THI SĨ PHẠM THIÊN THƯ-
Động hoa vàng miên man giấc mơ Việt
NGUYỄN THU TRÂN
- Sau những cơn bệnh thập tử nhất sinh (dạ dày, thấp khớp, sạn thận…), “giấu mình trong lá” một thời gian dài, thi sĩ Phạm Thiên Thư như bước vào một đời sống mới; ông đã tươi hơn, trẻ hơn so với tuổi bảy mươi của mình. Di chứng để lại sau bệnh tật qua những nét bút nguệch ngoạc của thi sĩ:
Ta mất
ngôn ngữ - ngôn ngữ mới
Hỏi Phật
Quan Âm… chấm chấm gì?
Vô
thanh-hữu thanh
thành-
thánh- thảnh
Hai
người cùng hỏi- vô vi chi!
Trong hành
trình đi tìm ngôn ngữ mới thay thế những ngôn ngữ “có nghĩ đến hàng thế kỷ cũng
không ra”, ông vẫn hân hoan chắt chiu những ý nghĩ, câu từ trong quyển sổ bé
xíu nơi túi áo để tiếp tục bổ sung cho 6 bộ tự điển đã ít nhiều đi vào kỷ lục
Việt Nam…
Nhà thơ Phạm Thiên Thư trong buổi trò chuyện với nhà văn
Nguyễn Thu Trân
* Kính chào thi
sĩ của Động hoa vàng, ông có thể
cho biết những điều đã được ghi thành kỷ lục VN từ 6 bộ tự điển kể trên
là gì?
- Tháng 8.2007, Vietbooks đã xác lập kỷ lục cho
tôi là người VN đầu tiên sáng tác tự điển cười bằng thơ với quyển Tự điển
cười (Tiếu liệu pháp) gồm 5.000 từ ngữ vui để “cười mà đẩy tâm bệnh”. Với
những khái niệm từ ngữ thông qua tư duy, tôi đã luôn cố gắng sao cho ngữ nghĩa
vừa trong suốt, vừa thấu hiểu, vừa buồn cười. Ví dụ như trong các kiểu chửi;
tôi đã đưa ra nhiều kiểu chửi như chửi ong óng, chửi ngọng nghịu, chửi mẹ đĩ… Riêng
khái niệm “chửi” đã có 180 kiểu, khái niệm “chết” có 200 kiểu, khái niệm “cười”
có 200 kiểu… Chẳng hạn như với từ CA, tôi định nghĩa như thế này:
Ca là miệng phát ra âm
điệu
CA là công an không thể
thiếu
Ca là anh cả- như đại ca
Đại ca gặp CA- là cắp
chiếu (tù)
Bên cạnh đó, tôi còn có tự
điển cười, tự điển đời, tự điển ý đẹp, uyên ngôn… Chỉ riêng quyển uyên ngôn đã
“chở” 50 ngàn câu; trong khi đó, châm ngôn Việt Nam chỉ có 10 ngàn câu!
* Dường như ý định
lập kỷ lục về câu chữ đã có trong chàng trai Phạm Kim Long (Phạm Thiên Thư- NV)
từ những ngày còn mài mòn đũng quần ở Trường trung học Văn Lang vào những năm
cuối của thập niên 1960 tại Sài Gòn?
- Đúng vậy, trong tôi luôn
háo hức và đầy tinh thần dân tộc. Tuổi trẻ tôi luôn ước ao làm một điều gì đó,
để người ta nghe thấy và bảo rằng, chuyện đó-con người đó chỉ có ở Việt Nam.
Bằng tinh thần này, đến nay sự nghiệp làm thơ của tôi đã có 126 ngàn câu lục
bát, trong khi đó sử thi Ấn Độ chỉ có 124 ngàn câu; hậu Truyện Kiều, Đoạn
trường vô thanh của tôi làm hơn cụ Nguyễn Tiên Điền 20 câu lục bát…
* Nghe nói Động hoa vàng đẹp như mơ của nhà thơ với 100 đoản
thi cũng được sáng tác trên tinh thần này?
- Vâng, tôi ra mắt tập
thơ Động hoa vàng năm 1971. Thời buổi đó, lối sống thanh thiếu niên
Sài Gòn nói riêng, miền Nam nói chung rất “Mỹ hoá”. Tôi viết Động hoa vàng
từ giấc mơ Việt, một giấc mơ khẽ khàng rất Việt:
Đường
về hái nụ mù sa
Đưa theo dài một nương cà tím thôi
Thôi thì em chẳng yêu tôi
Đọc Động hoa vàng,
cảm với Động hoa vàng, chắc hẳn bạn sẽ thấy hạnh phúc vì mình là người
Việt Nam.
* Từ Động hoa vàng, người yêu thơ Phạm Thiên Thư cũng
mờ mờ ảo ảo với “tu sĩ lãng mạn” Thích Tuệ Không bởi những dòng tự bạch:
Hỏi
con vạc đậu bờ kinh
Cớ sao lận đận cái hình không hư
Vạc rằng thưa bác Thiên Thư
Mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ…
Thưa, ở đây là nhà
thơ hay nhà sư ỡm ờ?
- Cả hai, từ ỡm ờ ở đây
có nghĩa tôi ra đi từ đời và trưởng thành từ đạo. Trong tôi, đạo và đời là một.
Trong 9 năm ở chùa (1964-1973), tôi- tức nhà sư Thích Tuệ Không đã tiếp cận tư
tưởng nhà Phật và triết lý Phật giáo là phần lớn tinh thần sáng tác của tôi.
Triết lý Phật giáo cũng không ngoài những hạnh phúc, khổ đau của con người. Một
đời sống hoà bình, thanh thản với cái thiện luôn đẩy lùi cái ác… cũng là mục
đích thơ Phạm Thiên Thư hướng đến. Phật giáo khi hòa nhập vào cuộc sống thì đã
trở thành một giá trị văn hóa chứ không đơn thuần là tôn giáo.
* Trong thời gian nương
nhờ cửa Phật, một loạt các bộ kinh đã được Phạm Thiên Thư thi hóa như chuyển Kinh Kim cươngthành tập thơ Qua suối mây hồng,
Kinh Hiền ngu thành tập thơ Hội Hoa đàm… ngẫu hứng giữa đạo
và đời ở đây được giải thích như thế nào, thưa nhà thơ?
- Tôi nghĩ đó là con
đường kinh Phật đi vào cuộc sống con người một cách tự nhiên nhất! Mà như tôi
đã nói, đời và đạo có nhiều điều gần nhau lắm. Thơ thi hóa kinh Phật của tôi
thường bắt đầu từ những giấc mơ đẹp, hướng đến những điều lành và giản dị! Tôi
muốn mọi người sau khi đọc Kinh ngọc, Kinh Thơ, Kinh Hiền…
của tôi sẽ được sống trong dòng sinh lực không gian vô tận, dung hòa mọi tư
tưởng nhân sinh:
Chẳng
nương bè trúc ngọc
Vượt qua suối mây hồng
Con chim vô lượng kiếp
Về tha trái Nhãn không
* Vì sao cậu học trò
Phạm Kim Long lại trở thành nhà sư Thích Tuệ Không?
- Tôi sinh năm 1940,
quê Thái Bình nhưng đã là người Sài Gòn từ năm 1954. Thời sinh viên mê văn
chương thơ phú, tôi sáng lập và tụ tập bạn bè vào Học hội Hồ Quý Ly. Việc lập
hội đoàn này khiến tôi luôn bị cảnh sát chế độ Sài Gòn chú ý, thế là để được
yên thân, tôi đã ẩn vào chùa để tu. “Tu bất đắc dĩ” mà ngộ ra kinh Phật, ngộ ra
chuyện thiền rất nhanh nên tôi thấy mình là người may mắn, tôi sớm nhận ra
điều, nhà chùa không phải là nơi tôi nương náu để qua cơn bỉ cực mà là một cõi
riêng, rất riêng để tôi tha hồ bay bổng từ những điều ngộ ra chính mình và cuộc
sống chung quanh:
Sớm
nay thông ngó mây về
Non xa xõa mái tóc thề chơi vơi
Cành thông vươn dậy ngó trời
Tự nhiên bật tiếng cả cười hoan ca
* Ngoài chuyện thi hóa
kinh Phật và viết tự điển, nhà thơ Phạm Thiên Thư còn có những thi phẩm đã đi
vào lòng người bởi duyên nợ cùng nhạc sĩ tài danh Phạm Duy với Ngày xưa Hoàng Thị, Đưa em tìm động hoa vàng,
Em lễ chùa này… Duyên nợ đã đẩy đưa như thế nào, thưa nhà thơ?
- Hai mươi lăm tuổi ở
Sài Gòn, tôi đã là một nhà nghiên cứu thiền được nhiều người biết đến. Trong số
những người mê tôi vì mê thiền có ông Nguyễn Đức Quỳnh - nhà văn, nhà chính trị
nổi tiếng lúc bấy giờ. Ông Quỳnh đã “mai mối” tôi cho nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ
đã “đặt hàng” tôi mười bài Đạo ca, tôi vắt óc viết trong… hai ngày! Tiếp theo
đó là tập trường thi Động hoa vàng được nhiều người biết đến với nhạc
phẩm Đưa em tìm động hoa vàng, rồi cứ theo đó mà ông Duy
xướng tôi tùy. Thời này, thơ tôi cũng được nhiều nhạc sĩ danh tiếng khác để mắt
đến bằng sự ra đời của các nhạc phẩm Như cánh chim bay (Cung
Tiến), Đôi mắt thuyền độc mộc (Võ Tá Hân), Động hoa vàng
(Trần Quang Long)… Sự hứng khởi giữa nhạc và thơ đã khiến tôi tích lũy được một
gia tài gồm 10 thi phẩm: Huyền ngôn xanh, Những lời thược dược,
Ngày xưa người tình…
* Còn chuyện diễm
tình của thi sĩ họ Phạm với cô Hoàng Thị Ngọ dáng em nho nhỏ - trong cõi xa vời
của Ngày xưa Hoàng Thị?
- Cũng có đấy, nàng đi
trước, tôi lẽo đẽo theo sau mỗi buổi tan trường giữa phố Sài Gòn xưa rợp bóng
cây xanh… Chuyện nhẹ nhàng như gió như mây tuổi học trò ấy mà…
* Sau kinh kệ, thơ nhạc…
rồi đến hớt tóc, bán tạp hóa, bán cà phê kiếm sống; thi sĩ Phạm Thiên Thư còn
nổi tiếng nhờ tài chữa bệnh?
- Tôi nghiệm ra phương
pháp chữa bệnh điện công Phathata từ những cách tham thiền, vận nội công và
yoga. Những tiền đề này tôi tích lũy được từ những ngày học võ (bố tôi là thầy
thuốc dạy võ) và thời gian tầm sư học đạo ở Thất Sơn (Bảy Núi-An Giang); cũng
không thể không kể thêm ở đây sự kết hợp với võ Bình Định, gồng Châu Quý, thiền
Mật Tông… Phathata là phương pháp tập luyện nhân điện; tự điều chỉnh bế tắc,
rối loạn cơ thể và tâm lý thông qua khả năng siêu ý thức. Tôi cũng đã tự chữa
bệnh cho mình bằng phương pháp Phathata (có kết hợp cùng các phương pháp khác).
Hiện tôi vẫn tham gia câu lạc bộ chữa bệnh miễn phí cho mọi người bằng phương
pháp Phathata…
* Nhà thơ nghiệm ra điều
gì sau sự thành công và dâu bễ giữa đời và thơ của Phạm Kim Long - Phạm Thiên
Thư?
- Đời sống một con
người từ lúc cất tiếng khóc oe oe chào đời đến khi trăng xế bên thềm thành hay
bại là do 5 “kiểu gien” quyết định: gien cha mẹ (di truyền), “gien” môi trường
(tác động xã hội), luân hồi (thiện ác), quyết chí vươn lên (bản thân giác ngộ, phấn
đấu) và kiếp người (số phận). Trong đó, phần bản thân giác ngộ, phấn đấu là
quan trọng. Tôi đã có những tháng ngày giác ngộ, phấn đấu đến khổ sở nhưng chưa
bao giờ mệt mỏi dẫu bao vật đổi sao dời…
Ngày của thi sĩ Phạm Thiên
Thư bây giờ cũng nhẹ nhàng như gió như mây. Dưới bóng cây xanh đầy hoa nắng của
quán cà phê gia đình với tên gọi Hoa Vàng trên đường Hồng Lĩnh (quận
10-TP.HCM), ông thường ngồi hàng giờ để hoài niệm về màu hoa vàng cùng bóng áo
thoát tục năm xưa, để thấy mình đã sống bảy mươi năm không hoài không phí giữa
nhịp đời sắc sắc không không:
Gối tay nệm cỏ nằm say
Gõ vào đá tụng một vài
biển kinh
Mai sau trời đất thái
bình
Về lưng núi phượng một
mình cuồng ca…
Nguồn: Đương Thời
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét