Nhạc sĩ Phạm Duy sinh trưởng ở Hà Nội (5.10.1921), một thời
gian dài sinh sống ở miền Nam và nước ngoài, tác phẩm của ông gắn bó với nhiều
địa phương trong cả nước. Do hoàn cảnh lịch sử, ông đã có những quan hệ đặc biệt
với Huế, với vùng núi Ngự sông Hương. Người hâm mộ tân nhạc Việt Nam - âm nhạc
Phạm Duy đều biết thế nhưng chưa có dịp biết cụ thể như thế nào. Năm nay, nhân
ông được phép về ở hẳn tại quê nhà, nhà văn - nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân đã
có cuộc trò chuyện rất lý thú với ông về vấn đề trên sau đây.
Nguyễn Đắc Xuân (NĐX).- Thưa anh Phạm Duy, trong lời ca
bài Tình Ca của anh có câu: "Biết ái tình ở dòng sông Hương". Vậy anh
biết sông Hương, biết Huế từ khi nào?
Nhạc sĩ Phạm Duy (NSPD).- Hồi còn nhỏ sống với gia đình ở
Hà Nội, tôi biết hương vị Huế (làm sao mà biết ái tình sớm quá được) qua tiếng
đàn tranh của bà Ấm Chung, một người Huế mà mẹ tôi cho ở trong nhà, hoặc qua giọng
ca Huế của Cô Nhơn trong đĩa hát Béka loại 78 tours, với những bài Nam Bình,
Nam Ai. Tôi rất thích nhạc Huế nên tôi ước mơ có dịp vào thăm viếng Huế.
NĐX.- Rồi sau đó ước mơ của anh đã trở thành hiện thực
vào năm nào, trong trường hợp nào ?
NSPD.- Đầu năm 1944, tôi theo gánh hát Đức Huy-Charlot Miều
đi diễn từ Bắc vào Nam, và ước mơ đến Huế của tôi đã trở thành hiện thực. Gặp
buổi đầu Xuân, trời mưa phùn, cảnh sắc Kinh đô Huế thơ mộng làm sao. Gánh hát đến
ở và diễn tại Rạp Tân Tân quay mặt ra đường Paul Bert (Trần Hưng Đạo ngày nay)
trước chợ Đông Ba bên bờ Bắc sông Hương.
NĐX.- Anh hưởng (enjoy) được cái gì ở Huế đầu tiên ?
NSPD.- Được nằm trong khoang thuyền nghe ca Huế từ đêm cho đến
sáng. Trước đây chỉ được nghe ca Huế qua đĩa Béka giờ được trực tiếp nghe tiếng
đàn của Vĩnh Phan, giọng ca của Bích Liễu (vợ Vĩnh Phan), Minh Mẫn rót ngay vào
tai mình những hò Mái nhì, hò Mái đẩy, những lý Tình tang, những Nam Bình, Nam
Ai trong khung cảnh nên thơ của sông Hương về đêm thật quá tuyệt vời !
NĐX.- Những bài ca Huế ấy sau nầy có ảnh hưởng gì đến cuộc
đời hoạt động âm nhạc của anh không ?
NSPD.- Làm sao không ! Khi tôi tới Huế, tôi có dịp được biết
gần như hầu hết dân ca cổ truyền ở Quảng Trị, Thừa Thiên, như Hò Giã Gạo, Hò Nện,
Hò Ô, Hò Thai v.v...Những câu hò làm tôi rung động, như :
Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời không thấy người thương...
. . . . . . . . . .
Mãn mùa tóc gạo rơm khô,
Bạn về quê bạn biết nơi mô kiếm tìm?
Núi che mặt trời không thấy người thương...
. . . . . . . . . .
Mãn mùa tóc gạo rơm khô,
Bạn về quê bạn biết nơi mô kiếm tìm?
Lúc còn bé, nghe ca Huế tôi không phân biệt được hơi Bắc, hơi
Nam. Khi vào Huế tôi mới nhận ra được sự lơ lớ của cung bực mà sau đó tôi gọi
là "Ngũ cung lơ lớ" trong ca / hò xứ Huế. Các cung bực của ca hò Huế
có những cao độ (intervalles) non hơn hoặc già hơn các cung bực trong âm giai
Tây phương hay âm giai ở miền Bắc (Hơi Bắc thuộc loại Ngũ cung đúng). Do đó những
câu hò kể trên quyến rũ tôi ngay lập tức. Khám phá được "sự lơ lớ" ấy
giúp tôi viết ra nốt nhạc các bài ca Huế một cách khoa học hơn những người đi
trước như cụ Hoàng Yến trong loạt bài đàn ca Huế đăng trong BAVH mà các nhà
nghiên cứu âm nhạc Huế đều biết cả. Âm nhạc nói chung và ca Huế nói riêng đã có
một ảnh hưởng lớn đến cuộc đời sáng tác âm nhạc của tôi.
NĐX.- Anh có còn nhớ những những nghệ sĩ đàn ca Huế lúc ấy
?
NSPD.- Nhớ nhiều lắm chứ ! Trong lúc học hỏi về nhạc cổ truyền
ở Huế tôi may mắn được gặp và thân với các nhạc sĩ Vĩnh Phan, Bửu Lộc .v.v. đặc
biệt là có ông Ngũ Đại Vĩnh Trân, con vua Thành Thái, anh ruột vua Duy Tân. Những
người Hoàng phái nầy yêu âm nhạc với một tâm hồn phóng khoáng rất nghệ sĩ. Về
sau nhiều người thân với tôi như Bửu Lộc, Vĩnh Phan... Bây giờ thì các cụ ấy đã
qui tiên cả rồi. Thương lắm.
NĐX.- Đầu năm 1944, ở Huế đã có hoạt động tân nhạc
chưa, thưa anh ?
NSPD.- Có rồi. Trong số khán thính giả đến nghe tôi hát Buồn
Tàn Thu ở rạp Tân Tân có các nhạc sĩ như Ngô Ganh, Văn Giảng, Nguyễn Đình
Thị, Lê Quang Nhạc v.v...Sau các buổi diễn chúng tôi có trao đổi kinh nghiệm,
tài liệu giữa ca sĩ chuyên nghiệp và các nhạc sĩ nghiệp dư ở miền núi Ngự sông
Hương. Tôi có thêm các bài nhạc mới như Hương Giang Dạ Khúc của Lưu Hữu
Phước, Trên Sông Hương, Bướm Hoa, Đêm Đông của Nguyễn Văn Thương. Tôi
đã hát ngay những bài nầy trên sân khấu rạp hát Tân Tân và được Ban nhạc Tây
trong gánh hát Charlot Miều đệm. Khán thính giả Huế thích lắm.
NĐX.- Còn hoạt động của các ngành nghệ thuật khác ?
NSPD.- Hoạt động văn nghệ ở Huế lúc ấy cũng hào hứng lắm,
không thua gì ngoài Bắc, trong Nam đâu. Dù sao Huế cũng là đất Kinh đô đấy chứ
! Vũ Đức Duy, người đi tiên phong trong làng thoại kịch, đã dựng vở thoại kịch
phóng tác từ phim Ben Hur - một chuyện cổ La Mã, rất nổi tiếng. Rồi đoàn hát
Kim Sanh (nghe đâu thành lập từ năm 1938), của hai anh em ông Hoàng Trọng Thước
và Hoàng Trọng Khanh - em của bà Đoan Huy Hoàng Thái hậu (tức bà Từ Cung -
Hoàng Thị Cúc) hoạt động sôi nổi lắm. Đường lối nghệ thuật của Đoàn hát Kim
Sanh giống như các đoàn hát Cải Lương ở trong Nam, chỉ khác ở chỗ về phần âm nhạc
họ không dùng những bản ca nằm trong nhạc mục của sân khấu miền Nam mà dùng
toàn những điệu ca Huế.
NĐX.- Là một người hoạt động nghệ thuật, anh nghĩ về Huế
như thế nào ?
NSPD.- Đối với tôi, Huế luôn luôn là cái nôi của nghệ
thuật. Thượng lưu trí thức đều có mặt ở Huế. Các môn khác tôi không dám nói, về
âm nhạc, Huế là cái nôi, cái tổ của âm nhạc,
Đường thượng chi nhạc, đường hạ chi nhạc đều có ở Huế. Vì là đất của nhà vua nên nhà vua triệu về đây những người giỏi âm nhạc nhất nước. Nhà vua có tiền cho người đi học ở những nơi cần học. Cái nhà hát bộ đầu tiên của nước Việt Nam - Duyệt Thị Đường, chỉ có ở Huế, rồi Minh Khiêm Đường, Cửu Tư Đài... đều ở Huế. Người soạn tuồng hay nhất nước là ông Đào Tấn cũng hoạt động và nổi tiếng từ Huế. Những vở tuồng lớn nhất nướcVạn Bửu Trình Tường diễn hàng trăm đêm, Quần Phương Hiến Thụy diễn gần 50 đêm đều được soạn ở Huế. Cái nhà thờ dành cho ngành Hát Bội cả nước - Thành Bình Tự Đường - cũng chỉ có ở Huế. Còn vô số hoạt động âm nhạc, hoạt động Hát bội của các ông hoàng, bà chúa chúng ta vẫn chưa nghiên cứu hết. Chính vì thế mà ngày nay Ca nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại là chuyện rất xứng đáng.
Đường thượng chi nhạc, đường hạ chi nhạc đều có ở Huế. Vì là đất của nhà vua nên nhà vua triệu về đây những người giỏi âm nhạc nhất nước. Nhà vua có tiền cho người đi học ở những nơi cần học. Cái nhà hát bộ đầu tiên của nước Việt Nam - Duyệt Thị Đường, chỉ có ở Huế, rồi Minh Khiêm Đường, Cửu Tư Đài... đều ở Huế. Người soạn tuồng hay nhất nước là ông Đào Tấn cũng hoạt động và nổi tiếng từ Huế. Những vở tuồng lớn nhất nướcVạn Bửu Trình Tường diễn hàng trăm đêm, Quần Phương Hiến Thụy diễn gần 50 đêm đều được soạn ở Huế. Cái nhà thờ dành cho ngành Hát Bội cả nước - Thành Bình Tự Đường - cũng chỉ có ở Huế. Còn vô số hoạt động âm nhạc, hoạt động Hát bội của các ông hoàng, bà chúa chúng ta vẫn chưa nghiên cứu hết. Chính vì thế mà ngày nay Ca nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại là chuyện rất xứng đáng.
NĐX.- Ở trên anh có nói "Âm nhạc nói chung và
ca Huế nói riêng đã có một ảnh hưởng lớn đến cuộc đời sáng tác âm nhạc"của
anh. Xin anh cho biết cụ thể nó đã ảnh hưởng đến sáng tác của anh như thế nào ?
NSPD.- Trong lần gặp gỡ đầu tiên với chiếc nôi của âm nhạc Việt
Nam là Thành phố Huế, tôi đã học hỏi được rất nhiều về dân ca và âm nhạc cổ
truyền. Tôi khám phá ra sự phong phú của nhạc ngữ Việt Nam qua hệ thống âm giai
đặc biệt để rồi sẽ dễ dàng viết ra nhiều bài hát mang âm hưởng Huế như bài Về
Miền Trung, nhiều đoản khúc như Ai vô xứ Huế Thì Vô, Nước Non
Ngàn Dặm Ra Đi trong Trường ca Con Đường Cái Quan, và Sông
Vùi Chôn Mẹ trong Trường ca Mẹ Việt Nam sau nầy.
NĐX.- Vâng, thưa anh. Trước những năm năm mươi tôi còn
là một cậu bé nông dân sống trong núi rừng Đà Lạt. Trong não trạng của tôi vốn
có một chút âm nhạc Huế của ông nội tôi và mẹ tôi trao cho từ lúc tôi còn nằm
nôi, không nhớ bằng con đường nào, tôi đã biết hát bài Về Miền Trung của anh.
Và, tôi rất mê, vì nó gần gũi với tôi quá ! Xin anh vui lòng cho biết anh đã
sáng tác bài Về Miền Trung trong trường hợp nào ?
NSPD.- Đây là một câu chuyện dài hết sức thú vị. Có thể nói
là một kỷ niệm lớn, hào hùng nhất trong cuộc đời sáng tác âm nhạc của tôi. Tôi
đã kể sơ qua trong hồi ký. Nhưng nếu muốn viết cho đầy đủ chuyện nầy thì phải
viết một cuốn sách. Nhân đây tôi xin nói qua một chút là như thế nầy: Năm 1948,
tôi là nhạc sĩ trong đoàn Văn nghệ của Trung đoàn 304 đóng ở Thanh Hoá, được tướng
Nguyễn Sơn cử vào phía Nam nơi mệnh danh là "Bình Trị Thiên khói lửa".
Cùng đi có anh Bửu Tiến (nhà soạn kịch),
Vĩnh Cường (ca sĩ) và cô Ngọc Khanh (em gái của nhạc sĩ Ngọc Bích) và một số đội viên khác. Chuyến đi lịch sử nầy là một thử thách chưa từng có đối với tôi như phải trải qua cả tháng trời lội suối, trèo đèo mệt nhọc, đi qua vùng địch đóng nguy hiểm đến tính mạng, bệnh tật sốt rét, ghẻ lở, đói khát với trăm ngàn thử thách, khó khăn không lường trước được. Nhưng đáp lại, chuyến đi nầy rất hào hùng, thú vị, gây cho tôi nhiều cảm xúc để sáng tác. Đi qua quê nghèo Quảng Bình tôi soạn được bài Bao Giờ Anh Lấy Được Đồn Tây, sau nầy đổi thành Quê Nghèo như nhiều người còn hát. Đi qua Quảng Trị tôi soạn được bài Bà Mẹ Gio Linh cũng bất hủ. Cuối cùng tôi đến chiến khu Huế gặp ông Hà Văn Lâu, Hoàng Trọng Khanh mà tôi đã quen từ hồi mới vào Huế năm 1944. Ở chiến khu Thừa Thiên một thời gian, tôi được tách khỏi đoàn văn nghệ, về sống với đồng bào ở các huyện phía Bắc Huế. Căn nhà nơi tôi ở lại nằm cạnh con sông Ô Lâu nước chảy êm đềm. Hằng đêm, tôi được mời đi hát cho cán bộ, bộ đội, đồng bào nghe. Và, tôi cũng được nghe dân hát "Tình về Đại Lược/ Duyên ngược Kim Long/ Tới đây là chỗ rẽ của lòng/ Gặp nhau còn biết trên sông bến nào ?". Bài Về Miền Trung ra đời trong khung cảnh đó. Năm 2002 các bạn Huế có đưa tôi về thăm lại nơi nầy. Cảm động lắm.
Vĩnh Cường (ca sĩ) và cô Ngọc Khanh (em gái của nhạc sĩ Ngọc Bích) và một số đội viên khác. Chuyến đi lịch sử nầy là một thử thách chưa từng có đối với tôi như phải trải qua cả tháng trời lội suối, trèo đèo mệt nhọc, đi qua vùng địch đóng nguy hiểm đến tính mạng, bệnh tật sốt rét, ghẻ lở, đói khát với trăm ngàn thử thách, khó khăn không lường trước được. Nhưng đáp lại, chuyến đi nầy rất hào hùng, thú vị, gây cho tôi nhiều cảm xúc để sáng tác. Đi qua quê nghèo Quảng Bình tôi soạn được bài Bao Giờ Anh Lấy Được Đồn Tây, sau nầy đổi thành Quê Nghèo như nhiều người còn hát. Đi qua Quảng Trị tôi soạn được bài Bà Mẹ Gio Linh cũng bất hủ. Cuối cùng tôi đến chiến khu Huế gặp ông Hà Văn Lâu, Hoàng Trọng Khanh mà tôi đã quen từ hồi mới vào Huế năm 1944. Ở chiến khu Thừa Thiên một thời gian, tôi được tách khỏi đoàn văn nghệ, về sống với đồng bào ở các huyện phía Bắc Huế. Căn nhà nơi tôi ở lại nằm cạnh con sông Ô Lâu nước chảy êm đềm. Hằng đêm, tôi được mời đi hát cho cán bộ, bộ đội, đồng bào nghe. Và, tôi cũng được nghe dân hát "Tình về Đại Lược/ Duyên ngược Kim Long/ Tới đây là chỗ rẽ của lòng/ Gặp nhau còn biết trên sông bến nào ?". Bài Về Miền Trung ra đời trong khung cảnh đó. Năm 2002 các bạn Huế có đưa tôi về thăm lại nơi nầy. Cảm động lắm.
NĐX.- Xin anh nói rõ thêm về cái chất nhạc Huế trong bài
Về Miền Trung. Cái chất nhạc đó đã làm cho người miền Trung, trong đó có tôi,
mê nó nhưng không phân tích được!.
NSPD.- Với sự hiểu biết của tôi về nhạc cổ truyền của Huế,
tôi thử vận dụng một cách đơn sơ vào bài Bao Giờ Anh Lấy Được Đồn Tây. Khi
vào Huế, có điều kiện thời gian và cảm xúc sâu hơn, tôi phát triển mạnh cái
thang âm lơ lớ của các điệu hò, điệu hát Huế vào bài Về Miền Trung. Nhưng
khác với các bài hát cổ truyền Nam Bình, Nam Ai than vãn, chỉ có một tiết điệu
chậm buồn, bài Về Miền Trung (với ba tiết điệu khác nhau) nhạc và lời
mạnh mẽ hùng dũng nhằm động viên tinh thần chống giặc của toàn dân lúc ấy.
"Về miền Trung / Còn chờ mong núi về đồng xanh/ Một chiều nao đốt lửa rực
đô thành (Tiêu thổ kháng chiến mà !)/ Tay trong tay dắt nhau về quê
hương cũ/ Không than van, không sầu nhớ". Lúc đó khó khăn vô cùng, nhưng lạc
quan yêu đời, tin tưởng kháng chiến sẽ thắng lợi đến như thế thật cũng lạ !
NĐX.- Anh có còn nhớ lúc ấy anh đã được mời đi hát ở những
đâu tại vùng nông thôn Thừa Thiên Huế không ?
NSPD.- Nhớ nhưng không thể nào nhớ hết. Tôi nhớ có lần được
đưa vào hát ở cả Thanh Thủy Chánh, Vỹ Dạ thuộc vùng ven đô, gặp nhiều nhân sĩ
trí thức ở Huế ra nghe, thú vị, hào hứng lắm.
NĐX.- Vâng. Nhiều cán bộ biết anh hát lúc đó nay còn sống
đã kể cho tôi nghe chuyện đó. Như vậy cho đến năm 1948, anh đã có hai lần gắn
bó với Huế hết sức sâu sắc. Lần đầu vào năm 1944 vào Huế với gánh hát Charlot
Miều để đi "hành nghề" ca sĩ và học âm nhạc cổ truyền Huế, lần thứ
hai năm 1948, anh vào Huế với tư cách một nghệ sĩ đi phục vụ đất nước, phục vụ
cách mạng. Đến năm 1953, vào thành, anh viết bài Tình Ca trong đó có câu
"Biết ái tình ở dòng sông Hương". Vậy anh biết "chuyện ấy" ở
Huế vào lần vào Huế nào ? "Người ấy" là ai ? Sau nầy anh có dịp nào gặp
lại không ? Và, nay ...?
NSPD.- (Cười hả hê) Chưa ai hỏi tôi câu nầy bao giờ. Chuyện của
tôi, tôi trả lời không có gì khó cả. Nhưng với tư cách là một nhà Huế học như
anh, tôi nghĩ là anh đã biết, đã có các câu trả lời chính xác rồi. Nhưng đã nên
công bố những điều ấy lúc nầy chưa ? Với cuộc đời trên 85 tuổi của tôi, với năm
bảy "cuộc tình", gặp gỡ nhiều người gốc Việt, gốc Tàu, gốc Tây, quan
niệm về chuyện " biết ái tình" của tôi nó rộng lắm.
NĐX.- Nhưng hẹp lại với "con gái Huế" thì anh
quan niệm như thế nào ?
NSPD.- Từ khi biết Huế (1944) cho đến khi tôi đã yêu bà Thái
Hằng rồi thành vợ chồng (1948), tôi vẫn ước mơ có một người tình xứ Huế. Con
gái Huế, lẽ dĩ nhiên là đẹp rồi. Cái mà tôi thích nhất là người đàn bà xứ Huế
còn giữ được nhiều nữ tính. Cái nữ tính ấy lại được nuôi dưỡng trong khung cảnh
nên thơ của vùng có nhiều đền đài lăng tẩm núi Ngự sông Hương làm cho nó có một
sức hấp dẫn mạnh đối với loại người có nhiều "đàn ông tính" như tôi.
Theo tôi, không một nơi nào trên cái nước Việt Nam nầy có người phụ nữ được sống
trong cái môi trường văn hoá thơ mộng sâu sắc như thế cả. Bởi vậy, Hàn Mặc Tử mới
hỏi "Sao anh không về chơi thôn Vỹ ?" Có anh chàng văn thi nhạc
sĩ Việt nào mà không ước mơ đến Huế, không ước mơ có một mối tình ở Huế ? Lưu
Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Dương Thiệu Tước, Xuân Diệu, Huy Cận, Văn Cao, Nguyễn
Bính, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Phạm Hầu ...và tôi chắc trước kia các cụ Nguyễn
Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Công Trứ, Đào Tấn...cũng thế \!
NĐX.- Nhưng có lẽ không ai có nhiều"mối tình"
với Huế bằng anh?
NSPD.- Nhà Huế học mà nghĩ như thế, có thể sai mà không sai.
NĐX.- Cuối cùng, cái hấp dẫn của Huế nói chung và người
đẹp xứ Huế nói riêng đã để lại gì trong tác phẩm của anh ?
NSPD.- Tôi vẫn chơi thân với nhiều người bạn Huế, còn đến
Huế nhiều lần, còn "bị" tác động, còn sáng tác, còn viết nên chưa thể
trả lời ngay được.Xin nhờ một nhà nghiên cứu âm nhạc trong tương lai trả lời hộ
tôi vậy.
NĐX.-Thưa nhạc sĩ Phạm Duy. Sau bao cuộc chia cắt bể dâu,
"bên ni bên nớ", hôm nay được ngồi trò chuyện với anh giữa Thành phố
Hồ Chí Minh thanh bình như thế nầy, thật hết sức quý báu. Mặc dù còn khối chuyện
người Huế muốn biết về anh nhưng không thể làm mất thì giờ anh thêm nữa. Trước
khi tạm biệt anh để về lại Huế, tôi xin đại diện cho những người Huế yêu nhạc
Phạm Duy cám ơn anh đã cho phép tôi thực hiện cuộc trò chuyện lý thú nầy. Xin
chúc anh sức khoẻ, hưởng cái tết đầu tiên trong ngôi nhà riêng của anh sau 30
năm xa quê. Mong sẽ lại được đón anh ra chơi Huế và được thưởng thức những sáng
tác mới của anh, đặc biệt những sáng tác anh soạn khi nhớ Huế. Tạm biệt anh.
Tp HCM, cuối năm 2005
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét