Anh cho em mùa xuân, nụ hoa vàng mới nở
Hôm nay mình giới thiệu đến
các bạn các ca khúc “Lá Rơi Bên Thềm”, “Anh Cho Em Mùa Xuân” (phổ thơ Kim
Tuấn), “Hoa Bướm Ngày Xưa” của Nhạc sĩ Nguyễn Hiền.
Nhạc sĩ Nguyễn Hiền sinh
năm 1927 tại Hà Nội. Bắt đầu học nhạc từ năm 1935, ông đã học và sử dụng dương
cầm, vĩ cầm, phong cầm. Năm 18 tuổi, ông phổ nhạc cho bài thơ “Người Em Nhỏ” của
Thiệu Giang, một người bạn của ông. Năm 1950, ông là nhạc trưởng của ban nhạc “Hotel
de Paris” tại Hà Nội.
Ông lập gia đình năm 1953 rồi
vào miền Nam Việt Nam một năm sau đó, làm việc tại các Bộ Thông Tin, Chiêu Hồi
và Xây Dựng Nông Thôn. Ông từng làm Chủ Sự Phòng Chương Trình Đài Phát Thanh
Sài Gòn; Phụ tá giám đốc Đài Truyền Hình Việt Nam.
Năm 1988, ông và gia đình
sang định cư tại Hoa Kỳ theo diện ODP. Ông cùng cố nhạc sĩ Ngọc Bích và một số
người bạn lập ra ban “Saigon Band” ở Little Saigon, Westminster,
California, Hoa Kỳ.
Năm 2004 ông được Trung tâm
Thúy Nga mời đến Toronto, Canada để thực hiện Đại nhạc hội Paris By Night 74 với
chủ đề “Hoa Bướm Ngày Xưa” nhằm vinh danh ông cùng với hai nhạc sĩ
khác là Huỳnh Anh và Song Ngọc.
Nguyễn Hiền qua đời vào hồi
10 giờ 15 phút sáng ngày 23 tháng 12 năm 2005 (giờ California, Hoa Kỳ) vì bệnh
ung thư phổi.
– “Anh cho em mùa xuân, nụ
hoa vàng mới nở…”
– Nhạc sĩ Nguyễn Hiền, một dung hợp điển hình giữa tài năng và nhân cách
– Nhạc sĩ Nguyễn Hiền, một dung hợp điển hình giữa tài năng và nhân cách
Cùng với 5 clips các ca khúc “Lá
Rơi Bên Thềm”, “Anh Cho Em Mùa Xuân”, “Hoa Bướm Ngày Xưa” do các ca sĩ xưa
và nay diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
“Anh cho em mùa xuân, nụ hoa vàng mới nở…”
(Hà Đình Nguyên – Việt Báo)
Trong nhạc mục chủ đề mùa
xuân thì ca khúc Anh cho em mùa xuân (thơ Kim Tuấn, nhạc Nguyễn Hiền) là bản nhạc
không thể thiếu. Điệu tango vui tươi, rộn rã - ca từ trong sáng, yêu đời: “Anh
cho em mùa xuân, nụ hoa vàng mới nở, chiều đông nào nhung nhớ. Đường lao xao lá
đầy, chân bước mòn vỉa phố, mắt buồn vin ngọn cây…”. Dù đã ra đời cách đây hơn
40 năm nhưng Anh cho em mùa xuân vẫn được rất nhiều người ưa thích - kể cả giới
trẻ hiện đại.
Về hoàn cảnh ra đời của Anh
cho em mùa xuân, nhạc sĩ Nguyễn Hiền tiết lộ: “Đó là ngày mùng 5 Tết 1962, tôi
đi làm trong một không gian vẫn còn hơi hướm tết. Đến sở, trên bàn làm việc của
tôi có một tập thơ còn thơm mùi giấy mới. Đó là tập 40 bài thơ của các nhà thơ
Vương Đức Lệ, Định Giang, Kim Tuấn và một người nữa tôi không nhớ tên. Tôi lần
giở đọc qua từng bài và bắt gặp bài thơ Nụ hoa vàng ngày xuân. Đó là một bài
thơ ngũ ngôn đầy ắp hình tượng và rất giàu cảm xúc:
“…Anh cho em mùa xuân. Mùa
xuân này tất cả. Lộc non vừa trẩy lá. Thơ còn thương cõi đời. Con chim mừng ríu
rít. Vui khói chiều chơi vơi. Đất mẹ gầy có lúa. Đồng ta xanh mấy mùa. Con trâu
từ đồng cỏ. Khua mõ về rộn khua. Ngoài đê diều thẳng cánh. Trong xóm vang
chuông chùa. Chiều in vào bóng núi. Câu hát hò vẳng đưa. Tóc mẹ già mây bạc.
Trăng chờ trong liếp dừa. Con sông dài mấy nhánh. Cát trắng bờ quê xưa…”.
Vậy là chỉ trong buổi sáng
hôm đó tôi phổ nhạc xong bài thơ. Điều buồn cười là tôi lấy luôn 3 câu thơ đầu
tiên phổ thành 1 câu nhạc (Anh cho em mùa xuân, nụ hoa vàng mới nở, chiều đông
nào nhung nhớ…) thấy rất “ngọt” nên cứ thế mà phát triển bài thơ thành ca khúc.
Tôi lấy câu thơ đầu tiên để đặt tên cho ca khúc này. Sáng hôm sau có một nhà
thơ còn rất trẻ xưng tên là Kim Tuấn đến gặp tôi, hỏi:“Có gửi cho nhạc sĩ một tập
thơ, không biết đã nhận chưa?”. Tôi trả lời: “Nhận được rồi và riêng bài
thơ Nụ hoa vàng ngày xuân của Kim Tuấn thì tôi đã phổ thành ca khúc”. Kim Tuấn
rất ngạc nhiên và sau khi nghe tôi hát thì anh rất vui. Tình cờ ông Giám đốc
Hãng đĩa Asia cũng có mặt. Ông ấy lấy bài hát giao cho ca sĩ Lệ Thanh thâu đĩa
và sau đó hát trên đài phát thanh. Từ đó, tôi và Kim Tuấn đã có một mối quan hệ - mối duyên văn nghệ rất tốt đẹp…3 ngày trước khi tôi lên máy bay sang định cư
ở Mỹ (1988), Kim Tuấn rủ tôi đi uống cà phê, chúng tôi đã chia tay nhau thật
vui vẻ. Ai ngờ, đó là lần cuối cùng của chúng tôi…”.
Nguyễn Hiền sinh năm 1927,
ông là một trong những nhạc sĩ sinh trưởng và thành danh ở Hà Nội: Hoàng Trọng,
Hoàng Dương, Văn Phụng, Nguyễn Văn Khánh…Ca khúc đầu tay của ông là Người em
nhỏ (phổ thơ Nguyễn Thiệu Giang) để dành tặng cho người yêu - người vợ cho đến
hết đời của ông là Nguyễn Thị An (cháu gọi nhà thơ Tú Mỡ là chú). Hai ông bà chỉ
biết mặt nhau trước ngày cưới 2 tuần bởi mối lương duyên của họ là do cha mẹ
đôi bên (vốn là bạn bè) đính ước. Nhưng…: “Vừa thấy anh ấy là tôi yêu
ngay. Anh sinh viên Trường Bưởi ấy trông rất đẹp trai và… nghệ sĩ !”. Đến cuối
đời, bà An vẫn còn nhớ cái thuở ban đầu lưu luyến ấy và ngày cưới của họ:
22.2.1953.
Những nhạc phẩm tiêu biểu của
Nguyễn Hiền: Hai mươi câu của tuổi trẻ (thơ Song Hồ), Huyền Trân công
chúa, Giã từ thơ ngây, Tìm đâu, Về bến xưa (lời Thiện Huấn), Buồn ga nhỏ (viết
chung với Minh Kỳ), Hoa bướm ngày xưa (lời Thanh Nam), Lá thư gởi mẹ, Mái tóc dạ
hương, Gởi một cánh chim, Tiếng hát học trò, Lá rơi bên thềm, Hồ Than Thở,
Hương thề, Ngàn năm mây bay…Dòng nhạc của Nguyễn Hiền nhẹ nhàng, êm đềm thật gần
với lòng người… Ông vừa từ trần ngày 23.12.2005, thọ 79 tuổi.
Nhà thơ Kim Tuấn
Kim Tuấn tên thật là Vĩnh
Khuê, sinh năm 1940 tại Huế - hậu duệ đời thứ 5 của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm.
Trải qua thời thơ ấu ở Phan Thiết rồi vào Sài Gòn vừa đi làm vừa đi học, làm
thơ từ đầu thập niên 1960 và là thi sĩ có thơ được phổ nhạc nhiều nhất trước
1975: 17 bài (trong đó có 2 bài rất nổi tiếng là Anh cho em mùa xuân – Nguyễn
Hiền phổ nhạc và Những bước chân âm thầm do nhạc sĩ Y Vân phổ từ bài thơ có tên
Kỷ niệm). Về bài thơ Nụ hoa vàng ngày xuân, Kim Tuấn cho biết: “Tôi làm
bài thơ này để nhớ về quê mẹ: Hà Tĩnh - vùng đất sỏi đá nhiều hơn cơm gạo với
mơ ước “Đất mẹ gầy có lúa” - có lúa chứ không phải cỏ lúa như nhiều người vẫn
hát nhầm (cỏ lúa thì phải nhổ đi chứ ai lại mơ ước có thêm!). Bài thơ này tôi
sáng tác vào đầu thập niên 1960, sau đó in trong tập Ngàn thương (chung với Định
Giang) và được nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ thành ca khúc. Đã có nhiều ca sĩ thể hiện
bài hát này nhưng tôi thích giọng ca của Hà Thanh hơn cả và điều làm tôi ray rứt
là cho tới nay vẫn chưa nói được với nữ ca sĩ này một lời cám ơn…” Kim
Tuấn đã thổ lộ với người viết bài này như vậy trong một cuộc phỏng vấn vào
trung tuần tháng 11.2002 tại văn phòng Trường dạy tiếng Anh và dạy nghề Thăng
Long - do anh sáng lập và làm hiệu trưởng. Anh đột ngột qua đời vào lúc 1 giờ
ngày 11.9.2003 bởi căn bệnh nhồi máu cơ tim.
Nhạc sĩ Nguyễn Hiền, một dung hợp điển hình giữa tài năng và
nhân cách
Trong chừng mực nào đó, dường
như đám đông, dân tộc nào, cũng dành cho giới văn nghệ sĩ một cái “lề”, một đường
biên rộng, đủ cho họ sống một đời sống tương đối phóng khoáng hơn người bình
thường.
Tại sao?
Tại sao?
Có thể từ lòng yêu mến tác
phẩm hay, tài năng một văn nghệ sĩ mà đám đông đã mặc nhiên có cái nhìn bao
dung, rộng lượng với các văn nghệ sĩ.
Cũng vẫn thuộc về đám đông,
có người lý trí hơn, cho rằng, để giới văn nghệ sĩ có thể cung ứng những sản phẩm
tinh thần giá trị, hay để họ phát huy được, rực rỡ hơn tài năng trời cho họ, xã
hội nên dành cho họ một vài biệt lệ, miễn không quá đáng…
Có người còn nhiệt tình hơn,
khi lý luận rằng: Nếu bắt nhà thơ A, nhà văn B, nhạc sĩ C. phải là có đời sống
của một công chức chính ngạch, thuộc loại “thượng hạng ngoại hạng”, hay một nhà
đạo đức, một nhà mô phạm gương mẫu… thì làm sao họ có thể cho chúng ta những
tác phẩm thơ mộng, lãng mạn như chúng ta đã từng được thụ hưởng?
Chẳng biết có phải từ những
cái nhìn ưu ái đặc biệt vừa kể mà, người Việt Nam dường đã có chung một kết luận
mang đầy tính thông cảm, rằng: “có tài, có tật”.
Tóm gọn lại, trong sinh hoạt
xã hội, đôi khi bạn có một vài hành vi vượt ngoài khuôn khổ đời thường, thí dụ
cờ bạc, hút sách, trai gái, sống bừa bãi, cẩu thả…nhưng, nếu được đám đông
“phê” cho mấy chữ, đại loại”văn nghệ sĩ mà”… thì kể như bạn đã được tha thứ hoặc,
chí ít cũng được giảm khinh.
Lời phê ấy, giống như một thứ
giấy phép “đi trong giờ giới nghiêm” vậy.
Nhìn vào sinh hoạt của giới
văn nghệ sĩ thời tiền chiến, người ta thấy có nhiều nhà văn, nhà thơ nghiện thuốc
phiện, mê đi hát cô đầu…
Thế hệ kế tiếp, tính từ điểm
mốc 1954, ở miền nam Việt Nam, số văn nghệ sĩ nghiện thuốc phiện không nhiều.
Nhưng số người thích đỏ đen và, những cuộc phiêu lưu tình ái…lại có phần gia
tăng…
Tuy nhiên không phải tất cả
những văn nghệ sĩ được đám đông công nhận tài năng, tên tuổi đều là những người
“sử dụng” cái giấy phép “đi trong giờ giới nghiêm” mà xã hội đã ưu ái ban, cấp
cho họ.
Chẳng những thế, trong số
này, còn có nhiều văn nghệ sĩ vẫn sáng tác được những tác phẩm giá trị mà, đời
riêng của họ, lại rất nghiêm chỉnh, mẫu mực. Phẩm chất đời sống xã hội của họ,
có phần cao hơn người bình thường nữa.
Một trong những văn nghệ sĩ
có được cùng lúc hai mặt tưởng chừng đối chọi nhau kia, là cố nhạc sĩ Nguyễn Hiền.
Lần đầu tiên tôi được gặp nhạc
sĩ Nguyễn Hiền vào khoảng đầu năm 1965 ở tiệm phở 44, trước đài phát thanh
Saigòn, cuối đường Phan Đình Phùng, cùng với thi sĩ Đinh Hùng. (Tiệm này lấy số
nhà 44, làm tên.)
Thời gian đó, tôi đang viết
cuốn “Năm sắc diện, năm định mệnh” mà, cố thi sĩ Đinh Hùng là 1 trong 5 người
tôi chọn, nên chúng tôi thường gặp nhau.
Tôi muốn mở một cái ngoặc ở
đây, để nói rõ hơn rằng: Trong số những văn nghệ sĩ miền Nam không bao giờ lái
xe, dù xe hai bánh hay xe hơi, không phải là cố nhà văn Mai Thảo.
Thời gian tham gia kháng chiến
nhà văn Mai Thảo đã từng phải đạp xe từ khu này qua khu khác. Thời gian chủ
trương tạp chí sáng Tạo ở Saigòn, ông có xe hơi riêng và tự lái. Chỉ sau khi
bán đi chiếc Austin, lúc đó, tác giả “Đêm giã từ Hà Nội” mới dùng tới phương tiện
xích lô…
Riêng thi sĩ Đinh Hùng thì
tuyệt đối không.
Thời gian ở trong vùng kháng
chiến, tác giả “Mê hồn ca” cũng chưa một lần đạp xe đạp. Di cư vào miền Nam,
ông cũng chưa một lần tự lái xe. Dù cho công việc buộc ông phải thường xuyên xê
dịch.
Phương tiện di chuyển quen
thuộc nhất của tác giả “Mộng dưới hoa” là: Anh em văn nghệ hoặc, sử dụng taxi,
xích lô…
Trở lại với tiệm phở 44, giữa
khi chúng tôi đang ăn thì nhạc sĩ Nguyễn Hiền bước vào. Đó là một người đàn ông
nho nhã, trắng trẻo. Ông có dáng dấp một nhà giáo nhiều hơn một nghệ sĩ đã có
nhiều năm chơi nhạc cho một số dancing nổi tiếng ở Hà Nội cũng như Saigòn.
Là bạn thân của nhau, nên
khi thấy bạn, thi sĩ Đinh Hùng gọi, như reo:
“Lại đây. Lại đây. Nguyễn Hiền.”
Rất từ tốn, người nhạc sĩ nổi
tiếng từ khi còn rất trẻ ở Hà Nội, với nhạc phẩm “Người em nhỏ”, phổ thơ Thiệu
Giang, bước lại bàn. Ông bắt tay chúng tôi. Ngồi xuống.
(Qua một bài viết của tác giả
VDA, gần đây, tôi mới biết họ Nguyễn sáng tác ca khúc “Người em nhỏ” nhằm tặng
người bạn đời của ông.)
Sau khi nghe thi sĩ Đinh
Hùng giới thiệu về tôi, họ Nguyễn bảo, ông tin cuộc đời có cái gọi là “hữu
duyên”!
Ông nhìn tôi, giải thích:
“Mấy ngày qua tôi có ý tìm
anh. Tôi vừa xin được địa chỉ và số điện thoại nơi làm việc của anh qua Mai Trường…”
Số là ông mới phổ nhạc xong
bài thơ “Khi người về” của tôi. Ông muốn đổi tên nó thành “Tiếng hát ru tôi”.
Ông nhấn mạnh, ông giữ được
gần như nguyên vẹn lời thơ và, kết luận, nếu tôi cũng đồng ý thì, bản nhạc sẽ
được trình bày nay mai trên đài phát thanh với nhan đề ấy.
Tôi nói, nhan đề ông chọn
cho ca khúc, có phần thơ hơn nhan đề chính. Tôi thích lắm, và:
“Chắc anh không biết, anh là
người thứ hai sau anh Mai Trường phổ nhạc thơ của tôi…”
Từ đấy, họ Nguyễn nói về
thơ, nồng nhiệt như một thi sĩ.
Ông kể:
“Có anh Đinh Hùng ở đây, anh
ấy biết, tôi rất thích thơ. Thơ trên báo hay thơ in thành sách…Hễ đến tay tôi
là tôi đều đọc hết. Tôi đọc rất kỹ những bài tôi thích…Tôi có thói quen chú ý
nhiều tới những động từ và tĩnh từ trong thơ…”
Thi sĩ Đinh Hùng chăm chú
nghe với những cái gật gù, như đắc ý về những nhận định của bạn ông.
Trước khi chia tay, để hai
người ngồi lại với nhau, tôi nói:
“Thưa anh, nếu được, xin anh
làm ơn cho tôi biết trước giờ phát bản nhạc để tôi đón nghe!”
Tác giả “Hoa bướm ngày xưa”
gật đầu. Ông rút trong túi, miếng giấy nhỏ, đọc lại số số điện thoại nơi tôi
làm việc…
Tôi không biết có phải tính
nghiêm túc, cẩn trọng (nhưng vẫn cởi mở của ông,) hay do chiếc cầu nối là thi
sĩ Đinh Hùng mà, chúng tôi đã có được một tình thân trong tương kính khá mau
chóng.
Đúng như những gì tôi cảm nhận
được về ông, từ gặp gỡ thứ nhất, mỗi lần ca khúc “Tiếng hát ru tôi” được thu
thanh, hoặc phát lại, ông đều tìm cách cho tôi biết.
Là một nhạc sĩ nổi tiếng,
nhưng họ Nguyễn cũng là con người của đời sống gia đình. Có thể vì thế , dù ở
cùng một thành phố với nhau, tôi chớ gặp ông ở những quán café, nhà hàng chúng
tôi hay la cà, thuở ấy. Mỗi khi muốn gặp ông, để nói một chuyện gì đó, tôi phải
điện thoại trước và, điểm hẹn thường là phở 44, trước giờ ông thu thanh.
Tuy nhiên, tác gỉa “Lá thư gửi
mẹ”, phổ từ thơ của Thái Thủy, cuối cùng, đã cho tôi một kỷ niệm vô cùng ý
nghĩa.
Tôi nhớ kỷ niệm này tới mức
mỗi khi bị hỏi về chuyện nhuận bút hay bản quyền tác phẩm, những ngày đầu cuộc
đời làm văn nghệ của mình, tôi đều nhắc lại, cũng như đã từng viết xuống.
Đó là sự kiện, bẵng đi một
thời gian không gặp tác giả “Mái tóc dạ hương” (thơ Đinh Hùng,) một buổi trưa,
nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhờ tôi chở ông từ café La Pagode về Đài Saigòn. Ngay
khi vừa cặp chiếc xe sát lề đường, trước cửa Đài, tôi nhác thấy nhạc sĩ Nguyễn
Hiền từ phía phở 44 băng qua.
Ông dơ tay nửa như chào, nửa
như muốn bảo đợi…
Bước lên lề, trước mặt Nguyễn
Đình Toàn, ông rút từ túi sau, một khoản tiền, bọc trong một miếng giấy trắng
(giống như đã chuẩn bị sẵn,) đưa cho tôi.
Ông nói:
“Một trung tâm băng nhạc nó
mới thu bài “Tiếng hát ru tôi”. Đây là phần tác quyền của anh”.
Ông không nói, tôi cũng
không hỏi số tiền tác quyền ông chia cho tôi là bao nhiêu. Điều đó, với tôi, thực
sự không quan trọng. Điều tôi cảm khích, tôi nhớ mãi, tựa hồ mới xẩy ra, chính
là cái cung cách cư xử, ăn ở của ông.
Cung cách như một truyền thống
văn hóa có tự bao đời của những người trí thức làm văn nghệ.
Không biết có phải vì sự việc
xẩy ra bất ngờ, hay vì một nguyên nhân nào khác, khiến tôi không nói thêm được
với ông lời nào, ngoài ba chữ “Cám ơn anh.”
Kể lại chuyện này, tôi chỉ
muốn nói tới nhân cách của họ Nguyễn.
Nhiều năm trước đây, nhà
hàng Tài Bửu (khi còn tọa lạc ở ngã tư đường Magnolia và Bolsa, thuộc thành phố
Westminster,) là nơi sinh thời, tác giả ca khúc “Anh cho em mùa xuân” (thơ Kim
Tuấn,) hay có những buổi sáng ngồi uống café với bằng hữu.
Trong những gặp gỡ này, mỗi
khi có dịp, tôi lại kể kỷ niệm trên, (trước mặt ông,) như một cố tình, bày tỏ
lòng quý trọng của cá nhân tôi, đối với ông. Người nhạc sĩ tài hoa, tới cuối đời,
vẫn giữ được cho mình, một nhân cách cao quý.
Lá Rơi Bên Thềm – Ca sĩ Mỹ
Thể
Lá Rơi Bên Thềm – Ca sĩ Trần
Thái Hoà
Anh Cho Em Mùa Xuân – Ca sĩ
Thủy Tiên
Anh Cho Em Mùa Xuân – Ca sĩ
Đàm Vĩnh Hưng
Anh Cho Em Mùa Xuân – Ca sĩ
Phan Đinh Tùng
Hoa Bướm Ngày Xưa – Ca sĩ
Trúc Mai
Hoa Bướm Ngày Xưa – Ca sĩ Trần
Thái Hoà, Như Quỳnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét