Không gian và thời gian nghệ thuật
của trường loạn Bình Định
1. Trường thơ loạn Bình Định trong phong trào thơ mới
1.1. Bình Định - Nơi phát tiết và thăng hoa của trường thơ loạn
Trong lịch sử văn học Việt Nam, chúng ta đã từng biết đến “Hội tao đàn” do vua Lê Thánh Tông làm chủ sóai vào cuối thế kỷ XV, rồi đến “Ngô Gia văn phái” của dòng họ Ngô Thì ở Hà Đông vào cuối thế kỷ XVIII. Bước vào đầu thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan đã xuất hiện rầm rộ nhiều tổ chức văn học như “Tự lực văn đoàn” (văn xuôi). Về thơ có phong trào Thơ Mới nở rộ từ Bắc chí Nam. Nhà phê bình Hoài Chân đã chia “làng thơ” Việt lúc ấy thành các “xóm thơ”như:“Xóm Sông Thương” (Bàng Bá Lân, Anh Thơ), “Xóm Tự Lực” ( Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận), “ Xóm Đông Phương” ( Lưu Trọng Lư, Thái Can), “ Xóm Huế” ( Nam Trân, Phan Văn Dật, Nguyễn Đình Thư)“ Xóm Bình Định” ( Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn), “Xóm Hà Tiên” ( Đông Hồ, Mộng Tuyết). Nhưng rồi tác giả cũng thừa nhận sự phức tạp: “ Trong các xóm, dân ngụ cư nhiều quá, không có gì là thuần nhất và đã chia xóm rồi lại phải đặt ra “ Trùm xóm” cũng lôi thôi”. Đó là chưa kể đến “ Xóm Xuân thu nhã tập”, “ Trường thơ Bạch Nga”, “ Nhóm Huy xuân”. Dù cho lúc bấy giờ, các thuật ngữ “ xóm” “ nhóm” “ trường” “ trường phái” còn được dùng chưa chặt chẽ, rất phóng túng nhưng cũng cho ta thấy các khuynh hướng, các tổ chức văn học ở nước ta đã được mùa đua nhau nảy nở, và trong các khu vườn Thơ Mới đầy hương sắc ấy, Trường thơ loạn Bình Định là một khu vườn thơ độc đáo nhất, khác thường nhất và bí ẩn, phức tạp nhất. Khu vườn thơ này đã nảy sinh và phát tiết thăng hoa ở vùng đất Bình Định- một vùng “ địa linh nhân kiệt” nổi danh của miền Nam Trung bộ.
Người Bình Định thường rất tự hào với danh tiếng “ Đất võ trời văn” hoặc “ Qui Nhơn là thành phố thi ca”. “ Đất võ” thì quá rõ và nổi tiếng với phong trào Tây Sơn- Nguyễn Huệ. Còn “ Trời văn”? Chính những tên tuổi văn nhân, thi nhân nổi tiếng như Đào Duy Từ, Đào Tấn, Hàn Mạc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn…đã làm nên “ Trời văn” ấy.
Trước hết nói về địa lý. Bình Định đã được tạo hóa ban tặng cho một vùng “ non nước hữu tình”. Những bãi biển cát vàng chạy suốt hàng trăm cấy số xen lẫn với những dãy núi đồi soi bóng xuống biển Đông. Nước biển xanh trong quanh năm sóng vỗ. Đặc biệt là ánh trăng xứ này có cái gì rất đặc biệt: rất sáng và lung linh “ ma quái”, huyền ảo. Hàn Mặc Tử và các bạn thơ rất yêu bãi biển và ánh trăng Qui Nhơn. Hoàng Diệp đã kể lại rằng: “Những đêm trăng sáng, màu trăng sao hoang dại và huyền hoặc thường quyến rũ chúng tôi đi ngủ biển. Chế Lan Viên, Yến Lan và tôi thường hội họp ở nhà Hàn Mặc Tử rồi đem mền đi ngủ ở bãi biển chỉ cách nhà chúng tôi độ 200 thước. Những đêm ấy là những đêm mưa tầm tã, lụt ngập trời. Nhưng mưa ở đây là mưa sao, lụt ở đây là lụt trăng. Chúng tôi bị ánh trăng vây bủa tứ bề, chúng tôi nằm chung ôm choàng lấy nhau dưới bóng trăng sao và ngoài kia muôn trùng sóng vỗ.”[ 9; 15]. Chúng ta hiểu vì sao mà thơ Hàn, thơ Chế tràn ngập ánh trăng.
Về văn hóa, xứ sở này có “bóng dừa xanh in bóng Tháp Chàm”, những Tháp Chàm rêu phong cổ kính luôn luôn gợi nhớ về một lịch sử oai hùng của một dân tộc nay đã bị tiêu vong. Chính Hoàng Diệp đã kể lại nỗi ám ảnh của những Tháp Chàm trong lòng Chế Lan Viên, Yến Lan và Hàn Mặc Tử. Rồi thành Đồ Bàn, thành Hoàng Đế, nơi các thành viên của Trường thơ loạn thường gặp nhau để đàm đạo thơ ca đã in đậm vào tâm khảm và khơi nguồn tưởng tượng bất tận cho các thi nhân thời ấy. Cho đến nay người Bình Định vẫn lưu truyền câu ca dao:
Chiều chiều mây kéo về kinh
Ếch kêu giếng loạn thảm tình đôi ta.
Hình ảnh “Giếng loạn” tồn tại như một nỗi ám ảnh về một thời loạn lạc của dân Chàm xưa và thi sĩ Yến Lan đã lấy hình ảnh này để đặt tên cho tập thơ đầu tiên của mình. Và cũng từ đó, Hàn Mặc Tử mới gợi ý cho cả nhóm thơ lấy tên là Trường thơ loạn để đặt tên cho một khuynh hướng thơ khác thường trong phong trào Thơ Mới lúc ấy. Không phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh- Hoài Chân đã đánh giá về tập thơ “Điêu tàn” của Chế Lan Viên “Xuất hiện giữa lòng thơ Việt Nam như một niềm kinh dị…Nó đứng sừng sững như một tháp Chàm chắc chắn và lẻ loi, bí mật và văng vẳng như đâu đây tiếng nức nở ngàn thu Chiêm nữ hận”.
Thứ ba, nói đến Bình Định chúng ta cần nói đến trường trường Quốc học Qui Nhơn (College Qui Nhơn-tức trường Cao đẳng Tiểu học Qui Nhơn). Đây chính là một nơi quy tụ các tinh hoa trí thức Tây học thời này của vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Đặc biệt, nhờ sự mở cửa giao lưu với văn học Pháp mà có rất nhiều thanh niên trí thức đã hăng hái cổ xúy cho phong trào văn thơ ở Quy Nhơn và Bình Định. Nhiều cuộc hội thảo và nói chuyện về văn thơ mới đã thu hút rất nhiều thanh niên và từ đó lan ra toàn xã hội.
Tóm lại, với khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ với trời xanh và cát trắng, núi xa và biển rộng, ánh trăng và tháp Chàm….đã giao ứng với truyền thống anh hùng, thượng võ và con người chân chất, mộc mạc nhưng trái tim nhạy cảm, lãng mạn…đã làm nên cái nôi địa-văn hóa sản sinh ra một trường phái thơ “độc nhất vô nhị” trong lịch sử thi ca Việt Nam.
1.2 Trường thơ loạn - Sự hình thành và phát triển
Trước hết chúng tôi cần xác định rõ hai danh xưng rất dễ nhầm lẫn:đó là Nhóm thơ Bình Định và Trường thơ loạn Bình Định.
Khái niệm “nhóm thơ” là một tổ chức văn học tập hợp các nhà văn có cùng hòan cảnh địa lý-văn hóa, có cùng cảm hứng sáng tác và nhất là gắn bó với nhau về mặt tình cảm bạn hữu thân thiết. “Nhóm thơ” không đòi hỏi sự đồng nhất về khuynh hướng tư tưởng, quan điểm thẩm mỹ. Còn Trường thơ lại biểu hiện cho một tổ chức văn học có tính chất thống nhất cao về tư tưởng và quan điểm thẩm mỹ (đồng khuynh hướng sáng tác). Ở Nga và các nước phương Tây, “trường” có nghĩa là “trường phái văn học” có tuyên ngôn nghệ thuật, có tổ chức chặt chẽ, có báo chí hoặc nhà xuất bản riêng. Đặc biệt là các nhà văn cùng “trường phái” thường noi theo sáng tác của nhà văn ưu tú nhất (ví dụ như ở thế kỷ XIX có “trường phái Puskin ở Nga”, Trường phái Emin Dola ở Pháp).
Như vậy, “trường” và “nhóm” là những tổ chức văn học vừa có thể tồn tại độc lập với nhau lại vừa có thể tồn tại trong nhau và chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau (Ví dụ như “Trường phái thơ tượng trưng Pháp” lại có nhóm Valéry, Mallarmé).
Theo những tài liệu đáng tin cậy mà chúng tôi tìm được từ các nhà thơ Yến Lan, Quách Tấn, Hoàng Diệp, Quách Dao (con trai Quách Tấn hiện đang sống ở Nha Trang), Trần Thị Huyền Trang, Nguyễn Thanh Mừng, Đào Quốc Toàn thì tại Bình Định thời tiền chiến (1936-1945) đã xuất hiện nhóm thơ văn có tên là “Thái Dương văn đoàn”. Đây là một tổ chức văn học tập hợp đông đảo những học sinh, tri thức Nam Trung Bộ đang sống và học tập ở Quy Nhơn bao gồm Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Hoàng Diệp, Nguyễn Viết Lãm, Huy Vân, Nguyễn Minh Vỹ…Theo Nguyễn Minh Vỹ trong bài “Thái Dương văn đoàn thưở ấy” (in lại trong sách Hàn Mặc Tử, phê bình và tưởng niệm, trang 493) đã nhớ lại: “Nhóm “Thái Dương văn đoàn” tập hợp một số cây bút thơ văn ở Quy Nhơn, số lớn là học sinh trường College tập hợp người ở các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Xưng là văn đoàn cho vẻ nhưng thực ra chúng tôi có cái mặc cảm của con người tỉnh lẻ nên còn nhút nhát, rụt rè lắm…nhưng chúng tôi đã tự giải quyết được cho mình cái mặc cảm ấy. Chế Lan Viên ra “Điêu tàn”, Hàn Mặc Tử ra”Gái quê”, rồi cả đám chúng tôi ra “Nắng xuân”. Thế là ngòi pháo đã nổ. Làn điệu mới của “Điêu tàn” và “Gái quê” có tiếng vang khá xa và khá nhanh”.
Như thế, “ Thái Dương văn đòan” là tổ chức văn học xuất hiện đầu tiên ở Qui Nhơn( tuy không có tổ chức chặt chẽ, không có tuyên ngôn nghệ thuật hoặc tờ báo riêng). Và chính từ phong trào sáng tác của văn đoàn này đã hình thành nên nhóm thơ Bình Định( còn gọi là nhóm “ Bàn thành tứ hữu”). thành phần cốt lõi, ổn định của nhóm là bốn nhà thơ: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan và Quách Tấn.
Ở trong bài viết “ Bàn thành tứ hữu” ( bốn người bạn thân thiết ở thành Đồ Bàn”(In trong cuốn “ Bóng ngày qua”),thi sĩ Quách Tấn đã thuật lại: “ Bàn thành tứ hữu” là một danh xưng của các bạn yêu thơ ở Bình Định, trong đó nhà thơ Trần Thống tặng cho bốn nhà thơ tiền chiến thân yêu nhau như anh em ruột là Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn. Các bạn lại dùng tên trong bộ tứ linh “ Long-Lân- Quy- Phụng” để đặt tên cho tứ hữu…Có người hiểu rằng “ Nhóm thơ Bình Định” là Trường thơ loạn”nhưng không phải. Nhóm thơ Bình Định gồm ba nhà thơ mới: Hàn- Chế- Yến và một nhà thơ cũ họ Quách. Còn Trường thơ loạn là của ba nhà thơ đồng chí hướng lập nên. Đó là Hàn- Chế - Yến do cao hứng mà lập nên. Bài tựa “ Điêu tàn” và bài tựa “ Thơ điên” thay thế cho lời Tuyên ngôn lúc trường thơ mở cửa”.[ 43; 22]
Năm 1937, tập thơ đầu tay “ Điêu tàn” của Chế Lan Viên ra đời. Hàn rất vui mừng và tỏ ra rất lạc quan về một hướng đi của thơ. Tại số nhà 20,đường Khải Định, Quy Nhơn, Hàn cảm động cầm trên tay bản in đặc biệt của tập thơ “ Điêu tàn” do Chế tặng( lúc ấy có mặt thi sĩ Yến Lan.)Và cũng nhân Yến Lan vừa hoàn thành bản thảo tập thơ “ Giếng loạn”, Hàn Mặc Tử bồi hồi xúc động nói: “ Lâu nay chúng ta toàn làm những bài thơ điên loạn, xem ra cũng có đủ nhân tố để dựng lên một trường thơ: Trường thơ loạn. Và, đúng rồi! Nó đã có mầm mống từ lâu rồi. Cái tựa “ Điêu tàn” này sẽ là cái tuyên ngôn thứ nhất của chúng ta. Rồi chúng ta sẽ tiếp tục có tuyên ngôn bổ sung khi in tập thơ chung của Trường thơ loạn”.
Như vậy, bộ ba ban đầu của Trường thơ loạn là Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Yến Lan. Nhưng Trường thơ loạn không chỉ có bộ ba đó mà còn thu nhận một số thi sĩ có cùng chí hướng nữa đó là Hoàng Diệp, Quỳnh Dao. Thi sĩ Quách Tấn mặc dù chơi rất thân với bộ ba thi sĩ trên nhưng lại đi theo khuynh hướng thơ cổ điển Đường luật và nguyện làm “chiếc lá cuối cùng của mùa cổ điển tươi xanh”.Riêng thi sĩ Bích Khê thì phải kể là một trường hợp đặc biệt.
Theo nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng trong cuốn “ Bích Khê, tinh hoa và tinh huyết”( Nxb Hội nhà văn, 1992) thì “ Hàn Mặc Tử đến với Bích Khê như một tia chớp và để lại vầng ánh sáng khải hoàn làm hết phận sự lan tỏa và rực rỡ của nó. Trong chớp sáng chói lọi đó, hai bên đã gửi tới đời nhau món quà tặng quý hơn mọi món trân châu, cẩm thạch đó là sự say mê và yêu thương hết mình như một đôi tình nhân thắm thiết”.
Vào năm 1936, Bích Khê đã quen với Quách Tấn rồi sau đó, qua Quách Tấn quen với Hàn Mặc Tử.Hai người như có duyên ngộ từ trước, lập tức rất tâm đầu ý hợp, gặp nhau Bích Khê và Hàn Mặc Tử chỉ bàn chuyện thơ. Theo Quách Tấn, “ Hai người này rất đa tình, đa cảm và Bích Khê coi Tử như vợ, có Hàn phải có Bích Khê và ngược lại.”
Được sự cổ vũ, động viên hết sức nhiệt tình của Hàn Mặc Tử ,Quách Tấn, Chế Lan Viên, từ xứ Thu Xà, Quảng Ngãi, Bích Khê đã liên tiếp sáng tác được nhiều bài thơ và gửi vào Qui Nhơn nhờ Hàn Mặc Tử góp ý cho. Hàn vừa thầm nể phục bạn nhưng lại gửi trả lại bản thảo kèm với bức thư mỉa mai, khiêu khích, nặng nề.
“Quả nhiên, Bích Khê tức giận run người xé nát tập bản thảo thành trăm mảnh. Mấy ngày sau bình tâm lại, chàng viết thư cho Hàn và quả quyết: Trong 6 tháng sẽ trở nên một thi sĩ phi thường, bằng không sẽ không bao giờ làm thơ nữa.”
Lời kích của Hàn có sức kích động mãnh liệt tài năng tiềm ẩn của Bích Khê. Không phải đợi 6 tháng mà chỉ 3 tháng sau những ngày đờ đẫn như ngây như dại, những đêm rụng tóc dưới đèn, những ngôi sao xanh về khuya như ghé xuống uống từng dòng tâm huyết của con người đang trút cả dung mạo và thần khí của mình lên thơ. Bích Khê đã hoàn thành công việc và mang ra cho Hàn Mặc Tử đọc. Đọc xong, Hàn ràn rụa nước mắt ngập tràn vui sướng ôm tập thơ “tinh huyết” mà nghe máu huyết tinh túy và châu lệ, và tất cả say sưa, đắm đuối của một hồn thi sĩ đang rào rạt truyền sang lòng mình”.[ 43; 18]. Hàn sung sướng nhận lời viết lời đề tựa cho tập thơ. Và cái tựa ấy “Bích Khê, nhà thơ thần linh” đã trở nên nổi tiếng một thời.
Rồi sau đó, cả Hàn Mặc Tử và Bích Khê đều mắc bệnh nan y. Họ càng có sự tri âm, tri kỷ hơn. Nhưng vượt lên tất cả, đó là sự tri âm,tri kỷ về tài năng và tâm hồn. Bích Khê luôn coi Hàn là thần tượng của mình và chàng thi sĩ này chịu ảnh hưởng đặc biệt từ “vị chúa của trường thơ loạn”về khuynh hướng sáng tạo thi ca.Vì thế, chẳng cần tuyên ngôn, tuyên thệ ồn ào, Bích Khê đã đích thực trở thành một thần dân trung thành, tiêu biểu trong vương quốc Trường thơ loạn. Thân ở Quảng Ngãi mà hồn thơ của Bích Khê luôn ở Bình Định, Quy Nhơn.
Từ những điều trình bày trên đây, chúng tôi đi đến một số kết luận như sau:
Thứ nhất, trên vùng đất Bình Định và thành phố Quy Nhơn thời tiền chiến đã có một phong trào văn học phát triển mạnh mẽ, đó là nhóm thơ văn “Thái Dương văn đoàn” gồm nhiều nhà văn, nhà thơ nhưng do tài năng chưa đạt đến độ chín nên hầu hết văn thi sĩ của nhóm này đã chìm vào quên lãng. Chỉ có nhóm “Bàn thành tứ hữu” (Hàn- Chế- Yến- Quách) và Trường thơ loạn (Hàn- Chế-Bích) là còn lưu danh muôn thửơ trong lòng bạn đọc yêu thơ và lịch sử văn học nước nhà.
Thứ hai, tuy rất nổi tiếng nhưng Trường thơ loạn lại không có tổ chức chặt chẽ, bài bản. Đó chỉ là một nhóm thơ được kết nối bởi tình bạn thắm thiết, bởi có chung một khuynh hướng sáng tác,có chung một quan điểm nghệ thuật. Họ tập hợp nhau lại bởi “do ngẫu hứng, hào hứng quá” (lời Quách Tấn) mà thành. Thành lập nên một thi phái, một trường phái thơ đâu có cần chi một sự bài bản. Thế mà nổi tiếng, mà gây ấn tượng vô cùng.
Nếu nói theo thuật ngữ khoa học chặt chẽ, Trường thơ loạn có thể gọi là “Trường phái Hàn Mặc Tử”. Đích thị, đó là “Trường thơ Hàn Mặc Tử” chẳng khác gì “Trường thơ Puskin” ở Nga vậy. Do đó ta hiểu vì sao sau khi Hàn mất, cả trường thơ đã tự giải tán mặc dù Chế-Yến-Quách vẫn chơi thân với nhau. Song chẳng còn ai tha thiết với hoạt động của trường thơ này nữa.
1.3 Trường thơ loạn và những đóng góp vào phong trào thơ mới
Khi giải quyết vấn đề: Trường thơ loạn đã có đóng góp gì vào phong trào Thơ Mới 1932-1945? Chúng tôi đã thử đặt ra giả thiết: Nếu không có Trường thơ loạn Bình Định thì phong trào Thơ Mới sẽ ra sao? Câu trả lời của chúng tôi là:
1. Trong “bản đồ” của phong trào Thơ Mới sẽ không hề có khu vực miền Nam Trung bộ.
2. Trong hàng ngũ các thi sĩ tài danh nhất của Thơ Mới, sẽ không có một ai ở Nam Trung bộ.
3. Nếu không có những ngôi sao Thơ Mới sáng rực như Hàn-Chế-Bích thì Thơ Mới sẽ chỉ dừng lại ở ranh giới thơ lãng mạn, làm sao lịch sử văn học lại tổng kết được:Thơ Mới đã đi từ lãng mạn đến tượng trưng và chớm bờ siêu thực!
Nói tóm lại, nếu không có Trường thơ loạn Bình Định thì phong trào Thơ Mới đã không thể trở thành một “cuộc cách mạng thi ca” hoàn hảo và mãnh liệt đến thế. Vườn hoa Thơ Mới nếu thiếu Trường thơ loạn thì sẽ không thể có những bông hoa lạ lùng, kỳ dị, phức tạp và bí ẩn đến thế (ngoại trừ những bông hoa “kín mít như hũ nút” của nhóm thơ “Xuân Thu Nhã tập” mà người đọc từ lâu đã quên lãng.)
Vậy Trường thơ loạn Bình Định đã đóng góp những gì vào phong trào Thơ Mới?
Thứ nhất, Trường thơ loạn đã đóng góp vào phong trào Thơ Mới những quan niệm về thi sĩ: Thi sĩ là những kẻ khác thường, phi thường.
Nếu các nhà Thơ Mới đã hoàn toàn đoạn tuyệt với mô hình thi sĩ cũ tồn tại hàng nghìn năm thời trung đại (nhà thơ là con người “phi ngã,siêu ngã”tương thông cùng vũ trụ để tỏ chí,tỏ lòng…) để xây nên mô hình thi sĩ lãng mạn: những con người thành thực bộc lộ hết cái tôi cá nhân, cá thể;những con người quay lưng lại thực tại xã hội để rút vào thế giới mộng tưởng, đẫm mơ,đẫm tình, thì đến với Trường thơ loạn, hình mẫu thi sĩ mơ mộng, đẫm tình đã được thay thế bằng kiểu thi sĩ khác người,khác thường, thậm chí quái đản, phi thường. Hãy nghe bản tuyên ngôn của họ được Chế Lan Viên hùng hồn tuyên bố: “Hàn Mặc Tử nói làm thơ tức là điên. Tôi thêm: làm thơ là làm sự phi thường. Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người say, Người điên. Nó là Tiên, là Quỷ, là Yêu,là Tinh. Nó thoát hiện tại. Nó xối trộn dĩ vãng, nó ôm trùm tương lai. Người ta không thể hiểu được vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp lý.”
Đây quả là những tuyên bố chưa từng có trong lịch sử văn học nước ta. Mà không chỉ có một lần. Hàn có cả một tập thơ hay nhất đặt tên là “Thơ điên” (1938). Cả 3 thi sĩ Hàn-Chế- Bích đều thích thú và nhiều lần nói đến ở trong thơ mình những chữ: Điên-cuồng-loạn.Trong lời tựa cho tập “thơ điên-đau thương” Hàn đã hô lên: “Tôi làm thơ?Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi,máu tôi đều hết sức giữ bí mật.
Và cũng có nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên. Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú…Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi.’’. Và Hàn đã gọi Chế là “một thi sĩ thần linh có một không hai trên cõi đời này.”
Vào thời ấy, các chữ “Điên-cuồng-loạn” này đã có khá nhiều người hiểu lầm (điên theo nghĩa bệnh lý), ngay cả thi sĩ tài danh Xuân Diệu cũng phủ nhận một cách quyết liệt: “Thơ với thẩn gì mà toàn nói nhảm…làm thơ tỉnh táo mới khó chứ làm thơ điên khùng ai viết mà chẳng được.”. (Ơ hay! Ở ngoài đời Hàn mắc bệnh phong, Bích mắc bệnh lao,Chế thì vô bệnh chứ có ai mắc bệnh thần kinh đâu!). Ngay cả Hàn có nói bằng thơ:
Bây giờ tôi dại, tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian…
Tôi điên tôi nói như người dại
Van lạy không gian xóa những ngày.
(Lưu luyến)
Thì cũng chỉ là cách diễn đạt khoa trương,ẩn dụ mà thôi.
Ba chữ “Điên-cuồng-loạn” không nhằm chỉ những trạng thái bệnh lý mà đó chính là những trạng thái cực điểm, tột cùng, tuôn trào của sáng tạo thi ca. Đó là những thời điểm mà các thi sĩ của Trường thơ loạn sống mãnh liệt với đề tài, hồn thơ thăng hoa sôi sục, vọt trào. Nói như Chế Lan Viên: “Cứ quay cuồng lên,quay cuồng nữa để cho ta ra khỏi lòng ta.” (Vàng sao), hay nói như Hàn Mặc Tử : “ Ta phải tiết hết sinh lực của hồn, của máu vào thơ. Ta vừa say sưa vừa điên cuồng ọc ra từng búng thơ sáng láng” ( Tựa “ Xuân như ý”).
Đó không chỉ là quan niệm thơ mà đó còn là phương thức, một con đường để sáng tạo thơ của các thi sĩ Trường thơ loạn – Cái mà Chu Văn Sơn khái quát về thi pháp của trường thơ này là “ Thi pháp của cái tột cùng”.
Và cũng chính phương thức sáng tạo thi ca này đã khiến cho tư thế trữ tình của các thi sĩ “ Trường thơ loạn” rất kì lạ. Với Hàn Mặc Tử, nhà thơ phải “ Khóc, gào, rú, điên lên, cười lên…Với Chế thì phải “ Gào, khóc, thét, cười…” “ Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt cả hầu, nó khóc trào cả máu mắt. Nó cười tràn ra cả tủy là tủy”( Tựa “ Điêu tàn”). Với Bích Khê thì đó là “Say khướt, điên rồ, cuồng si, ngất ngây, ngất đi…”Những trạng thái trữ tình mãnh liệt ấy chẳng qua cũng chỉ là biểu hiện của cảm xúc, tâm trạng thăng hoa đến tột đỉnh mà thôi.
Thứ hai, “ Trường thơ loạn” đã đổi mới, mở rộng biên giới cho Thơ Mới. Với “ Trường thơ loạn”,
Thơ Mới không chỉ giới hạn ở vương quốc của thơ lãng mạn mà còn mở ra với bát ngát, mênh mông của thơ tượng trưng, siêu thực. Chính Hoài Thanh bằng trực cảm tinh nhạy của mình đã nhận ra “ vườn hoa của Hàn Mặc Tử rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”. Với Trường thơ loạn, độc giả không chỉ còn nhìn và cảm thụ thế giới bằng trí tuệ, bằng giác quan, bằng sự “ tương giao của các giác quan” mà còn bằng con đường của thế giới vô thức tâm linh, bằng con đường của tôn giáo ( Phật giáo, Lão giáo và Thiên Chúa giáo). Nhờ có Trường thơ loạn mà Thơ Mới không chỉ có chất Đời, chất Mộng mà còn thấm đẫm thất Đạo.
Thơ Mới không chỉ giới hạn ở vương quốc của thơ lãng mạn mà còn mở ra với bát ngát, mênh mông của thơ tượng trưng, siêu thực. Chính Hoài Thanh bằng trực cảm tinh nhạy của mình đã nhận ra “ vườn hoa của Hàn Mặc Tử rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”. Với Trường thơ loạn, độc giả không chỉ còn nhìn và cảm thụ thế giới bằng trí tuệ, bằng giác quan, bằng sự “ tương giao của các giác quan” mà còn bằng con đường của thế giới vô thức tâm linh, bằng con đường của tôn giáo ( Phật giáo, Lão giáo và Thiên Chúa giáo). Nhờ có Trường thơ loạn mà Thơ Mới không chỉ có chất Đời, chất Mộng mà còn thấm đẫm thất Đạo.
Thứ ba, ba thi sĩ lừng danh của Trường thơ loạn đã góp vào Thơ Mới ba loại hình tượng thơ độc đáo, mới lạ làm phong phú muôn phần cho Thơ Mới. Đó là “ Thế giới thơ đau thương và huyền diệu phi thường của Hàn Mặc Tử”, là “ Thế giới thơ thần bí kinh dị của Chế Lan Viên”, là “ Thế giới thơ tượng trưng đầy Hoa- Nhạc- Hương của Bích Khê”.
Tóm lại, Trường thơ loạn Bình Định đã có những đóng góp to lớn vào cuộc cách mạng thi ca của phong trào Thơ Mới 1932-1945. Mượn lời của Chế Lan Viên nói về Hàn Mặc Tử “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như ngôi sao chổi tỏa sáng vụt qua bầu trời thơ ca Việt Nam…”, chúng tôi cũng muốn nói: Trước không có ai, sau không có ai, Trường thơ loạn Bình Định quả đúng là một khu vườn thơ “độc nhất vô nhị” trong lịch sử thơ ca Việt Nam. Không chỉ thời gian hơn 70 năm qua mà có lẽ sẽ còn... mãi mãi.
2. Không gian nghệ thuật trong trường thơ loạn
Cùng với thời gian, không
gian là một phạm trù triết học phổ quát làm nên sự TỒN TẠI của mọi sự vật, hiện
tượng (tồn: còn, tại: ở đây), không có cái gì hiện hữu ngoài thời gian và không
gian cả.
Bắt nguồn từ không gian vật lý, vật chất
nhưng không gian nghệ thuật có đặc trưng riêng. Không gian này là không gian tồn
tại trong các tác phẩm nghệ thuật, là hình tượng nghệ thuật do người nghệ sĩ tạo
ra. Nếu mỗi hiện tượng văn học (tác phẩm, trào lưu, giai đoạn, thời đại) là một
thế giới nghệ thuật vừa phong phú, đa dạng vừa có tính thống nhất, có đặc điểm
và quy luật riêng thì không gian nghệ thuật là yếu tố chứa đựng sự tồn tại của
những thế giới nghệ thuật ấy. Không có tác phẩm văn học nào, không có nhân vật
nào lại không tồn tại và họat động trong một khoảng không gian nhất định.
Khác hẳn với không gian vật chất, vật lý
hoàn toàn khách quan không phụ thuộc vào cảm nhận chủ quan của con người, không
gian nghệ thuật lại luôn chịu sự qui định, chi phối của chủ quan nghệ sĩ. “Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” (Nguyễn Du). Do đó,
chúng ta hiểu vì sao mỗi hiện tượng văn học lại có không gian đặc thù của nó.
Đó là cái không gian gần gũi, quen thuộc của làng quê xưa với sân đình,bến nước,
cây đa, đồng cạn, đồng sâu…trong ca dao. Đó là cái không gian vũ trụ bao la,
tĩnh lặng, thanh tao trong thơ cổ điển. Đó là cái không gian mơ mộng, đẹp đẽ
nhưng bị chia cắt, cô lập trong Thơ Mới.v.v..
Tóm lại, không gian nghệ thuật trong văn học
là không gian tinh thần, không gian tâm tưởng đặc biệt thể hiện quan niệm riêng
về cuộc đời và con người của mỗi nhà văn. Không gian ấy là những cái “mã”thẩm mỹ,
“mã”thông tin về quan niệm nghệ thuật của các nhà văn. Không gian nghệ thuật
bao giờ cũng gắn liền với thời gian nghệ thuật và phối hợp với nhau để phản ánh
hiện thực đời sống trong tính vận động của nó.
Vậy không gian nghệ thuật của Trường thơ
loạn có gì là riêng, đặc sắc, ấn tượng trong không gian nghệ thuật chung của
phong trào Thơ Mới?
Nhìn tổng quát, không gian nghệ thuật của
Trường thơ loạn rất khác thường, kỳ lạ so với không gian nghệ thuật chung của
Thơ Mới.
2.1 Từ một không gian thực vừa tươi
sáng, vừa u buồn…
Nếu nhìn tổng quát và xuyên suốt sự nghiệp
thi ca của Hàn-Chế-Bích trong Trường thơ loạn, chúng ta sẽ thấy rất rõ: không
gian nghệ thuật của họ có đủ các cõi không gian, không gian trần thế bên cạnh
không gian siêu thực tôn giáo, không gian thực bên cạnh không gian mộng, không
gian dưới thấp quen thuộc, gần gũi bên cạnh không gian ở chốn tít mù “thượng
thanh khí”, bên cạnh không gian vui tươi yêu đời là không gian buồn chán, tuyệt
vọng, đau thương…
Tập thơ “Gái quê” là tập thơ mới đầu
tiên của Hàn Mặc Tử được in năm 1936 đủ xếp tác giả của nó vào những nhà thơ mới
đi tiên phong hồi ấy. “Gái quê” không chỉ xác định hình tượng trung tâm của tập
thơ là những rung động đầy thi vị lãng mạn của những “nàng thôn nữ” với những
“chàng trai quê” mà còn xác định không gian nghệ thuật chủ yếu là chốn thôn quê
thanh bình, tươi sáng, là nơi ươm mầm cho những mối lương duyên, nơi nảy nở những
ước mơ luyến ái của “những chàng”, “những nàng” nhà quê nhưng đầy mơ mộng.
- Ánh trăng lao xao trên đọt
tre
Tiếng ca lanh lảnh trong vườn
me
Tiếng ca im bặt. Rồi thấp
thoáng
Vạt áo màu nâu hiện trước
hè.
(Quả dưa)
- Từ khi đôi má đỏ hây hây
Em tập thêu thùa, tập vá may
Chim sáo trước sân bay tới đậu
Em mừng:sắp được lấy chồng
đây.
(Duyên muộn)
-Em có ngờ đâu trong những
đêm
Trăng ngà dãi bóng mặt hồ êm
Anh đi thơ thẩn trong ngây dại
Hứng lấy hương nồng trong áo
em.
(Âm thầm)
Từ địa hạt Đường thi cổ điển, Hàn Mặc Tử
bước tới chân trời Thơ Mới hòa nhập vào điệu cảm xúc mới của cả một thế hệ
thi sĩ đang đắm say với “trời tình”, “bể ái” như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư,
Xuân Diệu, Nguyễn Bính…Với Xuân Diệu, điểm hẹn ái tình là “khu vườn tình ái”, với
Nguyễn Bính là “vườn quê”, “đất khách” thì với Hàn Mặc Tử cũng lại là “Vườn
tình” (phải chăng đó là ám ảnh bởi vườn Địa Đàng với Adam và Eva trong kinh
thánh?). Vẻ đẹp của khu vườn “xanh mướt như ngọc” của Thôn Vỹ Dạ là vẻ đẹp tinh
khiết, trắng trong như ánh mai hồng buổi bình minh. Đó còn là “vườn mơ, bến
sông trăng, bến mộng, bến tình và nguồn trong trẻo mà xung quanh người là mơn
trớn yêu đương vây phủ bởi trăm dây quyến luyến” (Tựa “Thơ điên”).
Thật ra, vườn vốn là một cõi không gian rất phổ
biến trong tâm thế của người Việt. Đó là hoài niệm về nơi canh tác khởi thủy xa
xưa và muôn đời của người nông dân. Đó cũng là nơi gắn bó với thiên nhiên thân
thiết nhất. Trong “Gái quê” chúng ta bắt gặp rất nhiều địa danh quen thuộc với
làng quê Việt Nam ngoài “Vườn cam, vườn dâu, vườn me, vườn dừa” ngoài ra còn có
“vườn mơ” “vườn mộng” “vườn tình” “vườn thơ”…
Đó là bờ ao “Ta thích đứng lặng trên bờ
ao”, là trước sân “Trước sân anh thơ thẩn”, là lũy tre “Tiếng hờn trong lũy
tre”, là gốc đa “Ta thích ngồi mơ dưới gốc đa”, là đám lau “Ta thích len vào
trong đám lau”, là bên đường “Gặp gỡ bên đường cũng thản nhiên”, là dưới cầu
“Nhắc chuyện yêu đương ở dưới cầu”, là bãi sông “Đêm trước ta ngồi dưới bãi
sông”, là đồi quê “Lang thang trên đồi quê”,là..v.v…Tóm lại, đó là cái không
gian làng quê, thôn quê hết sức gần gũi với người đọc, dễ gợi lại tâm thức nhà
quê trong mỗi người dân Việt Nam. Do đó, ta hiểu vì sao cũng như Nguyễn Bính,
Hàn Mặc Tử đã có, đang có và sẽ có rất nhiều tri âm, tri kỷ từ cái tâm thức ám ảnh
nhà quê này.
Với Chế Lan Viên, nếu không đọc kỹ tập “Điêu
tàn” thì chúng ta dễ lầm tưởng: không gian nghệ thuật ở đây chỉ có “điêu tàn,
chết chóc, tuyệt vọng”. Nhưng nếu đọc kỹ, ta vẫn nhận thấy có một cõi trần gian
trong thực tại tươi đẹp tràn trề sức sống. Chẳng hạn như ở bài “Xuân về”, phong
cảnh thiên nhiên hiện lên ở câu thơ nào cũng thật đẹp, thật nên thơ.
Hàng cây cao say sưa ôm bóng
ngủ
Vài quả xanh khảm bạc hớ
hênh phô
Xoan vươn cành khều mặt trời
rực rỡ
Bên bóng râm lơi lả nhẹ
nhàng đu
Đây tàn lá chuối non bay phấp
phới
Đây hoa đào mở miệng
đón xuân tươi.
Hoặc:
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng
cao
Cũng mới độ nào trong gió lộng
Nền lau bừng sáng núi lau
xanh
Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang
bóng
Những khóm tre cao rủ trước
thành.
(Thu)
Nếu ở không gian siêu thực-trên
cao, vực sâu, thơ Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên đầy ắp các biểu tượng ám thị, tượng
trưng thì ở không gian thực-trần thế, các thi sĩ của Trường thơ loạn lại tạo
hình bằng các hình ảnh đầy tính trực quan, cụ thể, sinh động.
Trong làn nắng ửng khói mơ
tan
Bên mái nhà tranh lấm tấm
vàng
Xột xoạt gió trêu tà áo biếc
Bên dàn thiên lý bóng xuân
sang.
(Hàn Mặc Tử -Mùa xuân chín)
Với Bích Khê cũng thế. Bên cạnh cái không gian
tượng trưng đầy nhạc-hương-hoa trong cõi ảo mộng là một cõi trần thế với bao
hình ảnh trực quan tươi sáng:
-Vẳng thay núi thấp nức danh
đồn
Tuyệt nhất năm hòn ngọc thủy
sơn
Chẳng suối Phong Nha nghe
róc rách
Chẳng mây Hồng Lĩnh thấp chờn
vờn
Giữa trời bóng nguyệt lồng
vô động
Trên biển mù sương thổi lại
non.
(Ngũ Hành Sơn)
- Lam nhung ô! Màu lưng chừng
trời
Xanh nhung ô! Màu phơi nơi
nơi
Vàng phai nằm im ôm hoa gầy
Chim yên neo mình nương
xương cây.
(Hoàng hoa)
Nhưng bên cạnh cái không gian trần thế tươi
sáng ấy các thi sĩ Trường thơ loạn lại chuyển hướng, chuyển kênh chìm đắm vào
những vào những không gian u buồn, tăm tối, đau thương. Đó là sản phẩm tương ứng
của những cái tôi trữ tình có tâm trạng chán nản trước hiện thực, phủ nhận
hiện thực mà họ cho là cõi “trời sâu” “chốn lãnh cung” “nơi huyệt mộ” chỉ toàn
những khổ đau, chán chường, tuyệt vọng. “Trời hỡi trời, hôm nay ta chán hết/ Những
sắc màu, hình ảnh của trần gian.” (Chế Lan Viên).
Với Hàn Mặc Tử, từ khi nhận ra mình bị mắc bệnh
nan y, ông vừa đôn đáo tìm thầy chạy thuốc lại vừa chủ động cách ly và tuyệt
dao với mọi người. Thi sĩ đã sống biệt lập, cô đơn ở xóm Động- Gò Bồi, xóm Tấn-Gềnh
Ráng cách xa với người thân và cuộc sống bên ngoài. Do đó, ta hiểu vì sao ở tập
thơ “Đau thương”, mặc cảm cô đơn, chia lìa tràn ngập thơ ông mà biểu tượng ám ảnh
của nó là sự ngăn cách chốn “ngoài kia” và chốn “trong này”. Ngoài kia là tươi
sáng,ấm áp trong này là chốn u tối, lạnh lẽo. Ngòai kia là hạnh phúc còn trong
này chỉ toàn đau thương, tuyệt vọng: Đó cũng là những hình ảnh biểu tượng như
chốn “trời sâu”, “nơi đáy giếng”, “chốn lãnh cung”:
- Ngoài kia xuân đã thắm hay
chưa
Xuân ở trong đây chẳng có
mùa
Không có vườn trăng và ý nhạc
Có nàng cung nữ nhớ thương
vua.
- Lòng giếng lạnh, lòng giếng
lạnh
Sao chẳng một ai hay!
Nghe nói mùa thu náu ở chỗ
này
Tất cả âm dương đều tụ họp.
Khoảng cách giữa “trong này”và “ngoài kia”
không chỉ là cái số đo không gian bằng nỗi niềm tương tư của những đôi lứa yêu
nhau như trong thơ Nguyễn Bính (Thôn Đoài, thôn Đông, làng trên, xóm dưới, đường
thẳng, đường vòng…) mà là khoảng cách của hai cõi trời, hai thế giới muôn trùng
xa thẳm:
- Ở xa xôi, lạnh nhìn anh
khô héo
Bên kia trời hãy chụp cả hồn
anh.
- Anh đứng cách xa hàng thế
giới
Lặng nhìn trong mộng miệng
em cười.
Có lúc thi sĩ bàng hoàng tự
hỏi:
Tôi đang ở đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu
huyết!
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt
châu.
(Những giọt lệ).
“Trời sâu” “phượng nở trong màu huyết” không
còn là hình ảnh trực cảm nữa mà là hình ảnh tượng trưng cho nỗi đau lưu đày của
những “trích tiên bị đày xuống trần gian”.
Nếu ở thơ Hàn Mặc Tử, hai cõi không gian
trần thế “trong này” và “ngoài kia” như là hai thế giới tương phản nhau gay gắt
thì đến với “Điêu tàn” của Chế Lan Viên, chúng ta cũng có cảm nhận tương tự. Chỉ
có điều hai thế giới tương phản ấy của thơ Chế là: quá khứ với hiện tại. Hơn bất
cứ nhà Thơ Mới nào, Chế là thi sĩ phủ nhận hiện tại, thực tại một cách công
khai và quyết liệt nhất:
-Trời hỡi trời! Hôm nay ta
chán hết
Những sắc màu, hình ảnh của
trần gian.
(Tạo lập)
-Tạo hóa hỡi hãy trả tôi về
Chiêm Quốc
Hãy đem tôi xa lánh cõi trần
gian
Muôn cảnh đời chỉ làm tôi
chướng mắt
Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ
điêu tàn.
(Những sợi tơ lòng).
Chán ghét trần gian, chán ghét hiện tại,
dòng tâm tưởng của Chế Lan Viên đã trở ngược về quá khứ và từ đó thi sĩ đã dựng
lại cảnh oai hùng, oanh liệt của một thời quá khứ xa xăm:
- Đây những tháp gầy mòn vì
mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới trần
gian
Những sông vắng lê mình
trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ
rên than.
(Trên đường về)
- Nơi, một tối máu gào vang
chiến địa
Nơi,loa vang,ngựa hí với đầu
rơi
Bầy voi Chàm hung hăng như
sóng bể
Hung hăng theo ánh lửa của
dân Hồi.
Không gian trong “Điêu tàn” không chỉ có những
cảnh huy hoàng, hoành tráng của lịch sử dân Hời mà còn có “không gian huyệt lạnh
kinh dị”. “Điêu tàn” là biểu tượng cho “quá khứ”, cho “âm phủ”, nơi thi
sĩ có thể tự tình với những hồn ma của dân Hời:
- Ta đã nghe trong mồ sâu lạnh
lẽo
Tiếng thịt người nảy nở, tiếng
xương rên
Ta hãy nghe, mơ màng trong cỏ
héo
Tiếng cô hồn lặng thở bóng
trời đêm.
(Bóng tối)
- Hãy tìm cho ta một nấm mộ
hoang tàn
Đào đất lên, cậy cả nắp hòm
xăng
Hãy chôn chặt thân ta vào chốn
ấy
Ta sẽ uống máu tan cùng tủy
chảy
Ta sẽ nhai thịt nát với
xương khô
Lấy hơi Ma nuôi sống tấm hồn
thơ
Luyện âm khí chuyển rung bao
giọt máu.”
(Máu xương)
Là thi sĩ ham mê cái “khác thường” “phi
thường” nên Chế Lan Viên đã chìm đắm vào quá khứ, lấy quá khứ để chống lại, phủ
nhận lại cái hiện tại đầy chán nản, đầy đau thương tuyệt vọng của xã hội đương
thời. Thi nhân đã cùng nhịp bước với đoàn quân Chiêm Thành khi ca khúc khải
hoàn thắng trận hay mải mê chiêm ngưỡng vẻ đẹp thướt tha của những nàng Chiêm nữ
trong khúc nhạc quay cuồng. Rồi ánh mắt của Chế Lan Viên lại chuyển sang một thế
giới hoang tàn, chết chóc để cảm thương và khóc than cho niềm đau thương, uất hận
của cả một dân tộc đã bị diệt vong. Cái còn lại ở trần gian hiện tại chỉ là những
Tháp Chàm hoang phế và những huyền thoại về mộ Hời, ma Hời rùng rợn. Nhưng với
Chế, dân tộc ấy không chết mà vẫn đang hiện lên trước mắt chàng với tất cả những
cảnh huy hoàng và niềm bi hận muôn đời:
Trong thơ ta dân Chàm luôn sống
mãi
Trong thơ ta xương máu khóc
không thôi.
Đến với thơ Bích Khê cũng vậy. Bên cạnh
những bức tranh quê tươi sáng là những bức tranh với gam màu u tối nhuốm tâm trạng
buồn đau:
Đêm nay hồn lạnh làm sao
Cảnh thu ôm cả chiêm bao vào
lòng
Sao xanh lợt phím tơ đồng
Gió ơi là gió! Buồn đông thổi
về
Không gian mưa lệ đầm đìa
Đầy sân trắng toát hoa lê đầu
mùa.
(Cuối thu)
Nếu không gian trần thế trong thơ Hàn Mặc
Tử và Chế Lan Viên hầu như không có mưa (chỉ có “nắng chói”, “nắng chang
chang”, “nắng hoa” “nắng buồn”…và ánh trăng tràn ngập “trăng ngà” “trăng ngọc”,
“trăng giãi bóng”, “trăng nằm nghiêng ngả”, “trăng quỳ”, “trăng tự tử”…) thì
trong thơ Bích Khê, không gian trần thế lại thường có mưa. Ở đây, mưa là biểu
tượng cho nỗi buồn, niềm đau, sự u ám của cuộc đời:
- Nơi đây làng cũ buồn hiu
quạnh
Anh có khi nào trở lại chưa?
Ngày đi chậm lắm. Dòng sông
biếc
Cùng sáng trong trời sợi sợi
mưa
(Làng em)
- Mây trắng bay về núi Thạch
Chua
Chùa Ông chim hót ở ngoài
mưa
(Chùa Ông xà)
- Không gian mưa lệ đầm đìa
Đầy xuân trắng toát hoa lê đầu
mùa.
(Cuối thu).
Tóm lại, không gian nghệ thuật của các thi
nhân Trường thơ loạn trước hết là cõi trần thế, cõi thực tại của cuộc đời. Đó
là những bức tranh quê vừa tươi sáng thể hiện sự gắn bó của các nhà thơ với cuộc
sống. Nhưng liền ngay đó lại là những bức tranh quê u tối, đau buồn. Muốn thoát
ly khỏi không gian thực tại ngột ngạt, bế tắc, buồn đau như những “chốn trời
sâu”, “đáy giếng”, “lãnh cung”, “huyệt mộ”, “mưa xám”…ấy, các thi nhân của Trường
thơ loạn đã đi tìm một thế giới mới- thế giới của những khát vọng, ước mơ, ám ảnh
của cõi mộng và cõi âm linh sâu thẳm. Đó là không gian siêu thực giải thoát…
2.2 Đến không gian siêu thực - giải
thóat…
Khi đã chán ghét thực tại tầm
thường, giả dối, bế tắc…thì đa phần các thi sĩ của phong trào Thơ Mới đều tìm
cách thoát ly khỏi hiện thực như một cách để giải thóat nỗi buồn, sầu, bế tắc:
“Ta thóat lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lư Trọng
Lư, ta đắm say cùng Xuân Diệu nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên
cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.”
(Hoài Thanh)
V.Hugo, vị chủ soái của chủ nghĩa lãng mạn
Pháp vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã tuyên ngôn “Bức tranh hiện thực của
nhân loại có được là nhờ vào phóng đại con người, nghĩa là nhờ vào điển hình
hóa hiện thực bằng tưởng tượng, bằng lý tưởng…cái bình thường là cái chết của
nghệ thuật” (Tựa “Cromoen”). Còn Hàn Mặc Tử thì tuyên bố hướng đi của Trường
thơ loạn bằng thơ:
Đi, đi, đi mãi nơi vô định
Tìm cái phi thường, cái ước
mơ.
Cũng là mơ mộng, cũng lấy mộng để thay cho thực
nhưng các nhà thơ Trường thơ loạn lại tiến xa hơn hẳn cái mộng “nhẹ nhàng”
“tươi đẹp” thấm đẫm ái tình của các nhà Thơ Mới đương thời. Đó là thế giới của
tượng trưng, của siêu thực tâm linh, tôn giáo. Đó cũng là một thế giới “rộng
rinh không bờ bến”: thế giới của cõi “huyền mơ”, “cõi thinh không”, “cõi xuất
thế gian”, “cõi âm phủ”, “cõi huyền diệu”, “cõi thần linh”…với bao hình ảnh
khác thường, phi thường đầy huyền ảo và kinh dị.
Trong công trình công phu “Thế giới nghệ thuật
thơ Hàn Mặc Tử”, Tiến sĩ Chu Văn Sơn đã khái quát rất xứng đáng rằng: “Từ tập
thơ “Đau thương trở đi, trong thơ Hàn đã xuất hiện một cõi trời mới, một thế giới
mới, có lúc ông gọi là “cõi trời mơ”: “Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu/ Trời
mơ trong cảnh thực huyền mơ”, có lúc ông gọi là “xứ mộng”: “Hương khói ở đâu
ngoài xứ mộng/ Cứ là mỗi lúc mỗi nên thơ”, có lúc ông gọi là “xứ say mơ”: “Đấy
là tất cả người anh tiêu tán/ Cùng trăng sao bàng bạc xứ Say mơ”. Ngoài ra nó
còn được định danh bằng nhiều cái tên khác nữa như “cõi thiên không”, “cõi triều
thiên”, “cõi siêu hình”, “nước Thiên Đông”, “nước Huyền Vi”, “chốn Phượng Trì”,
“cõi vô vi”, “cõi xuất thế gian”. Chính vì những trời thơ ấy trong thơ Hàn gắn
liền với địa danh tôn giáo (cả Phật giáo, Lão giáo và Thiên Chúa giáo) như “cõi
xuất thế gian” và “cõi âm phủ” của nhà Phật, cõi “vô vi” của Lão Trang, “cõi nước
Thiên đàng” của Công giáo…mà có rất nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định
“Thơ Hàn Mặc Tử rất đậm chất Đạo”. Có thể nói, thế giới huyền diệu siêu thực ấy
vừa là khát vọng vượt thóat vào khung trời của “cõi ước mơ hoàn toàn”-nghĩa là
đi đến “cái tột cùng” của trí tưởng tượng thi ca lại vừa là con đường giải
thoát khổ đau của các thi sĩ Trường thơ loạn.
Cái không gian thơ huyền diệu ở tít mù
cao chốn thinh không này chịu sự qui định của 2 nguyên nhân chính. Thứ nhất, đó
là quan niệm nghệ thuật (về nhà thơ và về thơ) của Hàn rất khác thường (Thi sĩ
là “người điên”, làm thơ là làm sự phi thường…) Thứ hai, là hệ quả của cái thứ
nhất, đó là khi làm thơ, tất cả cảm xúc, trí tuệ, tưởng tượng của nhà thơ đều
được đẩy đến “tột cùng” khiến cho thơ ông có thể vượt qua mọi rào cản của nhà
thơ lãng mạn thông thường để vươn tới những khung trời kỳ ảo. Trong dòng cảm xúc
ngất ngây như lên đồng ấy, ông đã nhìn thấy một thế giới hoàn toàn lạ
lùng, “một thế giới đầy ánh sáng; đầy âm thanh đầy màu sắc của “lưu ly, ngọc
ngà”như chốn Thiên Đàng vĩnh cửu. Với sự thăng hoa ấy, hồn thơ của Hàn đã vút
bay lên cao để hóa giải mọi nỗi thống khổ tột cùng cả về thể xác và linh hồn ở
cõi trần ai này:
- Ta ném mình đi theo gió
trăng
Lòng ta tản mát bốn phương
trời
Cửu trùng là chốn xa xôi lạ
Chim én làm sao bay đến nơi
(Ghen).
- Máu tim ta tuôn ra làm bể
cả
Mà sóng lòng dồn dập như mây
trôi
Sóng lòng ta tràn lan ngoài
xứ lạ
Dâng cao lên, cao tột bậc
trên trời.
(Biển hồn ta).
- Cả bầu trời bỗng nổi muôn
điệu nhạc
Rất trọng vọng, rất thơm
tho, man mác
Rất phương phi trên tất cả
anh hoa.
(Ra đời).
“Trí người đã dâng cao và thơ người dâng
cao hơn nữa. Thì ra người đang say sưa đi trong mơ ước, trong huyền diệu, trong
sáng láng và vượt hẳn ra ngoài hư linh.” (Tựa “Thơ điên”).
Cái khung trời thơ lung linh ấy được Hàn xây cất
lên bằng toàn những vật liệu siêu phàm của ước lệ, tượng trưng, siêu thực. Đó
là ánh sáng khác thường: “Cho mau lên dồn ánh nguyệt vào đây…Lời thơ ta sẽ sáng
trưng như thất bảo”, “ánh hào quang chan chói ngất liu ly”, “Trên triều thiên
ngời chói vạn hào quang”, “Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt/ để chập chờn
trong ánh sáng mông lung”…Đó là thứ âm nhạc “thơm tho lạ lùng”, là “hương gấm”,
là “đàn li tao”, là “hoa trinh bạch”, là “Trái cây ngọc vỏ bằng gấm/ còn mặt trời
tợ khối vàng/…xuân gấm đầu tiên giữa cõi trời”.v.v…và thi sĩ vô cùng sung
sướng, mãn nguyện thốt lên:
Ta sống mãi trong trăng sao
gấm vóc
Trong nắng thơm, trong tiếng
nhạc thần bay
Bút kê lên nền sáng báu năm
mây
Thơ chen lấn lên trong nguồn
cảm giác.
Phải chăng chính đức tin Thiên chúa đã
khiến cho thi sĩ- con chiên ngoan đạo Hàn Mặc Tử đã xây dựng lên bằng thơ cả một
Thiên đàng trong mơ ước, trong khát vọng tột cùng.
Không gian siêu thực- giải thoát trong
“Điêu tàn” của Chế Lan Viên vừa giống lại vừa khác so với Hàn Mặc Tử.
Điểm giống nhau: Nếu không gian nghệ thuật siêu
thực- giải thoát của thơ Hàn có xu hướng vươn lên trên cao trên “thượng tầng
không khí” thì ở Chế Lan Viên cũng vậy. Thi sĩ Chế Lan Viên cũng ước ao:
Hãy cho tôi một tinh cầu giá
lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời
xa
Ở nơi ấy tháng ngày tôi lẩn
tránh
Những ưu phiền, đau khổ với
buồn lo!
(Những sợi tơ lòng).
Và ở nơi “tinh cầu giá lạnh ấy”, Chế Lan
Viên đắm chìm vào dòng sông toàn “máu thắm sông Linh” và thi sĩ cũng vô cùng
khoan khoái được sống trong cảnh sắc phi thường:
Ta để xiêm lên mây rồi nhẹ
bước
Xuống dòng Ngân lòa chói ánh
hào quang
Sao tán loạn đua bơi trên mặt
nước
Tiếng lao xao dội thấu đến
cung Hằng.
(Ngủ trong sao).
Không gian cõi trời cao của Chế cũng đầy
ánh hào quang chói sáng, cũng tỏa ngát mùi hương, cũng đầy âm thanh rộn rã. Thi
sĩ khi thì “Vỗ lên đầu sao Đẩu, sao Khuê”, lúc lại “đuổi bắt trăng sao đang tán
loạn”, khi thì ngồi dưới “bến hư-không để tắm ánh trăng vàng mát rượi”, lúc lại
“hát khúc cuồng ca trên bến sông Ngân.”
Trong thơ Hàn, không gian tràn ngập ánh trăng.
Trong cõi trời hư-không của Chế cũng “lai láng trăng vàng, trăng điên”. Trong
thơ Hàn, phương tiện vượt thóat không gian thực tại cũng là hồn, trong thơ Chế
cũng có hồn thoát ra khỏi xác để trôi nổi trong vũ trụ:
Đừng hát nữa! Tiếng ai trong
trẻo quá
Khiến hồn tôi tê liệt khó
bay cao
Này, im đi, nhìn xem trong
khẽ lá
Một mặt trời giả dạng
một vì sao”.
(Hồn trôi).
Điểm khác nhau: Nếu không gian của thơ Hàn chủ
yếu là ở trời cao xa thẳm thì không gian của thơ Chế còn có nơi rùng rợn, kinh
hãi đó là âm phủ, là huyệt mộ. Chỉ với 36 bài thơ ngắn trong tập thơ “Điêu
tàn”, Chế Lan Viên đã 12 lần nhắc đến, nói đến và tả lại cảnh sắc nơi mồ sâu,
huyệt lạnh đến ghê người. (Trong đó có hai bài hoàn toàn chỉ tả lại cảnh này,
đó là bài “Mồ không” và “những nấm mồ”). Và hành động trữ tình của thi nhân
cũng thật là khác thường, kinh dị.
Tìm cho ta một nấm mộ hoang
tàn
Đào đất lên cậy cả nắo hòm
săng
Hãy chôn chặt thân ta vào chốn
ấy
Ta sẽ uống máu tan cùng tủy
chảy
Ta sẽ nhai thịt nát với
xương khô
Lấy hơi ma nuôi sống tấm hồn
mơ
Luyện âm khí chuyển rung bao
mạch máu.
(Máu xương).
Nếu ở cõi trời cao, vật liệu
xây cất lên cái thế giới ấy toàn là những thứ cao sang, siêu phàm, quý giá (ánh
trăng, nhạc, hương, hoa, ngọc ngà lưu li, châu báu…)thì ở cõi huyệt mộ này, Chế
toàn dùng những thứ tanh hôi ghê rợn như máu, tủy, sọ người, xương khô, quan
tài…và tương ứng với những vật liệu ấy là biểu tượng “đêm mờ” được láy lại tới
29 lần.Chỉ có trong cõi “đêm mờ” này thì thi nhân mới thóat được hồn ra khỏi
xác để nhập vào “Hồn ma Hời và đi vào những nấm mồ hoang lạnh để “tự tình, tâm
sự”. Cũng chỉ dưới bóng “đêm mờ” này, các ma Hời mới sống dậy và tâm tình với
thi nhân để làm sống lại thời dĩ vãng oanh liệt của giống dân Hời:
Ta hãy nghe trong mồ sâu lạnh
lẽo
Tiếng thịt người nảy nở, tiếng
xương rên
Ta hãy nghe mơ màng trong cỏ
héo
Tiếng cô hồn lặng thở khí trời
đêm…
Nước non Chàm chẳng bao giờ
tiêu diệt
Tháng ngày qua vẫn sống với
đêm mờ.
(Bóng tối).
Tóm lại, trong “Điêu tàn” của Chế Lan Viên,
các biểu tượng của không gian siêu thực- giải thóat là “tinh cầu giá lạnh”, là
“Sông Ngân” “sông Linh”, là “cõi trời”, “cung Hằng”, “Thất tinh”, là “Tháp
Chàm” “huyệt mộ”, “đêm mờ”, là “ cõi hư- vô”…Đó cũng chỉ là những địa danh khác
nhau của một cõi: không gian mộng ảo, siêu thực- tâm linh nhằm phủ nhận cõi trần
gian, thực tại chán chường, đau khổ và tuyệt vọng. Và đó cũng chính là con đường
vượt thoát: vượt thoát khỏi ranh giới của thơ lãng mạn, vượt thoát cho những
đau khổ, bế tắc của thi nhân trước cuộc đời nhỏ bé, tầm thường, đau khổ:
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ
đau.
Đến với thơ Bích Khê, chúng ta lại không
thể không liên tưởng đến Hàn Mặc Tử. Hàn có cả một tập thơ mang tên là “đau
thương” để thăng hoa hết, thăng hoa đến “tột cùng” nỗi đau thương của đời mình
thành thơ thì Bích Khê cũng vậy. Một thi sĩ trẻ trung đang đầy tài năng và khát
vọng bỗng lại vướng vào án tử của căn bệnh lao “tứ chứng nan y” thời ấy. Cho
nên Bích Khê đã thốt lên: “thơ tôi đời mô mới hết đau.” Căn bệnh quái ác cứ
hành hạ thi nhân khiến chàng đau khắp người “cả linh hồn, óc, não, phổi, tim,
gan”. Nỗi đau ấy khiến thi nhân phải bật khóc đến độ “đứt tươm hơi.” Phải sống
những ngày cận kề cái chết, có nhiều lúc giống Hàn Mặc Tử, Bích Khê đã
rơi vào hoảng loạn, mê sảng, gào rú, điên cuồng “Hú ma điên- kinh động Vạn hồn
đau”, “Tôi lạy trời! Tôi lạy cả vô biên”, “Ai bảo tôi là tôi chửa chết rồi!”,
“hơn một bận ta đi vào cõi chết”…Nhưng rồi Bích Khê cũng như Hàn “ Lòng chết đi
nhưng máu vẫn cuồng say”. Chàng đã thăng hoa nỗi đau ấy thành thơ. Và
cũng như Hàn, Bích Khê đã tìm ra cho mình một chốn giải thoát nỗi đau: đó
là thi nhân đã xây dựng cho mình một khung trời siêu thực- giải thoát:
khung trời trượng trưng đầy Nhạc- Hương- Hoa: “ Hồn ta say trong nhạc vằng kể lể/
và hồn hé nhạc thắm như hoa”.
Ấn tượng đậm nhất trong không gian thơ Bích
Khê đó là một thế giới đầy âm nhạc. Âm nhạc đắm say, âm nhạc du dương, âm nhạc
vui, âm nhạc buồn…được Bích Khê gọi bằng những cái tên khác nhau như: “ Khúc Mộng
cầm ca”, “ Khúc Lạc Mai hoa”, “ Điệu Tỳ Bà”, “Khúc Phượng cầu”, “Điệu tương
tư”, “Điệu sầu hận”…Tất cả đều lôi cuốn hồn thi sĩ, làm cho thi sĩ ngất
ngây,say đắm, thậm chí con người tan ra thành nhạc:
- Nường tan ra nhạc, tan ra nhạc
Khung trắng trời mây, trắng
lạ thường
Nường hé môi ra bay điệu
nhạc
Mát như xuân mà ngọt tợ
hương
( Hiện hình)
- Không gian tơ, không
gian tơ gợn sóng
Âm thanh gì sắp sửa Ngọc Kiều
ơi!
Hay hơi thở của hoa hồng mơ
mộng
Hay buồn đêm rào rạt trải
muôn nơi
Không gian tơ, không gian tơ
gợn sóng
Ngọc Kiều ơi! Hồn đến bến xa
khơi
(Mộng cầm ca)
- Thơ bay, thơ bay vô bàn tay ngà
Thơ ngà ngà say, thơ ngà ngà
say
Nàng ơi đừng động! có nhạc
trong giây
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát
trời mây
(Nhạc)
Bích Khê là thi sĩ đặc biệt nhạy cảm với
nhạc. Và đó không chỉ là âm nhạc thông thường của âm thanh nhạc cụ hay giọng
ca của con người mà là một thứ “nhạc tượng trưng” tổng hợp tất cả mọi âm
vang của cuộc đời, vũ trụ và tâm trạng nhà thơ. Đó là âm vang, là giai điệu của
mây, của gió, của lá rụng, của nước chảy, của tiếng chuông chùa…là nhạc của nỗi
buồn, niềm đau, của khát khao vô tận về dục tình. Do đó mà thi sĩ đã cảm
nhận được “làn da trắng tinh của người con gái, thân thể thơm tho của người
thiếu nữ cũng “ tỏa ngát hương và nảy ra điệu nhạc”. Dù có cố “Tôi
run run hãm lại cánh hồn si” thì vẫn cứ “Hồn theo với nhạc hồn ơi là hồn!”.
Không chỉ ngửi được mùa thơm của tiếng cười Ngọc Nữ, thi sĩ còn ví von
như có vẻ phi lý “ Khóc gì nghe như phả điệu đàn”. Đó là tiếng khóc của
giai nhân, trong giấc mộng,khóc cũng là nhạc, là hương,là niềm an ủi, là con
đường giải thoát khổ đau.
Ngoài nhạc, khung trời thơ của
Bích Khê còn đầy hương và màu sắc. Nhà thi sĩ “ thần linh” này có
thể ngửi thấy, cảm thấy mùi hương thơm của mọi vật: hương của lúa, hương của cỏ,
hương của hoa, hương của da thịt giai nhân, hương của mây trời, hương của “cung
điệu chốn Nghê Thường”, hương của “điệu Mai hoa” của “Khúc Phượng Cầu”…
- Nàng hé môi ra bay điệu
nhạc
Mát như xuân mà ngọt tựa
hương
Ôi sao là lúc ba sinh lụy
Rào rạt như đầy nỗi cảm
thương
(Hiện hình)
- Vầng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua
đây
Ôi nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê.
(Tỳ bà)
Tiếp theo thuyết “tương giao
giữa các giác quan” của thi sĩ tượng trưng Pháp Baudelaire (Màu sắc và âm thanh
có thể tương hợp với nhau).
Hương sắc âm thanh trong
không gian tương ứng
Có những mùi hương mát như
da thịt trẻ con
Và êm nhẹ như tiếng sáo, xanh mướt như cỏ
non.
(Baudelaire-Tương ứng).
Bích Khê cũng tạo ra thế giới
tương giao bằng các giác quan của mình.
Thế giới thơ Bích Khê là thế giới “Linh
diệu của muôn trời”. Như các thi sĩ của chủ nghĩa tượng trưng, Bích Khê đã dựa
vào tất cả cảm quan mở rộng, vào trực giác tinh tế, vào tưởng tượng phi thường,
vào cái thâm sâu bí ẩn của tâm linh vô thức…Tất cả được nhà thơ huy động với
“công suất” cao nhất để tạo nên một thế giới linh diệu. Ở trong thế giới ấy, âm
thanh, hương vị, màu sắc có thể tương thông với nhau, chuyển dịch và hòa thấu
vào nhau. Trong 76 bài thơ của hai tập “Tinh hoa” và “Tinh huyết”, Bích Khê đã
82 lần nhắc đến, tả lại âm thanh, 96 lần gợi về màu sắc và 71 lần nhắc gợi
hương thơm.
Nếu các thi sĩ của chủ nghĩa lãng mạn
nhìn thế giới chủ yếu ở mặt hữu hình và coi trọng cảm xúc (“Hãy đập vào trái
tim, thiên tài là ở đó”- A.Musset) thì các thi sĩ của trường phái tượng trưng lại
làm ngược lại: đặt thơ vào cõi vô hình và xuất phát từ cảm giác. Vì thế, thơ tượng
trưng không chỉ truyền cảm mà chủ yếu là gợi cảm, gợi ý và do đó thơ tượng
trưng thường để lại những “khấp khểnh”, “lệch pha”, “mông lung” trong trí tưởng
tượng của người đọc. Nó khó hiểu hơn nhưng lại tinh vi hơn, phức tạp hơn, đa nghĩa
hơn thơ lãng mạn. Phát hiện ra cái đặc sắc, độc đáo này của Bích Khê, Chế Lan
Viên đã chỉ rõ cách tiếp cận thơ của thi sĩ này: “Với kỹ thuật tượng trưng khi
miêu tả chiếc lá rụng thì người thơ không nói về chiếc lá lìa cành mà nói đến
cái trống vắng của cây khi lá rơi”. Chẳng hạn, đây là một trời “mông lung”,
lung linh rất gợi cảm nhưng vô hình của “cõi Nghê thường”:
Ôi trời hôm nay sao mà xanh
Ngọc trăng xây vàng trên
muôn cành
Nhung mây tê ngời sao kim
cương
Dạ lan tê ngời say men hương
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như pha lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô?
(Nghê thường).
Hoặc nhà thơ chỉ gợi ra một
không gian tương hợp của các giác quan:
Ta những muốn sầu thương
thôi biểu lộ
Sắc trong màu, màu trong sắc
hân hoan
Ta những muốn mùa đông nhường
lại chỗ
Nhạc gầy hương, hương gầy nhạc
lan man
Cả không gian là bể sóng
tràn lan.
(Đồ mi hoa).
Do đó ta mới hiểu, vì sao thế giới thơ của
Bích Khê toàn được xây cất lên bằng các vật liệu kỳ lạ: âm thanh kỳ lạ, đường
nét, màu sắc kỳ lạ, hương thơm kỳ lạ, chất liệu kỳ lạ (“ánh sáng lưu ly”, “ánh
dạ quang”, “ánh trăng hường”, “lòng trăng mật”, “da thịt tuyết”, “mùi tô hợp”,
“hương trầm”, “hương xạ”, “hương tô hợp”, “hương hân hoan”…). Và ta cũng hiểu
vì sao Bích Khê lại gọi khung trời thơ của mình bằng những cái tên cũng kỳ lạ nốt:
“chốn vô biên”, chốn phương phi, chốn Diên Trì, chốn Kim Sa”, “nơi Ngọc Nữ”,
“nơi hoan lạc”, “nơi Kim Đồng”, “nơi thanh khí”, “bến sông Ngân”, “bến sông
Tương”, “hội đào Tiên”, “đỉnh Nga My”…
Tóm lại, không gian nghệ thuật của các
thi nhân Trường thơ loạn không chỉ có một cõi trần thế vừa tươi sáng vừa u buồn
mà còn có một cõi siêu thực huyền diệu, kỳ ảo và kinh dị. Nhờ đó, thế giới thơ
của Trường thơ loạn không chỉ có thế giới hữu hình mà còn có cả thế giới vô
hình đầy ám ảnh: ám ảnh của dục vọng, ám ảnh về cái chết, ám ảnh về cõi Thiên
Đàng, cõi Niết Bàn, cõi Âm Phủ. Nói cách khác, đó không chỉ là sản phẩm của trí
tưởng tượng phi thường, kỳ lạ mà còn là sản phẩm của những vô thức sâu thẳm đầy
bí ẩn. Cũng nhờ đó, các thi nhân của Trường thơ loạn đã làm “lạ hóa” vườn thơ
lãng mạn, mở rộng biên giới thơ lãng mạn đến độ “rộng rinh không bờ bến” như lời
khẳng định của Hàn Mặc Tử.
Và qua đó, các nhà thơ độc đáo này đã đổi
mới cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ về vũ trụ, về cuộc đời, về con người cho những
kẻ yêu thơ.
3. Thời gian nghệ thuật trong trường thơ loạn
Cũng như không gian, thời gian là một phạm trù triết học phổ quát. Như một chân lý vĩnh hằng, khi ta nói “tồn tại” hay “vũ trụ”, “thế giới” thì đương nhiên “tại - vũ - giới” là không gian, còn “tồn - trụ - thế” là thời gian. Nói cách khác, không có cái gì (dù là hiện hữu trong thực tế hay trong tâm tưởng con người) là nằm ngoài không gian và thời gian cả.
Thời gian nghệ thuật là thời gian tồn tại trong các tác phẩm nghệ thuật. Nó có cơ sở từ thời gian vật lý nhưng đã được người nghệ sĩ sáng tạo lại. Ý thức về thời gian cũng chính là ý thức về cuộc đời và con người. Khác với thời gian vật chất khách quan, thời gian nghệ thuật phụ thuộc vào cảm giác chủ quan của từng nghệ sĩ. Người nghệ sĩ có thể thay đổi nhịp điệu vận động của thời gian, có thể đảo ngược các chiều vận động của thời gian, có thể dồn nén hay kéo dài thời gian, có thể làm cho thời gian đồng hiện, v.v…
Với văn học nói riêng, thời gian nghệ thuật là một yếu tố thi pháp làm nên chỉnh thể thống nhất của một tác phẩm, một trào lưu văn học. Nghiên cứu thời gian nghệ thuật vừa giúp ta cảm thụ, cắt nghĩa tác phẩm trong tính cụ thể - sáng tạo của nó, vừa giúp ta hiểu được quan niệm nghệ thuật và phong cách của các nhà văn.
Sau đây chúng tôi sẽ đi vào khảo sát, cắt nghĩa hình tượng thời gian của các thi nhân Trường thơ loạn xem nó có những đặc sắc gì và ý nghĩa của chúng ra sao trong việc “giải mã” những bí ẩn của Trường thơ loạn Bình Định.
3. “Giải mã” những bí ẩn của Trường thơ loạn Bình Định.
3.1. Từ nỗi ám ảnh khôn nguôi về quá khứ…
Nếu nhìn một cách tổng quát về ba phạm trù thời gian: quá khứ - hiện tại - tương lai thì văn học hầu hết đều biểu đạt hiện tại nhiều nhất. Bởi vì hiện tại chính là ý thức chủ yếu của các nhà văn khi sáng tác ra các tác phẩm, cũng là ý thức chủ đạo của các nhân vật (sống trong hiện tại). Nếu có nói về quá khứ cũng là để đối chiếu, so sánh với hiện tại, để làm rõ hiện tại. Còn có nói đến tương lai cũng là để làm rõ hơn hiện tại và thể hiện sự kì vọng, sự đợi chờ (chẳng hạn ở đa số các nhà Thơ Mới, hiện tại thường hoặc đẹp đẽ, nên thơ, hoặc u sầu, cô đơn, bế tắc; quá khứ đẹp đẽ, hùng tráng được nói đến chủ yếu để tiếc nuối, để phủ nhận hiện tại; còn tương lai ư? Tương lai thì mờ mịt nên họ thường sợ và rất ít đề cập tới, nói như Xuân Diệu: “Gấp đi em anh rất sợ ngày mai”).
Qua khảo sát toàn bộ thi phẩm của ba nhà thơ tiêu biểu nhất của Trường thơ loạn, chúng tôi nhận thấy: Hàn Mặc Tử và Bích Khê đều ít nói về quá khứ một cách tực tiếp (qua các trạng từ chỉ trực tiếp quá khứ như: thời xưa, thuở ấy, ngày trước, năm xưa,…). Hay nói chính xác, thời quá khứ đã hòa vào không gian của cõi mộng, cõi huyền diệu kì ảo của những chốn “Sông Ngân, sông Trương, Ngọc Nữ, Đào Tiên, Phương Trì, Kim Tinh, Kim Đồng, Xuân Hương, Thôi Hiệu, Tây Vương Mẫu, Cực lạc, Phục sinh, Khải huyền,…” Toàn những địa danh gợi nhắc về các sự tích, các truyền thuyết của quá khứ xa xăm trong sử sách và trong huyền thoại. Chỉ có Chế Lan Viên là công khai, trực tiếp và quyết liệt phủ nhận hiện tại và tương lai để quay ngược về quá khứ, chìm đắm vào quá khứ, dựng quá khứ sống dậy trong hiện tại:
- Tạo hóa hỡi! Hãy trả tôi về Chiêm Quốc
Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian
Muôn cảnh đời chỉ làm tôi chướng mắt
Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ điêu tàn
(Những sợi tơ lòng)
- Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời
(Trên đường về)
- Ta nhắm mắt mặc yên cho hiện tại
Biến dần ra dĩ vãng ở trên mi
(Tạo lập)
Theo khảo sát của chúng tôi, trong 36 bài thơ của Điêu tàn thì có tới 31 bài thi sĩ nói về quá khứ. Ngay cả khi hai nhà thơ Hàn – Bích đều nói nhiều về mùa xuân, mùa thu thì Chế đã dứt khoát tuyên ngôn:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu
Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Với cả hoa tươi muôn cánh rã
Về đây đem chắn nẻo xuân sang
(Xuân)
Các nhà Thơ Mới lãng mạn cũng ít nhiều có nói về quá khứ, nhưng phần lớn đó là cái quá khứ tươi đẹp hơn hẳn hiện tại để mà tiếc nuối, để mà soi chiếu với cái hiện tại buồn tẻ, nhàm chán, cô đơn (cõi “Thiên Thai” của Thế Lữ, thời hùng tráng xa xưa của Huy Thông, thuở “Hạc theo trăng còn ở lẫn với người” của Xuân Diệu, buổi vinh quy” võng anh đi trước võng nàng theo sau” của Nguyễn Bính…).
Còn ở Điêu tàn của Chế Lan Viên, đó là cái quá khứ đau thương và uất hận của một dân tộc đã bị chôn vùi vào dĩ vãng. Đó là quá khứ của những đoàn quân Chiêm, của những nàng Chiêm Nữ, của những nấm mồ chứa đầy đầu lâu, xương khô của ma Hời, là những hồn ma vật vờ trong nghĩa địa…Với tư tưởng chán nản, tuyệt vọng, nhà thơ thường ngụp lặn vào quá khứ để quên đi mọi khổ đau trong hiện tại. Nhưng đó cũng chỉ là một ảo tưởng “phi thường” không bao giờ thực hiện được. Làm sao mà quên được hiện tại đang diễn ra hàng ngày, đang diễn ra trước mắt. Cho nên dẫu ông ước ao: “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh/ Một vì sao trơ trọi cuối trời xa/ Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh/ Những ưu phiền đau khổ với buồn lo” (Những sợi tơ lòng) hoặc ước muốn “Tôi không muốn đất trời xoay chuyển nữa” thì cũng chỉ là một ảo ảnh ngông cuồng trong tư tưởng, tâm tưởng mà thôi. Bởi vậy, thi nhân bỗng cay đắng nhận ra:
Còn ở Điêu tàn của Chế Lan Viên, đó là cái quá khứ đau thương và uất hận của một dân tộc đã bị chôn vùi vào dĩ vãng. Đó là quá khứ của những đoàn quân Chiêm, của những nàng Chiêm Nữ, của những nấm mồ chứa đầy đầu lâu, xương khô của ma Hời, là những hồn ma vật vờ trong nghĩa địa…Với tư tưởng chán nản, tuyệt vọng, nhà thơ thường ngụp lặn vào quá khứ để quên đi mọi khổ đau trong hiện tại. Nhưng đó cũng chỉ là một ảo tưởng “phi thường” không bao giờ thực hiện được. Làm sao mà quên được hiện tại đang diễn ra hàng ngày, đang diễn ra trước mắt. Cho nên dẫu ông ước ao: “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh/ Một vì sao trơ trọi cuối trời xa/ Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh/ Những ưu phiền đau khổ với buồn lo” (Những sợi tơ lòng) hoặc ước muốn “Tôi không muốn đất trời xoay chuyển nữa” thì cũng chỉ là một ảo ảnh ngông cuồng trong tư tưởng, tâm tưởng mà thôi. Bởi vậy, thi nhân bỗng cay đắng nhận ra:
Ta vẫn thấy hồn ta buồn ủ rũ
Và cõi lòng ta dày đặc bóng đêm mờ
(Nắng mai)
Nếu các hình ảnh: “Tháp Chàm, Sông Linh, tinh cầu, huyệt mộ, đầu lâu, xương tủy,…” là những hình ảnh được lặp đi lặp lại trở thành những biểu tượng của không gian “kinh dị” thì hình ảnh “đêm mờ” cũng được lặp lại 29 lần và nó trở thành biểu tượng của thời gian quá khứ bi hận. Chỉ có dưới “đêm mờ” thì thi nhân mới tâm sự được với các hồn ma Hời, chỉ có “đêm mờ” thì mộng mới thoả sức tung hoành. Bình minh lên thì giấc mộng tan, hồn ma cũng biến mất.
Tiếng gà bỗng từ đâu vang dội lại
Hồn yêu tinh sực tỉnh giấc mơ nồng
Và vội vã trở về nơi u tối
Quên làn xương trong cỏ đóng sương trong.
(Đêm tàn)
Hồn Yêu tinh, hồn Ma Hời trong bóng đêm mờ vẫn trở lại cõi trần gian nhưng rồi tiếng gà, ánh bình minh báo hiệu, trong khoảnh khắc chúng đẩy thời gian trở về “cõi tịch liêu”, để rồi còn lại: “Các cô hồn lặng ngắm cõi hư vô/ Rồi đua nhau trở lạị nấm mồ sâu”. Ở Điêu tàn, thi nhân đã xóa nhòa thời gian tâm tưởng và tâm linh sâu thẳm đầy ám ảnh. Các cô hồn sợ hãi trần gian cũng là biểu tượng cho tâm trạng của nhà thơ. Thời gian hiện tại, không gian trần thế trong thực tại chỉ đem đến đau buồn, chỉ làm thi nhân “chướng mắt”. Vậy chỉ còn con đường: “Nó thoát hiện tại, nó xối trộn dĩ vãng, nó ôm trùm tương lai. Người ta không hiểu được nó vì nó nói những cái vô nghĩa, tuy rằng những cái vô nghĩa hợp lí…và vênh vang, kiêu ngạo, ta lấy mây làm bút, lấy trăng làm mực đề lên nền trời xanh:
Trong thơ ta dân Chàm luôn sống mãi
Trong thơ ta xương máu khóc không thôi.”
(Tựa Điêu tàn)
Như thế, chính những ám ảnh dữ dội, khôn nguôi về lịch sử của một dân tộc đã bị tiêu vong, chính nỗi đau buồn “vong quốc”, trước thực tại nước mất nhà tan trong cuộc đời nô lệ đã là lực đẩy cực mạnh cuốn toàn bộ tâm trí Chế Lan Viên khi ấy mới 15, 16 tuổi vào thế giới của Điêu tàn quá khứ. Đó thực chất là tư tưởng của Chế Lan Viên qua tập thơ này: gián tiếp thức tỉnh nỗi đau mất nước và cũng là gián tiếp lay động tinh thần yêu nước trong mỗi con người Việt Nam thuở ấy. Do đó ta mới hiểu điều nhà thơ viết trong cùng lời Tựa nổi tiếng ấy: “Điêu tàn có riêng gì cho nước Chiêm Thành yêu mến của tôi đâu? Kìa kìa nó đang đục sọ chìa anh”. Và cuối cùng, đó là một cách “đi tìm thời gian đã mất” của Trường thơ loạn.
Như ở trên chúng tôi đã khẳng định: đối với Hàn Mặc Tử và Bích Khê, hai thi nhân ít công khai, trực tiếp tuyên ngôn sự phủ nhận thực tại và hiện tại như Chế Lan Viên mà ám ảnh về quá khứ được thể hiện gián tiếp qua các hình tượng thơ thuộc về một quá khứ xa xăm. Đó là thế giới của các nhân vật lịch sử hay truyền thuyết như “Tây Thi, Lộng Ngọc, Điêu Thuyền, Tề Tuyên Vương, Tây Vương Mẫu, Hồ Xuân Hương, đức chúa Giê-su, đức mẹ Maria”,… hoặc các hình tượng về không gian kì ảo, huyền diệu như chốn “Kim Sa, chốn Kim Tinh, bến sông Ngân, sông Tương, nơi Hoàng Hạc, Phượng Trì, Ngọc Nữ, Kim Đồng,…” Chẳng hạn:
- Non nước tâm tình rộng bốn phương
Để em làm nhạc, tôi làm hương
Đêm nay đại yến Lâm Xuân Các
Điêu Thuyền đàn khúc Tề Tuyên Vương
(Hàn Mặc Tử - Nợ duyên)
- Chàng ơi! Đêm nay nín thở
Để hồn biến thành hương
Chập chờn trong Nữ Yêu
Vào ra theo rặng lựu
Chập chờn trong ba tiêu
(Bích Khuê – Ngũ Hành Sơn)
Thì cái thời gian “đêm nay” cũng vẫn chỉ là cái “đêm ấy” xa thẳm của quá khứ mà thôi. Hiện tại và quá khứ có khi “đồng hiện” để thi sĩ Hàn Mặc Tử phải thốt lên: “Tây Thi nàng hỡi bao nhiêu tuổi/ Vẻ đẹp mê tôi vẫn nõn nà” hoặc làm cho Chế Lan Viên phải bàng hoàng: “Ai bảo giùm ta… ta có, có ta không?”
3.2. …Đến thời gian đột biến và gấp gáp trong hiện tại
Ở trên, chúng tôi đã khảo sát, cắt nghĩa về xu hướng vận động của thời gian nghệ thuật Trường thơ loạn. Đó là thời gian từ hiện tại quay ngược về quá khứ, dùng quá khứ để thấu hiểu sâu sắc hơn về hiện tại, đồng thời quay về quá khứ cũng là một con đường để thoát ly thực tại, cũng là con đường giải thoát khổ đau trong hiện tại.
Đến đây, chúng tôi sẽ bàn về nhịp điệu của thời gian nghệ thuật trong Trường thơ loạn.
Như chúng ta đã biết, nhịp điệu nhanh hay chậm của thời gian nghệ thuật cũng là một dấu hiệu thể hiện quan niệm nghệ thuật về cuộc đời và con người. Ý thức về sự vận động của thời gian cũng là ý thức về ý nghĩa của cuộc sống và số phận mỗi người. Thơ cổ điển có một quan niệm đặc trưng về sự vận động của thời gian, đó là thời gian lặp lại theo chu kì tuần hoàn: xuân qua rồi hè tới, hè qua thì thu rồi đông tới. và xuân lại về. Nghĩa là thời gian không mất đi đâu cả, nó chỉ vận động tuần hoàn theo năm tháng mà thôi. Con người cũng vậy, sinh – lão – bệnh – tử là quy luật lặp lại muôn đời. Cũng như thời tiết: hết mưa là nắng, hết nóng là lạnh; cũng như sự thay đổi của các triều đại: hết thịnh lại suy, hết suy phải thịnh, v.v… Do đó, các thi nhân cổ điển nắm được quy luật vận động ấy của thời gian lúc nào cũng ung dung, tự tại, rèn luyện cho cái tâm tĩnh trước cái động của ngoại cảnh.
Chỉ đến Thơ Mới, khi các nhà thơ có được ý thức sâu sắc về cái tôi cá thể thì họ mới cảm nhận được điều này: thời gian luôn vận động “như ngọn gió, như dòng nước” không ngừng nghỉ. Thời gian trôi qua là mất đi. Thời gian là vô hạn mà mỗi con người chỉ là hữu hạn, là ngắn ngủi vô cùng. Do đó, để chống lại sự trôi chảy ấy của thời gian, để kéo dài sự ngắn ngủi của kiếp người, chỉ có một cách: tăng cường cường độ sống mãnh liệt “bằng toàn tim, toàn óc, toàn hồn” như Xuân Diệu hằng tuyên bố. (“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Hoặc: “Trút ngàn năm trong một phút chơi vơi”).
Tất nhiên, không phải nhà Thơ Mới nào cũng hốt hoảng, cũng bị ám ảnh bởi thời gian như Xuân Diệu (“Nhanh lên chứ, vội vàng lên với chứ/ Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…” Hoặc: “Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sắp già”…). Chẳng hạn như Huy Cận cùng thời với Xuân Diệu lại chỉ thường khắc khoải bởi không gian luôn buồn sầu, luôn nhớ tiếc không gian.
Đối với các thi nhân của Trường thơ loạn, hoặc do định mệnh số phận bi kịch xô đẩy hoặc do nỗi chán chường thực tại đưa đường, họ luôn có mặc cảm về sự cô đơn, về sự chia lìa vĩnh viễn với cuộc đời này dù họ khôn nguôi lưu luyến:
Ta còn trìu mến biết bao người
Vẻ đẹp xa hoa của một thời
Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng
Ôi! Giờ tiễn biệt sắp chia phôi
(Hàn Mặc Tử - Trút linh hồn)
Dưới áp lực nghiệt ngã của định mệnh, lại liên tiếp phải uống “những chén đăng của tình yêu”, Hàn Mặc Tử sáng tạo dồn dập, sáng tạo “điên cuồng” để chạy đua với tử thần. Nhà thơ sống trong tâm trạng nhập nhòa giữa cõi thực và cõi mộng, giữa lí trí tỉnh táo và cảm xúc, tưởng tượng vọt trào, miên man. Trong bài tiểu luận Chiêm bao với sự thật, Hàn đã tả lại trạng thái sáng taọ của mình như sau: “Ngoại cảnh đã xâm lấn xác thịt và linh hồn tôi. Bao nhiêu là tinh anh của non sông đều xông vào tôi, rút hết tinh túy tôi. Tôi có thể bảo đây là một lối thần giao cách cảm mà ngoại cảnh hay thâm tâm đồng xáo động…Chiêm bao rã rời trong khi ánh sáng sự thực dọi tới. Bây giờ ngoại cảnh và nội tâm điều hòa, run lên như những nhịp tiêu thiều thanh bai…Tôi cảm thấy hồn tôi mất đi một nửa, và tôi đang sống trong sự mơ hồ”. Trạng thái này Hoàng Ngọc Hiến gọi là “siêu thức”, là nhận thức mà ở đó phải trái không chỉ có sự đối lập mà còn giao hòa vào nhau: hư và thực, tỉnh táo và mơ hồ, gần và xa, hiện tại, quá khứ, tương lai…Và những bài thơ của Hàn, của Bích và Chế ra đời trong các trạng thái như thế hẳn không thể tuân theo logic thông thường. Nói như Chế Lan Viên là: “Tử không làm thơ mà bị thơ làm”. (Thơ là những “tốc ký” tâm trạng đang trôi chảy, chuyển biến không ngừng, dứt gãy không ngừng). Mà đã làm thơ trong tâm trạng bất định như thế thì vấn đề cảm nhận thời gian của các nhà thơ cũng không còn tuân theo logic tuần tự trước – sau thông thường nữa. Chẳng hạn, ở bài Đây thôn Vĩ Dạ, có ba khổ thơ. Ở khổ một, thi nhân đang hồi tưởng, đang say sưa “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”, đang trầm trồ với vẻ đẹp “mướt xanh như ngọc” của “vườn ai” và khuôn “mặt chữ điền” phúc hậu thấp thoáng sau khóm trúc thì vụt một cái, đến khổ hai là cảnh đêm trăng, sông trăng với mặc cảm chia lìa, lỡ làng của “thuyền tình”, “có chở trăng về kịp tối nay?”. Đến khổ ba, lại thoắt hiện lên cảnh sắc âm u, mờ ảo “sương khói” với thời gian mơ hồ. Cả không gian “ngoài kia” (xứ Huế) và “ở đây” (Quy Nhơn), buổi bình minh và đêm đến cứ nhập nhòa trong tâm tưởng nhà thơ.
Cũng như thế, ở bài Mùa xuân chín, thi nhân đang đầy hứng khởi với cảnh sắc mùa xuân trong hiện tại:
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
Thì đột nhiên lại ám ảnh bởi một tương lai chia lìa, tan cuộc:
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi
Đối với Chế Lan Viên và Bích Khê cũng vậy. Thời gian đột biến, bất ngờ, đứt gãy, nhảy cóc thường xuyên xuất hiện trong Điêu tàn, Tinh hoa và Tinh huyết. Thời gian vận động giữa cõi thực và cõi mộng thường bất ngờ, đột ngột:
- Tiếng gà bỗng từ đâu vang dội
Hồn yêu tinh sực tỉnh giấc mơ nồng
Và vội vã trở về mồ u tối
Quên làn xương trong cỏ đắm sương trong
(Chế Lan Viên – Xương khô)
- Lời chưa dứt bóng đêm đà vụt biến
Tình thưa nồng đã sấp phải phôi pha
Trên trần gian vầng ô kia đã đến
Gỡ hồn nàng ra khỏi mảnh hồn ta
(Chế Lan Viên – Đêm tàn)
Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng thu
Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh mờ
Và châu và báu và thanh khí
Nức nở tan thành vạn giọt thơ
(Bích Khê – Bản đàn thơ)
Nhịp điệu thời gian của các thi sĩ Trường thơ loạn dường như có sự truy đuổi gấp gáp. Chẳng thế mà ở thơ của họ thường xuất hiện khá nhiều từ ngữ diễn tả các cung bậc của tâm trạng dồn dập như: đuổi, chạy theo, bắt, kìm, mau, cho mau, vụt, thoắt, bỗng,…
- Lòng ta rào rạt như làn sóng
Tay ngoắt đám mây dừng lại ngay
Mây vốn hơi sương mà đọng lại
Mau bay vào cuống họng ta đây
(Hàn Mặc Tử - Tiếng vang)
- Đem mau đây chiếc sọ dừa ứ huyết
Chiếc xương khô rợn trắng khí tinh anh
Và rót mau trong hồn ta tê liệt
Những nguồn thơ rồ dại hỡi yêu tinh
(Chế Lan Viên – Điệu nhạc điên cuồng)
- Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng thu
Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh mờ
Và châu và báu và thanh khí
Thoắt đưa ta về với nẻo thơ
(Bích Khê – Đây bản đàn thơ)
Trên đây chúng tôi đã tìm hiều về những nét tương đồng của ba thi sĩ tiêu biểu nhất trong Trường thơ loạn. Tuy nhiên, xét về phương diện thời gian nghệ thuật, ba thi sĩ này lại có những điểm khác biệt.
Điểm khác biệt thứ nhất, thời gian trong thơ Hàn có sự đối lập gay gắt giữa sáng và tối, giữa ngày và đêm. Nếu ở tập Gái quê có nhiều bài thơ diễn tả ban ngày với nhiều nắng: “nắng mới”, “nắng chang chang”, “nắng lao xao”,… thì trái lại, từ tập Thơ điên trở đi, phần lớn thời gian lại nghiêng hẳn về đêm với nhiều trăng. Chính bóng đêm và ánh trăng đủ hình đủ dạng, đủ màu này mới tương xứng với những cung bậc cảm xúc tăm tối, cô đơn u buồn, đau thương và ước mơ giải thoát thực tại của Hàn. Đêm trăng vừa hóa giải đau thương vừa là cõi để cho hồn tha hồ vùng vẫy, thăng hoa vào cõi vĩnh hằng.
Chỉ có trăng sao là bất diệt
Cái gì hết thảy sẽ đi qua
(Thời gian)
Trong khi đó, trong thơ Chế tuyệt đại bộ phận thời gian là bóng đêm u tối: đêm mờ, đêm sâu, đêm sầu, đêm hư – vô, bóng tối, đêm xuân sầu, đêm tàn,… Đó cũng chính là thời gian thích hợp nhất để bóng ma Hời, hồn Yêu Tinh sống dậy và tâm tình với thi nhân.
Điểm khác biệt thứ hai, trong bốn mùa xuân – hạ - thu – đông của một năm, nếu Hàn Mặc Tử là người yêu nhất mùa xuân (“mùa xuân chín”, “xuân như ý”, “xuân đầu tiên”, “cưới xuân cưới vợ”) thì Bích Khê lại là người yêu nhất mùa thu mặc dù đó có thể là thu đau thương (“Mỗi mùa thu ôm ấp một niềm thương”), thu buồn (“chụp hồn ma than vãn giữa đêm thu”), thu gầy (“Như hoa mảnh khảnh xác thu gầy”), nhạc thu đau thương (“Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng thu”), màu thu đẫm tình (“Trời lam nhung ứ đặc tình thu”). Trong khi đó, Chế Lan Viên công khai cự tuyệt cả bốn mùa, ngay cả mùa xuân tươi đẹp nhất:
Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu…
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Với cả hoa tươi muôn cánh rã
Về đây đem chắn nẻo xuân sang
(Xuân)
Và ở đỉnh cao của chán nản, tuyệt vọng, Chế Lan Viên đã phủ định ba chiều của thời gian:
Cả dĩ vãng là chuỗi mồ vô tận
Cả tương lai là chuỗi huyệt chưa thành
Và hiện tại biết cùng chăng hỡi bạn
Cũng đương chôn lặng lẽ tuổi ngày xanh
(Những nấm mồ)
Điểm khác biệt thứ ba, trong khi Chế Lan Viên quyết liệt phủ nhận cả ba chiều của thời gian, biến thời gian trở thành hư vô thì Hàn Mặc Tử và Bích Khê lại hướng về thời gian vĩnh hằng của cõi tâm linh, đó là thời gian của cõi trời vô thủy vô chung, là thời gian hằng cửu nơi các nàng Tiên từng được hưởng hoan lạc vô biên của Năm muôn năm, Trời muôn trời” Với Bích Khê, đó là thời gian “Hồn tôi đã thoát để tiêu dao”, là thời gian ở “chốn Kim Tinh, chốn Lưu Ly, hội Đào Tiên, Nơi Ngọc Nữ, nơi thanh khí”, là nơi Xuân Hương, Thôi Hộ, Lý Bạch từng sống thuở nào… Đó là nơi thời gian ngừng trôi chảy để thi nhân sống mãi trong cõi trời đầy ánh sáng hào quang, đầy nhạc mê hồn, đầy hương thơm ngào ngạt. Với Hàn Mặc Tử, đó là thời gian “vô thủy vô chung” ở “xứ say mơ, chốn Phượng Trì, Cung Quế, Cung Quảng Hàn”, là cõi của các nàng Tiên đi lễ hội… Đó là thời gian vĩnh hằng của “mùa xuân vô cùng đến ngàn năm ơn phước, là phong vị thái hòa của năm muôn năm, trời muôn trời trên châu lưu thượng tầng thanh khí, bàng bạc cả dải Hà Sa chen lấn vô tận tâm hồn tạo vật” (Xuân như ý). Đó là thời gian của ước mơ, của khát vọng tâm linh tôn giáo sâu thẳm. Và ở khung trời tâm linh ấy, các thi sĩ tin rằng họ sẽ trường cửu:
Ta sống mãi với trăng sao, gấm vóc
Trong nắng thơm, trong tiếng nhạc thần bay
(Hàn Mặc Tử - Trường thọ)
Kết luận
1. Chỉ sau một khoảng thời gian ngắn ngủi gần mười năm tồn tại, Trường thơ loạn Bình Định đã tạo ra được những vầng hào quang khác thường, rực rỡ tỏa sáng trên thi đàn Việt Nam đương thời. Bằng những nỗ lực phi thường, ba thi nhân tiêu biểu nhất của trường thơ này đã có những đóng góp quan trọng vào cuộc cách mạng thi ca của phong trào Thơ Mới 1932 - 1945, góp phần đưa văn học dân tộc tiến nhanh trên con đường hiện đại hóa. Nếu giả thiết không có khu vườn thơ Loạn, thì Thơ Mới vĩnh viễn chỉ nằm gọn trong phạm vi, khuôn khổ của thơ lãng mạn thuần túy chứ không thể nào xé rào vươn tới vườn thơ tượng trưng, siêu thực. Nói cách khác, nhờ có thơ Loạn mà khung trời Thơ Mới đã được mở ra “rộng rinh không bờ bến” như Hàn Mặc Tử từng ước vọng. Dường như Trường thơ loạn đã in đậm lại bản sắc độc đáo, phong phú của miền đất Quy Nhơn, Bình Định với thiên nhiên sơn thủy hữu tình, với đủ các truyền thống lịch sử - văn hóa của người Việt, người Chăm, với các luồng giao lưu tư tưởng phương Đông – phương Tây, Phật giáo – Đạo giáo và Thiên chúa giáo. Và cuối cùng, Trường thơ loạn đã góp phần quan trọng khiến người đời phong tặng cho Bình Định không chỉ là nơi đất võ mà còn có “trời văn”, khiến Quy Nhơn trở thành một “Thành phố thi ca”. Người Quy Nhơn, người Bình Định hoàn toàn có quyề tự hào về điều đó, bởi trên xứ sở Việt Nam này, có nơi nào được dư luận phong tặng như vậy đâu (đất võ: khí phách, trời văn: tâm hồn).
2. Một trong những đặc trưng và cũng là thành công nổi bật nhất của các thi nhân Trường thơ loạn là đã kết hợp được một cách hài hòa và độc đáo chất đời và chất đạo trong thơ. Thực chất đây là mối quan hệ mật thiết, hữu cơ giữa nghệ thuật, hiện thực và tôn giáo, giữa lý trí, tình cảm và tâm linh. Đã có khá nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học tranh luận, thậm chí “tranh chấp” Hàn Mặc Tử cũng như Chế Lan Viên, Bích Khê thuộc tôn giáo nào. Đối với các thi nhân của Trường thơ loạn, các tôn giáo: Thiên chúa giáo, Phật giáo, Đạo giáo vừa là đức tin thiêng liêng nhưng quan trọng hơn đó chính là động lực mạnh mẽ khơi nguồn cho sáng tạo thi ca. Từ cảm hứng về hiện thực cuộc đời kết hợp với cảm hứng về thân phận đau thương, các thi sĩ Trường thơ loạn đã vươn tới cảm hứng về Đức Chúa Trời, về thế giới Phục Sinh khải huyền, cõi vĩnh hằng Niết Bàn và chốn Đào Nguyên… Hành trình thơ này của Trường thơ loạn đã đi một khoảng rất dài nhưng rất nhanh chóng từ thơ cổ điển sang thơ lãng mạn và cuối cùng là tượng trưng, siêu thực theo kiểu phương Tây.
3. Một đặc sắc nữa cũng cần được khẳng định: các thi sĩ của Trường thơ loạn đã có sự cách tân táo bạo về quan niệm nghệ thuật (tóm tắt: “Thi sĩ là những kẻ khác người, khác thường để làm ra sự phi thường; thơ chính là hoa trái của đau thương, là tận cùng của niềm hoan lạc”…). Do đó, các thi nhân độc đáo này đã thay thế mô hình thi sĩ lãng mạn mộng mơ, đẫm tình bằng mô hình thi sĩ khác thường – khác thường đến mức cực đoan, kì dị.
Những quan niệm nghệ thuật “độc nhất vô nhị” ấy được tích hợp với tư duy và cảm xúc thơ tôn giáo đã sản sinh ra những không gian nghệ thuật đôc đáo và lạ lùng của Trường thơ loạn. Từ không gian trần thế vừa tươi sáng vừa u sầu, các thi sĩ thơ Loạn đã mở ra nhiều không gian mới: không gian của Âm phủ - huyệt mộ kinh dị, không gian của vũ trụ sâu thẳm, bao la tràn ngập ánh sáng, âm thanh, sắc màu, hương thơm… Những khung trời mới ấy là nơi các thi nhân thỏa sức vẫy vùng cảm xúc tuôn trào, mãnh liệt; là nơi quên đi bao đau thương của cuộc đời và số phận bi kịch. Đó là không gian giải thoát của những “thi sĩ phi thường”.
4. Và cũng là một hệ quả tất yếu, thời gian nghệ thuật của các thi nhân Trường thơ loạn không thể là thứ thời gian bình thường, tuần tự theo logic thông thường. Các thi nhân của Trường thơ loạn đã đắm chìm vào thời gian quá khứ xa xăm (hoặc là dĩ vãng bi hận của dân tộc Chiêm Thành, hoặc là dĩ vãng của những cõi huyền diệu, tôn giáo như thời Đao Ly, Đâu Xuất, Cực lạc, Kim Tinh, Ngọc Nữ, Kim Sa, Nga My,… hoặc là dĩ vãng của những nhân vật sử sách xa xưa như Lý Bạch, Thôi Hiệu, Hồ Xuân Hương, Lưu Nguyễn,…). Và sau khi tàn những giấc mộng, họ lại trở về với cõi trần thế đau thương, bế tắc, tuyệt vọng. Thời gian lúc này thường dồn dập truy đuổi các thi nhân. Cõi thực và cõi mơ thường nhập nhòa, bất định trong tâm tưởng, vì vậy thời gian của các cung bậc tâm trạng thường đột biến, bất ngờ, gấp khúc. Đó là dòng chảy không ngừng chắp nối của cá ý thức và vô thức. Và cuối cùng, các thi nhân của Trường thơ loạn lại vươn tới không gian huyền diệu, kì ảo với thời gian vĩnh hằng “vô thủy vô chung” ở miền cực lạc. Đó cũng là thời gian giải thoát đau thương của những thi sĩ “điên”, thi sĩ “thần kinh”.
Trải qua những giai đoạn thăng trầm của phong trào Thơ Mới, Trường thơ loạn Bình Định có lúc được ngợi ca, có khi lại bị phủ nhận, bị chỉ trích gay gắt bởi đây là một hiện tượng văn học đầy phức tạp, bí ẩn. Và trong quá trình đổi mới của đất nước, của văn học (nhất là quá trình mở cửa giao lưu rộng rãi với văn học phương Tây), ngày nay Trường thơ loạn Bình Định đang dần dần trở lại giá trị, vị trí đích thực của mình. Ba thi sĩ độc đáo có một không hai (Hàn – Chế - Bích) của phong trào Thơ Mới và của cả nền thi ca Việt Nam đang ngày càng được giới nghiên cứu – phê bình văn học và công chúng yêu thơ khẳng định, đề cao.
Có thể nói, các thi sĩ của Trường thơ loạn Bình Định như những con trai dưới đáy bể âm thầm kết tinh những đau thương của mình để dâng hiến cho đời những hạt ngọc thơ. Tình bạn chân tình, thắm thiết, vô tư cùng với những nỗ lực sáng tạo phi thường vượt lên số phận bi kịch của họ mãi mãi là những bài học quý giá cho các thế hệ yêu thơ hôm nay và mai sau.
Tài liệu tham khảo
1. Vũ Tuấn Anh, Chế Lan Viên – về tác gia, tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000.
2. Lại Nguyên Ân, Thơ Mới 1932 – 1945, tác giả và tác phẩm, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1999.
3. Nguyễn Bao, Xuân thu nhã tập, NXB Văn học, Hà Nội, 1991.
4. Phan Canh, Thi ca Việt Nam thời tiền chiến, NXB Đồng Nai, 1999.
5. Phan Cự Đệ, Phong trào Thơ Mới 1932 – 1945, NXB KHXH, Hà Nội, 1996 (Tái bản).
6. Phan Cự Đệ, Hàn Mặc Tử - phê bình và tưởng niệm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
7. Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB KHXH, Hà Nội, 1974.
8. Hà Minh Đức, Điêu tàn và tâm hồn thơ ca Lan Viên, TCVH số 10/1996.
9. Hoàng Diệp, Hàn Mặc Tử, NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1969.
10. Hoàng Diệp, Chế Lan Viên, NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1969.
11. Xuân Diệu, Thơ của người, Báo Ngày nay, ngày 07/08/1938.
12. Xuân Diệu (tuyển tập), NXB Văn học, Hà Nội, 1982.
13. Trần Thanh Địch, Những kỉ niệm về Hàn Mặc Tử, Báo Người mới ngày 23/11/1940.
14. Trần Thanh Địch, Trăng – hồn – chiêm bao với Hàn Mặc Tử, TC Kiến thức ngày nay, số 97/1969.
15. Nguyễn Mộng Giác, Hàn Mặc Tử và sự sáng tạo cuồng nộ, TC Nhận thức, số 2/1964.
16. Quách Giao, Đọc tuyển “Hàn Mặc Tử, anh tôi”, Bách khoa văn học, số 2/1970.
17. Bích Hà, Hàn Mặc Tử, một cá tính sáng tạo độc đáo, NXB Hội nhà văn, Hà Nội 2006.
18. Hồ Thế Hà, Điêu tàn, niềm bi hận của Chế Lan Viên, NXB Văn học, Hà Nội, 2005.
19. Hồ Thế Hà, Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, NXB Văn học, Hà Nội, 2005.
20. Trần Mạnh Hảo, Chế Lan Viên và ba niềm sửng sốt, Văn hóa nghệ thuật Công an số 6/1999.
21. Hoàng Ngọc Hiến, Tiếp cận cái siêu trong thơ Hàn Mặc Tử, Báo Lao động chủ nhật, 09/12/1990.
22. Phạm Hổ, Hàn Mặc Tử và những nhà thơ trường Quốc học Quy Nhơn, Báo Văn nghệ ngày 22/02/1992.
23. Nguyễn Xuân Hoàng, Nỗi khắc khoải siêu hình trong thơ Hàn Mặc Tử, TC Văn số 7/1967.
24. Đoàn Trọng Huy, Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, NXB Đại học sư phạm Hà Nội, 2006.
25. Lê Đình Kỵ, Thơ mới – những bước thăng trầm, NXB TP.HCM, 1991.
26. Nguyện Thụy Kha, Hàn Mặc Tử, thi sĩ đồng trinh, NXB Đà Nẵng, 1995.
27. Phong Lan, Chế Lan Viên, người làm vườn vĩnh cửu, NXB Hội nhà văn, 1995.
28. Mã Giang Lân, Hàn Mặc Tử, thơ và lời bình, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1999.
29. Thanh Lãng, Bảy lược đồ văn học Việt Nam, NXB Trình bày, Sài Gòn, 1967
30. Nguyễn Tấn Long, Việt Nam thi nhân tiền chiến, (Quyển thượng, trung, hạ), NXB Văn học, Hà Nội, 1996 (Tái bản).
31. Lê Hoài Nam, Những đóng góp của Bích Khê vào nên thơ ca hiện đại Việt Nam (In trong sách Khoa Ngữ văn, ĐH Quy Nhơn 30 năm nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007).
32. Hoàng Trọng Miên, Thơ Hàn Mặc Tử, báo Người Mới, ngày 23/11/1940.
33. Nhiều tác giả, 70 năm đọc thơ Bích Khê, NXB Vhọc, HN, 2004.
34. Nhiều tác giả, Đến với thơ Chế Lan Viên, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2000.
35. Nguyễn Thanh Mừng, Bích Khê, tinh hoa và tinh huyết, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1992.
36. Phùng Quý Nhâm, Đặc trưng thơ Hàn Mặc Tử, TC Kiến thức ngày nay số 47.
37. Vương Trí Nhàn, Hàn Mặc Tử, hôm qua và hôm nay, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1995.
38. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, NXB KHXH, Hà Nội, 1989 (Tái bản).
39. Thế Phong, Hàn Mặc Tử, nhà thơ siêu thoát, NXB Đồng Nai, 1998.
40. Phạm Văn Sĩ, Về tư tưởng văn học phương Tây hiện đại, NXB ĐHVTHCN, Hà Nội, 1986.
41. Vũ Tiến Quỳnh, Phê bình bình luận văn học Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, NXB Tổng hợp Khánh Hòa, 1991.
42. Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.
43. Quách Tấn, Đôi nét về Hàn Mặc Tử, Báo văn ngày 07/01/1967.
44. Hoài Thanh – Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1998 (tái bản).
45. Nguyễn Bá Thành, Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.
46. Đỗ Lai Thúy, Con mắt thơ, NXB Lao động, Hà Nội, 1992.
47. Võ Long Tê, Kinh nghiệm thơ và hành trình tinh thần của Hàn Mặc Tử, NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1971.
48. Đặng Tiến, Đức tin trong thơ Hàn Mặc Tử, Báo văn ngày 01/06/1971.
49. Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc tử, anh tôi, NXB TP.HCM, 1991.
50. Trần Thị Huyền Trang, Hàn Mặc Tử, hương thơm và mật đắng, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 1991.
51. Đào Quốc Toàn, Nhóm thơ Bình Định và trường thơ Bình Định, Báo Văn nghệ TP.HCM số 103, ngày 10/08/1993.
52. Phạm Xuân Tuyển, Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử, NXB Văn học, Hà Nội, 1997.
53. Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, anh là ai? (Lời giới thiệu tuyển tập thơ Hàn Mặc tử), NXB Văn học, Hà Nội, 1987.
54. Nguyễn Minh Vỹ, Con người Hàn Mặc Tử qua thơ anh, TC Nha Trang, số 5/1994.
Tác phẩm
1. Bích Khê, Tinh huyết, NXB Hội nhà văn, Hà Nội 1995.
2. Bích Khê, Tinh hoa, NXB Hội nhà văn, Hà Nội 1995.
3. Thơ Bích Khê, Sở văn hóa thông tin Nghĩa Bình, 1988.
4. Hàn Mặc Tử, Gái quê, NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2012.
5. Thơ Hàn Mặc Tử, NXB Văn học, Hà Nội, 1987.
6. Thơ Hàn Mặc Tử (tuyển tập), NXB Đồng Nai, 1995.
7. Chế Lan Viên, Điêu tàn, NXB Hội nhà văn, Hà Nội 1992.
8. Thơ Chế Lan Viên (tuyển tập), NXB Văn học, Hà Nội, 1986
Nguyễn Quốc Khánh
Theo http://nguvanqn.edu.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét