Bản nhạc được gửi vào vũ trụ
Khi Tử Kì lâm bệnh chết, Bá Nha chỉ gẩy
đàn thêm một lần duy nhất trước mộ người tri âm rồi đập đàn vào tảng đá, không
bao giờ cầm đến cây đàn nữa.
Bản nhạc: Cao sơn lưu thủy
Nghệ sĩ: Quản Bình Hồ
Tinh hoa nhân loại
Đàn cổ
cầm (Gu Qin) đã được Unesco công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế
giới. Ban đầu đàn có tên là Dao Cầm, gồm 5 dây: Cung – Thương – Dốc – Chủy – Vũ,
sau thêm hai dây Văn – Võ, nên còn gọi là Thất huyền cầm (tức đàn 7 dây).
Cổ cầm
ngày càng có ít người học, nhưng những người yêu thích thì không ai không
biết đến “Thập đại kiệt tác cổ cầm Trung Hoa” với Cao sơn lưu thủy, Quảng lăng
tản cầm khúc, Bình sa lạc nhạn, Thập diện mai phục, Ngư tiều vấn đáp, Tịch
dương tiêu cổ, Hán cung thu nguyệt, Mai hoa tam lộng, Dương xuân bạch tuyết và
Hồ gia thập bát phách. Mỗi một khúc nhạc đều gắn liền với một điển tích khác
nhau.
Đàn Cổ cầm. Ảnh: sztuka.chinese.p
|
Trong
“Thập đại kiệt tác” ấy, khúc nhạc gây ấn tượng cho nhiều người nhất là “Cao sơn
lưu thủy” (高山流水). Khúc nhạc được danh cầm Quản
Bình Hồ (1879 - 1967) - người chơi đàn Cổ cầm hay nhất thế kỷ 20 chơi. Bản nhạc
cũng được thu băng và gửi vào vũ trụ, coi như là tinh hoa của nhân loại.
Tình tri kỉ Bá Nha - Tử Kì
“Cao
sơn lưu thủy” gắn liền với điển tích Sở Bá Nha- Chung Tử Kì. Tương truyền, hơn
hai nghìn năm trước Bá Nha hay đàn bản “Cao sơn lưu thủy”, nhưng chỉ có một
mình Chung Tử Kì biết thưởng thức. Một lần Bá Nha gảy đàn, lòng nhớ tới núi
cao, Tử Kì liền bảo “Thiện tại hồ cổ cầm, nguy nguy hồ nhược Thái Sơn” (Đánh
đàn hay thay, vòi vọi tựa Thái Sơn). Đến lúc Bá Nha nghĩ đến vực sâu, Tử Kì
nhận ngay ra rằng “Đăng đăng hồ nhược lưu thủy” (Cuồn cuộn như nước chảy).
Khi Tử
Kì lâm bệnh chết, Bá Nha chỉ gẩy đàn thêm một lần duy nhất trước mộ người tri
âm rồi đập đàn vào tảng đá, không bao giờ cầm đến cây đàn nữa.
Bản
“Cao sơn lưu thủy” lưu truyền ngày nay chủ yếu là bản do Xuyên Phái đời Thanh
gia công và phát triển, được Đường Di Minh đời nhà Thanh ghi lại trong “Thiên
văn các cầm phổ” (năm 1876). Ông đã hết sức phát huy các thủ pháp cổn, phất,
xước, chú, khiến hình tượng núi cao, nước chảy thêm rạng rỡ, nên mới có danh
xưng “Thất thập nhị cổn phất lưu thủy”.
Bản nhạc này được phân thành 9
đoạn và một vĩ thanh, cụ thể là 4 bộ phận lớn: khởi, thừa, chuyển hợp. Phần
khởi (đoạn 1 đến đoạn 3), thông qua giai điệu thâm trầm, hồn hậu, uyển chuyển
và âm bội sáng rõ, đã biểu hiện được những cảnh tượng kì diệu của núi cao trùng
điệp, suối chảy khe sâu một cách rõ ràng, tươi sáng.
Phần thừa (4 và 5), dàn trải không dứt, giai điệu đậm màu sắc ca hát, giống như những giọt nước chảy trong khe suối tập hợp thành dòng nước mạnh. Phần chuyển (6 và 7), nhờ vào khúc điệu có thứ tự bội âm đi xuống và âm giới của 5 thanh đi lên, âm hóa với xung động mạnh, kết hợp với các thủ pháp cổn, phất, như một dòng thác chảy ào ạt xuống, dồn vào sông biển cuộn trào sóng lớn. Phần hợp (đoạn 8 và vĩ thanh), vận dụng một phần âm điệu của phần thừa và phần chuyển tạo thành hiệu quả hô ứng, tạo nên dư âm như sóng trào trên sông biển, khiến người nghe có thể cảm nhận dư vị hết sức ngỡ ngàng và thú vị.
Phần thừa (4 và 5), dàn trải không dứt, giai điệu đậm màu sắc ca hát, giống như những giọt nước chảy trong khe suối tập hợp thành dòng nước mạnh. Phần chuyển (6 và 7), nhờ vào khúc điệu có thứ tự bội âm đi xuống và âm giới của 5 thanh đi lên, âm hóa với xung động mạnh, kết hợp với các thủ pháp cổn, phất, như một dòng thác chảy ào ạt xuống, dồn vào sông biển cuộn trào sóng lớn. Phần hợp (đoạn 8 và vĩ thanh), vận dụng một phần âm điệu của phần thừa và phần chuyển tạo thành hiệu quả hô ứng, tạo nên dư âm như sóng trào trên sông biển, khiến người nghe có thể cảm nhận dư vị hết sức ngỡ ngàng và thú vị.

Lưu thủy hữu tình
Lắng
nghe khúc nhạc, nếu thật sự không nhập tâm và tinh tế thì chúng ta không thể
thấy hết cái hay cái đẹp của nó.
Khúc
nhạc bắt đầu bằng những thanh âm nhẹ nhàng và chậm rãi. Tiếng đàn đưa ta đến
một không gian cao, rộng và thoáng đãng và mơ màng. Ta như thấy lại hình ảnh Bá
Nha năm nào đang đưa người theo điệu nhạc, đôi mắt nhắm lại và mơ về một nơi xa
nào đó. Chỉ có đôi tay người nghệ sĩ lướt nhẹ trên phím đàn khi trầm khi bổng,
dặt dìu, êm ái. Xung quanh là con sông chảy hiền hòa ôm vào lòng nó những dãy
núi mù sương… Có lẽ đây là không gian mà ta gọi là "Cao sơn".
Rồi
bỗng nhiên, nhịp đàn nhanh dần, réo rắt những dịp dồn dập nhau. Tưởng chừng như
cả trái tim người nghệ sĩ cũng rung lên với nhịp thở gấp gáp. Ta lại như thấy
mình giữa một khung cảnh sơn thủy hữu tình, một ngọn núi xa xa, một dòng thác
chảy mạnh mẽ. Dòng nước cuộn sóng tung bọt trắng xóa. Con nước chảy từ trên cao
hòa mình vào dòng nước lớn. Khung cảnh ấy có thể hình dung là "lưu
thủy". Kết lại bản nhạc vẫn là những điệu âm réo rắt rồi nhỏ dần nhỏ dần
như dòng chảy đang dần về một nơi xa lắm.
Bản
nhạc không chỉ hay ở giai điệu mà còn đẹp như một bức tranh hữu tình. Đôi khi
giữa dòng đời hối hả, dành ra một khoảng để lắng nghe "Cao sơn lưu
thủy", ta lại thấy tiếng đàn như rót vào tim những thanh âm trong trẻo
nhất. Một chút gì đó hoàn toàn thanh khiết không vướng bụi trần. Đó là tinh hoa
của trời đất, của tình người tri cố, của những tâm hồn cô độc tìm thấy nhau
giữa cuộc đời nhiều oan trái. Để rồi mỗi sáng thức dậy sẽ lại thấy lòng mình
thanh thản và nhẹ tênh. Và lại thấy như có tiếng đàn vẫn réo rắt, du dương ngay
trong chính tầm hồn mình…
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét