Nhạc mới hay là tân nhạc hay là nhạc cải cách là một loại nhạc
xuất hiện vào khoảng năm 1928. Ðó là một thể nhạc lấy nhạc ngữ Tây phương làm nền
tảng (thang âm thất cung do-ré-mi-fa-sol-la-si-do, hòa âm phối khí, nhạc khí
Tây phương vv…).
I. Giai đoạn tượng hình (1928-1937)
Nói cho đúng thì sự phát xuất đầu tiên của âm nhạc cải cách
khởi xướng từ loại nhạc đàn tài tử trong Nam với những nhạc phẩm mới của thầy
ký Trần Quang Quờn khoảng trước thế chiến thứ nhứt (1914-1918)
Nghệ sĩ cải lương tiền phong Tư Chơi (tên thật là Huỳnh Thủ
Trung) đã sáng tác một số bài hát ta theo điệu tây như “Tiếng nhạn trong
sương”, “Hòa duyên”, đồng thời viết bài Việt cho một số bài Tây thịnh hành thời
đó như “Marinella” (trong vở tuồng Phũ Phàng). Một số bản nhạc Pháp được dịch
ra lời Việt như “Pouet Pouet ” (trong tuồng Tiếng Nói Trái Tim), “Tango
mystérieux ” (trong tuồng Ðóa Hoa Rừng), “La Madelon ” (trong tuồng Giọt Lệ
Chung Tình), vv..
Nghệ sĩ Bảy Nhiêu có sáng tác bài “Hoài Tình” trở thành một bản
rất được ưa chuộng . Năm 1930, đảng cộng sản Ðông Dương được thành lập và bài
ca của Ðình Như “Cùng Nhau Ði Hồng Binh” được sáng tác trong tù và đi liền với
phong trào kháng Pháp.
Có một số bản nhạc được viết ra trước thế chiến thứ hai như
“Bẽ Bàng” (1935), “Nghệ Sĩ Hành Khúc” (1936) của Lê Yên, “Bóng Ai Qua Thềm”
(1937) của Văn Chung, “Xuân Năm Xưa” (1936) của Lê Thương , “Biệt Ly” (1939) của
Doãn Mẫn, vv…
Vào khoảng năm 1937, phong trào “ái Tino” lên rất cao tại Việt
Nam. Trên làn sóng điện, trong rạp hát, tại các vũ trường, nơi tư nhân đâu đâu
cũng nghe những âm điệu du dương của nhạc sĩ Vincent Scotto qua giọng hát êm ả
của Tino Rossi.
II. Giai đoạn thành lập (1938-1945)
Phong trào chuyển theo hướng làm thay đổi sở thích của giới
trẻ. Trước mối nguy vọng Pháp và trong tinh thần bảo vệ nghệ thuật của dân tộc,
một số nhạc sĩ Việt Nam ra tay sáng tác những bản tân nhạc đầu tiên. Ðó là vào
năm 1938. Ở miền Bắc lúc ấy có Thẩm Oánh (định cư tại Hoa kỳ và từ trần năm
1996), Dương Thiệu Tước (từ trần năm 1998 tại Việt Nam), Trần Quang Ngọc, Lê
Thương (từ trần năm 1996 tại Việt Nam). Trong Nam thì có Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn
Xuân Khoát, Phạm Ðăng Hinh. Tháng 3, 1938, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên được chánh
phủ bảo hộ Pháp gởi ra Hà Nội để thuyết trình về âm nhạc cải cách hầu tạo một
phong trào mới.
Vào tháng 9, 1938, báo Ngày Nay đã góp công vào phong trào phổ
biến nhạc mới bằng cách đăng những bài tân nhạc đầu tiên. Từ năm 1938 tới 1942
báo Ngày Nay đã đăng “Bông Cúc Vàng”, “Kiếp Hoa” của Nguyễn Văn Tuyên, “Bình
Minh”, “Ðàn Xuân”của Nguyễn Xuân Khoát, “Khúc Yêu Ðương” của Thẩm Oánh, “Bản
Ðàn Xuân” của Lê Thương, “Ðám Mây Rừng” của Phạm Ðăng Hinh, “Ðường Trường” của
Trần Quang Ngọc. Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy có đăng bản “Con Thuyền Không Bến ” của
Ðặng Thế Phong.
Các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Trần Dư, Vũ Khánh,
Phạm Văn Nhượng cùng nhau thành lập nhóm MYOSOTIS. Trong nhóm này có hai xu hướng:
1. Sáng tác nhạc mới nhưng có âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm
Oánh chủ trương.
2. Sáng tác hoàn toàn theo nhạc ngữ Tây phương do Dương Thiệu
Tước cầm đầu.
Ít lâu sau, một nhóm khác gồm vài nhạc sĩ trẻ đầy nhiệt quyết
thành lập nhóm TRICEA gồm Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn. Nhóm này chịu ảnh hưởng
nhạc Trung Quốc lúc đầu, về sau phảng phất âm hưởng Âu châu và phải rả sớm.
Nhóm Ðồng Vọng ở Hải Phòng có các nhạc sĩ Hoàng Quý, Văn Cao, Canh Thân. Nhóm Ðồng
Vọng do Hoàng Quý điều khiển ra đời chuyên về nhạc hướng đạo lúc đầu và sau đó
tích cực đóng góp trong việc phổ biến nhạc mới.
Lê Thương lúc đó giảng dạy tại trường trung học Lê Lợi. Một số
tráng sinh hướng đạo có những tên đi vào lịch sử âm nhạc Việt Nam như Canh
Thân, Phạm Ngữ, Hoàng Quý đã sáng tác những bài nhạc đáng kể như “Nhớ Quê
Hương” (Phạm Ngữ), và “Chùa Hương” (Hoàng Quý).
Tỉnh Nam Ðịnh chứng kiến sự chào đờì của hai bài “Ðêm Thu” và
“Con Thuyền Không Bến” của nhạc sĩ đoản mệnh Ðặng Thế Phong.
Hai bài nhạc Nhựt “Hà Nhựt Quân Tái Lai” (Bao giờ anh trở lại)
và “Shina No Yoru” (Ðêm Trung Hoa) trích trong phim “Ðêm Trung Hoa” (Nuit de
Chine) đã gợi hứng cho nhạc sĩ Việt Nam thời bấy giờ sáng tác nhạc Việt, tạo
thành phong trào “Người Việt hát nhạc Việt”.
1939: thế chiến thứ hai bùng nổ tại Âu Châu. Những bài “Việt
Nam Bất Diệt” của Hoàng Gia Linh, “Trên Sông Bạch Ðằng” của Hoàng Quý, “Tiếng Gọi
Sinh Viên” của Lưu Hữu Phước đã làm sống dậy tinh thần yêu nước của tuổi trẻ.
Tân nhạc trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ đã đóng một vai
trò đáng kể và từ đó phát triển rất mạnh. Phong trào tân nhạc đã được đưa lên
cao tột đỉnh với Tổng Hội Sinh Viên trong giai đoạn lịch sử 1943-1945. Nhạc sĩ
đi liền với Tổng Hội Sinh Viên không ai khác hơn là Lưu Hữu Phước. Những bài
hát làm ra đúng thời, đúng lúc và vẫn còn sống mãi trong tim đa số người Việt
ngày hôm nay (nhứt là những người vào tuổi ngũ tuần trở đi).
Những ai đã sống trong thời kháng chiến chống Pháp vẫn còn nhớ
những bài gợi lên những giai đoạn lịch sử Việt Nam như “Ải Chi Lăng”, “Bạch Ðằng
Giang”, “Hội Nghị Diên Hồng”, hay những bài khích động thanh niên như “Tiếng Gọi
Sinh Viên” (đổi thành Tiếng Gọi Thanh Niên, và cũng là bài quốc ca của thời Ngô
Ðình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu). “Lên Ðàng” hay với thiếu nữ như “Thiếu Nữ Việt
Nam”, hay những bài gắn liền với lịch sử như “Kinh Cầu Nguyện”, “Hồn Tử Sĩ”
(bài mà trong bất cứ chương trình đấu tranh của người Việt di tản vẫn còn dùng
để tưởng nhớ các chiến sĩ tử trận). Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là người đầu tiên
sáng tác nhạc ca kịch trong kịch thơ “Tục Lụy” của Khái Hưng và Thế Lữ và tiểu
ca kịch “Con Thỏ Ngọc”. Nguyễn Ðình Thi sáng tác bài “Diệt Phát Xít” thúc đẩy
dân chúng nổi lên chống Nhựt Bổn.
Lúc bấy giờ ở tại Sài Gòn, chỉ lẻ tẻ vài hội hoạt động về nhạc
cải cách. Hội Nam Kỳ Ðức Trí Thể Dục mời bà nhạc sĩ dương cầm Louise Nguyễn Văn
Tỵ (tên thật là Thái Thị Lang) trình diễn piano với những bài do bà sáng tác.
Nhạc sĩ quá cố Võ Ðức Thu trình bày nhạc phẩm “Việt Nam Tân Ðiệu”. Từ Bắc tới
Nam, nhạc sĩ tân nhạc bắt đầu mọc lên như nấm.
Trong giai đoạn 1944-1945, nhiều bài bạn tôn giáo như “A Di
Ðà Phật” của Thẩm Oánh được hát nhân ngày khánh thành trùng tu chùa quan sứ Hà
Nội vào cuối năm 1942 hay bài “Sám Hối” và nhiều ca khúc khác của Nguyễn Hữu Ba
và Văn Giảng sáng tác tại Huế. Nhạc đoàn Lê Bão Tịnh gồm các nhạc sĩ Hùng Lân,
Hải Linh, Tâm Bảo, Thiên Phụng đã sáng tác tập Cung Thánh gồm hàng trăm bài
Thánh ca Thiên chúa giáo (1944-1945).
Giai đoạn 1945-1946 đánh dấu cuộc chiến tranh bùng nổ tại Việt
Nam vừa sau trận thế chiến thứ hai. Các nhạc sĩ lo sáng tác nhạc chiến đấu như
Văn Cao với “Tiến Quân Ca” (trở thành Quốc Ca từ
năm 1945, và được dùng làm Quốc Ca của Việt Nam Xã hội chủ nghĩa từ năm 1976),
“Chiến Sĩ Việt Nam “, như Ðỗ Nhuận với “Nhớ Chiến Khu “, như Phạm Duy với “Chiến
Sĩ Vô Danh “, “Xuất Quân “, như Lưu Hữu Phước với “Ðoàn Quân Ma “, như Phan Huỳnh
Ðiểu với “Giải Phóng Quân “, như Thẩm Oánh với “Việt Nam Phục Quốc“. Song song
vơí những sáng tác chiến đấu, tình cảm vẫn còn rung động trong nguồn hứng qua
các bài “Thiên Thai” (Văn Cao), “Ðêm Ðông ” (Nguyễn Văn Thương), “Xuân và Tuổi
Trẻ” (La Hối), “Mùa Ðông Binh Sĩ ” (Phan Huỳnh Ðiểu), “Dạ Khúc” (Nguyễn Mỹ
Ca), “Ðêm Tàn Bến Ngự” (Dương Thiệu Tước), ”Cây Ðàn Bỏ Quên” (Phạm Duy), “Mơ
Hoa” (Hoàng Giác), “Cô Lái Ðò” (Thẩm Oánh), “Suối Mơ” (Văn Cao), “Hẹn Một
Ngày Về” (Lê Hữu Mục), “Ði Chơi Chùa Hương” (Trần Văn Khê/ Nguyễn Nhược Pháp).
Các nhạc sĩ đã dùng nhạc để diễn tả những bài thơ lãng mạn của
Đoàn Phú Tứ (“Màu Thời Gian” nhạc Nguyễn Xuân Khoát), của Lưu Trọng Lư (“Tiếng
Thu” nhạc Phạm Duy), của Nguyễn Bính (“Cô Lái Đò” nhạc Nguyễn Đình Phúc). Các
đề tài lãng mạn của Tự Lực Văn Đoàn tạo nguồn hứng cho một vài nhạc phẩm như
“Bướm Hoa” của Nguyễn Văn Thương, hay “Cô Hái Hoa” của Hoàng Giác.
Trần Quang Hải
Trăng Mờ Bên Suối – Ngọc Hạ
Suối Mơ – Ngọc Hạ
Con Thuyền Không Bến – Ngọc Hạ
Đêm Tàn Bến Ngự – Ngọc Hạ:
Giọt Mưa Thu – Ngọc Hạ
Buồn Tàn Thu – Ngọc Hạ
Buồn Tàn Thu – Thái Thanh
Thiên Thai – Thái Thanh
Chùa Hương – Thái Thanh
Hòn Vọng Phu 1, 2, 3 – Thái Thanh – Hoàng Oanh ngâm thơ
Hòn Vọng Phu 1, 2, 3 – Linh Phượng, Nga Mi, Trần Lãng Minh
(lead), Trần Đình Hoành (guitar bass), Thanh Hà (sáo), Nguyên Thao (guitar
rhythm), Cao Dương (organ)
Đêm Thu – Ngọc Lan
Bến Xuân – Cao Minh
Trương Chi – Ánh Tuyết
Suối Mơ – Hồng Nhung
Cô Hái Mơ - Huyền Trang
Cây Đàn Bỏ Quên – Quang Lê
Tình Kỹ Nữ – Ý Lan
Dư Âm - Tuấn Ngọc
Đêm Đông – Bạch Yến:
Cô Láng Giềng - Sĩ Phú
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét