Thứ Tư, 18 tháng 6, 2025

Truyện ngắn của hội viên mới Bùi Tuấn Minh

Truyện ngắn của
hội viên mới Bùi Tuấn Minh

Bùi Tuấn Minh sinh năm 1984, quê ở Tuy Lai, Mỹ Đức, Hà Nội hiện làm việc tại Trường Cao đẳng Cảnh sát Nhân dân I, Bộ Công an. Đã xuất bản 04 đầu sách Tuổi đôi mươi (tập thơ, 2006), Tâm giao người lính (tập thơ, 2012), Chạm (tập thơ, 2018), Góc địa đàng (tập thơ, 2022).
Là một người làm thơ khi mới bắt đầu viết nhưng lại thành công với văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn. Một số giải thưởng tiêu biểu như giải thưởng cuộc thi viết của Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2021; Giải thưởng cuộc thi thơ trên tạp chí Nâm Nung năm 2022; Giải B cuộc thi tạp bút của tập san Áo trắng năm 2022; Giải B trại sáng tác văn học của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức năm 2022; Giải thưởng cuộc thi sáng tác văn xuôi “Thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk – Những chặng đường phát triển” năm 2023; Giải A cuộc thi viết của Công đoàn Công an Nhân dân năm 2023; Giải A trại sáng tác văn học của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức năm 2023 và nhiều giải thưởng văn học khác.
Nhà văn Bùi Tuấn Minh được kết nạp Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2023.
TRỞ LẠI NONGCHAN
Vừa đi ăn giỗ về, tôi vơ vội mấy bộ quần áo nhét vào chiếc ba lô sờn bạc. Thơm tất tả chạy tới “mình định đi thật đấy à ?”, năm nào cũng vào ngày này vợ tôi đều hỏi như thế. Tôi gật đầu vì lần này tôi đi thật. Không ai khác, chính tôi là người giải quyết, phải tự gỡ những sợi dây mỗi ngày một chằng chịt và lớp lang thít chặt mình. Tôi đã sống những tháng ngày dằn vặt, bứt rứt, cảm giác nếu không đi bây giờ, tôi sẽ chết ngay trong chính ngôi nhà của mình.
Bước ra khỏi làng, khi ấy đã quá trưa, nắng như rang tóc, bóng tôi xiêu vẹo trên đường. Tôi bắt xe ra Hàng Cỏ, đi tàu vào nam, rồi đi tiếp lên Mộc Bài, đến ngày thứ ba thì sang đất Campuchia. Nhẽ phải 15 năm, không, chính xác là 13 năm 8 tháng tôi mới quay trở lại nơi này, cái nơi đeo bám tôi dai dẳng. Kí ức như một thứ bùa mê dính chặt vào hiện tại, định đoạt phần số cuộc đời. Người ta có thể vì quá khứ để sống tốt, nhưng cũng có người bị ám ảnh mà chết dần, chết mòn.
Theo đường quốc lộ số một nước bạn, tôi đi xe khách đến Phnôm Pênh. Chuyến xe có vài người Việt sang làm ăn, buôn bán. Tôi bắt chuyện với một người quê Tây Ninh rằng cần một người phiên dịch, anh ta chỉ tôi tìm khu chợ Sa Thmey ở ngoại ô Phnôm Pênh, nơi đây có nhiều người Việt sinh sống. Đến chợ khi trời nhá nhem, có nhiều biển hiệu quảng cáo bằng tiếng Việt lẫn tiếng Khơ Me. Tôi bước vào một tiệm ghi Phở, quán vắng tanh, chỉ có một người đàn bà nình nĩnh, phốp pháp, mặc chiếc áo bà ba đang lúi húi trong bếp, giọng miền nam vọng ra.
“Anh hai mới từ Việt Nam qua à?”, tôi gật đầu, ngồi xuống bàn và gọi bát phở.
“Đi đâu?” người phụ nữ đặt trước mặt tôi một bát phở nghi ngút khói, đầy ắp những miếng thịt bò thái cục.
“Tìm người” tôi nói rồi xì xụp ăn.
“Còn sống hay đã chết?” tôi dừng đũa, ừ, giá như biết người cần tìm còn sống hay đã chết, tôi vẫn hay tự chất vấn mình như thế, ngay khi tỉnh, cả lúc mơ.
Người phụ nữ mang đến một ấm trà sau khi tôi húp sạch những giọt nước dùng cuối cùng. Bóng tối loang lổ, người phụ nữ như những nét vẽ vàng nguệch ngoạc trên khổ giấy đen. Khuôn mặt ấy, đôi mắt ấy thi thoảng bừng sáng lên rồi lại tối sầm một cách bí ẩn khiến hơi thở tôi cũng chùn xuống, đều đều, nhè nhẹ. Quán chẳng thêm người khách nào ngoài tôi.
Bóng đêm ập xuống, trước mặt tôi là người phụ nữ Việt, cảm giác như đang ở một tỉnh thành nào đó miền nam. Hai người xa tổ quốc, sau vài câu hỏi quê quán, xã giao, chúng tôi bắt đầu những câu chuyện của mình. Người đàn bà tên là Út Liên, quê Sài Gòn, có chồng là viên chức người Khơ Me làm việc hành chính cho chế độ Lon Non. Trong một chuyến đi công tác sang Sài Gòn đã gặp và phải lòng cô thiếu nữ người Việt. Cô theo chồng sang đây từ trước năm bảy lăm. Cuộc hôn nhân hạnh phúc cho đến khi Khơ Me đỏ tiếm quyền. Út Liên vẫn nhớ như in cái đêm kinh hoàng ấy, có đám người xông vào nhà lôi sềnh sệch hai vợ chồng ra ngoài đường, các nhà bên cạnh cũng vậy. Đây là khu của những dân tri thức, họ chọn ở lại vì Pôn Pốt hứa sẽ vẫn sử dụng họ làm những công việc cũ. Phụ nữ và trẻ em bị đẩy lên thùng ô tô, những người đàn ông bị dồn vào một chỗ. Khi xe lăn bánh, những tràng đạn dài vang lên, cô biết chồng mình đã bị giết cùng với những người khác.
Út Liên bị đưa đến trại tập trung xa thành phố, tại đây con người bị lao động khổ sai, sống không bằng chết, tưởng như trên đời không còn nơi nào ngục tù hơn thế. Cô đã định lựa chọn cho mình một cái chết trong số hàng nghìn cái chết cô chứng kiến, nhưng không, cô chọn nhẫn nhịn, bị chà đạp, bị hãm hiếp, đơn giản chỉ vì cô muốn sống. Út Liên nói, ai cũng có một số phận, con người có mặt trên đời đều có lý do, cô chẳng thể sinh ra rồi đến một nơi xa lạ để chết. “Đến bây giờ tôi mới hiểu, bước qua địa ngục thì sống sót cũng là một lý do. Cuối cùng tôi cũng trốn được, một người phụ nữ bản địa đã cứu tôi và tôi lại tiếp tục sống cuộc đời của mình cho đến hôm nay”. Trong bóng tối nhập nhòe, tôi thấy ánh mắt người đàn bà từng trải dường như có những tia máu vằn lên đỏ ngầu, ánh nhìn mạnh mẽ nhưng phảng phất sự cô đơn đầy cay đắng.
“Anh hai cần tìm người dẫn lên Nongchan làm gì?”, Út Liên hỏi, tôi bắt đầu kể câu chuyện của mình.
Làng tôi úp mặt vào đê sông Đáy, phía sau là cánh đồng mênh mông, bát ngát, hết cánh đồng có dãy núi Trầy ngăn cách hai tỉnh Hòa Bình và Hà Tây. Trên núi có chùa Hàm Long, trên chùa có một sư thầy trụ trì, da dẻ hồng hào, trông hẵng còn trẻ lắm. Mỗi khi lùa trâu về chân núi lũ trẻ chúng tôi vẫn kéo nhau lên chùa ăn lộc rơi, lộc vãi, khi cái oản, nắm xôi, lúc quả cam, miếng giò. Tôi với thằng bạn nối khố tên Ngọ vẫn chạy theo đám trẻ ấy. Ngọ bằng tuổi tôi, bố nó là liệt sỹ, hy sinh năm Mậu Thân, nhà còn mẹ và cô chị gái hơn nó vài tuổi. Sư thầy quý hai thằng tôi, phần vì khi thụ lộc xong chúng tôi không chạy xuống núi như những đứa trẻ khác mà ở lại quét dọn, làm mấy việc lặt vặt của nhà chùa xong mới về. Phần vì thằng Ngọ, lý do thì tôi không biết nhưng tôi đoán trông nó có khuôn mặt thiện lành, tử tế hơn tôi. Một chiều sư bận xuống làng, sư thầy nhờ Ngọ thỉnh chuông canh, đánh 3 tiếng, nó đánh khá dễ dàng. Sau dần, lại dạy nó thỉnh chuông khi thầy tụng kinh, bắt đầu là 3 tiếng, kết thúc là 2 tiếng, rồi ba hồi chín tiếng. Mấy hôm sau tôi lại nghe thấy nó đánh 18 tiếng. Hỏi thì nó thao thao “18 tiếng biểu thị sự thanh lọc 6 căn, 6 trần và 6 thức, thầy khen tao đánh như người có căn. Còn kiểu 108 tiếng chuông biểu thị sự thanh tao làm vơi cạn 108 loại phiền não nơi nội tâm…”. Tôi nghe nó nói ngơ ngơ chả hiểu gì ngoài chăn trâu căt cỏ. Lâu dần, tôi nghe tiếng chuông biết là nó đánh hay thầy đánh, tiếng nó đánh nghe nhè nhẹ, thanh thanh, vang như gió, vút như tiếng sáo diều, rung rinh, khai sắc cây cỏ. Những khi ấy tôi thường chơi bên ngoài hoặc đi lùa trâu, chẳng hơi đâu mà ngồi nhìn cái việc tụng kinh, gõ mõ. Một mùa mưa gió thất thường, sư thầy viên tịch vì bị cảm, tôi đã nghe nó đánh 108 tiếng chuông, những thanh âm chồng lên thanh âm, não nề không dứt. Tiếng bầy trâu rống lên tru tréo thê lương vọng xa như rũ héo cả cánh đồng làng. Hồi ấy chúng tôi mới mười sáu tuổi.
“Thế sau đó Ngọ có đi tu không?”, người đàn bà tò mò. Tôi nhấp chén trà, nước vàng như mật, đặc quánh nơi đầu lưỡi, nghĩ chắc cô ta pha ba phần chè, hai phần nước, lưỡi tôi rin rít, miệng khà như vừa uống ly rượu nếp nặng, đặt chén xuống, tôi gật đầu “mẹ nó phải dọa chết mấy lần để ngăn điều ấy, bà bảo nó phải lấy vợ, để có đứa nối dõi tông đường”. Ngọ là cháu đích tôn, bà chăm Ngọ như báu vật của gia đình, dòng họ, thậm chí đang thời gian nó đi học bà đã dấm mấy mối trong xã, chỉ chờ học xong là cưới. Trong đám ấy có Thơm, học cùng lớp hai thằng tôi, Thơm có duyên, má lúm đồng tiền, cặp mắt lúng la lúng liếng. Ngọ thích Thơm, tôi cũng thích Thơm, hai thằng thi nhau lấy lòng mỗi khi có cơ hội nhưng Thơm bảo “chỉ thích anh hùng”.
Thầy giáo dạy văn của chúng tôi là thương binh bị cụt chân, thầy truyền cảm hứng cho những đứa con trai, con gái trong lớp những điều đẹp đẽ, anh hùng bằng năm tháng ở chiến trường. Rất mác xít, đối với thầy điều tuyệt vời nhất của con người vẫn luôn là “cầm súng dưới chiến hào”.
“Chiến tranh kết thúc rồi, giờ đi học kỹ sư, bác sĩ, làm công nhân để kiến thiết đất nước” chúng tôi nói với thầy vậy.
“Còn lâu nhé, muốn hòa bình thì vẫn phải đánh nhau, đi bộ đội là dễ thành anh hùng nhất, các cô các cậu cứ chờ xem”. Thơm be miệng cười khanh khách.
Thầy nói như thánh, năm sau thì tổng động viên, lần này mẹ nó có khóc hết nước hết cái vẫn không ngăn được Ngọ đòi tòng quân dù thuộc diện được miễn. Ngày lên đường bà ôm ghì lấy nó, chặt đến mức đừng ai mang được con trai của bà đi. Từng lời dặn dò như những chiếc đinh nhọn hoắt cắm ngập vào lòng căm phẫn, đay nghiến chiến tranh của bà “đi nguyên vẹn, về nguyên vẹn, đừng bỏ lại mẹ như bố mày”. Rồi bà quay sang tôi căn dặn nếu cùng đơn vị phải luôn đến ý, canh chừng đừng để nó xung phong đầu tiên và chốt lại “họ Phạm mà tuyệt tự thì đừng về làng nhìn mặt bà”.
Quay sang nhìn Thơm đang sụt sùi, thằng nọ nhìn thằng kia chừng chực như muốn ôm lấy người con gái, chả hiểu điều gì đã ngăn chúng tôi lại, dở hơi thế, sĩ bọ thế. Thơm tinh tế, nhẹ nhàng ôm lần lượt từng thằng, rồi chốt “sẽ lấy ai trở về trước”. Sau này vào chiến trường, đánh nhau ác liệt, người chết nhiều như thóc, mỗi lần sống sót, tôi vẫn hay nhắc nó về những lời ấy “chẳng sức mạnh nào bằng lời nói đàn bà, cũng chẳng cái chết nào dễ hơn lời nói đàn bà”, Ngọ nói với tôi bằng cái giọng thưng thửng, tôi không biết Ngọ đang nghĩ gì, nhưng tôi muốn lấy Thơm.
Chúng tôi nhập ngũ vào binh chủng Đặc công, huấn luyện ở sư 305 đóng tại Xuân Mai cách nhà chừng 30 cây số. Sau 6 tháng huấn luyện kỹ càng, cứ ngỡ lên mạn bắc, chúng tôi được điều động sang chiến trường K. Là lực lượng tinh nhuệ nên gần trăm tân binh được phân bổ cho các đơn vị dùng làm lính trinh sát. Tôi và Ngọ biên chế về hai đơn vị cùng sư đoàn. Chiến trường K ác liệt. Ban ngày thì địa bàn của ta, ban đêm phải co cụm chống đỡ quân Pôn Pốt đánh úp liên tục. Bộ đội bị thương, hy sinh nhiều, hầu hết các đơn vị đều thiếu quân, phải căng ra chốt giữ từng cứ điểm, vị trí trọng yếu.
Trong số tân binh khi vào chiến trường đợt ấy, Ngọ là một trong những trinh sát rất giỏi nhưng tính cách có phần hơi lập dị. Nhớ một lần tôi và Ngọ cùng vài anh em tăng cường cho trung đội bạn đang án ngữ một cây cầu trên tuyến đường huyết mạch. Tin trinh sát báo về có thể đêm ấy Pôn Pốt sẽ tấn công. Chúng tôi khẩn trương bố trí đội hình phòng thủ bên này cầu, đào hố cá nhân, mỗi người được trang bị đầy đủ cơ số đạn, ngoài ra còn có vài quả mìn K58 và một quả mìn DH10 do Ngọ vác theo. Số K58 được bố trí sát bờ suối, riêng quả DH 10 sau một hồi quan sát địa hình, Ngọ không bố trí dọc cầu mà được đặt ngang bờ suối, cách cầu khá xa, mọi người phản đối vì nếu kích nổ có thể sát thương cả những vị trị tiền tiêu của quân mình. “Nếu ai bị thương cứ đưa tôi ra tòa án binh”, Ngọ quả quyết. Hướng của tôi phía trước có 3 người, ngoài tôi còn Chiến và Hưng, mỗi người một vị trí hướng hỏa lực về phía suối cạn, Ngọ ở tổ chiến đấu phía sau tôi, cả chiều lọ mọ, luồn dây điện kích nổ dưới một lớp đất mỏng
Đêm xuống, hàng chục con mắt đổ dồn về phía cầu nơi có ánh đèn vàng lờ mờ lay lắt giữa một vùng đen đặc. Càng về khuya, mọi vật yên tĩnh, suối khô, cỏ chết, cả tiếng côn trùng cũng câm lặng, nhưng tôi vẫn nghe được tiếng hàng trăm bước chân đang lần mò, sột soạt rình rập bên kia cầu, chừng chực lao sang để giết mấy chục người lính bên này. Thần chết ẩn mình trong bóng đêm, chúng tôi hồi hộp chờ đợi.
“Cái lũ mù quáng chết tiệt”, tôi lẩm bẩm nghĩ về đám Pôn Pốt, bọn chúng ngày càng man rợ, đám chỉ huy nhồi nhét nếu bị bộ đội Việt Nam bắt sẽ bị chặt đầu, một thằng tù binh đã khai thế, nên chúng sẵn sàng thiêu thân, bất chấp chống lại quân tình nguyện. Khi vớt những thi thể bộ đội bị chặt đầu trôi dạt dòng Mê Kông, tôi đã thề sẽ giết bất cứ tên Pôn Pốt nào nếu bắt được, nhưng tôi đã không làm được thế.
“Uỳnh” một vùng sáng lóe lên kèm theo tiếng nổ cắt đứt dòng suy nghĩ, là quả mìn K58 cài bên kia suối, không thấy động tĩnh gì, có lẽ là một con nai hoặc đám Pôn Pốt đã bịt chặt miệng cái tên bị thương. Chúng tôi vẫn chờ đợi, ngón trỏ đã đặt trong tay cò.
Một vệt sáng phụt dài, “Bùng” ụ lô cốt trên cầu nổ tung, kèm theo hàng loạt quả đạn cối rơi trùm xuống phía trận địa phòng ngự trông như những quả cầu lửa hất tung đất đá, hai bên đấu súng ác liệt. Đạn vạch đường trong đêm chằng chịt, rực rỡ pháo hoa, cái đẹp vẫn thường dễ chết. Chỉ một vài tên Pôn Pốt tiến theo hướng mặt cầu dùng làm mồi nhử thu hút hỏa lực mấy khẩu trung liên RPD và RPK của ta chế áp đầu cầu, còn lại chúng tiến từ hướng lòng suối, pháo sáng bắn lên soi rõ hàng chục tên lúc nhúc. “Cùng, cùng, cùng…” tiếng của 12ly7 bên kia cầu dội sang, loại súng phòng không dùng bắn thẳng gây ra những cái chết nát vụn. Những quả mìn K58 còn lại nổ liên tục, bọn chúng đã liều chết sang bờ. Ở hướng tôi, Chiến đã bị thương, tôi gọi Hưng dìu Chiến về sau, đạn bắn rát khiến Hưng không di chuyển được. Ở bên trái cầu đã bị tràn ngập, tuyến phòng thủ ngoài cùng coi như bỏ. Lúc này cối tiểu đoàn dội tới, chủ yếu rơi phía bên kia cầu, khẩu 12ly7 câm bặt. Khẩu AK của tôi điểm xạ đến đỏ nòng, một loạt đạn găm vào đất tung tóe ngay sát khi tôi trườn sang giúp Chiến. Một bóng đen lao đến, tôi nghĩ mình chết chắc. Loạt đạn xé gió sượt qua vai tôi, tên lính đổ ập xuống trước mặt. Quay lại, tôi thấy Ngọ vừa nổ súng cứu mình. Trong tích tắc ấy, tôi rùng mình nghĩ đến cảnh Thơm và Ngọ thành vợ chồng.
“Rút về đây, nhanh”, Ngọ dứt khoát, chúng tôi lao về phía sau, vừa lúc ấy Ngọ kích nổ quả DH10, “Ùynh” tiếng nổ long trời, một quầng lửa sáng rực từ phía phải hắt dọc bờ suối, quét sạch cỏ cây và cả con người, đám Pôn Pốt bỏ chạy tan tác.
Chúng tôi trải qua vài trận đánh như thế trong mùa khô năm đó. Bên nào gan lỳ hơn bên ấy thắng. Bước qua những lằn sinh tử, cái chết tưởng chừng như cách đúng gang tay, giặc vây tứ phía, có khi chỉ chờ tự kết liễu đời mình, thế mà tôi vẫn sống cho đến tận bây giờ, chẳng một vết thương.
“Thế còn Ngọ?”
Tôi lắc đầu nhìn người đàn bà.
Lần giỗ đầu Ngọ, mẹ nó vồ lấy tôi gào khóc nức nở. Giỗ làm một mâm, gồm mẹ nó, gia đình nhà chị gái, thầy giáo dạy chúng tôi ngày xưa là chồng của mẹ nó bây giờ và tôi. Ngày ghi trên giấy báo tử là ngày cuối cùng tôi nhìn thấy Ngọ 16/7/1982, theo quy định phải đợi 5 năm sau mà nó vẫn bặt vô âm tín thì thủ trưởng đơn vị mới ký giấy, nên giỗ đầu nhưng chả biết còn sống hay đã chết được mấy năm, linh hồn đã siêu thoát chưa hay đang lang bạt ở một cánh rừng nào. Nghĩ đến đó mẹ nó càng khóc thê thiết hơn, bà trách tôi sao bỏ nó lại, trách tôi hèn nhác, trách như chính tôi là người gây ra chuyện này.
“Khóc lóc gì nữa, chiến tranh mà, dù gì nó vẫn là anh hùng”
“Tại cả ông nữa, nếu ngày ấy ông không xui chúng nó vào bộ đội thì đâu ra nông nỗi này”, bà quắc nhìn ông chồng đay nghiến.
Ông thầy lặng lẽ nhìn tôi, bởi chỉ tôi mới hiểu cái nhẽ này. Những lần giỗ sau cũng vậy, bà vẫn báo và lần nào tôi cũng đến thắp hương cho thằng bạn để nghe bà khóc lóc, kết tội.
Tôi lặng im trước giọt nước mắt của những người còn sống. Năm này qua năm khác, lần giỗ này đến giỗ khác, mong muốn quay trở lại nơi ấy một lần nữa ngày càng lớn dần trong tôi, nhất là gần đây tôi biết phiến quân vùng đó đã đầu hàng chính phủ.
Sau những chiến dịch mùa khô, tôi và Ngọ được giao nhiệm vụ trinh sát Nongchan, căn cứ lớn của quân Pôn Pốt nằm sâu trong rừng, sát biên giới Thái Lan. Chúng tôi đi đường rừng mất hai ngày, vừa đi vừa tránh dân, tránh địch. Khi tìm được vị trí trú ẩn bí mật bên con suối cách căn cứ không xa, hai thằng khẩn trương cởi bỏ quân phục, trên người chỉ mặc mỗi chiếc quần xà lỏn và bắt đầu bôi vẽ, ngụy trang cho nhau. Chờ đến tối chúng tôi luồn vào căn cứ, xác định kho tàng, sở chỉ huy, các vị trí quan trọng, gần sáng lại bí mật vận động ra vị trí này để vẽ lại. Ngay lần đi trinh sát đầu tiên Ngọ lại cứu tôi lần nữa, Ngọ phát hiện trên lối di chuyển có mìn, chúng tôi không gỡ, lần nào cũng bí mật bước qua. Căn cứ lớn nên phải 3 đêm chúng tôi mới xong nhiệm vụ. Khi chuẩn bị rời khỏi vị trí trú ẩn trở về, chúng tôi nghe tiếng bước chân người đang tiến đến. Hai thằng cầm khẩu AK báng gấp nín thở chờ đợi. Bóng người đi qua vị trí ẩn nấp. Một cô gái. Cô ta mặc chiếc áo tầm vông nâu đất và chiếc Sà rông màu đen. Bước đến tảng đá bên bờ suối, cách lùm cây ẩn nấp chỗ chúng tôi độ chục mét, cô gái nhìn xung quanh rồi cởi bỏ trang phục bước xuống suối. Cô ta chỉ độ ngoài đôi mươi, có làn da ngăm ngăm, bờ mông lăn lẳn, cặp ngực tròn trịa vểnh lên đầy thách thức và kiêu hãnh. Tôi thích thú ngắm nhìn, người rạo rực, bừng bừng như sốt, đũng quần đã cộm lên. Trước giờ tôi đã biết cơ thể đàn bà là thế nào, cũng đã sờ mó, làm ăn được gì Thơm đâu, có mỗi lời hứa hẹn chờ hai thằng về nhẹ hơn cả gió, biết thằng nào được hưởng hay lại trắng tay. Trộm nghĩ đến nàng Natasa bên dòng Vônga, ngủ với từng người lính trước ngày ra trận, những chàng trai mười tám, đôi mươi, sao Thơm không làm thế với chúng tôi?
“Ngắm nghía đủ chưa, đi thôi”, Ngọ đi trước, tôi phía sau, hai thằng rón rén bước ra khỏi vị trí ẩn nấp, vừa được vài bước, tôi cố di chuyển đến gần bờ suối để nhìn cô gái lần nữa cho đỡ tiếc. Tiếng thổi xuỳn xuỵt của Ngọ ra hiệu vô tình làm cô gái quay lại. Thấy có bóng người, cô ta hốt hoảng bước lên bờ vơ lấy quần áo rồi chạy thẳng. Khi tôi còn đang bất ngờ chưa biết xử lý sao, Ngọ đã từ phía dưới lao lên đuổi theo cô gái, nói như quát “mìn đấy, mìn đấy”. Nhưng, không kịp. Khi tay Ngọ đẩy mạnh được cô gái ngã về phía trước thì tiếng nổ vang lên. Tôi lao đến, Ngọ nằm gục đó, cố nén đau, nhăn nhó, máu xối xả, tôi vội sờ xuống dưới chân, xương ống phải lòi trắng hếu, cẳng chân dưới đã gãy đôi. Tôi vội lấy băng gạc cuốn chặt ống chân. Cô gái lúc này lồm cồm bò dậy, hoảng loạn nhìn rồi loạng choạng chạy thục mạng về phía trước. Ngọ nhăn nhó lấy từ trong túi thủ pháo cái sơ đồ dúi vào tay tôi, thều thào “để tao lại, mày mang cái này về”. Tôi nhìn nó xót xa rồi cầm cái bàn chân đã đứt lìa, “cầm làm gì, vứt đi”, Ngọ nói, tôi liền nhét cái chân vào hốc đất gần đó vùi đất lên, lại xóa các vết máu xung quanh. Lúc này, tôi lại thấy đũng quần ướt đẫm, ngấm xuống tận gối, tôi run run cẩn thận vén vết quần rách rồi đau xót khép lại. Mắt Ngọ đỏ ngầu. Ám ảnh. Sau này, ánh mắt ấy cứ lặp đi lặp lại, khoan sâu, đục đẽo tâm trí mỗi lần tôi đến nhà thắp nhang cho Ngọ, cái di ảnh chảy máu.
Xốc bạn lên lưng, nhưng máu vẫn chảy lót thót qua miếng ga gô, “tao đau quá, đừng cố nữa, về đến nơi cũng chết vì mất máu, mày không để tao lại chúng lần theo thì chết cả hai”, tiếng Ngọ vật vã trên lưng, trước ngực tôi hai khẩu AK báng gấp va vào nhau chan chát. Tôi đặt Ngọ ở nơi chúng tôi vẫn ẩn nấp mấy ngày qua, “chờ ở đây”, rồi tôi chạy đi, bóng tối nhập nhoạng buông. Tôi băng qua lối mòn, chẳng đề phòng, cảnh giới, tôi lao qua những đám bụi gai găm vào da thịt, máu tứa ra. Bỗng dưng có hai thằng đàn ông trong tôi lần lượt xuất hiện theo từng bước chạy, nhịp thở, chúng hằm hè nhau. Một thằng như chạy trốn, cắm mặt thúc tôi về với người con gái đang trần truồng trên giường, để úp mặt vào bầu ngực thơm tho mơn mởn đòng đòng. Tôi thấy mình đang vùng vẫy, vuốt ve da thịt đàn bà mà thấy sướng cái cuộc đời mơ ước bấy lâu nay, tôi nghe tiếng “Thơm ơi” trôi tuồn tuột ra khỏi miệng mình. Thằng còn lại cho tôi nghe rên rỉ tiếng đau đớn của đồng đội đang quằn quại phía sau, lôi tôi về tuổi thơ chăn trâu cắt cỏ, về ký ức trận đánh Ngọ cứu tôi hôm nào. Tôi cứ chạy, chạy mãi, với hai kẻ điên rồ hò hét bên tai.
“Và anh hai đã bỏ Ngọ lại, rồi năm tháng dằn vặt đọa đày bắt anh quay trở lại nơi này”
“Cô chỉ nói đúng vế sau” tôi nói, người đàn bà tỏ vẻ ngạc nhiên.
Tôi đã quay lại, sau khi kiếm được vài đồ sơ cứu từ một xe ca nhông bị bỏ bên đường, nhưng Ngọ thì mất tích. Không có dấu hiệu quân Pôn Pốt. Tìm khắp xung quanh cũng không một dấu vết. Tôi mang sơ đồ trở về, hai tuần sau sư đoàn tấn công và phá được trại Nongchan, quân địch dạt sang đất Thái. Sau trận đánh, tôi dẫn anh em ra khu vực này tìm kiếm, khai thác tù binh, rà soát cả những nhà dân gần đó nhưng không một ai biết tin tức về người lính Việt. Từ đó, tôi chán hai chữ anh hùng, tôi chỉ muốn tìm được Ngọ, hoặc chết cũng phải thấy xác. Tôi ra quân, trở về quê và cưới Thơm, khi cuộc sống gia đình khó khăn, vợ tôi có nói “hóa ra anh hùng chẳng mài ăn được”, tôi khùng lên tát Thơm nổ đom đóm, đó là lần duy nhất tôi đánh vợ mình.
Đêm đó, tôi ngủ tại nhà Út Liên. Tôi mơ một giấc mơ chấp chới. Trên cánh đồng đầy xác người, Ngọ ôm chiếc chân cụt với đôi mắt chảy máu gào thét gọi tôi. Tiếng súng vang lên xéo xắt cào cấu, đè lên tiếng chuông mỏng manh thoi thóp, thứ thanh âm quái đản ấy tra tấn tôi tới sáng. Đêm xứ người lê lết.
Sáng hôm sau thức dậy không thấy Út Liên, khi tôi ra khỏi quán thì một người đàn ông bản địa tự xưng là bạn của Út Liên nói rằng sẽ làm người dẫn đường cho tôi, khi tôi đặt vấn đề về giá cả, anh ta nói Út Liên đã trả. Lạ nước lạ cái, tôi gật đầu đồng ý. Tôi hỏi về Út Liên đã đi đâu, anh ta bảo cô ấy đã đi từ sớm. Người đàn ông Campuchia nói tiếng Việt khá sõi, quan trọng hơn anh ta đã từng có thời gian ở trại Nongchan, cùng với nhiều người bị bắt đến đó đào giao thông hào cho đến khi quân tình nguyện đánh tới. Mãi gần trưa, chúng tôi mới bắt xe đi. Những con đường đất ngày xưa nay đã rải nhựa đến tận thủ phủ huyện, dân cư đông đúc, khác hẳn với ký ức bom đạn, tiêu điều. Từ huyện chúng tôi thuê xe Tuk Tuk, khi tới gần Nongchan anh ta dẫn tôi rẽ theo đường khác, thấy tôi khó chịu anh ta bảo “cô Út Liên bảo đưa anh đến chỗ này”, lúc ấy tôi mới thôi vùng vằng nhưng lòng đầy hoài nghi.
Gần tối, xe dừng trước một ngôi chùa, vừa bước xuống tôi nghe thấy tiếng phụ nữ í ới, là Út Liên, “sao cô ta lại ở đây? có lẽ cô ta đã lên đây từ sáng sớm”, tôi thắc mắc, phía sau một người phụ nữ khác, dường như là người bản địa. Út Liên tươi cười, hớt hải bước tới chỉ về phía người phụ nữ còn lại “Người phụ nữ này đã cứu tôi và cũng chính là …à mà thôi, chị ấy sẽ dẫn anh đi gặp một người”. Người phụ nữ mỉm cười và ra hiệu cho chúng tôi đi theo. Tôi nhìn người phụ nữ ngờ ngợ, trong đầu loáng thoáng thân ảnh trần trụi giữa con suối rừng mấy mươi năm trước.
Chúng tôi bước đi, lẫn trong mùi hương khói u mê có tiếng chuông ngân lên từ gian chùa trước mặt, tiếng chuông hoan hỉ, tinh khiết. Có bóng ai đang đung đưa theo thứ âm vang diệu kỳ đánh thức bản giác, thức tỉnh chúng sinh, thanh sạch những dằn vặt đêm ngày bám rễ cắm sâu vào da thịt tôi tứa máu. Ký ức về một tuổi thơ bên đàn trâu và ngôi chùa cổ hiền hiện trong vô thức. Này căn. Này trần. Này thức. Này mê. Này vô minh. Này hỷ xả. Này là bản ngã.
Dưới chân, cỏ cây nỉ non hát cho cuộc hạnh ngộ.
Tôi đi như bay.
MƯA ẮNG BẰNG
1. Bà Sửu chết khoảng giữa mùa mưa, đúng cái ngày đất trời muốn rửa trôi thế giới. Hôm ấy, trời tối sầm, gió nổi, cây cối ngả nghiêng, hết lật trái rồi phải muốn bật cả gốc. Mây kéo về trên đỉnh Ắng Bằng trông như một chiếc ô khổng lồ xám xịt. Chớp giật liên hồi, từng vệt ngoằn ngoèo chằng chịt, những tiếng sấm nổ chát chúa vỡ óc inh tai. Mưa ào ào trút xuống như hàng vạn mũi tên thủy tinh vỡ trên đá, cắm phập vào đất làm núi chảy máu vàng oạch. Nước cào đá, xói đất, chảy như núi lở, cuốn phăng mọi thứ chắn ngang nên chẳng ai xuống được làng báo tin có người chết.
Không biết Ắng Bằng có từ bao giờ. Cái tên dễ khiến con người ta liên tưởng đến sự lộng lẫy, nhưng thực chất lại là một thung lũng hoang vu lưng chừng núi, chỉ trồng được mấy loại ngô, khoai ngắn ngày trên lớp đất mỏng giữa những vạt đá. Dân nghèo xác xơ. Một sự che đậy bằng hai chữ mĩ miều. Trước khi được coi là khu kinh tế mới, nơi này chỉ lưa thưa những khóm cây dại không tên. Sau đó, hơn chục hộ gia đình dắt díu nhau lên với hi vọng cuộc đời mới. Không điện. Không trường. Không nước ngọt. Chẳng xe máy nào vào nổi thung lũng heo hút bằng lối mòn nhỏ trông như cọng rạ khô vắt vẻo sườn núi, muốn đến phải đi bộ hàng giờ. Được vài năm, niềm tin hao mòn, đời sống chẳng khấm khá hơn mà ngày càng khốn khó, người dân chán nản, nhếch nhác kéo nhau về làng, thung lũng còn lại vài ngôi nhà ấm lửa. Những đống lửa khai hoang làm rẫy đỏ rực vạt núi mỗi chiều hoang hoải bớt dần, duy chỉ có một vạt lửa nơi cao nhất thung lũng mùa nào cũng cháy. Người ta bảo đó là đám ruộng của chú Biển, con bà Sửu, mẹ con chú ấy đã ở đây trước khi nơi này thành khu kinh tế mới. Họa hoằn lắm dân làng mới thấy Biển vác bó củi, bao ngô, tải sắn xuống dưới núi bán hoặc đổi những đồ dùng thiết yếu.
Mỗi lần thấy anh xuống làng, đám trẻ con lại chạy theo sau í ới: Chú Biển từ chiến trường về/ Cớ sao chú bỏ người yêu lên rừng/ Cô thì một dạ thủy chung/ Biển thì lẩn khuất trùng trùng núi non. Nghe chúng hát, anh chỉ lặng lẽ cười.
Bọn trẻ nghe người lớn kể, chú về sau ngày thống nhất. Lạ thay, chẳng nhớ nhà mình, cứ ngơ ngác quên làng, quên xóm. Có người nói trong đầu chú đầy mảnh đạn, nghe vậy, ai cũng thương xót, họ phải dắt chú vào tận sân. Bà Sửu đang ngoài vườn, ném xuống đất mớ rau vừa hái vồ lấy chú, chẳng tin vào mắt mình, bà khóc lên thành tiếng. Chú nhìn mẹ rồi quỳ xuống, mặt áp vào bụng bà, người rung lên chằm chặp. Chẳng biết khi ấy chú nói điều gì, bà lại khóc rống lên. Trước nhà, bụi tre oằn mình thê thiết. Cảm xúc từ những góc tối thẳm sâu nhất của người mẹ vỡ ào ra, tưởng như đời bà chỉ khóc có lần này. Dân làng chẳng phân biệt được tiếng khóc ấy vui hay buồn.
Cô Liễu hớt hải chạy sang, thấy chú lành lặn cô mừng mừng tủi tủi, chỉ chờ được người yêu quay lại để sà vào lòng. Vậy mà hai mẹ con mãi chẳng rời, cô đành lẳng lặng đứng ở phía sau. Phải mất đến một lúc, khi chào hỏi mọi người, chú mới gật đầu mỉm cười cho phải phép, rồi hờ hững chẳng để ý đến cô. Cử chỉ ấy chẳng khác gì gáo nước lạnh dội vào lòng tự ái sau những năm đằng đẵng đợi chờ. Lồng ngực như bị bóp nghẹt, cô be mặt khóc, cô chạy về, bước chân nặng nề tựa như đang trân mình leo lên đỉnh núi.
2. “Mẹ già rồi, không đi xa được.”
“Kìa mẹ.”
“Hay là con đi một mình, mẹ chết ở đây thôi.”
“Sao con bỏ mẹ lại được, không vì mẹ con đã không trở về, phải đi khỏi cái làng này mẹ ạ.”
“Họ có làm gì con đâu.”
“Nhưng con không thể sống giả dối mãi, nếu không đi xa được thì ta lên Ắng Bằng.”
“Lên đó lấy gì mà sống, con có chịu khổ được không?”
Lời bà Sửu ngày nào văng vẳng bên nhát cuốc thi thoảng va vào những viên đá nảy lên chan chát, nát tâm can. Đời người, chẳng gì đau đớn hơn việc tự mình đào mồ chôn máu mủ. Mỗi lần cuốc xuống đất là mỗi lần anh xót xa, nước mắt lót thót rơi xuống huyệt bì bõm nước. Mưa đã không ngớt mấy ngày, dội xối xả vào lòng người.
“Chú về bên bà đi, cứ để chúng tôi.”
Đó là hai trong số ít người còn lại trên thung lũng, họ vẫn nương tựa vào nhau để sống. Ở nhà, vài người phụ nữ phụ giúp dọn dẹp việc bếp núc, chiếc phản gỗ anh nằm được dỡ ra, một người biết về mộc đang đục đẽo ghép lại thành quan tài. Nơi góc nhà lạnh lẽo, bà Sửu nằm đó giữa làn khói trắng bảng lảng. Khuôn mặt khắc khổ theo bà sang bên kia thế giới, như một sự lo lắng cho người ở lại. Anh bần thần gục đầu lặng lẽ bên cạnh. Hơn ai hết, anh hiểu nỗi lòng của mẹ. Cả đời hiền lành chỉ biết lo cho người khác, mẹ chấp nhận sống giữa sự thật và giả dối để con trai sống một cuộc đời yên bình. Hồi mới lên đây, hai mẹ con làm một ngôi mộ gió nhìn xuôi về phương nam. Cứ chiều chiều đợi tắt nắng là mẹ ra đó ôm gối thẫn thờ. Những đêm mất ngủ mẹ lại lầm lũi ra mộ gió buông ánh nhìn u uất vào cô tịch, hun hút dưới núi. Chính điều đó càng làm anh day dứt, nhiều lúc anh chỉ muốn chết đi khi thấy mẹ kín đáo dấm dứt khóc. Hai mẹ con sống với nhau cùng nỗi đau chẳng thành lời, với kí ức chẳng thể nào nguôi ngoai.
3. Trời còn chưa sáng, những tiếng xì xào làm hai anh em tỉnh dậy, Đông thấy cậu và mẹ đang vội vã gấp quần áo của cả nhà vào mấy chiếc vali.
“Cô mau xuống làm ít cơm nắm ăn dọc đường, nhớ đem theo cả muối vừng, hai thằng nhỏ không ăn nhạt được”.
“Vâng.”
Mẹ lại như một cái máy tất tả chạy xuống bếp, mẹ lúc nào cũng vậy, làm vợ cậu nhưng Đông thấy mẹ không khác gì ở đợ. Từ sáng đến tối lúc nào cũng thấy mẹ quần quật, không trên nhà thì dưới bếp. Cậu trừng mắt là mẹ rúm người. Mẹ kể, nếu không có cậu, mẹ đã chết đói dọc đường và không có anh em Đông bây giờ. Ngày ấy, quân Nhật tràn đến gây ra nạn đói hoành hành, đâu đâu cũng có người chết đói. Những cánh đồng bỏ hoang không lúa, không khoai. Những con sông không tôm, không cá. Những ngôi nhà văng vẳng tiếng bi ai. Ông bà ngoại bảo mẹ đi khỏi làng, biết đâu còn cơ may sống sót, ở lại cũng chết, bà con cũng bỏ làng đi gần hết cả. Mẹ đi từ làng này tới làng khác, cứ nghe nói ở đâu có cái ăn là mẹ tới, dần dà lạc đến Hà Nội. Cậu thấy mẹ có nhan sắc nhưng đói khát ngoài cửa nên cưu mang, sống như vợ chồng chẳng hôn thú gì. Cậu một đời vợ đã li dị, làm việc cho sở thuế vụ Bắc kì, tính tình cục cằn, gia trưởng, vì thế, không bao giờ mẹ được ngồi ăn cơm chung mâm với cậu. Cảm giác mang ơn luôn khiến con người ta sống cuộc đời không phải của mình, hai anh em thương mẹ nhưng chỉ biết thương thôi.
Nghe tin Việt Minh lan đến quê, ông bà ngoại còn sống, mẹ có ý muốn về thăm. “Không phải lúc này”, cậu gắt. Mẹ lại im, đành đánh tiếng về con vẫn khỏe cho ông bà yên tâm. Sống với cậu một thời gian, mẹ sinh ra hai anh em giống nhau như hai giọt nước, từ nước da ngăm đen đến lời ăn tiếng nói, cách đi đứng, điệu bộ, người ngoài khó mà phân biệt được. Gần đây, Đông thấy cậu hay lo lắng, đi sớm về muộn, hồi chiều bạn cậu đến chơi, kể về việc không rút được tiền ở ngân hàng Đông Dương, người Pháp nói muốn rút thì phải vào ngân hàng trong Sài Gòn. Tiếc của vì cả gia tài đều để trong đó, cậu nghĩ mãi có nên đi hay không, ở lại thì sợ Việt Minh trả thù vì làm cho Pháp. “Em đi chợ thấy người ta bảo họ chỉ muốn đuổi người Pháp, chứ không hại người Việt mình”. “Đàn bà biết gì”, cậu quắc mắt.
Đến tối, cả gia đình xuống tới Hải Phòng, bến cảng người chật như nêm, chen chúc lên tàu, ai cũng lo lắng, vội vã. Cậu xách vali, mẹ dắt tay hai anh em đi sát theo sau. Người ta bắt đầu giẫm đạp, xô đẩy nhau khi nghe tin đây là chuyến tàu cuối. Vài người ngã xuống biển, tiếng la hét, khóc lóc của già trẻ át hẳn tiếng của đám lính Pháp quát tháo. Đám lính cầm súng gắn lưỡi lê sáng quắc như muốn đâm thủng vào niềm hi vọng mơ hồ mong manh của người xứ Bắc về vùng đất nghe vẽ là tự do, sung túc. Khi cả gia đình chen gần đến cầu tàu, Biển tuột tay mẹ, từng lớp người như sóng chen lên đẩy Đông về phía sau.“Cậu dắt lấy con”, mẹ hốt hoảng dúi tay Đông vào cậu rồi len ra phía sau. “Đồ ăn hại, có giữ con thôi cũng không làm được”, cậu nói như quát. Chen lấn mãi, mẹ mới ôm được lấy Biển, ngoảnh lại thấy cậu và Đông đã trên tàu, lính Pháp không cho người lên nữa. Chiếc tàu rời bến, vài người trên bờ cố với theo rơi xuống nước. Đông hét lên tuyệt vọng khi nhìn thấy mẹ và anh đang chới với giữa đám đông. Bóng người ở lại mờ dần rồi mất hẳn, Đông gào đến khản tiếng khi bến cảng đã thành đường chân trời. Cậu thất thần bên cạnh hàng trăm khuôn mặt ngơ ngác trong chuyến hải trình không biết ngày trở lại.
4. “Anh khác quá rồi”.
“Anh chẳng nhớ nổi những gì chúng ta đã hứa hẹn với nhau, những gì anh viết trong thư gửi về từ chiến trường anh cũng đã quên sạch. Vậy mà em lại hi vọng vào những lời có cánh”.
“Đàn ông các anh thật tồi tệ”, tiếng Liễu đầy trách móc, giận hờn.
Đó là lần đầu tiên anh gặp riêng Liễu kể từ khi trở về, dù mẹ đã nhiều lần nói không thể lẩn tránh mãi. Họ bước đi trên bờ đê đầy cỏ may, gió hồ Tuy Lai thông thốc thổi tung mái tóc người con gái lỡ thì. Những sợi tóc dài thi thoảng bay sang dính chặt vào môi, vào cổ như muốn kéo anh lại, muốn anh hít hà chúng. Liễu ba mươi tuổi, đã chờ đợi ngần ấy năm, bố mẹ cô khuyên nhủ, thậm chí cả chửi mắng. “Mày định sống thế này cả đời hả con, hay mày ăn bùa mê thuốc lú gì của cái thằng đó?”.
“Tất cả là tại chiến tranh, anh không có lỗi.” Nói rồi, Liễu cầm tay anh chạy đến một vạt đê có khóm cây dẻ, mùi hoa rưng rức thơm. Kéo anh ngồi xuống. Cô vén áo cầm tay anh luồn vào trong và giữ chặt nơi đó, đôi mắt nhìn thẳng vào người đàn ông đang bối rối: “Anh còn yêu em không?”. Dường như Liễu đã đánh cược duyên phận của mình vào câu hỏi đó, cô im lặng chờ đợi. Anh thấy dưới bàn tay mình da thịt đàn bà mềm mại và mát rượi. Sau một hồi bất động, những ngón tay bắt đầu rung lên trên bầu ngực đầy đặn mịn màng. Người phụ nữ mỉm cười, đôi mắt hờ khép. Rồi cô hôn anh đến điên dại, hôn cho những mùa xa cách, cho những ngày đạn bom. Bàn tay anh siết mạnh bạo hơn, gót chân nghiêng trượt hằn bãi cỏ. Hương bồ kết tóc mây, mùi cỏ may hoang dại quện nồng nàn…
Chợt anh dừng lại, hổn hển: “Em tha thứ cho anh. Với mẹ, anh có thể là Biển. Nhưng với em, anh không thể. Anh…”
“Kìa, anh sao thế? Người anh lạnh toát cả rồi”.
Anh muốn nói gì đó nhưng cổ họng như cứng lại. Anh vùng dậy, hốt hoảng chạy, những đám cỏ may ra sức níu chặt lấy chân người. Liễu thẫn thờ nhìn bóng người hun hút vào đêm, cảm xúc đứt đoạn, cô gục đầu, be mặt khóc. Đêm lặng lẽ ăn trăng như gặm nhấm nỗi đau của người con gái.
5. Sau một mùa mưa, hố bom đã thành vũng sâu đầy rẫy côn trùng rả rích, cỏ xanh mọc tràn trên tàn tích.
Dưới gốc cây, một kẻ có khuôn mặt bặm trợn đang vểnh tai nghe những tiếng bom nổ ùng ục phía đằng xa vọng lại. Hắn cười vẻ đắc chí, rồi ném cho mỗi người một điếu Bastos như phần thưởng nhiệm vụ vừa hoàn thành. Đó là gã toán trưởng biệt kích, đã từng là tiểu đoàn trưởng bảo an nhưng bị kỉ luật vì tằng tịu với vợ thượng cấp. Trong mắt Đông, hắn là kẻ máu lạnh, một tên chống Cộng điên cuồng. Còn Đông, là lính truyền tin, chuyên xác định tọa độ đối phương rồi gửi về căn cứ. Mấy đêm anh không ngủ. Vết cắn của những con vắt hôm trước làm anh ngứa ngáy và khó chịu. Lũ vắt bâu vào Đông như muốn hút cạn nguồn sống, trừng phạt kẻ đã khiến bao con người phải chết sau những tọa độ được anh đánh dấu. Trước đây, anh nghĩ mình không phù hợp làm lính biệt kích, nghe người ta nói phải hổ báo, dũng mãnh, không sợ chết mới vào được lực lượng này. Nhưng khi bị bắt đi quân dịch Đông mới hiểu. Lính biệt kích dễ chết và đào ngũ nhiều. Những thằng con cháu nhà giàu thì làm lính đô thành, còn những loại lèm nhèm như anh thì chèn vào đây cho đủ quân số. Mấy thằng cố vấn Mĩ tuyên bố cứ qua tay chúng huấn luyện là biệt kích sẽ chiến sòng phẳng với Cộng quân. Đông nhổ toẹt. Đám lính già dơ nhất kể khi chạm trán với quân chính quy Bắc Việt, qua vài loạt đạn đã phải rút. Mấy toán biệt kích xâm nhập trước, có toán nào về được nguyên vẹn, thậm chí có nhiều toán mất tích nguyên nhóm. Vậy mà chúng cứ không ngừng ném quân vào giữa những cánh rừng đầy cạm bẫy với cái chết chờ đợi sẵn. Nhiều lúc bất mãn, đám lính vẫn nói với nhau, không hiểu chúng đang chiến đấu vì điều gì.
Bỗng có tiếng thú chạy làm cả đám giật thót mình. Những ánh mắt căng ra không ngừng quan sát xung quanh. Tên toán trưởng nói thào thào giữa không gian chỉ còn tiếng thở. “Đù má, chốn này nguy hiểm quá, không cẩn thận là mất mạng với Việt Cộng như chơi”. Ngay sáng hôm sau hắn ra lệnh cả toán mặc trang phục, đội mũ tai bèo, đeo ba lô như quân đối phương. Cả nhóm đang lấy nước dưới suối thì giật mình nghe tiếng hú gọi phía xa hướng đầu nguồn, một người lính Bắc Việt gọi vọng lại hỏi sắp đến 367 chưa. Có lẽ đó là một trạm giao liên chuyển quân của quân chủ lực Bắc Việt bên kia dãy núi. Tên toán trưởng nhanh trí nhảy phắt lên mỏm đá ra hiệu đi thẳng và đáp vọng lại. “Sắp đến rồi các đồng chí ơi, cứ đi thẳng đến chân núi”. Nghe vậy người lính nhập vào hàng quân dài dằng dặc. Ngay sau đó, toán biệt kích phải di chuyển tránh xa dòng suối càng nhanh, càng xa càng tốt, bởi sẽ chẳng bao giờ có may mắn lần nữa.
Sau lần đột nhập đó, Đông tìm mọi cách rời lực lượng biệt động. Cậu chết bởi đạn lạc sau khi vào đây được mấy năm, chỉ còn mẹ và anh Biển, chẳng biết giờ họ ở nơi nào miền Bắc. Bao năm nay hình ảnh hai người ruột thịt tuyệt vọng bên cầu cảng ngày nào vẫn luôn ám ảnh, giày vò tâm trí. Đông tìm mọi cách chuyển về làm chân văn phòng nghiên cứu hồ sơ tù binh Bắc Việt với hi vọng mong manh, biết đâu trong số hồ sơ ấy có manh mối để hỏi thăm anh và mẹ.
Một chiều nắng xế, lòng Đông phấn chấn với một bản danh sách chuẩn bị cho các đợt trao trả tù binh giữa hai phía. Hiệp định đã được kí kết, hòa bình đang đến. Ánh nắng chênh chếch tua tủa những thanh sáng vàng vọt lọt qua khe cửa nhảy nhót trên đống giấy tờ lộn xộn. Đông đọc đi đọc lại gần như thuộc từng dấu phảy hồ sơ của một người tên Bạch Văn Hùng. Đó là quê ngoại mà mẹ vẫn hay nhắc đến. Ngay chiều hôm đó, với lí do cần khai thác thêm thông tin bổ sung hồ sơ, Đông đến ngay trại Thủ Đức, nơi giam giữ những người lính phía bên kia.
Bao trùm căn phòng là thứ bóng tối lúc thâm u kìn kịt, khi đục mờ luênh loáng. Quản ngục cho Đông biết, người tù Bạch Văn Hùng có nhiều hôm mê sảng rồi lảm nhảm: “Cố mà sống, nếu đã bị bắt thì đừng chết trong tù”. Đông đến trước, tắt điện, ngồi trong căn phòng thẩm vấn ấy cả tiếng đồng hồ. Đông muốn có một sự chuẩn bị thật kĩ càng. Đông muốn từ trong bóng tối nhìn ra, quan sát thật kĩ người tù binh và khi điện được bật lên, người tù ấy sẽ cảm được sự thân thiện và cầu thị, chia sẻ của Đông. Vừa thấy người tù binh bước vào cửa, Đông nhổm lên nhưng kìm lại được, cố gắng giữ thái độ lãnh đạm, không vồ vập. Ngăn cách hai người là chiếc bàn sắt lạnh ngắt và tập hồ sơ màu nâu đất. Khi ánh đèn được bật lên, anh ta hơi nheo mắt vì bất ngờ bị chói, sau một chút ngỡ ngàng, ánh mắt anh ta lướt trên mặt Đông rồi kéo nhanh xuống chữ Đông ở ngực áo. Anh ta nhíu mày, nhưng ngay lập tức, trở lại với vẻ mặt thản nhiên, chờ đợi.
“Tôi đến đây không phải để thẩm vấn mà muốn hỏi anh vài điều”. Đông dợm lời rồi bắt đầu bằng việc kể về hiệp định hòa bình vừa kí và những nội dung trong đó mà không nói về chiến tranh, lí tưởng như những bài tâm lí chiến mà Đông được học. Người tù binh nghe bằng thái độ im lặng. “Ít ra, anh ta cũng lắng nghe chứ không có vẻ bất hợp tác.” Đông nghĩ, rồi chuyển sang hỏi thăm về quê hương bản quán. Nói rồi Đông lấy ra từ ngực áo ra một tấm ảnh gia đình bốn người, chỉ vào lần lượt bố, mẹ, mình và người anh song sinh tên Biển.“Đây là gia đình tôi, chúng tôi đã thất lạc nhau, bố tôi chết rồi, chỉ còn mẹ và anh trai. Quê quán của anh là quê ngoại của tôi, anh có biết họ không?”
Ánh mắt Đông đầy khẩn thiết nhìn vào đôi môi người tù binh chờ đợi. Chỉ cần một tiếng “Có” thôi. Không gian, thời gian trong phòng ngưng lại trên đôi môi người tù binh ấy.
Anh biết họ phải không?” Giọng Đông run run, như muốn lạc đi.
“Tôi và hai mẹ con bà Sửu cùng làng, trước khi tôi đi, bà ấy vẫn còn sống mạnh khỏe”.
“Thế còn anh Biển?”
“Biển chết rồi”.
Đông sững người, lặng im hồi lâu, cố tĩnh lại. Gương mặt tái đi, đôi môi run run mấp máy của Đông cùng vẻ ngoài giống hệt Biển đã thuyết phục người tù binh hoàn toàn. Anh ta bắt đầu kể việc cùng đơn vị với Biển, đã từng nghe Biển nói có một người em song sinh thất lạc và luôn đau đáu sẽ đi tìm sau chiến tranh. Rồi trận chiến cuối cùng trên điểm cao chỉ còn lại hai người. Biển hi sinh, còn anh ta bị bắt…
Người tù binh im lặng. Hình như có một suy nghĩ vừa lướt qua trong đầu. Anh ta liếc nhanh ra cửa rồi vội nhoài người qua bàn, ghé vào tai Đông nói nhanh:
“Cậu có muốn trở về nhà với mẹ mình không?”
Tim Đông nhói lên một nhịp khi nghe câu hỏi. Sau mấy ngày suy nghĩ, anh quyết định gặp lại người tù binh ấy. Một kế hoạch chạy trốn cho cả hai người được lập. Đông bố trí một chiếc xe Jeep đến trại lấy cớ cần đưa Hùng đi thẩm tra. Khi xe chạy gần tới vùng giải phóng thì bị truy đuổi. Chỉ có Đông nhảy thoát vào bưng. Còn Hùng đã bị cảnh sát bắn chết…
6. Ắng Bằng bao nhiêu năm vẫn vậy, cảnh vật vẫn điềm nhiên như vốn có, nương rẫy bỏ hoang mọc lên những lùm dẻ nưng nức thơm, hương tỏa khắp mỗi khi có ngọn gió trườn qua thung lũng. Nơi đây đẹp nhất sau cơn mưa, trời trong văn vắt có thể phóng tầm mắt tới thật xa, nhất là chỗ dải đất nhô ra, nơi có hai ngôi mộ nằm cạnh nhau. Đông đã gắn trên mộ gió một cái bia bằng đá, sau đó anh đi đâu chẳng ai biết. Ngôi nhà của hai mẹ con bỏ hoang, rêu ngủ. Cô Liễu đã đi lấy chồng chẳng mấy khi về quê.
Sau này, thi thoảng có người từ xa lên núi, phải đi qua vị trí có hai ngôi mộ, họ vẫn thắc mắc về mộ phần có khắc tên liệt sĩ Nguyễn Văn Biển, hy sinh năm 1972, nhưng chẳng người dân nào trả lời thuyết phục.
18/1/2024
Bùi Tuấn Minh
Theo https://vanvn.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hư vô phản kháng

Hư vô phản kháng Hư vô phản kháng là gì? Là niềm đau vô tận số: ngậm ngùi bi thương, đoạn trường ai oán. Trong trạng huống đó người ta tạm...