnh thành có người hoạt động Diện chẩn, trong đó có cả lương y, bác sĩ, kỹ sư, nhà khoa học cùng với những người lao động. Hàng triệu người đã được chữa bệnh, hàng vạn “thày lang” Diện chẩn được đào tạo, nhiều cơ sở chữa bệnh bằng Diện chẩn đang hoạt động. Không chỉ thế, hơn 30 nước trên thế giới như Cu Ba, Pháp, Đức, Mỹ, Tây ban nha, Anh, Thụy Sĩ, Do Thái, Ý đều có người áp dụng Diện chẩn.
3. Việt y đạo tới đâu?
Có sự thực là, việc chữa bệnh bằng Diện chẩn từ hơn 20 năm nay đã là «chuyện thường ngày ở xóm». Người dân ít học nhất cũng biết rằng, cách chữa này khỏi được một số bệnh, không gây đau đớn nguy hiểm và không tốn thuốc. Cũng từ nhiều năm nay, Diện chẩn cứu được không ít người bị bệnh viện trả về nằm chờ chết. Sự khỏi bệnh của họ nghe như thần thoại. Cũng có sự thực là Diện chẩn trở thành hy vọng chữa trị duy nhất của không ít người nghèo không có tiền vào bệnh viện.
Nhưng cũng có sự thực là, mặc dù được những vị lãnh đạo quốc gia như Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt hết lòng ủng hộ và hai đời Bộ trưởng Y tế quan tâm… thì Diện chẩn vẫn không được thừa nhận, vẫn là cách chữa trị «chui»,  ngoài vòng luật pháp! Mới đây, tại thành phố Hồ Chí Minh, Thanh tra Y tế đến lập biến bản, đình chỉ hoạt động rồi phạt vạ cơ sở Diện chẩn của ông Trần Dũng Thắng 83 tuổi, vốn là một học trò cao niên của TS Bùi Quốc Châu, sau khi được chữa bệnh và  truyền thụ về Diện Chẩn, ông đã trở thành thày thuốc uy tín, giúp đỡ nhiều bệnh nhân từ năm 1993 đến nay.
Tôi nhớ lại, sau năm 1954, ở làng tôi có ông thày lang nhiều đời bốc thuốc trị bệnh cho dân chúng cả vùng. Cán bộ chính quyền đến bảo là chữa trị như vậy không khoa học, phải cấm theo lệnh trên. Dao cầu, thuyền tán bị tịch thu. Từ đó, mỗi khi ốm đau, dân phải lên bệnh viện huyện. Ít năm sau, do yêu cầu của dân, ông lang lén làm nghề lại. Lâu lâu bị săn đuổi, nộp phạt. Rồi tới lúc, con ông lang được hành nghề, với danh nghĩa «y học dân  tộc». Đó là số phận của Đông y ở nước ta một thời non dại. Do chủ quan, mệnh lệnh mà không cần bất cứ nghiên cứu nào, chúng ta áp đặt cho những phương pháp chữa bệnh dân gian cổ truyền là «không khoa học» thậm chí «mê tín dị đoan» rồi thẳng tay cấm đoán. Họ không biết rằng, tổ tiên ta đã sáng tạo nền văn minh nông nghiệp sớm và rực rỡ nhất của nhân loại. Nền văn hóa chúng ta hưởng hiện nay một phần do tổ tiên truyền lại. Sai lầm là đã không biết trân trọng vốn cổ đó mà lại áp đặt những tiêu chí «khoa học» nước ngoài rồi thẳng tay cấm đoán! Biết bao vốn quý mất đi, biết bao nhân tài dân gian bị thui chột?!
Có một điều không sao hiểu nổi, trên khẩu hiệu chúng ta nói cửa miệng «nhân tài là nguyên khí quốc gia » rồi không ít nghị quyết về đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Nhưng trên thực tế, một thiên tài trước mắt như Bùi Quốc Châu lại không bị bỏ qua ! Chúng ta ngưỡng vọng về Hải Thượng Lãn Ông. Điều đó là đúng để vinh danh một vị y sư có y đức cao và cách chữa trị hay. Xin lỗi, mọi so sánh đều khập khễnh, nhưng so với Lê Hữu Trác, sáng tạo của Bùi Quốc Châu tầm cỡ hơn nhiều, không chỉ tầm Việt Nam, Á Đông mà tầm thế giới! Phải nói rằng, công trình Bùi Quốc Châu là sự cứu nhân độ thế.
Một trí thức Việt kiều sống ở Pháp 50 năm, về nước thăm thân nhân đã nói với tôi : « Nước mình phải sớm công nhận Bùi Quốc Châu, biến công trình của ông ta thành quốc sách, giúp cho dân biết tự chữa bệnh, sống hạnh phúc hơn. Chúng ta còn có bổn phận mang Việt y đạo sang các nước nghèo Đông Nam Á, châu Phi, Mỹ Latinh giúp dân các nước đó chống lại bệnh tật để thế giới biết rằng, sau chiến thắng đế quốc Mỹ, người Việt Nam chiến thắng nghèo đói, bệnh tật như thế nào? Nếu Việt Nam có được giải Nobel y học thì trước hết phải là công trình này». Tôi hiểu, đó cũng là tâm nguyện của rất nhiều người.
Tp HCM, 26/10/2008
Hà Văn Thùy
Theo https://www.vanchuongviet.org/

Một hội thảo dưới tầm cuộc sống

  Một hội thảo dưới tầm cuộc sống Đọc lướt qua gần 600 trang của bản Tóm tắt báo cáo Hội thảo Việt học lần 3, tôi nhận ra biết bao điều mới ...