Hàn Mặc Tử trong Hương thơm, nguồn thơ hạnh phúc
Ở
những giây phút khắc nghiệt nhất, hoang loạn nhất, vẫn có hai Hàn và có hai thơ
: một Hàn của mộng đẹp khi cơn đau lắng xuống và một Hàn của mộng dữ khi cơn
đau dấy lên cực điểm. Một Hàn thổ huyết trong vũng máu và một Hàn trở lại bình
an sau mỗi phong ba sóng bão. Hiền mộng và ác mộng, trong sáng đắm say và đau
thương kinh hoàng gắn bó với nhau như hai mặt của một cuộc đời.
"Ai
hãy làm thinh chớ nói nhiều, Để nghe dưới đáy nước hồ reo" (Hàn Mạc Tử -
Đà Lạt trăng mờ)
Đường
thơ bất tận và đường đời ngắn ngủi của Hàn chập nhau trong khoảng thời gian chưa
đầy mười năm và đã để lại những tiếng thơ bất hủ cho hậu thế.
Thơ
Hàn Mặc Tử đi từ trong sáng đến đau thương, bay lên thượng tầng
của đớn đau chết chóc, cầu đấng linh thiêng cứu nạn, rồi sau cùng, trở lại
trạng thái trong sáng nguyên sơ ban đầu như chưa bao giờ bợn gợn bởi những nỗi
đau rã rời bệnh hoạn trần thế.
Trong
hành trình ấy, Hàn đưa thi ca đi từ tuổi thơ đến tuổi dậy thì, thành niên với
những say mê đắm đuối, rồi thơ mắc bạo bệnh và đi về cõi chết cùng Hàn. Nhưng ở
những giây phút khắc nghiệt nhất, hoang loạn nhất, vẫn có hai Hàn, có hai thơ:
một Hàn của mộng đẹp khi cơn đau lắng xuống và một Hàn của mộng dữ khi cơn đau
dấy lên cực điểm. Một Hàn thổ huyết trong vũng máu và một Hàn trở lại bình an
sau mỗi phong ba sóng bão. Hiền mộng và ác mộng, trong sáng đắm say và đau
thương kinh hoàng gắn bó với nhau như hai mặt của một cuộc đời. Cũng là trăng,
cùng trong khoảnh khắc, trăng của Hàn có những tâm độ cực kỳ khác nhau :
trăng vừa là người yêu, là cõi mộng mà thoắt đấy, trăng đã trở thành yêu ma,
thần chết.
Tập
Gái quê với những bài như Nụ cười, Gái quê, Tiếng vang, Nắng tươi,
Tình quê, Bẽn lẽn, Uống trăng,... phản ánh những trong sáng thơ của
chàng trai hai mươi đầy sinh lực. Gái quê ra đời cuối năm 1936, bệnh
phong đã phát, nhưng những bài thơ trong Gái quê, làm lúc Hàn chưa bị
bệnh hoặc chưa thấy mình bị bệnh, chưa thấy đớn đau. Thơ Hàn Mặc Tử buổi đầu
bay lên trong mối giao cảm giữa thiên nhiên và con người trong suốt như pha lê.
Đến
tập Đau thương, tình thế đã khác. Thơ trong Đau thương được Hàn
gọi là thơ điên. Đau thương là tập thơ hay nhất của Hàn và đã
chịu nhiều cay đắng, bất hạnh, không thể in được lúc Hàn còn sống. Phải chăng
vì chính những người được giao phó nhiệm vụ in thơ, đã nhìn thấy thiên tài của
Hàn và không muốn thơ Hàn ra đời, để có thể cạnh tranh ngôi vị với thơ của họ
trên thi đàn?
Sau
những mê sảng tột đỉnh của đớn đau bệnh tật, sau những hấp hối của linh hồn
trong Đau thương, Hàn trở về với yên tịnh băng trinh thủa đầu, nguyện
cầu đức Mẹ Maria hằng cứu giúp, trong tập Xuân như ý. Tiếp đến Thượng
thanh khí và Cẩm châu duyên, Hàn đã thoát khỏi nỗi đau thể xác, để
đi đến một cõi khác, mà hạnh phúc trở lại, như chưa hề biết đớn đau, chưa biết
thế nào là nhục thể bệnh hoạn.
Đau
thương chia
làm ba phần : Phần thứ nhất là Hương thơm gồm những bài thơ trong sáng,
như Đà Lạt trăng mờ, Huyền ảo, Mùa xuân chín, ...
Phần thứ nhì : Mật đắng gồm những bài thơ buồn, tuyệt vọng như Những giọt lệ, Cuối thu, Hãy nhập hồn em, Muôn năm sầu thảm... và phần thứ ba: Máu cuồng và hồn điên, thể hiện những thác loạn, nguyệt huyết, chết đi sống lại của Hàn với những bài : Hồn là ai, Biển hồn ta, Sáng láng, Say trăng, Rượt trăng, Trăng tự tử, Chơi trên trăng, Rướm máu, Cô liêu, Trút linh hồn....
Phần thứ nhì : Mật đắng gồm những bài thơ buồn, tuyệt vọng như Những giọt lệ, Cuối thu, Hãy nhập hồn em, Muôn năm sầu thảm... và phần thứ ba: Máu cuồng và hồn điên, thể hiện những thác loạn, nguyệt huyết, chết đi sống lại của Hàn với những bài : Hồn là ai, Biển hồn ta, Sáng láng, Say trăng, Rượt trăng, Trăng tự tử, Chơi trên trăng, Rướm máu, Cô liêu, Trút linh hồn....
Đau
thương là
tác phẩm chính của Hàn Mặc Tử, và cũng là tác phẩm quan trọng nhất của thi ca
Việt nam trong thế kỷ XX.
Chúng
tôi sẽ giới thiệu Đau thương làm hai phần: phần đầu (hôm nay), phân tích
thơ Hàn trong Hương thơm và phần sau (kỳ tới) thơ Hàn trong Mật đắng,
Máu cuồng và Hồn điên.
Trong
thi ca Việt Nam, Hàn Mặc Tử là nhà thơ duy nhất có những câu thơ hay có thể
vượt sự trác tuyệt của Nguyễn Du. Hàn Mặc Tử là một hồn thơ phức tạp, một hồn
thơ đầy biến đổi, tương hợp và mâu thuẫn sống trong nhau, những hình thái ngôn
từ, hình thái tư tưởng kết hợp giao hoà trong thơ Hàn để tạo thành một thế giới
siêu hình, siêu ngôn ngữ, chưa từng có trong thơ Việt. Vì vậy, khi tìm hiểu Đau
thương, chúng ta phải trở lại với những phạm trù chính đã kết nên thơ Hàn, đó
là thơ và nhạc, nước và trăng.
Lần
đầu tiên trong thơ Việt, Hàn Mặc Tử tạo ra một cõi thơ nhạc giao hưởng.
Nghiã
là thơ Hàn có nhạc ở trong. Nhạc dưới tất cả mọi hình thức từ những tiếng
nhạc say say gió xé rách lả tả của ánh trăng đến tiếng hổn
hển của nước mây, đến tiếng gió rít tầng cao trăng ngã ngửa... Âm
nhạc trong thơ Hàn là âm nhạc chảy ra từ thân xác thơ, mỗi hình ảnh là một cõi
hư ảo thơ, hư ảo nhạc, mỗi chữ đã tẩm nhạc, tẩm hương trong mình, đó là thứ âm
nhạc và hương thơm giao hoà trong nội tại thơ, là sự thành thân giữa
Hàn và trăng, giữa Hàn và trời nước.
Cần
phải phân biệt rõ âm nhạc nội tại trong thơ Hàn với âm nhạc hình thức của niêm
luật bằng trắc trong thơ cổ điển, và âm nhạc phát ra từ nhịp điệu trong Thơ
Mới. Ví dụ, Tiếng trúc tuyệt vời của Thế Lữ là bài thơ rất hay, có nhạc,
nhưng nhạc của Thế Lữ nằm trong nhịp điệu mới (khác với âm luật cổ điển) và
trong sự mô tả tiếng trúc, tiếng sáo:
Tiếng
địch thổi đâu đây,
Cớ
sao mà réo rắt ?
Lơ
lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt,
Mây
bay... gió quyến mây bay...
Tiếng
vi vút như khuyên van, như dìu dặt,
Ở
đây, Thế Lữ mô tả tiếng nhạc, tiếng sáo bằng những vần thơ có âm điệu lạ, nhưng
thơ Thế Lữ chưa len vào được nội tâm của tiếng trúc, tiếng địch. Bởi Thế Lữ
chưa là nhạc, là thơ, Thế Lữ chưa nghe đưọc tiếng reo của đáy hồ, chưa
nghe và thấy được tiếng vỡ của sao băng, chưa nghe được tiếng nước
mây thầm thỉ với ai ngồi dưới trúc... như Hàn Mặc Tử.
Vì
Hàn là nhạc :
Tôi
nhập hồn tôi trong khúc hát
Để
nhờ không khí đẩy lên trăng (Chơi trên trăng)
Với
một “nền” nhạc như thế, thơ Hàn gồm hai thế giới trần gian và tiên cảnh, đi
đôi: là cõi không và cõi có, song song. Thơ Hàn là thiên đường và địa ngục. Ở
giữa hai tình thế tương phản cực điểm ấy, thơ Hàn luôn luôn có một thực thể vật
chất nối kết, bắc cầu: đó là trăng và nước, hai yếu tố cơ bản, mà
từ đó trí tưởng tượng của Hàn khởi đi để tạo thơ. Trăng và nước
giao nhau, hoá thân trong nhau, đã là nhau : trăng, một tinh cầu
đất đá, qua thuật luyện kim kỳ dị của Hàn, trở thành tinh cầu nước:
Nước
hoá thành trăng, trăng ra nước,
Lụa
là ướt đẫm cả trăng thơm
Người
trăng ăn vận toàn trăng cả (Say trăng)
Vì
vậy khi nói đến trăng trong thơ Hàn là phải tìm đến nước, bởi vì trăng và nước
trong thơ Hàn gắn bó với nhau như hồn và xác của những giấc mơ.
Đà
Lạt là một bức tranh chỉ có trong mơ :
Đây
phút thiêng liêng đã khởi đầu.
Trời
mơ trong cảnh thật huyền mơ!
Trăng
sao đắm đuối trong sương nhạt
Như
đón từ xa một ý thơ.
Ai
hãy làm thinh chớ nói nhiều,
Để
nghe dưới đáy nước hồ reo,
Để
nghe tơ liễu run trong gió,
Và
để xem trời giải nghĩa yêu
Cành
lá in như đã lặng chìm.
Hư
thực làm sao phân biệt được!
Sông
Ngân hà nổi giữa màn đêm
Cả
trời say nhuộm một màu trăng,
Và
cả lòng tôi chẳng nói răng
Không
một tiếng gì nghe động chạm
Đà
Lạt trăng mờ,
mở vào một không gian ảo. Những yếu tố: trăng, nước hồ, sương nhạt, ý thơ, tơ
liễu, hàng thông, Ngân hà, sao băng... hoà nhau trong một điệu nhạc đắm say,
một luân vũ thần tiên, một sự trao thân kỳ bí, vô thường, vì không một cảnh
quan hiện thực nào có thể như thế. Không ai nghe được tiếng tơ liễu run
trong gió, không ai thấy được sự đắm đuối của trăng sao, không ai
nghe được tiếng reo của đáy hồ, không ai nghe và thấy được tiếng vỡ
của sao băng : một vũ trụ mới vừa xuất hiện mà không gian trời nước cao vút
của Ngân hà và không gian sâu thẳm đầy bí mật của đáy hồ trong cõi vô chung vô
thỉ, giao cảm, chuyện trò với nhau, tan loãng trong nhau như một bản giao hưởng
thần tiên chưa bao giờ xẩy ra trên cõi thế. Một vũ trụ luận mới đã có ở đây
trong thơ Hàn Mặc Tử. Vũ trụ luận này khác hẳn với vũ trụ luận trong thơ cổ
điển, trong đó cái ta thường tự xoá trước đất trời, và trăng sao là những vật
thể cố định, nhà thơ chiếu cái nhìn, chiếu tâm hồn mình vào, để mô tả trăng
sao, trong khi ở vũ trụ luận mới này, trăng nguyên sơ chính là Hàn Mặc Tử.
Và
cả nước nữa. Nước ẩn trong thơ Hàn như nhạc. Kể cả những bài thơ không nói đến
nước, như bài Mùa xuân chín, mà nước vẫn đẫm trong thơ:
Trong
làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi
mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột
soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên
giàn thiên lý- Bóng xuân sang.
Sóng
cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao
cô thôn nữ hát trên đồi.
-
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có
kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Tiếng
ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn
hển như lời của nước mây,
Thầm
thỉ với ai ngồi dưới trúc
Nghe
ra ý vị và thơ ngây.
Khách
xa, gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng
trí bâng khuâng sực nhớ làng:
“-
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Bài
thơ chiếm trọn không gian từ trời xuống đất: Trong làn nắng ửng khói mơ tan
/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng. Rồi lại từ đất lên trời : Sóng cỏ xanh
tươi gợn tới trời. Ở giữa hai đỉnh trời và đất, Hàn treo những cô
gái : Bao cô thôn nữ hát trên đồi. Nhưng tiếng hát của họ không chỉ
vang trên mặt đồi mà chúng bay lên thượng tầng khí quyển, choán toàn bộ không
gian, khi cao vút khi thầm thì : Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, hổn hển
như lời của nước mây, thầm thỉ với ai ngồi dưới trúc.
Sự
kỳ dị đến từ việc cả bài thơ không có «chủ đề» nước, nhưng nhờ ba câu : Trong
làn nắng ửng khói mơ tan, sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời, hổn hển như lời
của nước mây, mà bài thơ ngập nước, bởi những chữ : khói mơ, sóng cỏ,
lời của nước mây, mà thơ hoà trong sóng nước lên tận đến mây xanh.
Hàn
là nhà thơ của nước. Chất nguyên thủy tạo ra thơ Hàn là nước. Hàn không
phải là nhà thơ của đất như Nguyễn Du, bởi Hàn không bận tâm đến những
gì xẩy ra trên mặt đất, từ đời người, đến kiếp người, đến mộ phần, đến cõi âm,
đến báo mộng ... như Nguyễn Du.
Tất
cả những gì xẩy ra trên mặt đất Hàn đều bắn lên không trung. Hàn luôn luôn nối
kết hai yếu tố trăng (trên trời) và nước (dưới đất) với nhau để tạo thành một
khối, trong đó tất cả di chuyển theo chiều nổi của không gian chứ không theo
mặt bằng của trái đất.
Rồi
cả không gian cũng bị nhiễm bệnh cùng Hàn.
Trong
suốt thời gian ngắn ngủi sống trên trần, Hàn mang hai không gian thơ trong lục
phủ ngũ tạng : một không gian thổ huyết của bệnh tật, và một không gian
trong suốt như pha lê của hạnh phúc. Nhưng đặc biệt nhất ở Hàn là sự quy hồi
hạnh phúc.
Trong
đoạn sống sau cùng, thơ Hàn đã rời tất cả những đau thương hệ lụy, Hàn lại trở
về với không gian trong sáng xưa, bài Đây thôn Vỹ Dạ, làm mấy tháng
trước khi mất:
Sao
anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn
nắng hàng cau, nắng mới lên,
Vườn
ai mướt quá xanh như ngọc
Lá
trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió
theo lối gió, mây đường mây
Dòng
nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền
ai đậu bến Sông Trăng đó,
Có
chở trăng về kịp tối nay?
Mơ
khách đường xa khách đường xa,
Áo
em trắng quá nhìn không ra...
Ở
đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai
biết tình ai có đậm đà?
Bao
nhiêu đổi thay, bao nhiêu kinh hoàng đã đến với Hàn, từ Mùa xuân chín
đến Đây thôn Vỹ Dạ, nhưng thơ vẫn ướp hương thơm, vẫn trong không
gian thủa nào, nước vẫn ẩn trong thơ trong nhạc : Gió theo lối gió, mây
đường mây. Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay... Thuyền ai đậu bến Sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay? Một trong những người hiểu Hàn, thấu triệt âm
nhạc của Hàn không phải là người phê bình, mà là một nhạc sĩ : Phạm Duy.
Phạm Duy đã bắt được ý nhạc bay bổng và trong sáng của Hàn từ Tình quê,
đến Đây thôn Vỹ Dạ, ông đã theo Hàn trong những không gian kinh dị của
bệnh tật và bắt được hồn của Hàn trong Ave Maria. Trường ca Hàn Mặc Tử
của Phạm Duy là một tuyệt tác.
Thơ
Hàn bay lên thượng tầng khí quyển, đến cung Hằng, rồi dội xuống trần
gian, chạm vùng trần trụi nhất của nhục thể. Thơ Hàn mang màu mơ hồ,
huyền bí của trăng, một ánh trăng đục, là chất giao thoa giữa lỏng và đặc. Thơ
Hàn chính là sữa trăng, là những say sưa vọng cuồng xác thịt nơi chàng trai mới
lớn, đam mê nhục thể không dám nói, không dám làm trong đời sống, mà thể hiện
trong thơ qua môi giới của gió, trăng:
Bóng
nguyệt leo song rờ rẫm gối
Gió
thu lọt cửa cọ mài chăn
(Thức khuya)
Mới
lớn lên trăng đã thẹn thò.
Những
say mê đắm đuối, thèm muốn xác thịt nơi chàng trai nhút nhát, bẽn lẽn, cả thẹn,
tìm chỗ cao nhất để giấu đi, cho mọi người đừng biết: gửi lên trăng. Vì thế mà
thơ Hàn bay lên không gian, chứ không lắng xuống hay tản dài theo chiều đất.
Ngay cả sau này, khi bệnh tật đớn đau đến ngất đi, ngày một đến gần cõi chết,
thơ Hàn vẫn cứ phải bay lên. Nhờ cấu trúc không gian ấy mà Hàn đã tạo ra một
quang cảnh không thể có được ngoài cõi mộng.
Hàn đã là trăng trong Thức khuya để leo song vào cõi mộng với người yêu. Trăng trong Huyền ảo là trăng dậy thì, trăng mới lớn, trăng ao ước mê đắm nghĩ đến giây phút thần tiên. Trăng trong Bẽn lẽn là là đối tác tình yêu, là hiện thân xác thịt, là người thiếu nữ gợi cảm, là cám dỗ của trái cấm, nhưng tất cả vẫn chỉ có trong tưởng tượng, tình yêu xác thịt trong thơ Hàn là tưởng tượng:
Hàn đã là trăng trong Thức khuya để leo song vào cõi mộng với người yêu. Trăng trong Huyền ảo là trăng dậy thì, trăng mới lớn, trăng ao ước mê đắm nghĩ đến giây phút thần tiên. Trăng trong Bẽn lẽn là là đối tác tình yêu, là hiện thân xác thịt, là người thiếu nữ gợi cảm, là cám dỗ của trái cấm, nhưng tất cả vẫn chỉ có trong tưởng tượng, tình yêu xác thịt trong thơ Hàn là tưởng tượng:
Trăng
nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi
gió đông về để lả lơi.
Hoa
lá ngây tình không muốn động,
Lòng
em hồi hộp, chị Hằng ơi!
Trong
khóm vi lau rào rạt mãi:
Tiếng
lòng ai nói? sao im đi?
Ô
kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm,
Lộ
cái khuôn vàng dưới đáy khe...
Vô
tình để gió hôn lên má,
Em
sợ lang quân em biết được,
Nghi
ngờ tới cái tiết trinh em (Bẽn lẽn)
Sự
cám dỗ của xác thịt chỉ là tưởng tượng, cái tiết trinh của người phụ nữ trong
thơ chính là cái trinh tiết của Hàn. Bởi Hàn cho đến chết, dường như vẫn là cậu
trai tân. Hàn là vì sao lạ trên bầu trời đêm, thời gian sống quá ngắn không cho
Hàn kịp nếm đủ vị đời. Ở Sài gòn khi còn khoẻ, bị bạn bè ép dẫn đến xóm
bình khang, Hàn đã bỏ chạy, về nhà ốm đến phát sốt lên. Về Quy Nhơn, khi biết
mình mắc bệnh, «người tình» đến thăm, Hàn nài nỉ nhờ em cùng ngồi tiếp khách.
Khi
tất cả đều đã đi khỏi, cả người thân lẫn người tình, thơ Hàn vọng lên như những
tiếng nấc của một niềm trinh bên kia cõi sống:
Thu
héo nấc thành những tiếng khô
Một
vì sao lạ mọc phương mô ?
Người
thơ chưa thấy ra đời nhỉ ?
Trinh
bạch ai chôn tận đáy mồ ?.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét