Những người Việt thành danh
tại Nhật
Người Việt Nam tại Nhật Bản
không nhiều, chỉ chưa đầy 8.000 người - một con số vô cùng ít ỏi so với hàng chục,
hàng trăm ngàn người Việt ở một số nước Châu Âu, chứ chưa nói đến con số cả triệu
người ở Mỹ.
Người Việt Nam ở Nhật cũng
xuất phát từ nhiều nguồn gốc khác nhau: có người du học sang Nhật rồi ở lại, có
người sang vì lý do đoàn tụ gia đình, và cả những người là thuyền nhân.
Có người cho rằng người Việt
Nam không dễ thích nghi môi trường xã hội Nhật Bản, và vĩ lẽ đó không mấy người
thành công tại đất này. Quả thực, trong số Việt kiều nằm rải rác tại Nhật Bản,
có thể thấy một số lượng không nhỏ chỉ lao động chân tay, làm những việc nặng
nhọc và cuộc sống không được đầy đủ. Song cũng có những người thành đạt và vươn
tới những vị trí nhất định trong xã hội Nhật.
Một Việt kiều tại Nhật Bản,
được người Việt Nam biết nhiều nên có thể kể tên ngay là Giáo sư Trần Văn Thọ.
Ông không những là Chuyên viên Kinh tế Cao cấp thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Kinh
Tế Nhật Bản, Giáo sư Kinh tế của Trường Đại Học Obirin và có thời gian là Giáo
sư Thỉnh giảng Khoa Kinh Tế – Trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội, mà còn từng là Ủy
viên Chuyên môn Ban Cố Vấn Kinh Tế cho nhiều nhiệm kỳ Thủ tướng Nhật; và trước
đây cũng là một trong những Ủy viên Ban Cố Vấn Về Cải Cách Kinh Tế Và Hành
Chính cho Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt. Hiện tại, ông còn nằm trong Ủy Ban
nghiên cứu các vấn đề kinh tế liên quan đến kế hoạch chuyển thủ đô của Nhật Bản.
Một Việt kiều thành đạt khác
tại Nhật là Tiến sỹ Đặng Lương Mô. Thuộc lớp người đầu tiên được nhận học bổng
của chính phủ Nhật Bản dành cho Việt Nam từ sau Thế chiến thứ 2, ông tới Nhật Bản
vào tháng 4/1957 và học tiếng Nhật một năm trước khi vào học tại Đại Học Tokyo
– nơi ông đã đậu khóa đầu tiên của Khoa Kỹ Thuật Điện Tử là một khoa mới mở.
Sau khi lấy bằng Tiến sỹ Khoa học Kỹ thuật, ông làm công tác nghiên cứu tại
Công fy Toshiba. Năm 1971, ông trở về Việt Nam, giảng dạy trong 5 năm tại Đại Học
Sài Gòn và Học Viện Kỹ Thuật Quốc Gia, nay là Đại Học Bách Khoa Tp.HCM.
Trở về Nhật Bản, ông tiếp tục
làm việc cho Toshiba cho đến khi nhận về giảng dạy tại Đại Học Hosei vào năm
1983 và hiện là Trưởng khoa Tin Học – Điện Tử tại trường này. Tiến sỹ Đặng
Lương Mô là Hội viên chính thức của nhiều hội học thuật danh tiếng ở Nhật và Mỹ,
kể cả Hội Kỹ Sư Điện Tử – Tin Học Và Truyền Thông Nhật Bản và Hội Kỹ Sư Mỹ. Từ
năm 1992, ông được bầu làm Viện sỹ Viện Hàn Lâm Khoa Học New York.
Trả lời câu hỏi của tôi về
cuộc sống và làm việc tại Nhật Bản, Tiến sỹ Đặng Lương Mô nói: “Nói chung tôi
thấy ở Nhật Bản khó thành công. Một lý do là ngôn ngữ Nhật rất khó. Người ngoại
quốc qua đây 1 năm, 2 năm tưởng là mình đã nói thoát được tiếng Nhật. Nhưng thật
ra đó là phiến diện. Hiểu sâu được tiếng Nhật phải mất nhiều năm, phải nỗ lực.
Muốn thành công ở Nhật Bản, trước nhất phải biết rành rõi tiếng Nhật. Thứ hai
là phải chịu khó làm quen, làm bạn với nhiều người Nhật. Tôi đã thấy nhiều nhóm
người Việt Nam, qua đây biết đến một đoạn nào đó rồi không tìm hiểu thêm, chỉ tụ
tập với nhau. Như vậy khó lòng có thể thành công ở Nhật Bản”.
Một người khác cũng cho rằng
học giỏi tiếng bản địa là yếu tố quan trọng dẫn đến thành công tại Nhật Bản là
bác Nguyễn Văn Ngân, Giám đốc Công Ty Thương Mại Đông Dương. Bác sang Nhật từ
cuối năm 1941 và học kinh tế tại Trường Đại Học Tokyo. Ngay từ khi còn trẻ, bác
từng được cử điều hành chi nhánh của một công ty xuất nhập khẩu Nhật, và năm 29
tuổi đã lập công ty riêng, rồi mở một nhà hàng tại khu Ginza của Tokyo từ năm
1950. Ba năm trước, bác mở nhà hàng thứ 2 và năm nay mở thêm nhà hàng thứ 3.
Bác cho biết về công việc kinh doanh của mình: “Tôi xuất cảng đồ tạp hóa, máy
may, máy dệt cho những hãng dệt lớn. Ngoài ra xuất cảng những đồ tạp hóa sang Mỹ.
Những đồ đó giúp tôi có lãi nhiều. Cái tiệm cơm của tôi, 10 năm trước tôi không
để ý đến nhiều lắm, do nhà tôi làm hết, chỉ coi là một phần trong hoạt động của
mình thôi chứ không để nhiều công sức vào làm. Nhưng sau đó tôi đổi chính sách
làm việc của tôi, để ý hơn về buôn bán trong nước. Vì thế nên trong 4 năm nay,
chúng tôi mở thêm cửa hàng đây. Và cũng theo phong trào của người Nhật, chúng
tôi lợi dụng phong trào đó nên mới mở thêm cửa hàng nhanh như thế”.
Bác Ngân nằm trong số ít người
nước ngoài đã trải qua cơn bĩ cực cùng cả nước Nhật Bản, đã chứng kiến những
thăng trầm của Nhật. Bác cho rằng để thành công, ngoài việc phải học thấu đáo
tiếng Nhật và nắm những kiến thức cơ bản, cần phải có sự nhanh nhạy nắm bắt
tình thế. Riêng đối với bản thân bác, bên cạnh nỗ lực bản thân còn có một yếu tố
khác nữa là mối quan hệ thân thiện của những người bản xứ.
“Đối với tôi thì tôi làm việc
như tất cả những người khác. Nỗ lực của mình đã đưa tôi đến đây. Nhưng một phần
lớn là ở sự tử tế của những người mà tôi đi lại, những người bạn của tôi sau
chiến tranh”.
Tôi gặp anh Nguyễn Quan Lữ,
51 tuổi, viên chức cấp cao của một công ty mậu dịch lớn của Nhật Bản. Anh sang
Nhật vào năm 1970 theo diện học tự túc. Cũng như nhiều người Việt khác sang đây
du học, cuộc sống ban đầu của anh không dễ dàng, một phần lớn vì mới bắt đầu học
tiếng.
27 năm đã trôi qua kể từ
ngày đầu đặt chân lên đất nước Nhật. Giờ đây, với học vị Tiến sỹ Nông nghiệp và
nhiều năm kinh nghiệm, anh Nguyễn Quan Lữ đã được cử nắm một chức vụ quan trọng
trong công ty. Anh phụ trách công tác thị trường nên thường phải đi công tác nước
ngoài, bận bịu tham dự các hội nghị song phương, nghiên cứu các thông tin, quy
định nhằm mở rộng hoạt động kinh doanh của công ty. Đổi lại, anh có một vị trí
mà chính nhiều người Nhật cũng nể trọng. Từ kinh nghiệm bản thân, anh rút ra những
yếu tố đưa đến thành công tại Nhật Bản như sau:
“Tôi nghĩ rằng điều cơ bản
là trong xã hội Nhật yêu cầu người ta phải có tính hòa đồng vào tập thể, nhẫn nại,
cần cù để làm quen với công việc. Đó là những yếu tố quan trọng. Nhưng vấn đề
được hay không được còn tùy theo sự may mắn, ngoài ý muốn của mọi người. Nhiều
người có năng lực hơn tôi nhưng có thể chưa gặp may mắn nên chưa đạt được ý muốn
của mình. Chúng ta phải đánh giá sự nỗ lực của bản thân nhưng đồng thời phải thừa
nhận yếu tố may mắn trong đó. Nhất là ở xã hội Nhật này, các điều kiện xã hội
chưa phóng khoáng đầy đủ để tiếp nhận với người nước ngoài như với người bản xứ,
nên sự may mắn đưa mình đến với 1 công ty hiểu và thông cảm và tạo điều kiện
giúp đỡ mình là sự may mắn”.
Như phát biểu của anh Nguyễn
Quan Lữ, sự hòa đồng là một yếu tố khá đặc trưng trong xã hội Nhật Bản. Vì thế,
người ngoại kiều lại càng phải cố gắng nhiều hơn để thích nghi với lối sống và
làm việc này, và họ cần có sự thông cảm và hỗ trợ của người bản địa.
Sự giúp đỡ của những người bạn
Nhật cũng là yếu tố quan trọng để chị Nguyễn Thị Giang mở được nhà hàng Việt
Nam của riêng mình cách đây hai tháng. Chị Giang không có được lợi thế của tuổi
trẻ bởi khi sang Nhật vào năm 1988, chị đã cập kê tứ tuần. Nghe chị kể chuyện,
chúng tôi cảm nhận được sự nỗ lực không mệt mỏi của người phụ nữ này. Để tăng
thêm thu nhập cho gia đình 5 người, chị vừa tranh thủ học tiếng Nhật, vừa làm
nhiều công việc: Từ lắp ráp linh kiện điện tử cho đến dạy nấu ăn, phục vụ nhà
hàng. Rồi chị được bạn bè, người quen giúp thêm về tài chính và đứng ra bảo
lãnh để mở nhà hàng Việt Nam. Từng là giáo viên dạy nấu ăn tại Việt Nam trước
khi sang Nhật nên chị rất tự tin với công việc của mình. Tuy nhiên, chị cho biết
mục tiêu chính yếu khi mở nhà hàng chỉ là để giới thiệu văn hóa Việt Nam.
“Mình là người ngoại quốc mà
sống ở nước ngoài, thành đạt rất là khó. Đầu tiên là vấn đề văn hóa, rồi ngôn
ngữ khác biệt. Dù cho có thành công thì cũng chỉ tới giới hạn nào thôi. Thành
công mà để mãn nguyện chắc không ai có. Tôi hài lòng vì bây giờ tôi đã giới thiệu
được văn hóa Việt Nam cho người Nhật. Mỗi người khách đến đây đi ra khen món ăn
Việt Nam ngon. Đó không phải là khen bản thân tôi mà khen nước Việt Nam tôi có
những món ăn ngon, điều đó khiến tôi rất mãn nguyện.”
Những người Việt Nam chắc chắn
đều vui khi thấy Việt kiều ở hải ngoại thành đạt và nhiều việc làm của họ gắn
liền với niềm tự hào đối với tổ quốc. Và càng vui khi nghe nhắc tới những người
thuộc dòng giống Lạc Việt đã cống hiến nhiều thành tựu cho thế giới.
Có lẽ không chỉ chúng tôi mà
nhiều thính giả sẽ rất bất ngờ khi biết, nhiều kỹ thuật ứng dụng trong cuộc sống
hàng ngày hiện nay, nhất là tại các nước tiên tiên, chính là nhờ phát minh của
một người Việt Nam. Đó là cụ Lê Văn Quý, một trong những người Việt đến ở Nhật
Bản lâu đời nhất. Cụ sang Nhật vào năm 1943 theo diện trao đổi sinh viên Việt-Nhật,
đúng vào lúc đang xảy ra Thế chiến II. Cụ theo học ngành điện tử và nhờ chú tâm
vào việc nghiên cứu, cụ đã có hàng chục phát minh đã đăng ký bản quyền và bán
cho nhiều công ty Nhật cũng như trên thế giới, không kể một số phát minh chưa
đăng ký. Có thể kể tên một số phát minh quan trọng của cụ như: Cửa tự động, vòi
nước tự động, tăng độ sáng của đèn xe, máy kiểm tra chỗ hỏng hóc của xe hơi
v.v… Nhiều phát minh của cụ góp phần không nhỏ trong sự phát triển của các hãng
xe hơi Toyota, Nissan.
Cụ tâm sự về những phát minh
của mình: “Tôi có các bằng phát minh về máy móc động cơ, về đèn nê-ông, cách
sơn xe hơi và nhiều phát minh về máy truyền hình. Ví dụ các máy CD, đầu pick-up
không có kim, dùng ánh sáng, cái đó tôi nghĩ đã lâu, cả về máy ảnh nữa. Nhiều
nhiều lắm, có 4-5 chục cái tôi bán ngay. Hiện còn khoảng 10 cái tôi chưa bán được.
Không phải tôi thích gì chuyện phát minh đâu. Chính là vì đời sống. Phát minh
cho một số tiền rất lớn và rất mau. Nhưng cạnh tranh với Nhật khó khăn lắm,
phát minh không khéo thì họ nắm lấy và bắt chước ngay mà chẳng lấy được một xu
nào cả”.
Năm nay, tuy không còn khỏe
vì đã ở tuổi 80, cụ vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu xe hơi chạy điện – một kỹ
thuật cho tương lai. Với tư cách một nhà khoa học có nhiều phát minh, cụ khẳng
định người Việt Nam không hề thua kém bất kỳ nước nào trên thế giới:
“Mới đầu sang đây tôi thấy đời
sống vất vả khó khăn lắm, vì người Nhật làm việc khá nặng cho nên khó lòng mà sống
được bên này. Nhưng sau khi làm qua với các xưởng máy Nhật thì thấy người Việt
mình không kém gì người Nhật cả nếu mình cố gắng. Cho nên tôi thấy anh em Việt
Nam mà sang đây nhiều, mình theo các xưởng máy Nhật thì nước của mình không kém
gì nước Nhật đâu”.
Bác Nguyễn Văn Ngân, Giám đốc
Công Ty Thương Mại Đông Dương, cũng nói nỗ lực chính là yếu tố giúp mọi người
vươn lên và vượt qua chính mình:
“Số phận là một yếu tố trong
cuộc đời người ta. Nhưng nói số phận ta chỉ có thế này thôi và ta bằng lòng với
số phận của mình, sống một đời khó khăn. Trong một phần nào có thể đổi số phận
đó bằng cách cố sức. Nghèo đi chăng nữa cũng phải cố, và cố gắng đó, trong chừng
mực nào có thể thay đổi được số phận của mình. Nỗ lực của mình có thể giúp một
phần trong sinh sống và trong sự thành công của mình nó cũng là một yếu tố lớn”.
Có thể có người vẫn bám lấy
suy nghĩ, phải ra nước ngoài mới thành công. Song thực tế chính bản thân những
người thành đạt thừa nhận, hoàn cảnh và sự may mắn chưa thể mang lại tiền của
và danh vọng vững bền. Hai yếu tố quan trọng nhất chính là kiến thức và nỗ lực
bản thân. Tiến sỹ Đặng Lương Mô có vài lời khuyên với giới trẻ Việt Nam: “Lẽ dĩ
nhiên là cần phải mở rộng cửa để thanh niên Việt Nam đi ra nước ngoài để mở rộng
tầm mắt, để biết hơn. Tôi nghĩ tuổi trẻ nên có tham vọng. Đối với thanh niên Việt
Nam, tôi khuyên là nên cố gắng. Tốt hơn hết là hãy cố gắng ở trong nước”.
Những người như cụ Quý, bác
Ngân, anh Lữ, chị Giang, Giáo sư Trần Văn Thọ, Tiến sỹ Đặng Lương Mô… chỉ là một
vài ví dụ về sự thành đạt của người Việt Nam ở Nhật Bản nói riêng và ở nước
ngoài nói chung. Họ đã đạt tới địa vị nhất định trong xã hội, hoặc chí ít cũng
có một cuộc sống ổn định trong một xã hội nhiều cạnh tranh. Họ là những cá nhân
trong cả một cộng đồng người Việt ở trong nước cũng như nước ngoài, luôn nỗ lực
để vượt lên mọi hoàn cảnh.
Do những lý do khác nhau, họ
đã đến sinh sống làm ăn tại Nhật Bản, nhưng tấm lòng họ luôn hướng về đất Việt
phương Nam – nơi mới thực sự là quê hương, mới thực sự là nơi họ gửi gắm tâm hồn
mình. Sau những giờ lên lớp, những khi tan sở, những lúc nghỉ tay giữa ca làm
việc, sau khi trút bỏ những bộn bề, bon chen trong cuộc sống và trở về với mái ấm
gia đình, họ luôn hướng về Việt Nam. Chúng tôi xin trích lời chị Nguyễn Thị
Giang làm phần kết cho chương trình này:
“Tôi thấy ở đây có nhiều
công ăn việc làm. Nếu đi làm thì cuộc sống ổn định, không phải lo lắng. Nhưng về
vấn đề tinh thần chẳng hạn như láng giềng bạn bè thì những người Việt Nam ở Nhật
Bản đều buồn chứ không phải mình tôi. Ở đây thấy bạn bè mệt, có những gì mình
buồn, vất vả cũng không dám nói hết, nói ra bạn bè lo lắng rồi làm phiền người
ta. Giữ kẽ với nhau nên lần lần tình cảm xa cách.
“Chẳng hạn những ngày Tết của
Nhật Bản, chẳng nghe tiếng pháo, chẳng thấy gì về tết nhất, lúc đó có lẽ nằm mà
khóc vì nhớ về quê hương, nhớ cha nhớ mẹ mình. Những ngày tết là vấn đề thiêng
liêng, rồi còn những ngày giỗ chạp. Tôi sang đây ngày giỗ chạp không có thì giờ
để làm, nhiều khi nghĩ cảm thấy buồn lắm ngoài ra không nghĩ được về quê hương
được nữa. Những khi rảnh rỗi, trời mưa hay ngồi xe điện, nghĩ đến gia đình nhiều,
buồn!”.
Không ai có thể hiểu nỗi buồn
xa xứ nếu không ở vào hoàn cảnh của những người phải sống xa tổ quốc. Nhưng
càng trân trọng hơn khi họ đã khẳng định chính mình và vươn lên trong một xã hội
hoàn toàn xa lạ, trong lúc vẫn một lòng nhớ về quê hương.
Nguồn: Chép lại từ
Lapis School
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét