Bùi Giáng - thơ Tiên hay thơ
Điên?
Trước khi Sài Gòn sụp đổ,
tôi đã có một thời gian dài sống tại Lăng Cha Cả, gần nhà thờ Tân Sa Châu. Để đến
được trung tâm Sài Gòn, từ Lăng Cha Cả phải đi qua những con đường Trương Minh
Ký - Trương Minh Giảng (nay là đường Lê Văn Sĩ). Ở đoạn chân cầu Trương Minh Giảng
có một cái chợ mang cùng tên và sau này, ở bên kia đường, Đại học Vạn Hạnh của
Phật giáo được xây dựng. Có một thời, đây là nơi nhà thơ Bùi Giáng thường xuất
hiện. Phan Nhiên Hạo trong bài viết Bùi Giáng Như Tôi Thấy có nhiều chi tiết
khá lý thú:
Ông là một nhân vật khá nổi
đình đám ở khu vực cầu Trương Minh Giảng. Có những buổi chiều đông đặc xe cộ,
tôi ngồi uống cà phê bên đường nhìn ông đứng làm cảnh sát giao thông nơi đầu cầu
Trương Minh Giảng. Ông đội một chiếc quần lót đỏ chói trên đầu, áo quần te tua,
tay cầm chiếc roi tre dài, xoay ngang xoay dọc chỉ đường cho xe cộ. Người ta đi
qua, cố gắng tránh xa ngọn roi tre dài, nhưng không ai chú ý đến ông. Ông loay
hoay như vậy giữa dòng xe cộ hàng giờ liền, rồi chán, bỏ đi.
Có lần tôi thấy ông mặc một
chiếc áo chim cò rộng thùng thình. Chiếc áo rất mới có vẻ hàng ngoại đắt tiền,
chắc ai đó ở nước ngoài về tặng ông. Nhưng chỉ vài hôm đã thấy chiếc áo trở nên
cũ bẩn. Ðôi khi tôi bắt gặp ông ngồi dưới hành lang trong sân Vạn Hạnh, chỗ gần
cổng. Ông nửa ngồi nửa nằm, tựa lưng vào cột. Dưới bóng cây phượng xanh mát, những
lúc như vậy trông ông có vẻ tỉnh và buồn. Ông ngồi một mình, ánh mắt sau cặp
kính cận dày nhìn xa xăm ra dòng xe cộ bên ngoài cổng trường.
Hình như Bùi Giáng không chỉ
lang thang trong “lãnh địa” chợ Trương Minh Giảng và trường Vạn Hạnh. Một lần
tôi thấy ông ở một chỗ khác, khá xa “nhà”. Hôm đó trời mưa to, tôi đứng chơi
trên lầu nhà một anh bạn ở đường Nguyễn Thiện Thuật, đối diện một cái chợ,
không nhớ rõ là chợ Vườn Chuối hay chợ Nguyễn Thiện Thuật. Trước chợ có một đống
rác cao nghệu, đen xì, bục ướt và rất hôi thối. Bùi Giáng đang đứng cãi nhau với
một bà bán hàng ngay cạnh đống rác.
Chắc ông phá phách gì nên bị
bà này mắng xối xả, còn ông thì chỉ la ó những câu vô nghĩa để đáp lại. Nhưng
ông cũng hoa tay múa chân vẻ khá hung hăng. Cuối cùng người đàn bà xô mạnh Bùi
Giáng. Ông ngã chỏng gọng vào đống rác đen, miệng la bai bải. Cặp kính cận dày
và cái thân hình lèo khoèo trong tư thế nằm ngửa khiến ông trông giống một con
bọ ngựa bị bẻ chân. Dưới trời mưa tầm tã, ông có vẻ không gượng dậy được vì đống
rác quá nhão. Còn người đàn bà vẫn tiếp tục chửi bới.
Tôi cũng đã thấy Bùi Giáng
trong một trường hợp khác, rất đáng nhớ. Một buổi sáng chỉ mới khoảng 6 giờ,
sinh viên ký túc xá bỗng nghe tiếng la hét từ phía dãy phòng các sinh viên nữ.
Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nghe những tiếng la như vậy khi có trộm lẻn vào bên
khu nữ. Tôi vội chạy ra hành lang. Nhìn qua bên dãy nữ, thấy các mái tóc dài
thò ra rồi thụt vào, hết người này đến kẻ khác. Tiếng la oai oái vẫn không ngớt,
nhưng bây giờ xen lẫn tiếng cười khoái trá của các sinh viên nam. Nhìn xuống,
tôi thấy giữa sân trường, Bùi Giáng đang trong tư thế trồng chuối, nhưng hoàn
toàn… khỏa thân, quần áo cởi hết ra để bên cạnh. Mấy sinh viên bảo vệ từ ngoài
cổng vội chạy đến, nhét quần áo vào tay ông lôi ra khỏi sân trường. Thật là một
buổi “điểm tâm” đặc biệt cho cả ký túc xá.
Theo thầy Thích Nguyên Tạng
(chùa Pháp Vân, Gia Định, Sài Gòn), Bùi Giáng tự ghi tiểu sử của mình cho thầy
trong cuốn sổ tay vào buổi trưa ngày 10/11/1993 như sau:
1926 - được bà mẹ đẻ ra đời
1928 - bị té bể trán, vết sẹo còn nguyên kỷ niệm, hai năm trời chết đi sống lại
1933 - bắt đầu đi học a, b, c… trường làng tại Thanh Châu với Thầy Cù Đình Qúy
1928 - bị té bể trán, vết sẹo còn nguyên kỷ niệm, hai năm trời chết đi sống lại
1933 - bắt đầu đi học a, b, c… trường làng tại Thanh Châu với Thầy Cù Đình Qúy
1936 - học trường Bảo An với thầy Lê Trí Viễn
1939 - ra Huế học tư thục với những thầy Cao Xuân Huy, Trần Đình Đàn, Hoài
Thanh Nguyễn đức Nguyên, Đào duy Anh, vân vân
1940- về Quảng Nam chăn bò
1942- trở ra Huế, vì nhớ nhung gái Huế
1949 – nhập ngũ, bộ đội công binh. Hai năm sau giải ngũ
1952 – vào Sài gòn, 1955 (57) khởi sự viết về Nguyễn Du và một vài nhận xét về
Truyện Kiều và một vài nhận xét về Bà Huyện Thanh Quang, một vài nhận xét về
Chinh Phụ Ngâm … (TÂN VIỆT xuất bản)
1957 – TÂN VIỆT xuất bản: giảng luận về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, giảng luận về
Chu Mạnh Trinh, giảng luận về Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị.…
1969 – Bắt đầu điên rực rỡ
1970
1. Lang Thang Du hành Lục Tỉnh (Khách sạn Long xuyên Bà Chủ cho ở đầy đủ tiện nghi không lấy tiền)
2. Gái Châu Đốc Thương yêu và Gái Long Xuyên Yêu dấu
3. Gái Chợ Lớn Khiến bị bịnh lậu (bịnh hoa liễu)
1971 – 75 – 93
Điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang
Rong chơi như hài nhi (con nít)
Được gia đình ông Phó Chủ Tịch (482) Lê Quang Định, Hội Đồng Thành Phố đối xử thơ mộng thênh.
Kính dâng Kim Thúy, Kim Hồng, Kim Hoa, đôi lời rốt cuộc…..
Bình sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương Nương Tử, Hà Thanh Cố Nương và Mẫu Thân Phùng Khánh (tức Trí Hải Ni Cô)
Do đâu mà ra được như thế ?
Đáp: Có lẽ đầu tiên kỳ tuyệt là do ân nghĩa bốn bề thiên hạ đi về tập họp tại Già Lam, Vạn Hạnh và Long Huê và Tịnh Xá Trung Tâm và Pháp Vân và xiết bao Chùa Chiền Miền Nam nước Việt, không biết nói sao cho hết.
1970
1. Lang Thang Du hành Lục Tỉnh (Khách sạn Long xuyên Bà Chủ cho ở đầy đủ tiện nghi không lấy tiền)
2. Gái Châu Đốc Thương yêu và Gái Long Xuyên Yêu dấu
3. Gái Chợ Lớn Khiến bị bịnh lậu (bịnh hoa liễu)
1971 – 75 – 93
Điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang
Rong chơi như hài nhi (con nít)
Được gia đình ông Phó Chủ Tịch (482) Lê Quang Định, Hội Đồng Thành Phố đối xử thơ mộng thênh.
Kính dâng Kim Thúy, Kim Hồng, Kim Hoa, đôi lời rốt cuộc…..
Bình sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương Nương Tử, Hà Thanh Cố Nương và Mẫu Thân Phùng Khánh (tức Trí Hải Ni Cô)
Do đâu mà ra được như thế ?
Đáp: Có lẽ đầu tiên kỳ tuyệt là do ân nghĩa bốn bề thiên hạ đi về tập họp tại Già Lam, Vạn Hạnh và Long Huê và Tịnh Xá Trung Tâm và Pháp Vân và xiết bao Chùa Chiền Miền Nam nước Việt, không biết nói sao cho hết.
Trong tiểu sử tự ghi, ông có
nhắc đến đích danh một vài người. Tuy nhiên, những người phụ nữ này được Bùi
Giáng tôn vinh như là ‘mẫu thân sinh đẻ ra mình’, tuyệt không có chút gì là
quan hệ nhục thể của tình yêu nam nữ, nhớ mong, hờn ghen, đau khổ, hẹn hò, mộng
mơ như trong thơ tình của những nhà thơ khác.
Em vui – nước ngọt xuôi dòng
Em buồn – toàn diện đèo bòng buồn theo
Em vui – tinh thể bọt bèo
Em buồn – toàn diện thu vèo sang đông
Ngổn ngang gò đống chất chồng
Em về vĩnh viễn đêm mồng một giêng
Em đi thanh thản ngọc tuyền
Anh ngồi nốc rượu nốc phiền thiên thu
Kim Cương Nương Tử tuyệt trù
Thơ thần chất vấn dặm cù tình điên
(Kim Cương Nương Tử)
Em buồn – toàn diện đèo bòng buồn theo
Em vui – tinh thể bọt bèo
Em buồn – toàn diện thu vèo sang đông
Ngổn ngang gò đống chất chồng
Em về vĩnh viễn đêm mồng một giêng
Em đi thanh thản ngọc tuyền
Anh ngồi nốc rượu nốc phiền thiên thu
Kim Cương Nương Tử tuyệt trù
Thơ thần chất vấn dặm cù tình điên
(Kim Cương Nương Tử)
Ngày xưa, nghệ sĩ Kim Cương
được giới hâm mộ gọi là ‘Kỳ nữ’ và Bùi Giáng cũng là một trong những người đã
‘mê Kim Cương như điếu đổ’. Nói về mối tình si của Bùi Giáng dành cho mình, Kim
Cương đã thổ lộ:
Đúng hơn đó là mối tình thơ,
như một thi sĩ cần một nàng thơ, mà nàng thơ thì bao giờ cũng nên là một hình ảnh
không chạm tới được. Thi hứng được nuôi sống bằng tình yêu bị bỏ đói là vậy.
Bùi Giáng là một thiên tài, nhưng ngô nghê say say tỉnh tỉnh. Nói là yêu thì bảo
sao yêu được ông nhà thơ liêu xiêu, mình treo trái cây tòng teng. Hôm nào vui
thì làm thơ tặng, tôi còn giữ cả chục bài, hôm thì ổng qua ổng… chọi đá. Thơ
thì tôi cất giữ, người thơ tôi trân quý. Ngày ổng mất tôi chỉ biết cám ơn anh
đã là một thi sĩ thiên tài, và đã cho tôi một mối tình đơn phương chung thủy suốt
40 chục năm trời.
Kỳ nữ Kim Cương và Bùi Giáng
Kỳ nữ Kim Cương và Bùi Giáng
Đối với Bùi Giáng, mối tình
si của ông mang một sắc thái Tiên chứ không phải Tục:
Kính thưa công chúa Kim
Cương,
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây.
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?
(Kính thưa)
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây.
Tờ thư rất mực móng dày,
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?
(Kính thưa)
Kim Cương biết Bùi Giáng lúc
khoảng 19 tuổi khi còn theo đoàn cải lương của bà Bảy Nam. Thật ra, ông chú ý đến
KC trong một đám cưới của đôi bạn Hạnh – Thùy. Sau đám cưới, một hôm Thùy bảo
KC: “Có một ông giáo sư Đại học Văn khoa, đi học ở Đức về, ái mộ chị lắm, muốn
đến nhà thăm chị”. KC trả lời: “Ừ, thì mời ổng tới”.
Hóa ra là Bùi Giáng, lúc ấy
đang dạy học, cũng áo quần tươm tất chứ chưa có “điên điên” như sau này. Bùi
Giáng lui tới, mời KC lên xe đạp ông chở đi chơi, rồi lại cầu hôn… Bởi sau vài
lần tiếp xúc, bà thấy ở ông toát lên cái gì đó “kỳ kỳ”, bất bình thường, nên bà
sợ.
Đeo đuổi mãi không được, Bùi
Giáng thở dài nói: “Thôi, chắc cô không ưng tôi vì tôi lớn tuổi hơn cô (Bùi
Giáng lớn hơn KC mười mấy tuổi), vậy cô hứa với tôi là sẽ ưng thằng cháu của
tôi nhé. Nó trẻ, lại đẹp trai, học giỏi”. Kim Cương ngần ngừ: “Thưa anh, chuyện
tình cảm đâu có nói trước được. Tôi không dám hứa hẹn gì đâu, để chừng nào gặp
nhau hẵng tính…”. Ý bà muốn hoãn binh. Nhưng Bùi Giáng đã đùng đùng dắt cháu tới.
Trời ơi, hóa ra đó là thằng nhỏ mới… 8 tuổi. KC hết hồn. Thôi rồi, ổng đúng là
không bình thường!
Kim Cương thời son trẻ
Kim Cương thời son trẻ
Bùi Giáng cũng bày tỏ lòng
thương kính ni sư Trí Hải (1938 – 2003), có tên đời là Tôn Nữ Phùng Khánh, nên
thường gọi bà là ‘Mẫu thân Phùng Khánh’. Sau khi ông mất, Ni Sư Trí Hải có giảng
cho Tăng Ni Phật tử về thâm nghĩa trong thơ ca của Bùi Giáng trong nhiều buổi
giảng.
Con về giũ áo đười ươi
Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi
(Thơ điên)
Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi
(Thơ điên)
Có lần ông nói: “Phùng Khánh
Mẫu Thân là mẹ Việt Nam, tôi là con dân Việt Nam. Vậy thì tất nhiên Phùng Khánh
là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ, thì chẳng ra tôi là
người Lào? Hoặc là người Cao Miên? Hoặc con dân Âu Mỹ ư? Huống nữa là: Phùng
Khánh là bà mẹ loài người. Vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi. Nếu tôi không phải là
con của Phùng Khánh, thì chẳng ra tôi chẳng phải con người? Chẳng ra tôi là con
vật?” (Đặng Tiến, Bùi Giáng Thi Sĩ Kỳ Dị, http://www.thanhnien.com.vn ).
Thương quý ni sư Trí Hải,
ông thương lây qua các ni cô khác, nhất là các ni cô ở chùa Dược Sư, nơi mà ông
thường lui tới nghỉ chân, được ăn cơm chay lại còn được lì xì tiền tiêu vặt. Cảm
nghĩa, cảm tình ông đã coi chùa Dược Sư là thơ mộng nhất, các ni cô là người hiền
thục nhất, đẹp nhất trong giới nữ lưu.
Đi tu thứ nhất ở chùa,
Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang
Dược Sư thơ mộng vô vàn,
Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân
Thứ nhì ở tận cuối mùa lang thang
Dược Sư thơ mộng vô vàn,
Sầu lên vút tận mây ngàn tần thân
Hai chữ ‘tần thân’ nhiều người
không hiểu. Tự điển Hán Việt giải thích: Tần là luôn luôn và Thân là rên rỉ. Đọc
bốn câu thơ lục bát của ông, mới thấy được cái tài hoa, cái xuất khẩu thành
thơ, cái uyên bác trong tứ thơ của ông. Có lẽ chỉ thi sĩ ‘Bùi Bàng Giúi’ mới có
thể giảng giải hết thâm ý của chính mình.
Theo Võ Đắc Danh, hồ sơ lưu
trữ tại nhà thương điên Biên Hoà ghi nhận Bùi Giáng nhập viện hai lần. Lần thứ
nhất vào năm 1969, lần thứ hai vào năm 1977, thời gian này Nguyễn Ngu Í vẫn còn
trong bệnh viện, hai người cùng ở khu 3. Bệnh án của Bùi Giáng có đoạn ghi:
“Bệnh tái phát từ tháng
4/1969, có hôm thức suốt đêm để viết, nói huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất
thanh, ý tưởng tự cao tự đại. Hay phát biểu ý kiến về những vấn đề chính trị,
văn hoá trọng đại, có ý nghĩ bị người ta phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng
3/1969 bị cháy nhà và cháy tất cả sách vở quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày
một nặng hơn…”
Cung Tích Biền kể: “Khoảng đầu
thập niên 70 người ta đưa ông vào nhà thương điên Biên Hòa chữa cái bệnh ‘đứng
ngã ba nhìn ra ngã bảy’. Từ nhà thương điên trở ra, bữa gặp nhau thấy ông rất tỉnh.
Bèn hỏi một câu thường tình: ‘Nhà thương Biên Hòa trị cái tẩu hỏa hay nhỉ!’.
Ông trả lời tỉnh queo: “Chữa trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình
điên số một, khi vô nhà thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên
tiểu thủ công nghiệp; trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ
đại hơn mình nhiều. Do vậy mà mình tự động thôi điên”.
Uống và say nói lăng nhăng
Miệng mồm lí nhí thằn lằn đứt đuôi
Tâm can chân thể chôn vùi
Mặt trời không mọc với người lem nhem
Còn đâu nguyệt tỏ bên thềm
Ôi người uống rượu còn thêm điên rồ
(Người điên uống rượu)
Miệng mồm lí nhí thằn lằn đứt đuôi
Tâm can chân thể chôn vùi
Mặt trời không mọc với người lem nhem
Còn đâu nguyệt tỏ bên thềm
Ôi người uống rượu còn thêm điên rồ
(Người điên uống rượu)
Ông điên từ bữa hôm qua
Tới hôm nay nữa gọi là ba hôm
Thanh thiên về dự hội đàm
Thành thân thiên hạ muôn vàn mai sau
Ông điên từ một lần đầu
Tới lần đuôi đứt ruột rầu rĩ đau
Tuyệt mù biển cạn sông sâu
Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ
(Ông điên)
Tới hôm nay nữa gọi là ba hôm
Thanh thiên về dự hội đàm
Thành thân thiên hạ muôn vàn mai sau
Ông điên từ một lần đầu
Tới lần đuôi đứt ruột rầu rĩ đau
Tuyệt mù biển cạn sông sâu
Bụi hồng tản mác trước sau bây giờ
(Ông điên)
‘Ông Điên’ đã tự viết về
mình như sau: “Nó điên? Vâng nhưng điên một cách vui vẻ. Bạ đâu gọi đó là mẫu
thân bát ngát của con. Người ta bảo rằng nó không điên. Có kẻ bảo rằng nó giả vờ
điên. Muốn biết nó điên hay không điên, hay giả vờ điên, thì trước hết phải đáp
vào câu hỏi: Sao gọi là điên? Nhưng mà? Nhưng mà đó là một câu hỏi chưa hề có một
lời giải đáp dưới gầm trời và suốt xưa nay vậy”.
Nỗi buồn nỗi khổ đời xưa
Nỗi sung sướng đến móc mưa bất ngờ
Đời xưa đất đá đều đờ đẫn điên
Đời này đất đá cằn khô
Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời
Điên rồi rốt cuộc hỡi ôi
Cũng đành chấm dứt lìa đời hết điên
(Dzách)
Bùi Giáng
(qua nét vẽ của họa sĩ Đinh Quang Tỉnh)
Nỗi sung sướng đến móc mưa bất ngờ
Đời xưa đất đá đều đờ đẫn điên
Đời này đất đá cằn khô
Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời
Điên rồi rốt cuộc hỡi ôi
Cũng đành chấm dứt lìa đời hết điên
(Dzách)
Bùi Giáng
(qua nét vẽ của họa sĩ Đinh Quang Tỉnh)
Tiên hay Điên? Phải chăng
Điên là một cách né tránh đối diện với thực tại, thực tại thời chiến tranh Việt
Nam, trước và sau 1975? Ta không thấy Bùi Giáng bày tỏ bất cứ chính kiến nào về
thực tại đó như thơ văn đương thời. Bài thơ Về Quảng Nam được viết bằng ngôn ngữ
đời thường thể hiện rõ thái độ né tránh ấy:
Chiêm bao tôi thấy tôi về Quảng
Nam
Rong chơi Đại Lộc, Điện Bàn
Duy Xuyên, Tiên Phước, Hoà Vang, Thăng Bình…
Tìm người bạn cũ không ra
Còn phong cảnh cũ khác xa những ngày…
Xóm làng đồng ruộng lạ thay
Chỉ còn dáng núi chạy dài xa xa
Giữ nguyên hình ảnh đậm đà
Còn trong kỷ niệm bao la tuổi nào…
Ngắm nhìn. Tim máu xôn xao
Tôi rời đất Quảng trở vào Miền nam
Tâm hồn bao xiết hoang mang
Bài thơ viết vội, dở dang lạ lùng
(1995)
Rong chơi Đại Lộc, Điện Bàn
Duy Xuyên, Tiên Phước, Hoà Vang, Thăng Bình…
Tìm người bạn cũ không ra
Còn phong cảnh cũ khác xa những ngày…
Xóm làng đồng ruộng lạ thay
Chỉ còn dáng núi chạy dài xa xa
Giữ nguyên hình ảnh đậm đà
Còn trong kỷ niệm bao la tuổi nào…
Ngắm nhìn. Tim máu xôn xao
Tôi rời đất Quảng trở vào Miền nam
Tâm hồn bao xiết hoang mang
Bài thơ viết vội, dở dang lạ lùng
(1995)
Nguyễn Minh Vương viết về
Bùi Giáng: “Vậy Bùi Giáng là ai? Và ai là Giàng Búi? Câu trả lời đã được các bậc
nguyên lão, những người đã cùng lăn lộn với lão trong cõi trần ai khổ lụy này
giải mã. Lý lẽ của các vị thật hợp tình hợp lý. Với ‘người thơ’, tác giả đã nói
lên cái tính bình dân của Lão Bùi, với ‘Cuồng Bồ tát’, tác giả khác đã nói lên
tầm mức cứu độ chúng sinh của Giàng Búi thị hiện trong hình tướng của người
điên, với ‘thi sĩ kỳ dị’, tác giả cho thấy sức sáng tác kinh hồn bạt vía cũng
như những chiêu thức (ngôn từ) mà ông dùng trong thơ thì xưa nay chưa có ai
nghĩ bàn đến. Có thể nói, Lão Bùi đã được nói rất nhiều, viết cũng rất nhiều,
bàn cũng chẳng thiếu, thậm chí nhà văn Phạm Thị Hoài còn đề xuất một giải thưởng
văn học mang tên Bùi Giáng trên talawas.org để
tôn vinh. Như thế, kẻ hậu sinh này [Nguyễn Minh Vương] muốn nói, muốn viết về
ông, cũng chỉ là múa rìu qua mắt thợ, thấy người sang bắt quàng làm họ”.
Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam
Sơn nói: “Viết đôi lời hay nhiều lời về Bùi Giáng không bằng đọc Bùi Giáng. Đọc
Bùi Giáng không bằng giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng không bằng sống
như Bùi Giáng. Mà sống như Bùi Giáng thì thật vui mà thật khó vậy!”.
Nguyễn Ngọc Chính
Theo http://phanhonglien.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét