Cõi mù sương
Mọi người đã lục tục
ra về, những vòng hoa tang đã héo, một số được phủ lên mộ nàng như muốn làm ấm
áp cái thân xác lạnh lẽo dưới đáy mộ sâu, một số đã được đem đi bỏ vào mấy
thùng rác của nghĩa trang, kèm theo những lời chia buồn có vẻ nặng phần trình
diễn.
Mọi việc đã hoàn tất, nàng
nhìn thấy vẻ nhẹ nhõm của người chồng sau mấy ngày mệt mỏi vì những nghi lễ lẩm
cẩm cho người quá cố, đám con đã nở nụ cười gượng gạo với nhau trước khi bước
lên xe trở về nhà. Chỉ riêng có người chồng còn đứng lại một lúc lâu trước mộ
nàng, đôi mắt đượm buồn mang một nỗi ngậm ngùi trước cảnh sinh ly, tử biệt. Tự
nhiên nàng cảm thấy lòng đau như dao chém, nhưng dù bằng cách nào thì nàng cũng
không thể cho chồng thấy được sự có mặt của mình khi người chồng vẫn đứng đấy
đau khổ. Nàng lại khóc, còn chồng thì lặng lẽ lên xe. Đóng cửa. Chiếc xe thong
thả lăn bánh ra khỏi nghĩa trang, chắc chẳng ai hiểu được rằng chưa bao giờ
nàng cô đơn đến thế.
Chỉ còn lại mình nàng với
chính xác thân của mình dưới ba tấc đất sâu, như một cái gì kỳ cục không dính
dáng đến nhau, phần trên nhẹ tênh và phần dưới nặng trĩu, bởi vì từ nay cái
thân xác ấy đã biến mất hẳn trên cõi đời, còn lại chút dư hương trong lòng mọi
người, rồi thì cũng từ từ đi vào quên lãng.
Chiều xuống thấp. Bên nấm mộ
của mình, nàng đã ngồi bất động như thế rất lâu, không biết hoàng hôn xuống tự
bao giờ, ánh đèn vàng hắt lên những cành cây như những cánh tay dài nghêu ngao
trên nền trời tím thẫm. Nghe tiếng lá khô xào xạc, nàng bỗng giật mình ngẩng đầu
quan sát, ở đâu đây những bóng trắng mờ mờ như sương, như khói lướt đi trên mặt
cỏ, và vì trời chưa tối hẳn nên nàng chưa nhìn rõ xem họ là ai, từ đâu tới,
lang thang trong buổi chiều nay. Đàn quạ khoang rền rĩ kêu, đâu đó những nắm
nhang vẫn lập loè, lung linh tỏa mùi thơm lãng đãng dưới cái lạnh của sương
thu, sự yên tĩnh thật là dịu dàng nhưng buồn đến não nuột. Hình như nàng chưa
thể quen được với thực tại, bởi những ràng buộc từ quá khứ, cho nên nàng cảm thấy
cô đơn vô cùng, và nàng lại khóc. Giọt nước mắt nhẹ lắm, như chính nàng cũng rất
nhẹ như những gì không có thực, nàng cảm thấy mình có thể lướt đi bất cứ nơi
nào nàng muốn.
Nàng hồi tưởng đến xác thân
của mình giờ này đã giá lạnh dưới nấm mộ sâu, mà rùng mình sợ hãi cho sự tàn
phá của một sinh vật sau khi linh hồn ra khỏi xác. Còn đâu vẻ diễm kiều của mái
tóc óng ả, làn da tươi mát và bờ môi mọng tươi thắm. Còn đâu thân hình căng đầy
sức sống của tuổi thanh xuân, mỗi lúc nồng nàn ái ân, chồng nàng đã đắm đuối ,
say sưa trước một kỳ công tuyệt mỹ của tạo hóa. Nàng là một đóa hoa, chưa phải
đóa hoa tàn, vậy mà như một chiếc lá xanh đã vội vã lìa cành sau cơn bão tố.
Hết thật rồi sao? Nàng chưa
tin như thế khi nhìn chiếc ảnh bán thân xinh đẹp của nàng để trên chiếc bàn thờ
khói hương nghi ngút, nàng ngỡ nó chỉ là một mặt phẳng mà không chứa đựng một
chiều sâu nào hết. Mà nó phẳng thật, vì nó chỉ ghi lại được khuôn mặt, ánh mắt,
nét cười của nàng khi nàng còn sống. Nay đã hết thật rồi, cái phần nặng nề kia
đã đổ xuống, còn lại phần hồn rất nhẹ, rất thênh thang, rất buồn bã để nhìn cho
rõ sự tàn phá cái dung nhan mĩ miều kia, nay như một đống thịt thối, cần phải
chôn lấp, thiêu hủy, cả những người thương yêu nàng rất mực khi xưa, thì dù muốn
dù không, cũng đâu muốn giữ lấy cái thân xác lạnh tanh, lạnh ngắt ấy làm gì.
Nàng vẫn nghĩ là mình đang
khóc, nhưng nàng không sờ được hay nhìn được cái tinh thể của những giọt nước mắt
đang thảnh thót rơi xuống trên má, trên môi. Thì ra ở cõi này, khi người muốn một
điều gì thì tức khắc đều cảm được như vậy, nhưng vẫn không có thực.
Chiều xuống thật nhanh, bóng
tối đã ập xuống rặng liễu rũ là đà, mờ mờ trên mặt hồ lặng ngắt. Khi trời tối,
nàng nhìn mọi vật rõ hơn, cả cái lay động rất nhẹ trên từng ngọn cỏ. Bỗng từ
phía sau lưng nàng, một giọng nói trầm trầm phát ra trong lùm hoa thạch thảo:
- Chào bà.
Nàng giật mình sợ hãi, một
thói quen của đàn bà khi ban đêm phải một mình giữa nơi thanh vắng. Nàng thảng
thốt:
- Ông là ai? Ông muốn gì?
Tiếng đàn ông bật cười như
hiểu được ý nàng, dù vậy, trong tiếng cười nàng không thấy có vẻ gì ác độc.
- Bà đừng sợ, ở đây chúng ta
không thể làm điều gì xấu xa như thế giới của loài người đâu, dù rằng bà là một
phụ nữ, và tôi là một người đàn ông. Giới tính chỉ có giá trị trên thân xác
chúng ta thôi, những cái ấy đã chết đi rồi, linh hồn chỉ là linh hồn, chúng ta
chỉ chia sẻ với nhau bằng cảm nhận. Tôi cũng như bà, một người đi trước, có một
ít kinh nghiệm muốn chia sẻ với bà, vì trông bà buồn thảm quá.
Nàng bối rối thú nhận:
- Ông nói đúng, vì từ một thế
giới khác, bước qua bóng tối của sự chết, tôi thấy mình thật lúng túng và cô
đơn...
Người đàn ông lại cười:
- Bà nói bóng tối của sự chết
làm tôi buồn cười quá, đối với tôi thì nó chính là ánh sáng,vì từ khi trút bỏ
cái xác thân nặng nề, bệnh hoạn ấy, linh hồn tôi thật là nhẹ nhõm như một đám mây
lơ lửng giữa thinh không. Chúng ta thoát rồi bà ạ, thoát hết cái vòng quẩn
quanh của sinh, lão, bệnh, tử, thoát hết mọi đau khổ mà con người mang đến cho
nhau, không biết nóng, không biết lạnh, một sự hòa hợp tuyệt diệu của cõi vô
cùng mà chỉ có Thượng đế mới làm nổi...
Nàng ngắt lời người đàn ông,
nghẹn ngào:
- Có lẽ ông là người không
có những vướng mắc với cõi trần nên ông mới cảm thấy như vậy, chứ riêng tôi, biết
bao nhiêu ân tình của gia đình, vợ chồng con cái, nay tất cả như một xa lìa
vĩnh viễn, làm sao tôi không đau khổ. Biết bao giờ, phải, biết bao giờ tôi mới
được sống lại với những người thân yêu của tôi...
Nàng nghẹn lời, khóc tức tưởi.
Người đàn ông lặng yên để nàng khóc, vì có khóc được như thế, sự đau khổ của
nàng sẽ nhẹ đi rất nhiều. Giọng nói của người đàn ông lại trầm trầm bên tai
nàng, vi vu như gió, rất chậm rãi, ông ta kể:
Người đàn ông ngưng lại như
cố nén những cảm xúc dào dạt mà ông đang thổ lộ với hồn người phụ nữ lạ, nàng
cũng yên lặng lắng nghe.
- Nhưng tất cả nó phũ phàng
hơn nhiều, thưa bà. "Chỉ cần một năm thôi, là quên lời trăn trối, em đã
quên tình tôi", cái anh chàng nhạc sĩ nào đó sao mà có thể viết được những
lời ca tuyệt diệu đến thế. Vâng, chỉ một thời gian thôi, khi hương đã tàn, khói
đã lạnh, bình hoa trên bàn thờ đã héo úa tả tơi, thỉnh thoảng người ta có nhắc
đến tôi thì nghe như là truyện cổ tích, vợ tôi đã hững hờ nhìn tấm ảnh của tôi
như một cái gì nặng nề làm cho đời nàng u ám hơn. Thưa bà, chúng ta có thể đọc
được ý nghĩ của con người khi chúng ta đã chết , đó là phần thưởng nhưng cũng
là hình phạt cho con người sau khi từ giã cuộc đời.
Người đàn ông lại im lặng,
nàng nghe ông ta thở dài.
- Vì vậy tôi đã đọc được ý
nghĩ của nàng, khi vợ tôi đang băn khoăn, rộn rã về một vài điều tán tỉnh của
lũ đàn ông mà nàng gặp gỡ. Có một gã mặt mày cũng bảnh bao, ăn nói khéo léo,
nhưng nàng có biết đâu trong đầu hắn đang tính toán những âm mưu bẩn thỉu, hắn
sẽ hưởng được những gì nơi nàng, và còn toan tính cả chuyện sẽ làm chủ tất cả
những gia sản mà tôi đã để lại cho nàng và lũ con.
Giọng người đàn ông đau khổ
hơn:
- Tôi biết hết mà không làm
được gì, thôi cũng đành vì vợ tôi còn trẻ, mà nàng lại yếu đuối, đang thèm khát
tình yêu và rất muốn được yêu. Lũ con tôi càng tệ hơn, từ lúc ấy chúng xem như
tha hồ muốn làm gì thì làm. bồ bịch yêu đương, đàn ca xướng hát chẳng ngó ngàng
gì đến sách vở. Khi mình còn sống, ít nhiều gì chúng cũng nể nang vì sự có mặt
của người cha trong gia đình, nay còn gì để mà kềm tỏa nữa. Người ta phung phí
tất cả bao mồ hôi nước mắt của mình tạo ra, không một chút thương tiếc, mà mình
thì cứ chắt chiu, dành dụm. Đôi khi tôi thấy họ cãi nhau, dành giựt nhau, muốn
giết lẫn nhau mà chỉ thấy buồn cười, vì họ đang cố giành lấy những điều không
thực, mà cứ tưởng sẽ ôm lấy mãi cái ảo ảnh của vật chất cho hết kiếp này đến kiếp
khác. Đời không là gì cả, như những nhánh sông chảy ra biển cả, có những lúc
chúng nhập vào nhau, đó là duyên, để rồi đến lúc nào đó lại rẽ ra một nẻo khác,
đó là định mệnh. Bà cứ hiểu như thế để không còn phải buồn, phải tiếc gì nữa cả.
Nghe người đàn ông nói, nàng
đã thấy nguôi nguôi. Ông ta lại tiếp tục câu truyện:
- Bởi vậy mà tôi không muốn
trở về nữa bà ạ. Âm dương đã cách trở, mà lòng người thì lại càng không thể nào
hiểu được. Tất cả những gì chúng ta có trên cuộc đời, kể cả tình yêu, thì chỉ
là ảo ảnh. Chúng ta đã từng lăn lộn trong cái khổ của một kiếp người, đã từng
yêu người như yêu chính bản thân ta, vậy mà khi chết đi, thời gian và những
tháng năm qua, mình chỉ còn là những bóng mờ trong lòng người ở lại, không nên
vì thế mà buồn, thưa bà. Để rồi bà xem, ông nhà cũng sẽ phải lãng quên bà để bước
đi theo nhịp sống của đời, không hẳn ông là người bạc bẽo, nhưng đời là thế .
Khi người đàn ông nói xong,
bỗng nhiên nàng cảm thấy mình đã có một cái nhìn thật rõ ràng về hoàn cảnh thực
tại của mình. Từ nay, nàng đã tách riêng ra khỏi cuộc sống của những người bên
kia, ví như nàng là nhánh sông đã tẽ sang một nẻo khác. Nàng cúi xuống nhìn những
vòng hoa trên mộ mình, những đóa hồng xinh đẹp, tươi thắm mấy ngày hôm trước
nay đã héo rũ xuống thảm thương. Người đàn ông lại hỏi:
- Hình như bà thích những
vòng hoa xinh đẹp kia?
Nàng gật đầu, giọng nàng thật
là u uẩn:
- Nhưng nó héo úa hết rồi.
Người đàn ông gật gù:
- Đấy đấy, chân lý là ở chỗ
đó. Cuộc đời ví như những cánh hoa, bà có thấy hoa nào mà không tàn đâu. Sự
sinh, diệt ở con người, cũng giống như sự sinh, diệt của cây cỏ. Cái gì ta ghi
nhận, cầm giữ được trên cõi trần chỉ là giả, vậy mà ta vẫn khổ vì những điều
không thực. Ngày hôm nay tôi đã tỉ mỉ quan sát đám tang của bà, đám ma một người
đàn bà đẹp với rất nhiều vòng hoa thương tiếc. Có đến bốn chục vòng hoa được
ném vào thùng rác, rồi thì người ta cũng sẽ quên chúng ta như thế, chưa kể tấm
lòng của người tặng hoa, biết đâu chỉ là sự bắt buộc trong một cách xử thế của
tình đời, nhưng người mua có thể đã tiếc đứt ruột khi phải bỏ cả trăm bạc để
nói lên lòng thương tiếc của mình. Bây giờ tôi cứ tạm chiết tính thế này, sơ sơ
cũng mất đến bốn ngàn đồng cho những thứ hoa hoét như thế, bốn ngàn vứt đi vào
thùng rác, trong khi bốn ngàn đồng này có thể nuôi sống bốn ngàn người đói khổ,
với cái giá khiêm nhường một đồng cho một khẩu phần ăn. Thưa bà, một sự phí phạm
không thể nào hiểu nổi, đó là cái sản phẩm điên khùng của con người ưa phù phiếm,
khoe khoang.
Nàng ngỡ ngàng mất mấy giây
mới hiểu nổi những lời châm biếm của người đàn ông, không hiểu ông ta có điều
gì cay cú cuộc đời, nhưng nghe cách lập luận ấy, nàng thấy cũng có lý. Tự nhiên
nàng thấy có cảm tình với ông, như thể nhờ vậy mà mảnh hồn nàng từ đây đã bớt
phần đau khổ những nuối tiếc mơ hồ về ảo ảnh của cuộc đời.
Người đàn ông đứng dậy với một
lời chào nhẹ như tiếng gió, rồi lướt đi, cái bóng ấy nhẹ nhàng như cái bóng của
hồn nàng. Đêm đã khuya, thế giới của linh hồn không có ngủ, không có thức, chỉ
có sự yên lặng chợt đến, chợt đi, khi tỏ, khi mờ. Nàng ngẩng đầu nhìn mảnh
trăng lưỡi liềm trên nền trời nhung thẫm, những vì sao lung linh, đêm dịu dàng
cùng với tiếng gió vi vu trên rặng liễu lả bóng dưới mặt hồ ẩm lạnh, dưới lùm
hoa thạch thảo, nàng nghe tiếng côn trùng tỉ tê.
Chiều hôm ấy, người đàn ông
lại đến. Đàn quạ khoang rền rĩ kêu những lời buồn thảm trên cây phong gìa,
không gian như thấm đẫm một màu tang tóc. Ông ta bảo:
- Ngày mai sẽ có một người nữa
đến đây, đây là một cô gái trẻ. Cô ta chết vì tình, tự hủy hoại đời mình vì một
tình yêu không thật. Tiếc lắm, tiếc lắm...
Nàng ngạc nhiên hỏi ông ta:
- Sao ông biết?
- Tôi ở đây khá lâu nên biết
rằng mỗi khi đàn quạ kêu, là y như rằng ngày hôm sau sẽ có một đám ma, hơn nữa,
người ta đã đến sửa soạn đào huyệt từ ngày hôm trước, tôi có nghe họ nói chuyện
với nhau như thế. Thật đáng tiếc khi cô ta đã tìm một cái chết lãng nhách như
thế, cho dù thân xác ta không tồn tại, nhưng ta cũng đâu có quyền hủy hoại nó.
Bà cứ tưởng tượng xem, một cây xanh đang tươi tốt, sởn sơ, đơm những bông hoa đẹp,
nay héo úa thế kia, không thương sao được. Hơn nữa, con người là một kỳ công của
tạo hóa, đã trở thành những nét chấm phá trong một bức tranh sống động của nhân
loại, bây giờ tự nó hủy diệt nó, đó là một điều không nên. Cứ để cái gì đến nó
sẽ đến, chuyện ấy tùy thuộc vào sự sắp đặt của Thượng đế.
Ông ta lại lan man nói sang
vấn đề khác:
- Không biết bà cảm nhận Thượng
đế bằng cách nào, chứ riêng tôi, tôi nhìn thấy Thượng đế thật là đơn giản trong
từng thứ hoa cỏ mọc ven đường. Người ta khổ công nói về Thượng đế bằng đủ mọi
thứ sách vở, từ truyền thuyết này sang truyền thuyết khác, tất cả đều vô ích,
càng đào sâu những mâu thuẫn mà thôi. Bà nhìn xem đóa hoa nhỏ xíu kia, sự pha
trộn màu sắc trong từng cánh hoa, chắc bà đã nhìn thấy cái hòa hợp tài tình của
Đấng hóa công. Tôi không nghĩ về Thiên đàng, không nghĩ về hỏa ngục, vì thiên
đàng hay hỏa ngục ta đã nhìn thấy ngay trong lòng ta. Đấy chỉ là một cách nói,
vì nhiều người cần phải có những hình ảnh kèm theo thì mới dẫn dụ họ đi đến niềm
tin vào Thượng đế. Tôi không cần điều đó. Thưa bà, sẵn đây tôi cũng nói với bà
điều này, là chúng ta chỉ dừng chân ở nghĩa trang này, nơi người ta gọi là bãi
tha ma, chỗ dùng để vùi lấp cái thân xác hôi thối của con người. Đây là trạm dừng
chân để chúng ta sửa soạn bước vào một cuộc hành trình khác. Tôi và bà cũng
không gặp nhau lâu, vì tôi sắp phải đi...
Nghe ông ta nói, tự nhiên
nàng lại buồn muốn khóc. Lâu nay, ông ta đã trở nên người bạn tri kỷ, hướng dẫn,
giải đáp, tâm sự với nàng về mọi điều hiểu biết của ông ta, về mọi nhân sinh
quan của cuộc đời. Nàng hỏi, giọng buồn bã:
- Ông đi đâu? Tôi tưởng là
chúng ta sẽ dừng chân ở đây mãi mãi.
Hồn đàn ông ngậm ngùi:
- Ở đâu cũng có hợp rồi tan,
như những giòng sông chảy về biển cả, có lúc hòa vào nhau rồi có lúc lại rẽ ra
những nẻo khác. Ít nhiều gì cuộc đời qua chúng ta cũng phạm một số lỗi lầm,
chúng ta phải trả giá cho những lỗi lầm đó. Con đường chúng ta đi tôi cũng chưa
biết, nhưng có lẽ tùy thuộc vào những công đức hay lỗi lầm chúng ta đã tạo nên.
- Ông có lo lắng lắm không?
Nàng hỏi.
Người đàn ông trầm ngâm suy
nghĩ trước khi trả lời nàng:
- Có đôi chút, nhưng tôi đã
nói với bà rằng nó tùy thuộc vào những điều chúng ta làm, thì câu hỏi đã được
trả lời rồi đó. Giờ đây, có phải làm người hay làm cây cỏ, có lên thiên đàng
hay xuống địa ngục, thì điều ấy mình đã đoán hiểu được phần nào. Bà có thích
thơ không? Nếu Thượng đế cho tôi sự chọn lựa, thì tôi sẽ chỉ muốn đọc hai câu
thơ này:
"Kiếp sau xin chớ làm
người,
Làm cây thông đứng giữa trời
mà reo..."
Ông ta lại trịnh trọng cúi đầu
chào:
- Xin chào bà lần cuối, hy vọng
chúng ta sẽ có dịp gặp lại nhau.
Lần đầu tiên và cũng là lần
cuối cùng, ông ta nắm lấy tay nàng, nhưng nàng không cảm thấy một vẩn đục nào
trong cái xiết tay chặt chẽ ấy.
Ông ta lướt đi trên mặt cỏ
nhẹ nhàng như lúc đến, còn nàng thì ở lại với những suy tư về Cõi mù sương.
Hai người từ biệt nhau vào một
chiều cuối thu hôm ấy, tự nhiên nàng cảm thấy buồn da diết. Từ lúc vĩnh biệt
cõi dương gian, rồi gặp gỡ linh hồn người đàn ông lạ, được ông ta chia xẻ những
khắc khoải, những suy tư giữa sống và chết, nàng cảm thấy lòng đã nguôi ngoai
và không ngờ mình mau thích nghi với hoàn cảnh hiện tại mau chóng đến thế.
Đã bước sang mùa Đông, trời
có vẻ lạnh, khá lạnh, nàng cũng như bao hồn ma khác, không còn cái cảm giác
nóng lạnh, thời tiết không ảnh hưởng đến thế giới của linh hồn, nhưng nàng vẫn
cảm được cái lạnh đang bao trùm cảnh vật. Nàng nhìn thấy những cành phong đang
run rẩy giữa một trời giá rét, lá trên cành đã rụng hết, chỉ còn trơ lại những
nhánh cây khô. Mỗi lần cơn gió bấc thổi tới, cả thân cây như quằn quại cố chống
chỏi với cái lạnh của gió đông, nàng nghe như có tiếng rên trong từng thớ gỗ.
Thì ra, cái khổ không phải
chỉ dành cho con người hay muông thú, mà ngay cả cây cỏ cũng có nỗi khổ của nó,
khi có một sự sống đang hiện diện trong từng phiến lá, từng dòng nhựa đang luân
lưu đến tận cùng gốc rễ. Người có nỗi đau của người, cây có nỗi đau của cây, nói
chung khi có sự sống hiện diện mọi vật đều cảm nhận được cái sướng cái khổ như
nhau.

Đang miên man với những suy
tư về cõi mù sương, thoắt nhiên nàng thấy có một hồn ma đã lướt tới bên nàng. Hồn
kia lên tiếng, rất tự nhiên như đã quen nhau từ lâu:
"Cái ông tử tế kia đi rồi
à?"
Nàng vừa lạ lùng, vừa khó chịu
vì sự tò mò của hồn ma, đấy là một người đàn bà. Rồi nàng bỗng dưng mỉm cười,
hóa ra đàn bà ở thế giới nào cũng hay tò mò như nhau. Nàng trả lời với một vẻ
không vui:
"Bà cũng biết ông ấy?"
Người đàn bà cười, giọng có
vẻ châm biếm:
"Biết chứ! Ở đây tự
nhiên mình biết hết những gì mình muốn biết, có gì là lạ đâu. Vậy là ông ấy đi
trước tôi, ông ấy đi được là tự ông ấy giải thoát cho mình, khi rũ được tất cả
là mình đi. . . "
Nàng ngạc nhiên, pha một
chút tò mò:
"Như vậy chết chưa phải
là hết sao?"
Người đàn bà cười rộ lên, giọng
cay đắng:
"Hết sao được mà hết,
thoát được cái xác thôi, còn phần hồn có cái khổ riêng của nó. Thoát được hay
không là ở tâm, miệng nói thoát mà lòng chưa thoát thì vẫn là không thoát. Tôi
có phải thần thánh gì mà trút được cái hận ấy, cứ nghĩ đến lão ta. . . "
Nàng ngơ ngác hỏi:
"Lão nào? Cái ông tử tế
ấy à?"
Bà ta lắc đầu cười chua
chát:
"Không. Là nói cái ông
chồng tôi ấy chứ! Cô chết còn có kẻ thương, người nhớ, còn tôi ấy à, chán bỏ mẹ,
may là họ cũng phải chôn mình, để đấy thối không ai ngửi được. Ôi dào! Cũng bát
cơm quả trứng, cũng thầy chùa tụng kinh gõ mõ, tôi chả tiếc gì cái đời tôi hết
nhưng. . . hận thì vẫn hận."
Tự nhiên nàng không khỏi so
sánh hai hồn ma mà nàng gặp gỡ, thực là một trời một vực. Ông ta hòa nhã trí thức
bao nhiêu thì bà này lại cay đắng hằn học bấy nhiêu, con người nào ít nhiều gì
cũng trải qua cái cay đắng của "thế thái nhân tình", nhưng cách suy
nghĩ quả có khác. Người đàn bà ngồi thụp xuống ngắm nghía tấm ảnh của nàng trên
tấm mộ bia, có khắc những hàng chữ nổi bằng đồng rất đẹp:
"Nom xinh đáo để, hèn
gì ông chồng cô cứ tiếc ngẩn ngơ. Chả bù cho ông chồng tôi..."
Nàng cảm thấy thương hại cho
người bạn mới, dịu dàng bảo bà ta:
"Xấu đẹp gì cũng thế mà
thôi, cứ đào tất cả lên thì người nào cũng như người nấy. Không biết bà nghĩ
sao? Chứ bây giờ tôi đã nhìn thấy sự bình đẳng giữa con người với nhau, đã được
Thượng Đế đối đãi thật công bình khi nằm xuống. Cái giá trị là phần tinh thần,
những gì tốt đẹp ta đã làm trên cõi trần, chắc chắn có liên quan đến linh hồn của
ta trong kiếp này phải không bà?"
Người đàn bà gật đầu, giọng
bớt phần gay gắt:
"Đã hẳn là như thế, cả
cái khổ đau về tinh thần, lúc nhắm mắt lìa đời mà chưa dứt bỏ được, nó vẫn đeo
đẳng linh hồn về bên kia thế giới. Chính vì lẽ đó mà có người ra đi trong sự êm
dịu, có người thì lại u trược nặng nề. Ông kia hay là cô, đã sớm tìm ra được
chân lý đó nên linh hồn cứ nhẹ như bóng mây, tháo gỡ được mà bay đi thanh thản,
còn tôi sao cứ âm ỉ mãi không quên đi được. Nếu tháo gỡ được thì linh hồn tôi
đã thanh thản mà bay lơ lửng theo ánh sáng của vùng hào quang phía trên
kia."
Nàng nhìn theo ngón tay của
bà ta, quả có thấy một luồng ánh sáng kỳ lạ, diễm ảo như một khối kim cương, có
rất nhiều chấm sáng lao xao. Tự nhiên nàng nghĩ đến hồn người đàn ông đã bay về
hướng ấy, và cái suy luận về thiên đàng và hỏa ngục gần như đã có một đáp số.
Đơn giản là tự mình tháo gỡ cho mình, hễ tháo được những ràng buộc nặng nề của
tội lỗi từ kiếp trước, hồn cứ thế nhẹ nhàng lơ lửng bay lên. Nhưng thật khó để
mà tháo khi cái nhân mình làm giờ đây như những cái rễ của sự đau khổ, cứ bám
chặt lấy làm linh hồn khó bề tẩu thoát.
Điều này dễ hiểu thế mà bấy
lâu nay người ta cứ vẽ vời ra bao hình ảnh khủng khiếp về hỏa ngục, nó nằm ở
trong tâm chứ xa xôi gì mà phải đi tìm mãi, tìm hoài nguyên lý của thiên đàng,
địa ngục, cái Ác và Thiện nằm kề bên nhau, như hình ảnh hai ông Ác và Thiện trấn
giữ trước mỗi ngôi Chùa, chỉ là những hình ảnh gần gũi, dễ hiểu nhất để dẫn giải
người ta hiểu con đường mình phải đi. Nàng cũng hiểu khi còn sống ở trần gian,
hỏa ngục cũng đã đè trĩu trong tâm tư những con người độc ác.
Người đàn bà có lẽ là người
không có hạnh phúc khi còn sống, cho nên giọng nói bà ta lúc nào cũng cay đắng:
"Tôi biết cô đang so
sánh cái ông tử tế kia với tôi, nhưng giá mà tôi trút được cái đau khổ đi thì
tôi cũng như ông ta vậy. Chính vì lý do đó người ta mới hay nói ma dữ, ma hiền,
ma đẹp, ma xấu, như cô đây có là ma thì cũng khối người mê đấy. Tuy vậy tôi chỉ
xấu cái miệng, lòng dạ lại không đến nỗi nào, chưa hại ai bao giờ. Ở đời khối đứa
nói lời ngon ngọt, nhưng lòng dạ lại như dao đâm người. Chỉ vì đời không tử tế
mà tôi không làm sao nói năng cho tử tế được cả."
Nàng rụt rè hỏi bà ta:
"Bà đã bao giờ về thăm
nhà chưa? Có khi bà chết rồi, ông đâm hối hận rồi cũng buồn rầu đau khổ vậy."

"Hối hận? Đừng nói hai
chữ hối hận với con người ấy. Tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện trở về căn nhà
xưa để nhìn mặt hắn lấy một lần. Lạy trời cho tôi quên, quên tất cả là tôi sẽ tự
siêu thoát."
Nàng ngại ngần hỏi:
"Có lẽ chúng ta phải cần
có sự cầu nguyện thật nhiều của người còn sống, may ra linh hồn mới chóng được
siêu thoát."
Người đàn bà cười "hộc"
lên một cách quái đản, ngó nàng riễu cợt:
"Sao ngây thơ thế hở
"giời"? Như thế thì những đứa làm ác mà lại giàu, chúng có tiền mua sự
cầu nguyện, cứ phơi phới lên Thiên Đàng, còn như tôi không ai cầu nguyện cho, dễ
chừng cả đời nơi địa ngục. Kinh kệ cũng giống như âm nhạc trong một cuộn phim
mà mình là nhân vật chính, âm nhạc được lồng vào trong phim để giúp cho nhân vật
diễn xuất trọn vẹn hơn, cảm xúc dào dạt hơn, nhưng cái chính là ở nhân vật
trong phim đấy chứ!"
Nàng bật cười, hóa ra bà ta
cũng đáo để đấy chứ, không dốt nát tý nào, so sánh giữa hai linh hồn nàng gặp gỡ,
cái giá trị uyên bác ở người đàn ông với cái kinh nghiệm từng trải nơi người
đàn bà đã thua gì nhau. Bà ta cười thích thú:
"Tôi nghĩ Thượng Đế đâu
có ngây thơ đến độ để người ta hối lộ, buôn thần bán thánh, tạo nên con người
mà nó lại dám qua mặt mình thì cứ đem vặt cổ chúng cho xong. Tất cả là ở trong
tâm ta, thiên đàng địa ngục nó nằm cả ở chỗ này này cô bạn ạ."
Bà ta đấm tay bình bịch vào
chỗ trái tim, đúng ra thì phải vỗ vào đầu, vì tri thức nằm cả ở trong khối óc.
Nàng lại buồn cười cho sự ngớ ngẩn của mình, thân xác gồm có đầu, mình, tay
chân, tim óc, phèo phổi làm gì còn nữa. Linh hồn là một khối không màu sắc, lơ
lửng như mây, ẩn hiện vô phương nắm bắt. Nó có thể bất ngờ nhập vào một thân
xác nào đó để nhờ nói lên những thông tin giữa bên này và bên kia, nó có thể
nương theo một cánh bướm chập chờn bay đến với người thân để báo trước một điều
may hay rủi. Càng đi sâu vào thế giới của linh hồn, nàng càng cảm thấy thích
thú khi khám phá ra những điều kỳ bí mà con người ở cõi dương gian phải rùng
mình, rởn gáy.
Người đàn bà có vẻ thuộc loại
"ruột để ngoài da", cho nên vì thế vừa gặp nàng bà ta đã không ngưng
được câu chuyện ngày xưa:
" Tôi lấy chồng năm hai
mươi tuổi. Thuở ấy con gái mà lấy chồng muộn người ta bảo mình vô duyên. Gia
đình nghèo, mẹ chết sớm, bố lấy vợ khác chả ngó ngàng gì tới con cả, thôi lấy
chồng quách đi cho yên phận. Này cô ạ, cô có tin rằng người ta có số không? như
cô đây cả đời được nâng niu, chắc cũng nhờ kiếp trước khéo ăn ở sao đó, chứ tôi
cái số khốn nạn thì có "tránh vỏ dưa cũng đạp vỏ dừa", điều ấy chắc
chắn như năm với năm là mười vậy. Cuộc đời tôi nó cứ đi từ cái khổ này đến cái
khổ khác, không làm sao cưỡng nổi."
Nàng ngạc nhiên hỏi bà ta:
"Bà không tìm hiểu trước
khi lấy chồng à? Tôi tưởng người ta phải yêu nhau mới ở với nhau được chứ?"
Người đàn bà cười "khục"
lên, nếu một kẻ yếu bóng vía nghe được chắc cũng phải nổi da gà:
"Yêu à? Yêu là gì nhỉ? Là hai người lấy nhau, ăn ở với nhau, đẻ ra một bầy con, hành hạ nhau bằng thích, như vậy có phải là yêu? Tôi cũng có yêu ông ta đấy chứ, nhưng lấy nhau rồi tôi mới biết yêu đồng nghiã với sự nô lệ, nghĩa là quần quật hầu hạ, chiều chuộng từ người trên kẻ dưới, làm sao cho người ta hài lòng thế là đầy đủ nghĩa của chữ yêu. Không thì người ta nói xỏ nói xiên, chửi bới, đá vào đít mình rồi lại ngủ với mình, rồi lại đi tìm người khác cho mình khổ, để làm gì nhỉ, để yêu... há, há...."
"Yêu à? Yêu là gì nhỉ? Là hai người lấy nhau, ăn ở với nhau, đẻ ra một bầy con, hành hạ nhau bằng thích, như vậy có phải là yêu? Tôi cũng có yêu ông ta đấy chứ, nhưng lấy nhau rồi tôi mới biết yêu đồng nghiã với sự nô lệ, nghĩa là quần quật hầu hạ, chiều chuộng từ người trên kẻ dưới, làm sao cho người ta hài lòng thế là đầy đủ nghĩa của chữ yêu. Không thì người ta nói xỏ nói xiên, chửi bới, đá vào đít mình rồi lại ngủ với mình, rồi lại đi tìm người khác cho mình khổ, để làm gì nhỉ, để yêu... há, há...."
Bà ta ré lên cười như một
người khùng điên, nàng cảm thấy sợ hãi trước vẻ kỳ cục của hồn ma phụ nữ lạ. Chỉ
một lát thôi, bà ta sụt sịt khóc, nàng thật sự ái ngại cho sự hoảng loạn và đau
khổ của linh hồn người đàn bà kia. Bà ta vừa khóc vừa lu loa kể:
"Cô đừng tưởng tôi
không biết yêu và không thèm khát tình yêu, cũng vì thất vọng cho cái tình quái
gở ấy mà lúc nào tôi cũng như kẻ điên khùng. Ngày còn trẻ, tôi cũng có cái mảnh
tình ngây thơ, cũng say trăng, cũng thơ thẩn với mây với gió. Chỉ vì chồng tôi
mà linh hồn tôi nên nông nỗi này, cô có muốn nghe tôi kể câu truyện "Khi
con cừu biến thành sư tử" không?"
Nàng lại cảm thấy vui vui,
người bạn mới dễ thương theo kiểu cởi mở của bà ta, tuy không thâm trầm triết
lý như ông bạn cũ, nhưnng lối "tả chân" đầy đủ về cuộc đời nghe cũng
hay hay.
" Gia đình tôi như thế
đấy. cho nên tôi mới mong thoát ra để tìm một chút êm dịu cho cuộc đời. Tôi gặp
chồng tôi qua sự giới thiệu của bạn bè, anh ta có sức thu hút của một tên đàn
ông nghệ sĩ, hồi xưa cũng dịu dàng tử tế như cái nhà ông kia. Đàn ông lạ lắm,
có khi họ rất tử tế với người ngoài, mà chẳng tử tế với vợ chút nào cả, bởi vậy
người ta cứ cho muôn tội bởi người đàn bà. Lấy anh ta rồi tôi mới biết đấy là một
người đàn ông ích kỷ, chỉ nghĩ đến anh ta và gia đình anh ta mà thôi, tôi mắc nợ
cả cái nhà ấy. Hắn yêu hắn và dùng mình làm công cụ để đẹp lòng mọi người, còn
mình thì cay đắng nhịn nhục để sống cho hết nợ. Vậy mà cũng đẻ cho nhau mấy mặt
con, không biết sao không tôn trọng nhau mà vẫn có thể ăn ở với nhau được nhỉ?"
Nàng mỉm cười thú vị. Bà ta
lại sắp dở cái giọng điên khùng, hóa ra lúc sống mà đang ở trong trạng thái
nào, thì lúc chết hồn vẫn loanh quanh trong trạng thái đó, bởi vì thân xác đã nằm
xuống mà tri thức vẫn tồn tại. Như nàng, lúc nằm xuống vẫn tràn ngập niềm vui
và tình êm ái với chồng con, do đó nàng mới buồn áo não như thế. Nếu không gặp
gỡ hồn người đàn ông lạ, ông ta đã giải tỏa cho nàng những vướng vít giả tạm của
trần gian. Thấy nàng im lặng, người đàn bà đột ngột triết lý như một học giả:
"Nó là nợ đấy cô ạ, bao
nhiêu lần mình muốn chạy trốn nó mà vẫn không thoát ra được. Sau này thì cứ sống
vì con, cứ chửi nhau, dằn vặt nhau, rồi lại ăn ở với nhau, khi hết nợ là mình
đi, nhưng nỗi buồn thì nó vẫn đeo đẳng theo ta về bên kia thế giới. Hồi ấy tôi
còn trẻ, sức chịu đựng còn nhiều, dù bị hành hạ bởi cả cái nhà chồng họ hàng lắm
điều lắm tiếng, cứ chìu hết bấy nhiêu người mình cũng đủ ốm mà chết. Ấy là nói
lúc mình còn trẻ, chứ càng ngày càng lớn tuổi, đời chả ra thế nào thì cần gì phải
bám vào cái thứ tình khốn khổ ấy. Người ta cứ bảo phụ nữ phải thế này thế nọ, hạnh
phúc tự đấy mà ra. Láo khoét, dễ thường tôi đã chả từng là con cừu non mềm mại,
dễ thương lúc bước vào đời đấy ư ? Con giun xéo lắm cũng quằn, khi mình cứ cố gắng
nín nhịn để bảo tồn cái hình ảnh đẹp đẽ cuả người phụ nữ, người ta lại cứ thế đẩy
mình vào tường không cho nhúc nhích, cục cựa. Ông chồng tôi thừa thắng xông
lên, lại được yểm trợ bởi cái gia đình cũng ích kỷ như hắn... "
"Tôi nghĩ họ cũng phải
trả giá cho những việc làm sai trái của họ, trước mắt là đám con cháu của họ
cũng đã trả lễ cho những cái ác mà họ gây nên, như thế mới gọi là "quả báo
nhãn tiền" chứ."
Nàng lên tiếng an ủi:
"Ít ra thì tự mắt bà
cũng đã chứng kiến cái quả báo nhãn tiền ấy rồi, thôi thế bà cũng được an ủi rằng
trời luôn luôn có mắt."
Bà ta tiếp tục câu chuyện:
"Buồn cười lắm cô ạ. Một
lần tôi đang đứng trong bếp, tay cầm con dao chặt thịt thì ông chồng tôi, hắn vẫn
không bỏ cái lối chà đạp nhân phẩm người khác. Hắn hằn học tôi không biết lấy
lòng cô em chồng lắm tiền mà thiếu lòng nhân, hắn đay nghiến cha mẹ tôi kém
phúc đức nên mới đẻ ra tôi, nào là nhà tôi thế này, nhà hắn thế nọ. Trời đất
cha mẹ ơi! Sao mãi tới lúc ấy tôi mới có đủ nghị lực và can đảm để bảo cho hắn
biết là hắn không có quyền chà đạp tôi, gia đình tôi. Cô ạ, buồn cười quá cô ạ
..."
Bà ta cứ rú lên cười, cười
rũ rượi đến nỗi nàng cũng phải bật cười theo:
"Tôi giơ phắt con dao
lên xấn vào hắn, lúc giận dữ tôi như con sư tử, hắn bất ngờ bị phản công tìm đường
chạy, may là hắn cũng biết sợ chứ không tôi đã chém cho hắn một dao rồi muốn ra
sao thì ra. Hắn sợ lủi ra ngoài, sợ cơn điên khùng của con cừu tự nhiên biến
thành sư tử, hôm ấy mà tôi chém chết hắn thì có phải đời lại gánh thêm một nỗi
oan gia. Sau đó thì chẳng còn gì, tình nghĩa tình yêu tình gì cũng hết. Tôi được
yên thân mặc cho hắn muốn vung vãi tình yêu cho ai cũng được, đã đến nước ấy
thì còn ghen tuông làm gì cho mệt."
"Mấy đứa con bà thì
sao?" nàng hỏi.
Người đàn bà thở dài:
"Toàn con gái, hình như
chúng sinh ra để trả cái nợ cho ông già chúng. Nếu sau này chúng có một chục thằng
chồng thì cũng đừng ai ngạc nhiên, đời cha ăn mặn thì đời con khát nước. Tuy
cái tình đối với chồng như thế đã đành, nhưng đối với con thì không buông xuôi
như vậy được, chẳng qua nó lại là món nợ mà mình trả chưa xong, người đời họ bảo:
"Chồng là nợ, vợ là oan gia, con là cái dây thắt cổ", phải vậy không
cô?"
Nghe bà ta nói nàng không khỏi
bật cười, đúng là một tay văn chương chữ nghĩa nhưng cách suy nghĩ vẫn chỉ theo
chiều hướng đau khổ, chứ riêng nàng tình vợ chồng quả là chút duyên lành trời
cho, nhưng chỉ được tới đấy là hết duyên lẫn nợ. Nàng bùi ngùi nhớ đến gia
đình, những đứa con ngoan lớn lên sẽ thay mẹ săn sóc cha chúng nó, và biết đâu ở
một kiếp nào đó họ sẽ trở lại với nhau, trong mối duyên lành mà Thượng Đế sẽ
ban cho họ. Nàng thấy tâm tư mình an ổn hơn người đàn bà kia, thầm cảm ơn người
đàn ông tử tế đã tháo gỡ cho nàng những đau khổ khi phải lìa xa những hình ảnh
thân yêu của quá khứ. Nàng cũng có ý nghĩ rằng, sẽ truyền đạt sự hiểu biết ấy
cho người bạn mới, để bà ta cũng dần dà nguôi ngoai những đau khổ, một người có
lòng bác ái như nàng, thì dẫu chết vẫn muốn chia xẻ với người khác những gì
nàng có. Do đấy, nàng thấy linh hồn mình thấp thoáng muốn bay về một nơi nào
đó, có lẽ là cái vùng ánh sáng lạ kỳ, diễm ảo lơ lửng phía trên kia. Cả hai
cùng đắm chìm trong Cõi Mù Sương, người đàn bà cười chán khóc chán, bỗng đột
nhiên vui vẻ trở lại:
"Nói thế thì nói, chứ
nghĩ đến làm người một lần nữa tôi lại thấy lạnh cả hồn. Này thôi, chúng mình
đi chơi đi, sang thăm cái con bé tự tử bên kia hồ xem hôm nay nó như thế nào rồi.
Rõ mà chán, ấy là nó chưa rõ bộ mặt thật của đời nên còn phí nước mắt mà khóc
than, mà dại dột hủy hoại mạng sống cuả mình, cứ sống mà dung dăng dung dẻ với
người khác xem có sướng không nào. Chưa kể từ đây hồn còn bị dằn vặt trong đau
khổ, gọi là còn đời đời trong địa ngục ở cái tội muốn cướp cả quyền của Thượng
Đế."
Nàng im lặng, không muốn
bình phẩm ai, vì đó là bản tính hiền lành của nàng khi còn sống. Cả hai cùng đứng
lên, hai cái hồn ma lướt đi trong gió đêm lạnh giá. Giờ này, khi cõi dương gian
đang say ngủ, khi vầng trăng khuya lạnh lẽo vằng vặc treo trên bầu trời cao vời
vợi, có những hồn ma lang thang vật vờ bên rặng liễu rủ ven hồ. Chỉ còn tiếng
gió hú, tiếng chim khuya khắc khoải gọi nhau...
Đêm đã khuya, ngàn sao như
những viên ngọc châu nhấp nháy trên nền trời mênh mông bát ngát, một nửa vầng
trăng rơi xuống mặt hồ, phơ phất những cành liễu mềm rủ bóng, như mái tóc đen
mun của người đàn bà thả từng lọn mềm óng ả xuống mặt nước. Thỉnh thoảng một
cơn gió lan lan làm gờn gợn mặt hồ, ánh trăng như rạn vỡ ra từng mảnh lung linh
dưới đáy nước. Cảnh vật càng thêm huyền hoặc với cái mờ tỏ của một đêm chưa đi
và một ngày chưa tới.
Hai cái bóng cùng lướt đi, về
phía có tiếng khóc nỉ non nằm trong góc của nghĩa trang, sau những lùm cây thấp.
Giữa đêm khuya thanh vắng, lẫn trong tiếng côn trùng ri ri trong bụi cỏ, tiếng
khóc nghe càng tức tưởi, thê lương đến não nuột. Hai người phụ nữ, cứ gọi như
thế dù giờ đây giới tính trong thân xác của họ đã hoàn toàn nằm lại trong hai nấm
mộ tối, và linh hồn chỉ còn mang theo được trong tư tưởng của họ những danh
xưng được đặt để của thế giới loài người : Ngài, Đức, Ông, Bà, Chú, Bác, Cô,
Dì, Anh, Chị v. v ....
“Mẹ ơi! Con sợ quá, sao chỉ
có mình con ở đây hở mẹ?”
À, thì ra cô ta gọi bà mẹ
như thói quen của những người con chợt nhớ đến mẹ mình khi bơ vơ trong dòng đời
đau khổ. Buồn thật, chắc hẳn giờ đây linh hồn cô đang hoảng loạn, sợ hãi, khác
hẳn với sự quyết liệt của cô khi dùng những viên thuốc độc để kết liễu đời
mình. Sự đau khổ đến cùng quẫn khiến lúc ấy cô không còn lý trí để phân biệt được
hậu quả của sự hủy hoại ấy ra sao, không nghĩ đến nỗi đau khổ vì mất con của
cha mẹ, không nghĩ đến hạnh phúc gia đình mà cô đang có, mà chỉ tuyệt vọng vì sự
bỏ rơi của người tình đểu cáng, lừa lọc đẩy trái tim ngây thơ của cô xuống vực
thẳm.
Nghe tiếng nói than van gọi
mẹ của cô gái, nàng vô cùng thương cảm, dịu dàng lên tiếng:
“Đừng sợ, chúng tôi không
làm hại gì đến em đâu, chúng ta đến với nhau bằng tình yêu thương chia xẻ thôi.
Ai bảo rằng chỉ có loài người ở cõi bên kia mới chia xẻ được với nhau, nếu như
có một tấm lòng thì ở đâu mình cũng vẫn thương yêu nhau được.”
Vô tình nàng đã lập lại những lời nói thâm tình của người đàn ông tử tế đã dạy cho nàng trong thời gian nàng vừa lìa xa cõi đời mộng ảo, tác động của yêu thương hay hận thù chính là tư tưởng, nếu như ngày ấy nàng không gặp được ông ta, chưa chắc nàng đã học được bài học của sự giải thoát và lòng yêu thương để chia xẻ với cô gái bất hạnh này.
Vô tình nàng đã lập lại những lời nói thâm tình của người đàn ông tử tế đã dạy cho nàng trong thời gian nàng vừa lìa xa cõi đời mộng ảo, tác động của yêu thương hay hận thù chính là tư tưởng, nếu như ngày ấy nàng không gặp được ông ta, chưa chắc nàng đã học được bài học của sự giải thoát và lòng yêu thương để chia xẻ với cô gái bất hạnh này.
Cô gái vẫn khóc, khi đang
đau khổ vì cô đơn, lại có người tử tế yêu thương khuyên giải, càng làm cô cảm động
và khóc nức, giọt nước mắt của đau khổ giờ đây đã trở thành giọt nước mắt của
tình yêu thương, phát xuất từ tâm con người cả thôi. Người đàn bà đi sau nàng
lên tiếng, bà ta vốn là người trực tính, ăn nói "thẳng như ruột ngựa"
khiến cô gái ngỡ ngàng, và nàng thì hơi bất ngờ khó chịu:
“Úi giời! Bây giờ mới nhớ đến
mẹ thì đã muộn rồi, sao dại dột thế hở cháu? Mình chết uổng mạng mình, lại còn
mang tội với trời nữa, tiếc nuối gì một thằng “ma cà bông” cho linh hồn càng
đau đớn thêm ra. Tuổi trẻ ngông cuồng, nông cạn , thật khổ thay cái phận đàn
bà, hễ khi yêu là yêu hết trái tim, nên vì thế mà chết ngu chết dại. Cái bọn
đàn ông là vua tham lam, hễ được yêu là vơ ngay lấy tuýt suỵt, đâu có cần biết
hậu quả tốt, xấu ra làm sao.”
Đến đây thì nàng phải “suỵt”
nhẹ cho bà ấy đừng nói nữa, vì cứ theo lối nói chuyện phang ngang bổ củi, chửi
đời vung vít như thế thì chỉ làm cho linh hồn cô gái bị thương tổn hơn thôi.
May quá bà ta biết ngừng lại, như cũng hiểu mình đã quá lời với một đứa trẻ con
chưa hiểu đời bao nhiêu. Nàng nhẹ nhàng nói với bà bạn:
“Không phải thế, tôi không đồng
ý với những điều bà vừa nói đâu. Thế giới loài người giống như cái mâm để xàng
gạo, sau khi xàng sảy thì lúc ấy mới chọn được gạo ra gạo, lúa ra lúa và sỏi đá
ra sỏi đá, không phải tất cả những người đàn ông đều như thế!”
Lúc nói như vậy, nàng đang
nhớ đến ông bạn tri kỷ của mình đã đi trước về một nơi nào đó mà nàng chưa biết,
còn cô gái khóc nức nở:
“Trời ơi! Tôi đau khổ quá,
tôi cứ tưởng chết là hết, là giải thoát cho tôi những đau khổ cuộc đời, chứ có
ngờ đâu tôi đã làm khổ cha mẹ tôi, đã bỏ lại anh chị em để ra đi một mình tức
tưởi như thế này. Tôi biết tôi sai rồi, nhưng làm sao quay về được với gia đình
của tôi, để sống với cha mẹ, anh em thân yêu của tôi, tôi còn phải trả lời trước
Thượng Đế hành động nông nổi của mình, nhưng tại ai, chẳng lẽ chỉ mình tôi chịu
cái khổ này . . .”
Cô ta lại khóc, tiếng khóc
thê thiết khiến cả hai linh hồn đàn bà cũng mủi lòng đến rơi lệ. Đúng rồi, chết
chưa phải là hết, dù biết chết chỉ là sự chuyển tiếp qua một cuộc đời khác,
nhưng ảnh hưởng tinh thần thì lại chặt chẽ với nhau như chim liền cánh, như cây
liền cành, giải thoát được hay không để đi về một nơi bình yên không phải dễ,
vì con người phải hưởng hoặc trả những gì mình làm khi còn sống. Linh hồn cô
gái tới bây giờ đã mù mờ cảm nhận được con đường cô sắp đi, và nỗi ám ảnh vì điều
sai trái cô làm sẽ không dễ dàng buông tha để cô về được nơi bình yên như lòng
cô mong mỏi. Nàng dịu dàng nói với cô:
“Em ơi! Mọi chuyện đã qua rồi,
có hối hận thì cũng không còn cơ hội để làm lại được, người ta chỉ có thể làm
được điều thiện hay điều ác khi còn là người thôi. Tôi không dám nói với em rằng
em sẽ phải đi qua những ngả đường vô cùng cam go để học lại bài học làm người,
để chuộc lại lỗi lầm của em đối với thượng đế, đấng đã ban cho em có được một
linh hồn trong một xác thân để hiện diện trên trần thế.
Em đã không biết xử dụng cuộc đời mình để làm những điều tốt đẹp khi có điều kiện tốt, lại hủy hoại đời mình như bẻ một bông hoa đẹp mà chà đạp dưới chân, nhưng chắc chắn là khi nhìn rõ được điều mình làm, mà hồn quyết tâm tu tỉnh để sám hối, Thượng Đế sẽ sẵn sàng tha thứ cho em phần nào điều sai trái ấy.”
Em đã không biết xử dụng cuộc đời mình để làm những điều tốt đẹp khi có điều kiện tốt, lại hủy hoại đời mình như bẻ một bông hoa đẹp mà chà đạp dưới chân, nhưng chắc chắn là khi nhìn rõ được điều mình làm, mà hồn quyết tâm tu tỉnh để sám hối, Thượng Đế sẽ sẵn sàng tha thứ cho em phần nào điều sai trái ấy.”
Cô gái như bám được cái phao
trên dòng nước xoáy, nên gật đầu nghẹn ngào nói với hai người phụ nữ lạ:
“Cháu cảm ơn cô, đã chỉ cho
cháu con đường phải đi, dù thế nào đi nữa thì cháu cũng phải trả giá cho việc
mình làm, sự đau khổ giờ đây chính là địa ngục mà cháu phải chịu, chứ chưa chắc
phải nóng như vạc dầu, sôi như lửa bỏng mới là địa ngục. Ôi cháu ngu dại vô
cùng, trong khi mình ra đi có một mình, mang theo nỗi đau khổ về cõi chết, đã
làm cho cha mẹ, anh em cháu ở lại trần gian còn đau khổ gấp mười những điều
cháu phải chịu. Mà anh ta thì ....”
Người đàn bà nghe kể đến đây
thì cười sặc lên khiến cô bé ngỡ ngàng:
“Lại nhắc cái thằng khốn ấy,
rõ là khốn khổ. Này, sao không thương cho cảnh bà mẹ giờ này vẫn không ngủ được,
khắc khoải khóc thầm trong đêm khuya vì thương nhớ con mình, ông bố thì gầy rộc
đi vì đau khổ. Còn thế này nữa, cái miệng đời mới kinh khiếp, họ chẳng tử tế gì
mà không lào xào bàn ngang tán dọc nỗi đau khổ của người khác, đã mấy ai thông
cảm được niềm đau của thế nhân. Cái thằng ấy thì tôi bảo đảm, nó cũng phải liên
đới chịu trách nhiệm với cô em đây trước mặt Thượng Đế, chính nó mới là nguyên
nhân gây ra sự đau khổ, sau này nó sẽ không yên ổn mà sống phởn phơ với vợ đẹp
con khôn được đâu.”
Nàng giựt mình, thật khổ cho
cái miệng bô lô ba la của linh hồn người phụ nữ kia, khi còn sống bà đã từng là
nạn nhân của một người chồng ích kỷ, xem bà như công cụ để thỏa mãn xác thịt và
trở thành một người nô lệ để phục vụ cho một đám người cũng ích kỷ, tàn nhẫn
như ông ta. Từ khi gặp nàng, qua trao đổi bà ta cũng đã thấu triệt được chút
nào phương cách để tự giải thoát nỗi căm hận của linh hồn, nhưng thực ra bản chất
con người không phải là thần thánh, vì nếu rũ ra được ngay thì chắc nhà thờ,
chùa chiền sẽ vắng bóng người đến cầu nguyện. Thế nên, muốn hiểu được con đường
dẫn tới chân lý không phải một sáng một chiều mà “ngộ” được. Giờ đây, mỗi cái
đau khổ của từng linh hồn khác hẳn nhau, cái buồn dịu dàng mênh mang của nàng
khác hẳn cái đau khổ của người đàn bà bị bạc đãi, và cô gái bị phụ tình, dù rằng
nàng đang cố cởi cho họ phần nào nỗi đau khổ, như dập bớt nhóm than hồng trong
lò lửa bốc lên những nỗi buồn chất ngất. Đôi vai cô gái vẫn run rẩy theo tiếng
khóc, hình như cô chưa thể nguôi được niềm hối hận cùng thương nhớ hình ảnh những
người thân yêu trong quá khứ:
“Trời ơi! Giờ này anh ở đâu
anh ơi! Chỉ còn em một mình một bóng nơi đây, không biết còn ai nhớ đến em
không?”
À, thì ra cô lại nhớ đến cái
anh chàng bội bạc kia, khi kết thúc một cuộc tình để dẫn đưa đến cái chết thảm
khốc cho cô gái nhẹ dạ, biết đâu lại là cách giải quyết hay nhất để anh ta
không còn vướng víu nợ nần với cô gái. Hình như điều ấy làm người đàn bà bực
mình, bà ta xán đến gần, đặt tay lên bờ vai ẻo lả của cô rồi hỏi:
“Này, cô lại nhớ đến cái thằng
"ba que xỏ lá" ấy hở? Thế thì đi với tớ, tớ sẽ chứng minh cho thấy rằng
thì là “không có mợ thì chợ vẫn đông”, hay là không có em thì đời anh vẫn thế!”
Bà ta kéo tuột cô gái đi đến
nỗi nàng không kịp ngăn cản, hai cái hồn ma gần như bay lướt đi nhanh hơn tốc độ
của âm thanh và ánh sáng. Đúng ra thì họ không cần phải có phép khinh công mới
đến được nơi họ đến, vì ở cõi này thời gian cũng ngừng lại từ khi họ bước sang
cõi chết. Không còn hôm qua và hôm nay, không còn quá khứ hay hiện tại, chỉ còn
khối tư tưởng và hành động, việc làm của họ ở kiếp người mang đi mà thôi. Ngồi
lại một mình nàng cứ băn khoăn tự hỏi, con người sẽ tự giải cứu linh hồn mình
cách nào đây khi đã vượt qua cánh cửa miền vĩnh cửu. Chưa nghĩ được câu trả lời
thì đã thấy hai cái bóng dắt nhau về. Nàng vội hỏi:
“Thế nào, hai người dắt nhau
đi đâu mà nhanh như ma đuổi thế?”
Người đàn bà bật cười:
“Mình là ma rồi thì còn ma
nào đuổi kịp mình. Tại tôi bực mình cái con ngốc này nên nhất định cho nó nhìn
ra sự thật, kẻo nó cứ lải nhải hoài là bây giờ chỉ còn một mình một bóng. Làm
cóc gì có hình mà có bóng, hễ mặt trời lên là tan biến cả, vốn là sương là khói
thì lại trở về với khói sương, ảo ảnh chỉ là ảo ảnh. Tôi vừa đi với nó về nhà
cho nó biết cái khổ của mẹ nó như thế nào, và cái thằng mà nó tưởng yêu nó đến
đời đời kiếp kiếp kia như thế nào đấy thôi. . .”
Linh hồn cô gái có vẻ ngượng
nghịu vì lối ăn nói bạt mạng của bà kia, vì thế nàng lại phải lên tiếng để cứu
vãn tình thế:
“Thôi, chẳng có gì phải ngạc
nhiên, vì giờ đây chúng ta ai cũng hiểu khi nằm xuống, chúng ta đã phải tự tách
rời với thế giới bên kia. Họ còn thân xác thì mọi sinh hoạt của họ vẫn phải đi
theo nhu cầu vật chất, cho nên mình muốn trở lại để hòa nhập với cõi đời cũng
không được, chỉ lạc lõng hơn thôi. Chi bằng chấp nhận con đường chúng ta sắp
đi, vì chết chỉ có nghĩa là thay đổi một chiếc áo mới, một cuộc đời mới, hành
trang tinh thần mới quyết định nơi mình đến thôi mà.”
Không hiểu sao giờ này mỗi lời
nàng nói ra, đều giống như lập lại bài học của người đàn ông tử tế nàng gặp đầu
tiên, kể từ hôm ấy đến nay chẳng biết bao lâu rồi, vì ở đây thời gian không còn
hiện diện, hình như chỉ có ánh sáng và bóng tối. Nàng thầm tri ơn người bạn tri
kỷ chỉ gặp nhau trong một khoảnh khắc ngắn ngủi của cõi mù sương, hình như ông
đã mở ra cho nàng hiểu chân lý của sự sống chết, của giả và thực để thích nghi
nhanh chóng với sự thay đổi một cách dễ chịu. Rất dịu dàng, nàng tiếp:
“Thế cảm tưởng của em ra sao
khi trở về với thế giới mình đã bỏ đi?”
“Thưa cô, cháu hiểu rồi,
cháu đã làm khổ cha mẹ cháu, giờ này mà mẹ cháu vẫn không ngủ, vẫn ngồi khóc sụt
sùi và đang cầu nguyện cho cháu. Ở đấy trời mưa cô ạ, tuy cháu thì không cảm thấy
ướt át lạnh lẽo, nhưng trong căn nhà của cháu, nhìn mẹ cháu đang run rẩy ngồi cầu
nguyện cho cháu, cháu cảm được cái lạnh của cơn mưa đêm và vì thế cháu thương mẹ
quá, chỉ muốn ôm lấy mẹ mà khóc như hồi còn thơ bé, thế nhưng cô này cứ lôi
cháu đi, mà thực ra cháu cũng không có cách nào cho mẹ cháu biết là cháu đang ở
gần mẹ cháu, rất cần sự cầu nguyện của mẹ cháu. Cô ấy bảo muốn cho cháu thấy rõ
bộ mặt thật của cuộc đời, dẫu không có cháu thì người ta... vâng, cô ơi! người
ta vẫn thế cô ơi, cái buồn rồi cũng nguôi, chỉ riêng mình là đớn đau, dằn vật
vì những lỗi lầm của mình mà thôi.”
Nói đến đây, cô ta lại khóc
nức nở. Nàng lên tiếng dỗ dành:
“Thôi nín đi em, khi mình hiểu
được cái sai của mình, tức là mình đã nhìn thấy được hướng đi tốt đẹp ở tương
lai để linh hồn có cơ hội làm lại đời sống tâm linh cho tốt đẹp hơn. Điều đáng
ca ngợi hơn tất cả là khi vấp ngã, người ta đã can đảm mà vươn vai đứng dậy, đó
là lời của Phật, không phải của cô đâu. Thượng Đế không phải là ông tòa vô cảm
và ác độc để không cho linh hồn tìm lại con đường tốt để đi, chỉ trừ khi nào họ
nhất định không chịu thay đổi. Dĩ nhiên con đường ấy ra sao cô chưa biết, nhưng
chắc chắn là nó không phải là “Dead-end” nữa, vì chúng ta đã đi đến tận cùng của
cái Chết rồi. Vậy khi trở về, nhìn thấy hình ảnh của mẹ em đang đọc khi cầu
nguyện cho mình, em cảm thấy ra sao?”
Câu hỏi ấy làm lòng cô êm dịu
lạ thường, vì khi cô trở về nhìn thấy hình bóng gầy gò của người mẹ, đang chắp
tay ngồi cầu nguyện cho cô trong đêm khuya thanh vắng. Lạ lùng sao, những câu
kinh nguyện ấy lại làm cho lòng cô nhẹ nhõm như đang được một bàn tay vô hình
tiếp dẫn đến một nơi bình yên, nhưng cô lại phải đi ngay theo cái bóng của người
bạn đồng hành. Cô gật đầu thú nhận:
“Thưa cô, khi mẹ cháu cầu
nguyện cho cháu, thì lúc ấy linh hồn cháu bỗng có cảm giác như được nâng lên,
nhẹ hẳn những nỗi đau khổ, và nếu như cháu cứ được nghe những lời cầu nguyện ấy,
với nỗi thiết tha của mẹ cháu, có lẽ mảnh linh hồn của cháu nó giảm đi sự đau
khổ rất rõ rệt.”
Người đàn bà góp lời:
“Thế thì cứ cầu sao cho bà mẹ
khỏe mạnh để cầu nguyện cho linh hồn cô con gái cưng của bà ấy, thế nào cũng
thoát dần đi cái đau khổ của linh hồn thôi...”
Nàng bỗng buồn cười vì câu
nói của bà ta, rõ ràng thì mới hôm nào khi trao đổi với nàng về sự cầu nguyện,
bà ta đã mỉa mai ví kinh kệ như là phần âm nhạc đệm trong một cuộn phim, mà
linh hồn mới là nhân vật chính. Như đọc được ý nghĩ của nàng, bà kia bèn cười
hóm hỉnh nói:
“Cầu nguyện thì cũng có năm,
bảy cách cầu nguyện, y như là người thì cũng có năm, bảy loại người, dù hình thức
thì có vẻ giống nhau, nhưng sự cầu nguyện chân thành phát xuất tự trái tim, mới
đủ sức làm nhẹ đi cái ách của sự đau khổ. Bởi thế mà lời cầu nguyện từ trái tim
của người mẹ đã có kết quả làm giảm đi nỗi đau khổ trong linh hồn của đứa con,
nó khác xa với loại cầu nguyện mua bằng tiền, cũng gõ trống giọng chuông, đọc i
uông nhưng nó chỉ nằm trong sự tính toán, đổi chác với thần thánh, vì thế mà cầu
bao nhiêu cũng vô ích, như nước đổ lá môn vậy.”
Ái chà! Nàng bỗng ngạc nhiên
cho sự hiểu biết ở linh hồn người đàn bà này, hóa ra khi tìm được nẻo sáng để
đi, rũ được những nỗi buồn gậm nhấm của tiền kiếp, linh hồn dễ tiếp nhận mau
chóng con đường sắp tới của mình.Người phụ nữ này là bằng chứng của sự thay đổi
đó, kinh nguyện thì vẫn là bản nhạc êm dịu để linh hồn tiếp nhận mà ra đi cho
thanh thản, nhưng điều cầu xin có mang được kết quả hay không thì lại đòi hỏi tấm
lòng của người cầu nguyện. Bởi thế đôi khi phép lạ xảy đến cho người này mà lại
không đến với người kia, thật là một điều vi diệu mà con người nông nổi không
hiểu được cái năng lực phát xuất từ một nơi mà con mắt của loài người không thấu
hiểu được. Bà ta lại ngọt ngào nói với hai người bạn của mình:
“Chúng mình may là có cơ
duyên để gặp nhau đây, có dịp chia xẻ cùng nhau dù chỉ là nỗi đau và nỗi khổ,
thế là bạn tri kỷ của nhau rồi. Ngày nào còn ở đây, mình sẽ là bạn của nhau, kết
nghĩa anh em vườn Đào nhé!”
Câu chuyện đang buồn bỗng lại
trở nên vui, khi nàng nghe người đàn bà nhắc đến câu chuyện “Kết Nghĩa Vườn
Đào” trong Tam Quốc Chí, dù chỉ là chuyện đời mà sao lại tự nhiên hợp tình hợp
cảnh của ba linh hồn trong nghĩa trang. Xưa nay người ta thường nói đến cái
tình tri âm tri kỷ khó tìm trong thiên hạ, giữa thời buổi nhiễu nhương thì lại
càng khó tìm được như mò kim dưới đáy bể, thế mà sau cõi sống lại vẫn có thể
tìm được ở đây, chẳng hay nơi nào biết yêu thương thì nơi đó vẫn có thiên đàng
hiện diện.
Trời còn mờ mờ tối, nhưng tiếng
chim lào xào trên cây phong già như báo hiệu một ngày sắp tới. Ánh bình minh sẽ
lố rạng chào đón một ngày mới cho thế giới của người sống, thế giới xôn xao của
linh hồn cũng theo nhau đi vào những bia mộ yên lặng của nghĩa trang. Mọi người
sắp chia tay nhau, cô gái bớt vẻ sầu thảm vì có hai người bạn đường an ủi và
chia xẻ nỗi cô đơn. Trước khi chia tay, cô níu lấy tay hai người bạn mới của
mình tha thiết nói:

Hai người đàn bà gật đầu mỉm
cười, giữa lúc ấy tiếng chim rộn rã hót vang chào một ngày đã tới. Ba cái hồn
ma tan đi như sương.
Bước qua thế giới bên kia,
cùng lúc ấy thời gian như ngừng lại, không còn cái đồng hồ với những cây kim chỉ
giờ, phút, giây để linh hồn biết rằng mình đã phải chờ đợi bao lâu để được đi về
nơi mình đến, tất cả đều quyết định bởi những gì họ mang tới từ bên kia mà
thôi.
Thời gian như không còn tuổi,
rất già và rất trẻ vì từ trước đến sau, loài người vẫn chưa dám quả quyết là vũ
trụ có tự bao giờ, và người nguyên thủy có mặt ở trái đất có phải tính từ thời
Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ của nước Lạc Việt, hay theo truyền thuyết A Dam và E
Và trong huyền thoại Thiên Chúa Giáo. Vì vậy sự gắn bó của những linh hồn gặp
được nhau sau cõi sống, ắt hẳn vẫn là chút cơ duyên để có dịp trao đổi với nhau
bao điều mới lạ về cõi mù sương.
Chẳng biết là họ đã đến với
nhau được bao lâu, nhưng bằng tâm cảm, họ nhận được từ nhau những bài học về
tình người, đời sống tâm linh và cách giải thoát thì rất nhiều, nó có thể biến
đổi cho linh hồn được tốt đẹp, giải thoát những sầu muộn, quán triệt sự tha thứ
hay hỉ xả một cách tự nhiên. Nhìn cuộc sống vừa qua của mình như một hội chợ
phù hoa, lẫn lộn giữa tốt và xấu, thiện và ác, để sàng lọc lại chính bản thân
được hoàn mỹ hơn.
Buổi chiều sắp đi với những
dải mây đủ màu bảng lảng trên nền trời, đôi cánh chim về tổ muộn màng xoải cánh
trên nền trời như báo hiệu một ngày sắp qua, và một đêm sắp tới. Những áng mây
màu xanh lơ dìu dịu lẫn trong dải mây tím, hồng chỉ là sự phản chiếu của mặt trời
đã lặn về phía trời Tây, đối với con người thì họ gọi là hoàng hôn, nhưng đối với
thế giới linh hồn thì những áng mây kia chỉ là ảo ảnh vì mây vốn không màu sắc.
Chẳng phải sao khi trời đẹp, nền trời xanh ngăn ngắt cho muôn loài tận hưởng
cái đẹp của vũ trụ, giống như được ngồi gần ngọn đèn tỏa sáng thì xung quanh
cũng rạng rỡ lên, và nếu đám mây đen kéo tới nặng nề trên bầu trời hứa hẹn cơn
giông bão, thì có khác nào đang gần gũi với bóng tối của sự ác.
Bao giờ bầu trời vẫn đem đến
cho nàng nhiều ý tưởng ngộ ngĩnh, và thế nào nàng cũng chia xẻ sự suy nghĩ này
đến với những người bạn của mình, nhất là nàng lại nhìn thấy bóng trăng tròn
trĩnh sắp nhô mình lên khỏi rặng cây đen thẫm, có nghĩa là các bạn của nàng sắp
đến. Người phụ nữ ăn nói có vẻ bất cần đời hôm nào, nay đã thay đổi nhiều khi
bà nhận được ý nghĩa của sự buông xả, cô bé tự tử vì tình cũng đã nguôi ngoai
bình thản chờ đợi về nơi cô sẽ tới, hiểu được cái khổ tự mình mang đến cho người
và từ người mang đến cho mình, chắc chắn rằng cô đã học hỏi được bài học rất thấm
thía trong tương lai.
Y như rằng các bạn mình đã tới,
vẫn là bộ ba Tướng, Sĩ, Tượng mà mỗi người là một cõi khác nhau, giờ này gần
như hòa hợp vào nhau để trở thành một bản hòa tấu có nhiều cung bậc khác nhau,
nhưng gắn bó lạ lùng. Nàng đã không còn mang nỗi buồn ban đầu khi từ giã cõi
nhân gian, đã gần quên hết nỗi buồn đơn côi khi bị tách ra khỏi thế giới loài
người, còn bà bạn thân rất trực tính kia thì bây giờ đã trở nên mềm mỏng hơn
nhiều, tuy vậy khi gặp một chuyện gì na ná cảnh đời của bà nơi trần gian, bà vẫn
quen miệng phát biểu theo cách suy nghĩ của mình, rồi lại cười trừ khi thấy hai
người bạn đồng hành tỏ vẻ khó chịu. Khi đang nghĩ ngợi như thế thì hai linh hồn
kia đã lướt tới bên nàng. Cô gái thật lễ độ với giọng nói ngọt ngào dễ mến:
“Cháu chào cô!”
Và giọng nói vui tươi của
người đàn bà kia cũng vang lên:
“Tôi cũng chào hai người bạn
thân mến của tôi. Gớm, từ ngày chúng mình kết nghĩa với nhau, tôi cứ nghĩ giá
không vì cái tội nghiệt chúng ta có từ kiếp trước, để mai đây mỗi người đi một
ngả, thì cứ ở đây như vậy mãi cũng vui chán.”
Câu nói ấy làm cô gái ngùi
ngùi vì nghĩ đến sự phân ly, khi trốn chạy nỗi đau khổ của cuộc đời cô cũng đã
từng phải phân ly với bao người thân yêu của mình, nay đến cõi này thì vẫn tiếp
tục những cuộc phân ly như những dòng sông chảy về nhiều ngả khác nhau. Cô nhỏ
nhẹ lên tiếng:
“Cứ nghĩ đến lúc phải xa các
cô cháu cũng buồn lắm, vì không phải dễ để tìm được tri âm, tri kỷ. Cháu cảm nhận
được điều này vì đã bị con người phỉnh phờ, gạt gẫm mối chân tình của cháu đối
với họ trên trần thế, nhưng suy nghĩ sâu hơn thì bù lại những tấm lòng đẹp vẫn
không thiếu, phải không cô?”
Nàng gật đầu đồng ý với ý tưởng
rất trưởng thành của người con gái:
“Cháu nói phải đấy. Con người
không thể chìm đắm vào nỗi buồn mỗi khi gặp điều bất như ý, vì cuộc đời không hẳn
là một bức tranh hoàn hảo. Cái hay là mình phải đem niềm vui, những hạnh phúc
nhỏ nhoi mà mình gặp, trám ngay vào nỗi buồn kia, thì chẳng sợ gì rơi vào bóng
tối của sự cô độc hoặc vây bủa bởi sự ác. HÃY NGHĨ NGAY ĐẾN MỘT VIỆC TỐT,
TỨC KHẮC CÁI XẤU PHẢI LÙI BƯỚC, KHÔNG CÓ CÁCH CHI XÂM LẤN VÀO TÂM HỒN TA, ĐÓ LÀ
CÁCH LÀM CHO THÂN TÂM AN LẠC”.

“Ô kìa! Một vầng trăng trên
cao và một vầng trăng dưới đáy nước, đẹp quá các cô ạ, chẳng biết cái nào thật,
cái nào giả.”
Nàng chưa kịp nói gì thì bà
bạn đã lên tiếng rất vô tư, như bản chất tự nhiên của bà:
“Chẳng có cái nào thật mà
cũng chẳng có cái nào giả, trăng đến rồi trăng đi, trăng không có tuổi mà trăng
vẫn trẻ mãi không già, nhưng mà trăng buồn lắm . .”
Rồi có lẽ vì tức cảnh sinh
tình, bà liền ngâm nga mấy câu thơ cũng hay hay:
“Đời biết bao lần trăng đến
đi
Bạc tóc nhìn trăng vẫn thấy
buồn
Một mảnh trời khuya trăng vẫn
sáng
Đêm tàn, trăng lạnh, chỉ buồn
hơn.”
(Thơ NN)
Ơ hay! Hôm nay bà bạn ngổ
ngáo này bỗng dưng lại có tâm hồn của một thi sĩ, ánh sáng mặt trăng hiền dịu từ
trên trời kia, cũng là phản chiếu từ ánh sáng mặt trời mà có, nếu suy rộng hơn
thì con người tốt hay xấu, cũng ảnh hưởng bởi những gì họ tiếp cận, “nhân chi
sơ, tính bổn thiện, tính tương cận, tập tương viễn”, môi trường sống có ảnh hưởng
rất rõ rệt lên cuộc đời của mỗi con người cũng từ đó. Và ngay cả cái bóng trăng
nằm dưới đáy nước kia, diễm lệ bao nhiêu cũng chỉ là giả, khiến cho Lý Bạch
tiên sinh khi say rượu đã nhảy ùm xuống ao ôm lấy cái bóng trăng giả kia vào
lòng. Ba linh hồn cùng dắt tay nhau lượn quanh bờ hồ, những dải liễu mềm đong
đưa trên mặt nước dát ánh trăng vàng, khiến đêm càng thêm huyền ảo.
Bỗng cả ba cùng dừng lại trố
mắt nhìn một cái bóng nhỏ bé diễm ảo mặc một bộ xiêm y trắng mềm như mây, đang
tung tăng từng bước chân chim nhảy múa với cái đèn lồng cầm trong tay. Đó là một
cô bé trạc mười tuổi, khuôn mặt bừng lên như một bông huệ trắng với ánh sáng tỏa
lan từ ngọn đèn lồng trông xinh như một thiên thần. Cô bé đang say sưa hát một
bài hát quen thuộc mà dường như cô mang theo từ cõi bên kia:
“Trăng đêm nay trăng đẹp, đẹp
ghê ba má ơi!
Trăng đêm nay trăng tròn,
tròn treo treo trên cành
Nhưng trăng nay không đẹp, bằng
tình ba má thương con
Nhưng trăng nay không tròn,
bằng tình con thương má ba...”
Tiếng cô bé lảnh lót, trong
trẻo như tuổi thơ của bé khiến cả ba linh hồn cùng xúc động, mỗi người đều chợt
nhớ đến hình ảnh thần tiên nào đó trong đời sống mình vừa đi qua, thì ra cuộc đời
không hẳn chỉ là những nỗi bất hạnh và triền miên đau khổ, cô bé xuất hiện với
chiếc đèn lồng, cùng với bài hát ý nghĩa về tình thương giữa cha mẹ và con cái,
tự nhiên đã là một tấm gương tình yêu để họ không nhìn loài người qua lăng kính
ảm đạm.
Linh hồn cô bé cứ tung tăng
dưới ánh trăng và hát đi hát lại bản nhạc đó, khiến nàng tự nhiên bật khóc vì cảm
động. Không dằn được, hình như nàng nhớ đến đứa con gái nhỏ của mình đã mất mẹ
quá sớm, và không hiểu giờ này con mình ra sao, có giữ được tâm hồn ngây thơ
như cô bé này không, ôi cái nợ trần gian khó thoát, dù rằng linh hồn chỉ mong mỏi
trút đi mà không trút được. Vì thế mà khi kết luận cho rằng thiên đàng địa ngục
chỉ là một biểu tượng rất mù mờ không rõ nét, thì ở đây, cũng chứng tỏ được phần
nào điều đó khi con người ngã xuống và vĩnh viễn đi về nơi mịt mù vĩnh cửu. Bà
bạn cũng xúc động không kém, bà ta gọi cô bé cầm đèn lồng bằng giọng nói êm đềm
nhất:
“Bé ơi! Lại đây với tôi nào?
Sao bé lại lạc loài ở đây vậy hở bé?”
Cô bé nghe tiếng gọi, ngừng
hát, dừng chân sáo rồi nhìn về phía linh hồn của ba người đàn bà. Khuôn mặt
xinh xinh với rèm mi lay động dưới ánh sáng của ngọn đèn mờ ảo, cô cất cái giọng
trong vắt như tiếng chim :
“Ai đấy? Có phải mẹ cháu
không?”
Rồi như sực nhớ ra là mình
không còn sống, cô run run nói trong cảm xúc:
“Ồ không, cháu biết rồi,
không phải mẹ cháu vì bố mẹ cháu còn ở lại bên kia mà. Nhưng các bác là ai? A!
mà cháu cũng biết rồi, các bác cũng như cháu phải không, thế là cháu có bạn rồi,
không đi chơi một mình nữa, ở đây không có nhiều trẻ con, hình như các bạn ấy
đã đi về nơi khác hết rồi, bởi thế chỉ có cháu đốt đèn đi chơi trăng một mình
thôi.”
Nghe cô bé vô tư kể chuyện,
hai người đàn bà lớn tuổi cảm thấy xót xa và nao nao trong lòng, riêng hồn cô
gái òa vỡ một niềm vui, vì cô bỗng như được trở lại với đứa em út bé bỏng của
mình ở nhà những mùa trung thu tới. Linh hồn của cô bé ở chốn này, giống như một
bông hoa đẹp mà lại tàn ngay khi vừa hé nụ, với cái oái oăm của định mệnh để chỉ
được hưởng đời sống thật ngắn ngủi ở trần gian, bỏ lại cha mẹ và anh em thân
yêu y như cô con gái cũng tự hủy diệt mình để ra đi. Cô thổn thức rồi lên tiếng
gọi:

Cô bé lắc đầu, những sợi tóc
mềm lòa xòa trên khuôn mặt ngây thơ của cô:
“Bé không lạc đường đâu, bé
cũng phải đến đây như mọi người rồi chờ đi về nơi mà bé sẽ tới, mặc dù bố mẹ của
bé cứ khóc mãi rằng sao con lại bỏ cha mẹ để ra đi. Ôi! Bé ở lại làm gì với cái
xác thân đau đớn của mình, bởi vậy trước lúc phải ra đi mãi mãi, bố ôm chặt lấy
bé vào lòng như muốn giữ lại cái thân xác nhỏ nhoi bé bỏng của bé, nhưng cũng
có giữ được đâu. Đã đến giờ bé phải đi, vì bé chỉ đến với bố mẹ của bé được một
thời gian đó thôi, nên khi ra đi bé đã mỉm cười nói với bố của bé là bé sắp đi
rồi, bố mẹ ở lại mạnh giỏi nghe, mai mốt khi nào có dịp bé sẽ trở lại.”
Nghe cô bé kể chuyện, cả ba
linh hồn đều rươm rướm nước mắt. Nàng lên tiếng hỏi:
“Thế bé có buồn lắm không
khi phải rời xa cha mẹ để ra đi một mình?”
Cô bé mỉm cười, gật đầu rồi
lại lắc đầu, cô đang lúng túng với hai ý nghĩ mâu thuẫn trong lòng cô, nhưng
nghĩ đến lúc thoát được cái thân xác đau đớn vì một căn bệnh nan y mà số trời bắt
cô phải chịu để chết, cô lại hồn nhiên nói:
“Thưa cô, chắc chắn là cháu
phải buồn khi xa lìa bố mẹ và người thân yêu của cháu, vì khi còn là người,
cháu đã nhận được từ bố mẹ cháu sự yêu thương ấp ủ cháu từng giây phút cho đến
hơi thở cuối cùng. Nhưng khi đau đớn quá vì cơn bệnh hành hạ, cháu biết khó có
thể gần gũi cha mẹ mình nữa, mà thân xác thì càng lúc càng khổ đau đến nỗi khi
cơn bệnh hoành hành, cháu nhỏ bé quá nên không chịu được cái đau ấy, khi cháu
rên la vì đau đớn, cháu nghe mẹ cháu nói rằng giá chi mẹ cháu chia được cái đau
ấy với cháu thì mẹ cháu cũng chia. Vậy thì sự ra đi của cháu sẽ là nỗi buồn của
bố mẹ cháu, nhưng nó sẽ nguôi ngoai với thời gian, còn riêng cháu thì cũng chưa
hẳn là buồn, vì cháu thoát được cái áo đầy những mụn vá, rách nát tả tơi để mặc
một chiếc áo khác.”
Cả ba linh hồn cùng “ồ” lên
kinh ngạc, không nghĩ được là cô bé lên mười này lại có thể nghĩ được sự buông
xả và giải thoát đến mức đó. Hiểu được sự thắc mắc đó nên cô bé lại nói:
“Không có gì lạ đâu, vì hình
như mỗi một xác thân lại được gắn liền với một linh hồn, và khi bỏ lại cái thân
xác kia, không tính bằng thời gian con người cao tuổi hay nhỏ tuổi, mà khi bước
qua đây, lại được tính trên giá trị của một linh hồn mang đi, tốt đẹp hay xấu
xa cũng ở đó. Điều này sẽ cắt nghĩa cho ta hiểu thêm tại sao có những người được
gọi là thần đồng có một sự hiểu biết rộng lớn nào đó mà con người không cắt
nghĩa được, một đứa nhỏ bằng cháu có thể tự nhiên thông hiểu mọi phương diện
như một nhà bác học, có thể là nó đã được tiếp nhận sự thông minh từ một linh hồn
thông thái ngay khi còn là người đấy.”
Nghe cô bé nói chuyện và lý
luận, cả ba linh hồn người lớn đều ngẩn ngơ học thêm được một bài học lý thú và
huyền nhiệm giữa sự kết hợp của thân xác và linh hồn, giữa vật chất và thể tinh
thần hình như đã gắn liền với nhau ngay từ khi bào thai được hình thành trong
lòng mẹ. Đến và đi của kiếp người chẳng khác nào những hạt cát trong biển đời
mênh mông, hình dạng đã khác nhau, nơi chốn cũng khác nhau, hạnh phúc hay đau khổ
thì cũng đã nằm trong hai chữ “định mệnh” mà thôi.
Thấy sự hiểu biết và khôn
ngoan toát ra từ tấm linh hồn nhỏ bé của linh hồn bé gái, ai cũng tỏ lòng ngưỡng
mộ và yêu mến cô bé hơn nữa, cũng vì thế mà ảo giác cho họ nhìn thấy nguyên vẹn
hình ảnh của một thiên thần xinh đẹp và thánh thiện đó, chiếc áo trắng dài như
được dệt bằng mây, đôi chân xinh như lướt đi trên cỏ hoa, và tâm hồn cô như được
nâng lên từ những đôi cánh của thiên thần. Không đợi mọi người hỏi cô bé lại tiếp:
“Hồi cháu còn ở nhà với ông bà
của cháu, khi thấy căn bệnh của cháu vô phương chạy chữa, tốn kém nhiều lắm mà
không có một thầy thuốc nào bảo đảm chữa lành cho cháu. Ông ngoại cháu bảo rằng
người ta ai ai sinh ra rồi cũng phải lão, lão rồi cũng phải bệnh, bệnh rồi để
chết, còn cháu bé bỏng chưa được bao nhiêu tuổi đời sao cũng bệnh để phải chết.
Như thế mới biết là chẳng ai qua được chặng đường của sinh tử, vậy thì phải
chăng cũng từ sự an bài đó mà cha mẹ cháu nhận hay trả cái nợ cho cháu.”
Nàng gật đầu nhìn cô bé với
ánh mắt cảm phục, rồi thốt lên:
“Ôi chao! Một linh hồn đẹp
khi nằm xuống, mang theo bao nhiêu ý tưởng tốt lành về cõi này, chắc chắn rằng
với sức mạnh tinh thần đó, đủ đưa linh hồn lên để hòa nhập vào khối năng lượng
trong suốt của vũ trụ. Không biết có phải chốn ấy là thiên đàng hay không,
nhưng không phải quanh quẩn trong cái bãi tha ma này với những cái xác đang tan
rữa dưới mộ sâu, với những mảnh linh hồn lang thang vì không dứt được nỗi dằn vặt
đau khổ. Cháu có biết là khi nào sẽ đi hẳn khỏi nơi này không?”
Cô bé cười hồn nhiên:
“Cháu cũng phải chờ đợi như
mọi người thôi, nhưng cảm nhận về cõi sáng hay tối thì chắc là mỗi người sẽ
khác nhau nhiều lắm. Ở bất cứ đâu, ngoài cái cõi đời mình vừa đi qua, cháu vẫn
thấy mình vậy thôi, vì cháu không biết đau khổ là gì, cái thân xác còm cõi, đau
đớn của cháu nó đã chết rồi, linh hồn giờ đây không bị nó làm phiền vì những
cơn đau của nó, cháu muốn đi đâu cũng được, ngay cả về thăm bố mẹ cháu. Nhưng
cháu không về nữa vì quãng đời ngắn ngủi cháu làm người đã hết rồi, không còn
phụ thuộc vào bất cứ ai trên trần gian, cháu thấy ông trăng hôm nay chẳng khác
gì ông trăng trước kia cháu còn nhìn bằng đôi mắt của con người, nên cháu thích
múa hát khi nhìn thấy ông trăng soi bóng xuống mặt hồ, cũng tròn xoe như ông
trăng trước.”
Cả ba linh hồn cùng bật cười
khi nghe cô bé kể chuyện, từ khi nhắm mắt lìa đời chưa bao giờ họ được thoải
mái mà cảm nhận về nơi họ vừa bỏ đi, và nơi họ đã đến như vậy. Người đàn bà khẽ
bảo hai người bạn:
“Một bài học đấy, từ một tâm
hồn trong sạch nếu như ở bên kia con người đã sinh ra tính đã bổn thiện, lớn
lên trong điều thiện thì cũng sẽ nhận được thiên đàng khởi từ trong TÂM,
chứ không phải đi tìm ở đâu nữa. Chỉ tiếc là khi sinh ra làm người, là lúc ấy
chúng ta đã quấn lấy bao nhiêu hệ lụy liên đới với cái NGHIỆP khổ, vì
thế mà nảy sinh bao nhiêu là tội nghiệt, mang luôn cho tới cõi này chưa rũ ra
được.”
Trong ba người, đêm nay dưới
ánh trăng lung linh soi bóng dưới đáy nước, đều không muốn từ giã linh hồn của
bé gái xinh xinh này. Nhờ sự trao đổi ấy, họ có ý niệm rộng rãi hơn về hạnh
phúc và đau khổ của cõi nhân gian, đã từ cõi mù sương để linh hồn chuyển tiếp
qua một giai đoạn tốt đẹp hơn. Thế nhưng, không hẳn là tất cả đều tiếp nhận được
điều đó, nếu như linh hồn còn bám vào những phù hoa ảo ảnh cuộc đời, vì thế mà ở
một chương tiếp theo, khi cô bé đã bay về cõi của cô, ba linh hồn còn lại sẽ được
tiếp cận đặc biệt với một linh hồn đau khổ, chết trong đau khổ và tiếp tục hành
trình trên con đường đau khổ. . .
- “Này, khỉ gió ạ. Hôm nay tớ
đi loanh quanh chơi về cửa Bắc, mới phát hiện ra một tên dở người. Chẳng biết hắn
chết lâu chưa, hay là vừa mới chân ướt chân ráo tới đây, nhưng hắn làm tớ bực cả
mình nên bay vội tới đây, lát nữa đợi con bé nó đến rồi chúng mình cùng đến đó
mà xem. Giời ơi! Đã đến đây rồi thì ai chẳng như ai, có mỗi cái xác thối nằm dưới
kia thì có cho tiền tớ cũng không dám ngửi, kể cả cái thây ma của tớ. Cuộc đời ở
trên kia thì có khác gì mây bay gió thoảng, thế mà cái tên ấy, hắn cứ như thằng
điên, cứ điên cuồng gào lên làm khuấy động cả một phía bên ấy, thấy ai bén mảng
tới là hỏi “Có biết tôi là ai không hở?”. Tôi định bảo cho hắn biết là chỉ có hắn
không biết hắn là ai thôi, chứ ở cõi này ai chẳng biết mà phải hỏi.”
Nàng lại vội vàng giơ tay suỵt
nhẹ để cắt đứt dòng tư tưởng khủng khiếp của bà bạn quý, vì thấy cô gái đứng đó
đang lẩm nhẩm mấy câu “lời hay ý đẹp” kia vì nó rất mới mẻ đối với cô. Ôi chao!
Nếu cứ đứng ở đây coi bộ tình hình càng thêm rối rắm, nàng nghĩ vậy, không hiểu
sao hôm nay bà bạn tri kỷ của mình lại trở về bản chất cay đắng chua chát thế
kia, đúng là “nghiệp chướng” còn nặng chưa dễ rũ ra được, dù rằng bản chất thiện
trong linh hồn này rất tốt, nhưng vì tâm hồn đơn sơ quá mà dễ bị ảnh hưởng bởi
cái xấu. Nàng vội lôi hai người bạn của mình đi, và giải thích cho hai người bạn
hiểu thêm về linh hồn đau khổ tội nghiệp đó:
Ôi chao! Bà ta cứ nhẩn nha
nói lung tung, thế nhưng triết lý nhân sinh thì lại nghe như gần gũi với cuộc đời
trong gang tấc. Thế giới của linh hồn trong bóng đêm vẫn xôn xao nhiều chuyện
vui buồn như vậy, nhưng nếu có thi sĩ nào ở thế giới loài người muốn mượn chốn
này để thẫn thờ, thơ thẩn cũng không hề trông thấy, nghe thấy được điều gì. Chỉ
nghe tiếng lá khô lăn tròn trên mặt đường, tiếng chim khuya khắc khoải gọi
nhau, hay bóng trăng nằm lung linh dưới đáy nước. Thế nào trong thơ của thi sĩ,
lại chẳng có những cành liễu rủ mình xuống mặt nước đen thẫm, và biết đâu lại
tưởng tượng thêm bước chân của người tình đạp trên lá vàng khô . . .
Hoa nở rồi tàn, trăng tròn rồi
lại khuyết, ban ngày là thế giới của loài người, ban đêm ở đây là thế giới của
linh hồn, tùy theo ánh sáng và bóng tối. Cả hai có thể lẫn lộn vào nhau nhưng
linh hồn khi bước qua cửa Tử, đã được một ân sủng đặc biệt hơn là họ có thể xuất
hiện, đến hay đi bất cứ khi nào, bất cứ chỗ nào mà loài người chẳng nhìn thấy họ.
Cứ xem đó là một đặc ân đầu tiên của loài người khi nằm xuống, nhưng chính những
điều đó lại cũng là hình phạt tàn nhẫn nhất, như ông bạn tri kỷ trước kia đã
nói cho nàng nghe, và khuyên nàng đừng nên trở về thế giới của loài người làm
gì để chỉ buồn hơn thôi, khi hiểu được lòng người nghĩ gì về mình, bóc trần được
lòng nhau ra e rằng con người sẽ không còn can đảm nhìn nhau nữa.
Đó là tình đời, còn ở thế giới
vô hình này, linh hồn có thể biết được hết những gì của nhau, và chia xẻ với
nhau những điều thành thật nhất vì không thể dấu diếm nhau được. Nguyên nhân
này sẽ dẫn đến câu chuyện một người chết đi khi đang bám chặt lấy những danh vọng
phù hoa cuộc đời, vì thế linh hồn của ông ta sẽ tiếp tục đắm chìm trong đau khổ,
như con sâu nằm trong cái kén mà không làm sao gỡ ra được. . .
Mỗi ngày ở khu nghĩa trang vắng
lặng này, mọi vật mọi loài vẫn sinh hoạt như một bức tranh sống động. Người cắt
cỏ vẫn chăm chỉ làm công việc của ông ta, người trồng hoa vẫn tưới nước cho những
luống hoa muôn màu được xinh tươi, khoe sắc màu lộng lẫy, người đổ rác vẫn đi
nhặt những vòng hoa héo úa trên những nấm mộ mới, đem vứt vào thùng rác ở góc
nghĩa trang. Ai vào việc đó, rồi hôm nào có người mới thì chiếc xe chở phu đào
huyệt sửa soạn chạy tới, chiếc thuổng xúc đất bằng máy chạy ào ào như sấm nổ,
và chỉ một chốc là đã thấy một cái hộp hình chữ nhật dưới lòng đất, đủ chỗ cho
một cái quan tài hạ xuống rồi nằm đấy mãi mãi.
Đời là thế! Đã nhiều lần ngồi
nhìn con người đi lại làm việc với nhau , trong cái nắng mùa hè hay cái giá rét
của mùa Đông, ở thể linh hồn nàng đã thoát ra được nỗi khổ của thể vật lý,
nhưng nhìn con người phải tranh đấu để sinh tồn, vật lộn với cơm ăn áo mặc nàng
lại cảm thấy cuộc đời thật vô cùng mệt mỏi. Chưa kể còn có biết bao nhiêu người
cứ chen lấn, kèn cựa, trèo lên đầu nhau, hại nhau bất kể những hành động vô
nhân, vô đạo đức làm tổn hại cho linh hồn họ ở kiếp sau, mà chẳng hề băn khoăn
về những việc mình làm, khiến nàng càng ngao ngán.
Trong số những linh hồn nàng
gặp gỡ vừa qua, chỉ có mỗi linh hồn bé thơ lên 10 tuổi là hồn nhiên sung sướng
hơn cả. Linh hồn bé giờ đây đã bay bổng về cõi nào rồi, nàng chưa hề thấy nên
chưa dám diễn tả nơi chốn ấy, nhưng theo sự suy luận đơn giản của nàng thì phải
chăng thiên đàng và địa ngục nằm chơi vơi trong trái tim và tâm hồn của mỗi người
trước đã. Kể từ cái đêm trăng ấy đến nay, chẳng biết có bao nhiêu mùa trăng đến
đi, nàng chợt nhớ đến mấy câu thơ mà bà bạn tri kỷ của mình đã ngâm nga:
- “Đời biết bao lần trăng đến
đi, bạc tóc nhìn trăng vẫn thấy buồn”. . .
Chẳng phải đến khi bạc tóc
nhìn trăng vẫn mới biết buồn, mà hình như ngay từ lúc bước vào đời và mới biết
yêu, nhìn trăng đã biết buồn như thế!
Đêm nay là một đêm trăng
non, nên ngàn sao vì thế trông như một cái áo nhung đen dát đầy những viên kim
cương diễm lệ. Hai người bạn của nàng vẫn chưa tìm được đường đi của họ, nàng
cũng thế, định mệnh và nghiệp quả như còn lôi kéo linh hồn họ luẩn quẩn trong
cái nghĩa trang quạnh vắng này. Con đường trước mặt còn mù mờ vì thời gian lưu
lại ở chốn này đang chuẩn bị cho họ đến một nơi khác, tốt đẹp hay buồn thảm,
cũng chỉ là tấm gương phản chiếu lại cuộc đời họ đã sống qua. Chẳng biết ai sẽ
đi trước ai, và có cùng một nơi để đến hay không, nhưng những giờ phút còn ở
đây, họ cũng đã có dịp nghe, nhìn, học hỏi nhiều điều lý thú.
Đang ngồi miên man với những
suy tưởng của riêng mình, người bạn của nàng đã tới. Bà ta chắc hồi còn sống
cũng có tật ngồi lê ngồi la, nên vì thế chỉ đợi đêm xuống là đi lang thang tìm
bạn để chuyện vãn. Tuy thế bà ta có cái dễ thương của một con người bình dị, sống
chân thật và phát biểu theo lối “nghĩ sao nói vậy” rất tự nhiên, triết lý cuộc
đời lại lắm khi phát xuất từ những ý tưởng của con tim rất người này, mà không
sao chép, biên khảo, tìm tòi từ tư tưởng của các người khác. Trên đời có loại
người hay ăn cắp tư tưởng của người khác, rồi đem về xào nấu lại làm của mình,
rồi cứ tưởng mình là cha đẻ ra những triết lý ấy. Bà bạn của nàng chắc chắn
không phải loại người đó, hình như vì sống nhiều, chung đụng với những lọc lừa
đau khổ của kiếp nhân sinh, mà lắm khi nàng bật cười vì bà cứ nói tỉnh bơ mà
trúng đáo để.
Nhưng đêm nay thì bà bạn có
vẻ hớt hơ hớt hải khác những đêm trước, hình như có một biến động gì đã xảy ra
trong khu nghĩa trang rộng lớn này, mà nàng mải trầm ngâm suy nghĩ nên không
quan tâm đến những thay đổi xảy ra trong thế giới linh hồn. Nàng chưa kịp hỏi
thăm về cô bạn nhỏ thì bà bạn đã ẫm ĩ lên như bản chất ồn ào của bà:

Nàng bật cười nghĩ ngợi, lạ
thay cho linh hồn của ai đó mà nghe bà bạn kể nàng cũng thấy buồn cười, chẳng
hay sau khi nhắm mắt lìa đời, còn tiếc nuối chi chút danh hão mà đi lang thang
hỏi có ai biết mình. Suy nghĩ một lát nàng hỏi bạn:
- “Ơ hay! Ai bảo đằng ý bén
mảng đến đó làm gì cho bực mình ra. Thế bà bạn dễ thương của tôi có biết mình
là ai không nhỉ? À, hôm nay con bé đi đâu mà chưa thấy đến, chẳng hay có đi
lang thang như bạn hiền của tôi không?”
Trời tối thẫm hơn mọi đêm,
tiếng côn trùng kêu ri ri trong bụi cỏ, những bụi hoa thạch thảo như câm nín
chen giữa những nấm mồ vì đêm nay trời ít gió, nên hoa cỏ ít lay động. Ban ngày
nơi này tuyệt đẹp vì đang là mùa Xuân, một rừng hoa dại bạt ngàn đan nhau chi
chít trên thảm cỏ như một tấm thảm màu vàng tuyệt đẹp, giờ này cũng chìm khuất
vào bóng tối. Chừng một lát thì đã thấy hồn ma cô gái lướt đến, vẫn tiếng nói
trong trẻo của tuổi thanh xuân nồng nàn tình yêu mà đã vội vã lìa đời. Tự nhiên
nàng nghe trong lòng một nỗi trắc ẩn không đâu, rồi nghĩ đến linh hồn cô bé lên
mười chưa sống được bao nhiêu đã lìa đời, cái đến cái đi của kiếp người không hề
giống nhau, những nụ hoa chưa nở đã vội tàn, những chiếc lá còn xanh mà đã rụng.
Người đàn bà hỏi ngay:
- “Đi liền bây giờ chứ?”
Cô bé thắc mắc:
- “Đi đâu hở cô? Hôm nay
cháu thấy hình như cô có chuyện gì lạ đấy?”
Bà ta gật đầu lia lịa:
- “Có đấy, nhiều cái lạ lắm
mà vì mình cứ loanh quanh ở đây nên không thấy, không biết. Đêm nay chúng mình
đi lại đằng kia, xem cái chỗ ấy có gì mà lúc đi ngang thì nghe một hồn đàn ông
cứ gào lên như điên khùng hỏi có ai biết hắn là ai không? Lạ lắm, cũng là mồ mả
nhưng chỗ ấy nghe như có hằng ngàn âm thanh rên rỉ, gió và cây như cuộn vào
nhau đến rởn cả gai ốc, mình là ma mà còn thấy ớn, huống gì người bên kia họ lạc
vào đây giữa đêm hôm tăm tối. Tôi bay nhanh về đây để ba đứa cùng đi với nhau,
xem ra có phải hắn là một loại ma khổ, sống thế nào thì chết như thế ấy mà....”
Hình như nói đến đây bà ta lại
chạnh nhớ đến cái khủng hoảng của linh hồn mình khi vừa lìa khỏi cuộc đời,
nhưng may mắn thay là gặp được bạn tốt nên chắc chắn là không đến nỗi bi quẫn
như linh hồn người đàn ông ở Cửa Bắc. Ba cái hồn ma lướt đi trong bóng tối, vèo
một cái đã tới nơi, ngay lúc ấy họ nghe lồng lộng trong vòm mả tối ở góc nghĩa
trang, dù chẳng cần phải có con mắt thần thì họ cũng nhận ra tiếng gào thét như
cuống họng bị xiết bởi sợi dây thừng, khi ằng ặc như con bò bị cắt tiết. Cả ba
cùng đứng lại thật xa để quan sát, ở chỗ ấy có một ngôi mộ vươn cao hơn các nấm
mộ xung quanh, chắc lâu ngày đã bị soi mòn bởi những cơn mưa nên chỉ sè sè trên
mặt đất. Tiếng gào vẫn lồng lộng trong đêm tối:
- “Mấy người có biết ta là
ai không hở? Có biết ta là ai không hở. . hở . . hở ?”
Chữ cuối cùng của câu hỏi
kéo dài ra, tru như chó sói khiến càng làm cho đêm tối thêm rùng rợn và bi ai.
Một lát lại thấy hắn gào lên:
- “Hãy trả lại cho ta. Mấy
người có biết ta là ai không hở?”
Lần này thì hắn khóc nức nở,
trong khi đó xung quanh ngôi mộ của hắn vang lên những tiếng rân ran như gió
tru ma hú từ bốn phương vọng lại:
“Gieo chi hạt giống ưu phiền
Mọc lên cây khổ giữa miền đất
khô
Giờ đây đã thác xuống mồ
Còn chăng chỉ nắm xương khô
tội tình . . .”
Cả ba linh hồn kinh hãi đứng
im, tiếng râm ran vẫn vọng đi vọng lại nửa như những lời than van, nửa như những
lời cảnh tỉnh tấm linh hồn đau khổ kia chưa tìm ra nẻo sáng. Lẫn trong tiếng trầm
trầm của bao âm thanh mơ hồ huyền bí, linh hồn đau khổ kia lại gào lên nức nở:
- “Im đi. Mấy người có biết
ta là ai không hở? Mấy người có biết ta là ai không hở?”
Hắn càng nói thì những tiếng
râm ran càng vọng tới dữ dội hơn, như là tiếng vọng của những oan hồn đã từng
là nạn nhân của hắn, giờ đây trở lại trong thế giới vô hình để đòi hỏi công lý,
khiến hắn không được một giây phút yên ổn. Trong ba người chỉ có người đàn bà
có vẻ ngang tàng nhất, bà ta xấn vào gần hơn và cất tiếng hỏi:
- “Này bác kia, sao bác cứ hỏi
đi hỏi lại người ta có biết bác là ai không hở? Vậy xin cho tôi hỏi, cái hồi
còn sống bác làm đến “ông gỉ ông gì”, có “ăn trên ngồi trốc” thiên hạ, có làm
“cây đinh” gì trong xã hội mà đòi mọi người phải biết?”
Nghe câu hỏi châm biếm xấc
xược của người đàn bà, linh hồn kia đang gào lên bỗng nín bặt. Rồi chừng như
quen thói hống hách từ thời còn tại thế, hắn hét lên:
Người đàn bà cười ré lên,
bây giờ thì nàng và cô con gái cũng ngây người ra vì sợ, bởi vì người bạn của họ
giờ đây hình như lại trở lại bản chất “ngang như cua” của bà, chắc hẳn họ sẽ được
nghe những câu đối thoại nảy lửa, còn nàng thì nghĩ đến cái câu “gần mực thì
đen, gần đèn thì sáng”, ảnh hưởng của môi trường xung quanh dự phần trong cái tốt,
xấu nơi con người thật rõ rệt. Chưa kịp nghĩ thêm thì đã nghe giọng lảnh lót
the thé của người đàn bà, như mũi dao thọc vào họng linh hồn lão đàn ông đau khổ
kia:
- “Này! Bà bảo cho mà biết,
đã đến nơi này rồi thì ăn nói cho tử tế mới mong ra khỏi cái nấm mộ thối tha của
nhà ngươi. Ái dà! Hay là anh bảo cái nấm mộ của anh nó nổi hơn người ta, cái chỗ
đứng của anh nó cao hơn người khác nên ăn nói xấc xược, coi người như con tôm
con tép thế hử? Ở đây ai còn lạ gì ai, mà cũng chẳng ai thèm biết đến cái tôi của
nhà anh trên cõi trần đâu, vì nó chết rồi, chết ngay từ lúc còn anh còn thoi
thóp thở chứ không phải qua tới đây mới chết đâu. Khổ thay là khẩu nghiệp, ác
nghiệp nó mọc rễ ra nên hồn không dễ gì thoát ra mà đi được, “trồng dưa đắc
dưa, trồng đậu đắc đậu, gieo gió thì gặp bão”, chân lý ấy không bao giờ thay đổi
đâu con ạ.”
Chết thật! Nàng hoảng hốt
ngăn người bạn của mình lại, giá biết thì đã chẳng dẫn nhau đi xem cho mang tội
thêm, nhất là bản tính của bạn thì bao lâu nay dường như đã đằm thắm nhiều, nếu
không khéo gần gũi kẻ xấu, lại trở nên “gần mực thì đen” biết bao giờ mới thay
đổi được. Trong bóng đêm, vẫn lồng lộng tiếng oán than:
“Bao cơn sóng dữ chập chùng
Bến bờ vô vọng những vòng
oan khiên.”
Ôi chao là thấm thía, khiến
linh hồn đau khổ kia lại rú lên:
- “Im hết đi, chúng mày im hết
đi, có biết ta là ai không hở?”
Linh hồn cô gái có vẻ ngơ
ngác vì cảnh tượng kỳ bí này, cô níu lấy tay người đàn bà van xin:
- “Thôi cô ạ, chúng mình đi
về đi, chắc đây là một hồn ma xấu, mà tại sao lại cứ hỏi người ta câu hỏi này
cô nhỉ?”
Người đàn bà bĩu môi cười
khinh bỉ, giải thích cho cô gái ngây thơ chưa hiểu đời bao nhiêu:
- “Tội nghiệp cháu tôi, hóa
ra cháu còn ngây thơ nên không biết cuộc đời nó có đủ thứ hạng người, mà linh hồn
này là tiêu biểu cho một loại người hám danh, nhiều thủ đoạn, thích hại người
và muốn nâng mình lên mây xanh, thích ngồi ngất ngưởng trên cao để người ta suy
tôn, ca tụng. Cuộc đời chỉ là ảo ảnh, có đó rồi mất đó, có ai ngủ mà nắm tay đến
sáng bao giờ, sự chết thì đến như kẻ trộm, như cây cỏ, trời lấy đi sự sống dễ
dàng như trẻ con ăn kẹo ấy mà. Ví như hắn là cái cây, tưởng rằng mọc rễ đời đời
trên cái mảnh đất danh vọng phù phiếm của trần gian, bỗng chốc mà cây đổ thì tiếc
là phải rồi.”
Cô gái vẫn chưa hiểu bao
nhiêu về những chuyện vượt quá sự suy nghĩ của cô, lại hỏi:
- “Cháu cứ tưởng là khi hai
tay buông xuôi, mọi người thân đưa ta vào đây thì đã phải hiểu ra mọi điều của
sự sống và sự chết, sao ông ta có vẻ tiếc nuối điều gì ghê gớm lắm?”
Người đàn bà chép miệng:
- “Giá hắn hiểu đời chỉ là
KHÔNG thì đâu đến nỗi vậy. Cái cây bị đốn ngã rồi, nhưng cái khổ hắn gieo rắc
cho người khác thì như rễ cắm xuống đất, không dễ gì nhổ đi được. Chém chết thì
hắn cũng đã từng lộn đi lộn lại về cái chỗ ngồi của hắn trước kia, rồi khi thấy
cái ghế của mình đã có người ngồi, mà hắn không làm sao đẩy được người ta đi,
cũng không còn ai nhớ đến hắn nữa, người đời giờ đây xem hắn như là hồn ma bóng
quế, nên vì thế mà hắn vừa tức lại vừa tiếc, lại chẳng làm gì được ai, nên vì
thế gặp ai cũng hỏi có biết mình là ai không đấy mà.”
Rồi chẳng hiểu bà này chộp
được thơ thẩn ở đâu, cứ ngâm nga lên như khiêu khích linh hồn đau khổ kia:
“Tôi là ai
Trong cõi đời ảo mộng
Để hôm nào
Tàn rụi với hư không
Tôi là ai
Hạt bụi giữa mênh mông
Mà thân phận
Chìm sâu bờ cát vắng.”
Tức khắc, linh hồn người đàn
ông đau khổ kia lại tru tréo lên chửi, tiếng chửi rủa thô bỉ của hắn lại bị lẫn
trong những tiếng râm ran của bao nhiêu hồn ma bóng quế:
“Gieo chi hạt giống ưu phiền
Mọc lên cây khổ giữa miền đất
khô
Giờ đây khi thác xuống mồ
Còn chăng một nắm xương khô
tội tình.”
Nàng thấy tội nghiệp linh hồn
người đàn ông đau khổ kia, đã lìa đời mà vẫn chưa nhìn ra cuộc đời chỉ là ảo ảnh,
phù du, nên trong lòng vẫn lẫn lộn nuối tiếc mà lại còn chất ngất thù hận. Vì
thế, nàng dịu dàng nói với người bạn đáo để của mình:
- “Thôi, đừng trả lời trả vốn
với ông ta nữa mà oan nghiệt chập chùng, càng đau khổ thì ông ta lại càng chửi
bới hung hăng, cái khổ lại càng chất chồng lên, khẩu nghiệp càng nặng thì bao
giờ linh hồn mới thoát ra được"
Bà bạn đồng hành khinh khỉnh
cười:
- “Ái chà! Tôi cũng biết
mình chưa dễ thoát được cái sân si dù đã bước qua kiếp này, nhưng khổ lắm, có
những thứ người lại cho rằng thiên hạ không nói là vì người ta sợ mình, hay là
thiên hạ ngu mà im lặng. Chẳng qua vì khùng điên mà không hiểu được luật đào thải
của muôn loài muôn vật, cây cỗi thì phải chặt đi để cho cây non nó mọc, thuyền
mục thì phải chìm, lá vàng thì phải rụng, chửa thấy có ông vua nào sống mãi dù
danh vọng, uy quyền, tiền bạc chất cao như núi. Ối chà! Tôi mà là Trời thì cứ
cho hắn ta sống mãi đến trăm tuổi bạc đầu râu ngồi đâu ruồi bu đến đó xem hắn
có chịu được không nào.”

- “Thôi chúng mình đi, vì
không thể nào lôi kéo được linh hồn kia khi ông ta còn bị bám quanh bởi những
cái rễ đau khổ, cho dù có hết lời cầu nguyện thì cũng không phải cách để giũ đi
được những “ác nghiệp” mà ông ta đã gây nên, nếu không thì nền công lý sẽ không
tồn tại. Dù ở cõi bên kia hay cõi bên này, gieo thì phải gặt, cho đi thì nhận lại,
nghĩ cho cùng thì chẳng Thần Thánh nào có thể đỡ được hay bớt đi cái nghiệp khổ
của một linh hồn, nếu họ không thực tình sám hối ăn năn.”
Đêm càng khuya, những vì sao
đêm nhấp nháy trên dải ngân hà trông thật đẹp, nếu không có linh hồn đau khổ
kia chửi bới tục tằn, nếu không có những lời âm u lồng lộng trong đêm khuya
thanh vắng, thế giới của linh hồn sẽ bình yên biết bao. Đêm đen giống hệt như
cuộc đời, bị những con người xấu làm giảm đi bao nhiêu điều tốt đẹp của đời sống,
vẫn luân chuyển từ nghìn xưa đến nghìn sau, mà chưa biết là linh hồn sẽ đi về
đâu trong cõi mù sương.
Những ngày tiếp nối, linh hồn
nàng đôi lúc muốn đắm chìm trong cái sâu lắng từ cõi mù sương. Cứ cho rằng cuộc
đời bên kia giờ này như hội chợ phù hoa, lẫn lộn kẻ xấu người tốt, xen lẫn những
công trình tốt đẹp của nhân loại vẫn không thiếu những nơi trác táng, đồi trụy
làm băng hoại đời sống tinh thần của một cộng đồng, liên đới với nhau để trở
nên một bức tranh nhiều màu sắc, sinh động, bình dị, đơn giản mà cũng không thiếu
sắc màu lòe loẹt, phù phiếm, xa hoa.
Thế giới của linh hồn nếu đi
sâu đến tận cùng của nó, phơi ra ánh sáng mặt trời chắc cũng không hơn gì cõi
bên kia ở thể vật chất. Tuy nhiên có đôi chút khác nhau, nếu không thế thì chắc
con người đã không hãi sợ khi từ bỏ thể vật chất, vì họ đang chơi vơi tự hỏi
sau cõi đời họ sống, biết những gì sẽ chờ đón ở phía bên kia.
Dĩ nhiên là có, chắc chắn một
điều là con người chỉ có thể làm được điều thiện hay ác ở cái thể vật lý, khi họ
còn hiện diện trên trần gian, và chỉ có thể luân chuyển được dòng nước đục sang
dòng nước trong khi họ còn là một sinh vật biết ngo ngoe cử động, biết suy tư để
hiểu mình đang bơi trong dòng nước mát, hay đang ngụp lặn trong dòng nước đục.
Riêng ở thể linh hồn thì hoàn toàn là sự chờ đợi và suy ngẫm, lắng đọng lại để
mà chờ đón con đường mình phải đi chứ không còn giải pháp nào nữa, vì con đường
bằng phẳng hay chông gai đã tự mình chọn trước rồi.
Tuy vậy nàng không hề bối rối
để linh hồn chìm đắm trong nỗi lo lắng suy tư đó, vì nàng hiểu nó cũng chẳng
đưa tới đâu, chi bằng tìm một cách hay nhất là đón nhận và cùng tìm tòi, suy
nghĩ từ những gì đang gặp gỡ, nhìn thấy được trong sâu thẳm của mỗi linh hồn
nàng gặp trong cõi mù sương. Đêm nay, chỉ có một mình ngồi suy tư trên nấm mộ của
mình, mới hôm nào xung quanh chỉ trơ trọi đất cát, nay đã phủ lên vùng cỏ xanh,
những đám hoa dại tự nhiên đua nhau mọc lan tràn bên mộ nàng, dệt một tấm thảm
vàng bát ngát và cánh đồng hoa dập dềnh theo gió. Con người đi ngang đây sẽ
không khỏi suýt soa vì vẻ đẹp tuyệt vời của cánh đồng hoa trong nghĩa trang, mà
biết đâu đó lại chẳng có người mơ ước mai sau được đến đây yên nghỉ nghìn thu.
Buổi chiều hôm qua được chứng
kiến một cảnh tượng đẹp khiến nàng vô cùng cảm xúc, khi ánh hoàng hôn còn vương
lại những dải nắng yếu ớt trên rặng liễu ven hồ, nàng đã bắt gặp một người đàn
ông say sưa ôm cây đàn trong tay, dạo những đường tơ cho một bản đàn năm cũ, với
giọng hát khàn đục nhưng chứa chan tình cảm dành cho một người phụ nữ nằm đưới
đáy mộ sâu.
Nàng tò mò đến bên tấm bia
có hình của một phụ nữ xinh đẹp, mặc dù lúc ấy nàng có đứng gần sát vào chỗ đứng
của người đàn ông đánh đàn và hát kia, thì ông ta vẫn hoàn toàn không biết.
Không thấy một biểu hiện gì là linh hồn của người phụ nữ kia còn hiện hữu trong
góc nghĩa trang này, chỉ có nàng đang đắm đuối trong sầu khúc Tristesse của
Chopin với tiếng đàn của người đàn ông đa sầu đa cảm:
“Thôi! Buồn làm chi
Luyến tiếc mà chi
Bao nhiêu sầu nhớ sẽ
phai đi cùng thời gian
Lá úa hoa tàn
Thôi hỡi đàn vang những
lời ca não nùng
Nhắc làm gì, bao ngày
qua.”
Tiếng đàn Guitare Espagnol vẫn
réo rắt rung lên giữa buổi chiều tà, khiến nàng thổn thức khi tưởng tượng rằng,
có lẽ ngày xưa khi còn sống, người phụ nữ diễm lệ kia đã từng ngồi tựa bên ông
ta để hồn say đắm trong tiếng nhạc êm dịu. Một mối tình đẹp lãng mạn và tuyệt vời,
âm nhạc lại càng nâng nó lên để tuyệt vời hơn nữa. Đôi môi người đàn ông lại mấp
máy những lời thì thầm, nhưng ở thể linh hồn, nàng nghe rất rõ như đang nghe một
bài thơ :
“Anh chỉ muốn thời gian ngừng
lại
Để được gần em mãi mãi
Dù bóng hình em không còn nữa
Anh vẫn yêu em đến cuối đời
Đó là lời bản nhạc của
Chopin người nhạc sĩ thiên tài mà vắn số, nhưng mặc thời gian và không gian, bằng
tâm cảm nó vẫn tồn tại trong bao con tim của hậu thế. Tất cả đã vĩnh viễn đi
theo linh hồn của người phụ nữ được yêu kia, bây giờ bà ta về đâu, giờ đây chỉ
còn người đàn ông si tình nhớ đến người xưa qua bản đàn cũ. Chạnh nghĩ đến
mình, nàng lại cảm thấy hơi buồn buồn vì hình như nàng lại đang rơi vào nỗi buồn
vô vọng cũ, khi người chồng và những đứa con hình như giờ đây có vẻ đã nguôi
ngoai dần và chưa bao giờ thấy họ đứng trước mộ nàng để thầm thì kể một câu
chuyện với người đã khuất.
Nỗi buồn ở đâu bỗng ập đến
khiến nàng chảy nước mắt, nhưng nước mắt cũng không có thật để nàng có thể dùng
tay gạt đi những giọt lệ, mà nó chỉ âm ỉ trong linh hồn một nỗi buồn khó nguôi.
Thiên đàng là đây, địa ngục là đây, hạnh phúc là đây, đau khổ là đây, khi giữ
mãi trong tâm tư những nỗi buồn thì hồn vẫn quẩn quanh mà không thoát ra được,
nàng nhớ đến lời dặn dò của người bạn tri kỷ nàng gặp đầu tiên hôm ấy, ông đã
ân cần nhắn gửi cho nàng bao nhiêu điều hiểu biết trước khi bay đi về cõi của
ông ta. Khi người đàn ông chuyển sang bản nhạc “If you go away” với tiếng đàn nức
nở trầm buồn đến não cả lòng, nàng đã bật lên khóc vì thương cảm. Nàng ngồi đó
chìm lắng trong cung đàn và tiếng hát tiếc thương, trong khi người đàn ông ôm
đàn đứng đó mà chẳng cảm thấy được sự hiện diện của nàng. Nàng hiểu người ta
không thể trở về với dĩ vãng . . .
Tiếng đàn chơi với réo rắt
và giọng hát truyền cảm say sưa của người chồng đang tưởng nhớ đến người vợ yêu
dấu của mình, hình như vẫn luẩn quẩn trong linh hồn nàng, nhưng nàng lại chưa
muốn hay không muốn chia xẻ cho 2 người bạn nàng gặp trong nghĩa trang này, vì
nàng có cảm tưởng họ chưa thể hiểu hết được nỗi buồn sâu lắng đó nơi lòng người
như nàng đã hiểu. Có những điều người ta không thể nói ra được, có những nỗi buồn,
niềm đau người ta thích giữ lấy một mình, như người đàn ông giữ lấy nỗi sầu của
ông ta trong tiếng đàn mà ông ta nghĩ chỉ có người phụ nữ đáng yêu của đời mình
nằm dưới nấm mồ kia mới xứng đáng nhận được nó mà thôi. Nỗi tiếc thương đó khiến
nàng chợt nhớ đến mấy vần thơ:
“Có những tình yêu không thể
nói
Có những nỗi buồn làm sao
vơi
Dấu trong tim khổ niềm
thương nhớ
Gửi áng mây trôi tận cuối trời.”
Khi trời tối hơn, một nửa vầng
trăng lơ lửng trên nền trời nhung thẫm đầy sao thì hai người bạn của nàng cũng
tới. Kể ra có bạn bè cũng vui, nhưng không hẳn lúc nào cũng bận rộn với mọi người
xung quanh khi tâm hồn cần sự yên tĩnh, nghỉ ngơi. Lần này thì cả hai người bạn
cùng đến một lúc, đang bàn cãi về linh hồn người đàn ông đau khổ giờ này vẫn
còn bám vào những cái rễ của sự khổ đau do chính ông ta trồng trọt lấy tự kiếp
trước. Rồi cả ba cùng rủ nhau thơ thẩn đi ngắm cảnh, rặng liễu lả những ngọn
tóc dài phất phơ trên mặt hồ, gờn gợn trên mặt nước long lanh phản chiếu nửa vầng
trăng và những ánh sao trời dưới đáy nước.
Mấy hôm trước, có đám ma của
một bà cụ, rất đông người đưa tiễn và rất nhiều vành khăn tang, khi nàng đảo đến
đó thì cũng đã về chiều, người con gái mặc nguyên bộ quần áo màu đen còn ngồi gục
đầu khóc mãi bên nấm mồ của mẹ già, lại một cảnh “tử biệt sinh ly” bày ra trước
mắt nàng đến độ quá quen thuộc, nên không làm cho nàng quá quan tâm như ngày
xưa. Rồi cũng thế thôi, tất cả rồi cũng thế thôi, chẳng ai lại không có ngày đến
đây để gửi nắm xương tàn.
Đêm nay trở lại, ba người đã
thấy một bà cụ già ngồi khóc tỉ tê, lạ lùng làm sao là ai cũng khóc khi từ giã
cõi bên kia, tâm trạng cô đơn và hụt hẫng chắc là nỗi buồn chung của người vừa
mới từ giã cõi đời. Ba người cùng lắng nghe linh hồn bà cụ già khóc kể, rền rĩ
như trách móc, nỉ non, như khi ra đi bà cụ đang mang trong lòng nỗi buồn phiền
vì lũ con, cháu bất hiếu của mình. À, thì ra thế thật, nhưng sống hết một đời đến
gần trăm tuổi như bà cụ mà còn tiếc đời, tiếc của thì lạ quá, cả ba linh hồn
cùng muốn tìm hiểu vì lẽ gì mà bà cụ cứ khóc lóc, than thân trách phận mãi.
Nghe linh hồn bà cụ già khóc kể, cả ba cũng thấy mủi lòng, riêng nàng còn nhớ
thêm dáng vóc ẻo lả người con gái mặc tang chế gục đầu bên nấm mồ người mẹ mấy
hôm trước, chắc cô ta thương mẹ nhiều lắm, nhưng sao hình như tiếng kể của bà cụ
vẫn tấm tức điều gì. Vì thế, nàng tiến đến gần hơn và rụt rè chào bà với một vẻ
cung kính:
- “Xin chào cụ. Chẳng hay nỗi
thương nhớ chưa vơi, nên nghe như cụ còn buồn lắm vì phải xa lìa những người
thân yêu?”
Như bắt được bạn tri kỷ,
đúng thế, bà cụ đang cần có người hỏi để kể về nỗi ấm ức của mình. Ngày bà còn
sống, khi nằm đó mà thấy có người đến thăm, vẫn hay ca cẩm chuyện trong nhà, về
những người con và cháu không hết lòng săn sóc gần gũi mẹ. Người già sống lâu
thường xoay vòng lại làm đứa trẻ con vòi vĩnh, khó chiều mà lại hay tủi thân,
vì thế có người cho rằng ông Trời sinh ra vậy để lúc ra đi con cháu đỡ phần tiếc
nuối. Bà cụ đang khóc kể tỉnh hẳn lại, rồi rỉ rả kể nỗi tức tối của bà cho ba
người cùng nghe:
- “Ôi chào các bà, các cô,
đi đâu mà vui như chảy hội thế này? Ôi chà! Già này đang buồn đây, thế ra tất cả
những thỏi vàng trong túi già chỉ là mấy miếng ngói, đám con đã đánh lừa tôi khi
nửa tỉnh nửa mê trên giường bệnh, chúng nó bịp bợm tôi, tôi không bao giờ tha
thứ được.”
Cụ già lại nức lên khóc, khiến
cả ba vô cùng ái ngại. Chỉ riêng nàng đã lờ mờ hiểu ra chút ít về nỗi buồn của
bà cụ: TIẾC CỦA. Nhưng người bạn của nàng đã nhanh nhẩu hỏi:
- “Vâng, lũ trẻ bây giờ như
thế cả, mình còn sống nhăn răng ra chúng cũng đã muốn lấy của mình rồi, huống
gì già lão như cụ mà lại có vàng cất trong túi thì chúng cứ mong mình chết
nhanh nhanh để lấy cho gọn. Nhưng chuyện như thế nào hở cụ?”
Chết thật! Cái người đàn bà
này thì luôn luôn “đồng thanh tương ứng” với những linh hồn có hoàn cảnh na ná
như bà ta. Nàng chỉ biết im lặng chờ đợi, thì bà cụ đã kể một mạch:
- “Ôi trời ơi có mắt thì ngó
xuống mà xem, con cái cướp giựt lừa phỉnh của cha mẹ. Không dấu gì các cô, tôi
thuở sinh tiền ăn dè hà tiện, chắt mót mãi mới mua được ít vàng để dành. Mãi đến
khi ốm đau lây lất, tôi biết chẳng thể để của một nơi người một nẻo, đồng tiền
phải liền với ruột nên đã cẩn thận cất ở túi áo trong gài kim băng cẩn thận. Thế
mà chúng nó cũng lần mò đợi mình mê ngủ rồi đổi mấy viên gạch bỏ vào túi mình,
hễ giựt mình thức giấc, nhớ ra là tôi lại hỏi: “Vàng đâu? vàng của mẹ đâu?”. Trời
tru đất diệt nó đi, chính cái con bé ngồi khóc bên mộ tôi thảm thiết nhất lại
là đứa bàn với anh em nó đổi vàng ra gạch bỏ vào túi áo của tôi, rồi miệng cứ
trả lời thon thót: “Vàng đây, vàng của mẹ đây.”, vì thế khi sờ vào lúc nào cũng
thấy nằng nặng. Đến khi mình nhắm mắt lìa đời, lúc ấy mới biết bị lừa thì đã muộn
rồi, hỏi xem ai mà không buồn, không tức?”
Khi hồn người đàn bà hiểu thấu
câu chuyện làm cho bà cụ phiền lòng thì phá ra cười, khiến bà cụ đâm ra bực
mình, gay gắt hỏi:
- “Này bà kia, chẳng lẽ câu
chuyện của già này làm bà vui lắm sao mà lại cười?”
Bà ta cứ cười, cười ngặt nghẽo
rồi hỏi bà cụ:
- “Thế cháu vô phép hỏi cụ,
nếu như cụ có đem được mấy thỏi vàng sang thế giới bên này, thì cụ dùng nó làm
gì nhỉ? Để hối lộ Thượng Đế cho cụ lên trời, hay dành tiền để mua sự cầu nguyện
cho linh hồn mau siêu thoát? Nghĩ lại đi cụ ơi, trong khi cụ đau ốm nằm đó, tiền
bó vào ruột tượng, thì ai là người chăm nom miếng ăn giấc ngủ cho mình, ai thuốc
thang tắm rửa cho mình, ai lo việc ma chay cho mình khi nằm xuống, có phải là
con cái của cụ không?”
Bà cụ già tiếc của giờ đây
như thấm ra vì câu nói xấn xả của người phụ nữ trực tính, nên im lặng ngồi yên.
Người đàn bà lại nói:
- “Ông trời cho mình cuộc sống
và một thân thể mà mình lại không biết hưởng rồi lại tự đày đọa mình thiếu thốn,
hà tiện quá mức đối với bản thân cũng là TỘI đấy nhé, mà cũng vì keo kiệt rồi
sinh ra ích kỷ với mọi người xem ra cũng chẳng phải điều tốt. Cô con gái của cụ
là người tốt, khi mẹ còn sống lo cho mẹ đầy đủ mà không tơ hào lấy vàng của mẹ
là con gái ngoan, nếu cụ nằm xuống mà được mồ yên mả đẹp do chính đồng tiền
mình dành dụm để không phiền con cái, mình cũng là người mẹ tốt. Còn bao nhiêu
thì để lại cho con, nếu nhờ đó mà đời con cháu mình đỡ khổ thì tại sao mình lại
tiếc?”
Nàng và cô gái cũng gật gù đồng
ý, còn bà cụ thì đang tiến thối lưỡng nan trước lời giải thích của người đàn bà
đanng ngồi trước mặt bà. Nàng cũng lên tiếng góp vào:
- “Cụ ơi! Cháu chưa thấy một
đám ma nào lại đông đảo người đưa, sắp sếp chu đáo như đám ma của cụ. Nào là
linh mục đưa đến tận huyệt cầu kinh xông hương cho cụ, nào là vòng hoa lớn hoa
bé đầy những lời thương tiếc, nào là con cháu, họ hàng túc trực hai bên khi hạ
huyệt, ai cũng khóc lóc thảm thiết, nếu như những vòng hoa kia do bạn bè thân hữu
của các con cháu cụ phúng viếng, thì chẳng phải do sự giao tế của con cháu cụ
mà cụ được như vậy sao? Mình phải mừng mới phải vì chẳng phải ai ra đi cũng được
như thế, cũng do cái phúc đức của cụ vậy?”
Bà già nghe nói thấm ý nhoẻn
miệng cười, dù chỉ ở thể linh hồn nhưng với cảm quan mạnh ai cũng thấy nụ cười
móm mém của bà thật dễ thương, sự THA THỨ bao giờ cũng biến tâm hồn người ta ra
con trẻ. Tuy vậy bà cụ cũng biết đối đáp lại nàng:
- “Khéo nói ơi là khéo nói,
thế cái dạo cô ra đi thì cũng ối vòng hoa đẹp, nào chỉ mỗi mình tôi mới có.”
Thấy bà cụ tươi tỉnh lại biết
nói đùa, nàng cũng cười đáp lại:
- “Thưa cụ, đẹp vậy mà chỉ một
sáng một chiều cũng héo rũ hết, có gì tồn tại đâu, chỉ một vài hôm là người phu
quét rác lại phải nhặt nhạnh đem vứt đi. Mà thế cũng tốt hơn là cứ phải nhìn những
vòng hoa héo trên nấm mộ, trông nó buồn rầu bi thảm làm sao ấy. . .”
Nói đến đây tự nhiên nàng im
lặng, lòng thổn thức bâng khuâng nghĩ đến lời nói chí tình của người bạn tri âm
tri kỷ đã đi về cõi xa nào rồi: “. . . Đấy, đấy. Chân lý là ở chỗ đó, bà có thấy
hoa nào là không tàn đâu”, lòng nàng nặng trĩu một nỗi buồn nhớ vu vơ. Nhưng
người bạn đồng hành thật là đáo để, nhìn nàng nheo mắt cười:
- “Lại nhớ đến tri âm tri kỷ
rồi phải không? Thôi thì “hạc bỏ tiên về nơi cõi xa, nền cũ lầu hoang đứng thẫn
thờ”, thơ của tiên sinh Lý Bạch đấy, cái ông thi sĩ gàn say ruợu nhảy ùm xuống
ao ôm bóng trăng giả vào lòng mà chết.”
Nàng bật cười:
- “Ai bảo bà thế, khiếp thật,
cứ như đi guốc vào lòng người ta vậy?”
Bà ta cười to lên chế nhạo
nàng:
- “Chứ không à? Ngay khi gặp
nhau tớ đã chả bảo với đằng ý là ở đây chẳng ai dấu nhau được điều gì đâu, tốt
xấu nó bày hết ra, thượng vàng hạ cám ai ra người nấy cả rồi, hỏi để cho có
chuyện chứ chẳng lẽ im lặng hết như bãi tha ma thì chịu sao thấu.”
Tất cả cùng cười, đến chết
mà còn biết cười thì hồn vẫn vui vậy. Bà cụ hết kể lể khi đã hiểu ra mọi chuyện
lại theo thói quen lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Người đàn bà quay đi bĩu môi
nói đùa với hai người bạn:
- “Lại đọc kinh để xin lên
Thiên đàng đấy. Bây giờ thì chắc là bay được rồi vì cái túi vàng hay gạch nó
không nặng trĩu ra. Tôi đã nói rồi mà, có người ngày nào cũng cầu nguyện cho
mình được về với Chúa, với Phật, nhưng hễ Chúa đón ngay về thì hãi bỏ mẹ, lại rối
rít xin cho sống mãi đến già cũng vẫn sợ chết. Cứ tưởng tượng mai kia ngồi đâu
ruồi bâu đến đó không buồn giơ tay đuổi, thì thôi, cái áo nó cũ rồi thì lột bà
nó đi mà mặc áo mới có phải thích không?”

Ngày đến rồi ngày lại đi,
đêm đi rồi đêm lại tới. Thời gian không có tuổi vì ngày nào cũng 24 giờ, nhưng
con người và các thời đại lũ lượt kéo nhau đi, chồng chất lên hàng hàng lớp lớp
kiếp phù sinh mà không ai tính, đếm, đong, đo được vô số tiền oan nghiệp chướng.
Mỗi khi ở cõi bên kia bớt đi một người thì ở cõi mù sương lại nhận thêm một người,
như một cái vòng cong cong để biến cái áo cũ thành cái áo mới, giá trị hay
không lại tùy ở món hành trang mang đi sau mỗi đời người.
Mỗi ngày trong thế giới xảy
ra biết bao nhiêu chuyện, đứa bé cất tiếng khóc oa oa chào đời trong nỗi mừng
vui của cha mẹ, anh em, thì ở đâu kia lại vang lên tiếng kèn ò í e để tiễn đưa
một người về thế giới vô cùng. Người giàu cứ giàu, người nghèo cứ nghèo, người
no cứ no, kẻ đói vẫn đói, vẫn cứ vang lên tiếng cười thỏa mãn khoái trá của người
nhiều tiền lắm bạc, tiếng than thở trách móc của người kiếm không ra ngày hai bữa
cơm. Chiến tranh tàn bạo là cái cớ để người ta nói chuyện hòa bình, vì thế mà
muôn đời con người vẫn có chuyện để làm, mặc dù có bao nhiêu thứ chẳng cần thiết
như súng đạn chỉ là phương tiện để người ta tận diệt nhau nhanh chóng nhất.
Chắc hẳn chỉ có ông Trời là
mệt mỏi và buồn phiền nhất. Chỗ này trời cho mưa thuận gió hòa, đời sống no đủ
thì hết lời tán tụng, cảm tạ, nhưng có nơi thiên tai, bão lụt, đói khổ, chiến
tranh thì lại trách móc ông Trời sao nỡ nào đổ xuống cho nhân loại những tai
ương đó. Ôi! Làm Trời khổ lắm cũng như làm cha mẹ cũng khổ lắm, ai thấu hiểu
cho nếu không hiểu rõ từ cái nghiệp của tiền kiếp, cộng trừ nhân chia với nhiều
hệ lụy mà tạo nên niềm vui nỗi khổ đến kiếp sau, để hưởng hay trả, có khi từ
cái Nhân và Quả của một quốc gia, một dân tộc qua nhiều thời kỳ hưng, phế nữa.
Đêm qua, khi hai người bạn kết
nghĩa của nàng đã đi rồi, chỉ còn lại mình nàng chìm đắm miên man với những suy
tư trong cõi mù sương, bao nhiêu khám phá học hỏi trong từng cái chết của mỗi
người, trong từng nỗi khổ của mỗi linh hồn, trong từng niềm êm dịu của tình
yêu. Nàng thấy mình chưa học hỏi được bao nhiêu về con đường thăm thẳm để đi về
một nơi nào đó, vẫn chỉ loanh quanh trong cõi sương mù của sự hiểu biết, ngoài
sự buông xả được những vướng mắc với cõi bên kia để tiếp nhận mặc chiếc áo mới,
và đi tiếp con đường chưa đến trong cõi mù sương.
Thế rồi, dù ở cõi nào nàng vẫn
cảm thấy mình có nhiều cơ duyên để quen biết, gặp gỡ nhiều linh hồn khác nhau,
như đi trên một đoạn đường mà chỗ này là một bụi cỏ gai, chỗ kia một bông hoa đẹp,
hay có khi cũng là một mỏm núi cao chênh vênh lẫn với đám mây trên bầu trời
xanh. Lắm cái tương phản và mâu thuẫn rất buồn cười, ở cõi đời thì ánh sáng soi
rõ mọi vật, ở thể linh hồn thì bóng đêm chính là ánh sáng, và từ bóng tối nàng
lần tìm ra ánh sáng của đời sống, nên thật tình cờ, nàng lại được một lần đối
diện với linh hồn một quân nhân. Ông đã từng là một sĩ quan gương mẫu, đã anh
dũng chiến đấu trên nhiều mặt trận, và cũng chính vì thế mà nòng súng của ông
đã tiêu diệt bao nhiêu con người mà ông gọi đó là kẻ thù của ông.
Khi nằm xuống, hình như bao
nhiêu vinh quang, chiến tích, bao nhiêu câu chuyện của đời người bỗng dưng đều
nằm xuống một lượt với xác thân, nên giờ đây ở thể linh hồn, dĩ nhiên những gì
ông ta có phút chốc tan thành ảo ảnh, cuộc đời thật là phù du, những gì ông làm
khi còn tại thế, cũng lần lượt trở lại như một cuộn phim, mang theo đầy đủ để tạo
thành một bức tranh nhiều màu sắc của thiện và ác. Nhưng bước qua cõi mù sương,
người sĩ quan đã từng vào sinh ra tử, không còn nhìn cuộc đời mình theo con mắt
hạn hẹp và một chiều đó nữa, vì ông không còn năng lực để tự mình phán xét. Với
một cái nhìn khác, khiến linh hồn ông không khỏi băn khoăn về những điều mình
làm, mà ở đây cả là một đáp số bí ẩn của linh hồn khi đã nhúng tay vào sự tàn bạo
do chiến tranh gây nên, mặc dầu không cố ý.
Dù sao, con người này khi
còn sống đã dám nhìn thẳng vào cuộc đời, trực diện với sống chết và chịu trách
nhiệm vì là một vị chỉ huy trong quân đội, vì thế, linh hồn ông vẫn phản ảnh là
một tấm gương chói sáng của lòng quả cảm, với một ý chí cứng cỏi mang theo từ
cõi bên kia. Ông ra đi sau nhiều năm ngồi trên chiếc ghế của một người có sức mạnh,
có uy quyền, có cả vũ khí, có quyền sinh sát trong tay. Tuy thế, những thứ ấy
thuộc về cõi bên kia, cuối cùng thì lúc ra đi cũng chỉ có một mình, không tiền
hô hậu ủng, không vệ sĩ kè kè đi trước đi sau, không vợ đẹp con ngoan, không
anh em bằng hữu, nói trắng ra là đi một mình, “sô lô” về cõi bên kia bỏ lại tiềng
kèn đồng nhức nhối tiếc thương trên bãi cỏ đời vàng úa.
Nàng gặp được linh hồn người
quân nhân ấy, giá trị của tinh thần vẫn khiến linh hồn ông toát ra một vẻ bình
thản, dù rằng bằng tâm cảm, nàng hiểu ông đang suy nghĩ lung lắm về quãng đời
đã qua của ông trong dĩ vãng. Ông ngồi một mình trên triền đồi thoai thoải nhìn
mông lung xuống những rừng hoa dại, chen lẫn trong những nấm mồ yên lặng. Nàng
tò mò lướt ngang để quan sát dáng vẻ trầm mặc của linh hồn người quân nhân, khiến
ông ta mỉm cười cất tiếng hỏi, giọng sang sảng của một người ăn nói “có gang có
thép”:
- “Xin chào!”
À thì ra ông ta cũng đang tò
mò vì ở cõi này hình như cũng có điều gì giống bên kia, mà sau những nghi lễ
quân cách, những cánh hoa nắm đất vỗ rào rào trên mặt áo quan, mọi người bỏ ra
về hết thì ông cũng cảm nhận được nỗi cô đơn vậy. Thế mà trong đêm tối, lại có
ai đó lảng vảng quanh đây, thói quen của một quân nhân là phải tìm cho ra điều
gì bí ẩn xẩy ra xung quanh mình, vì thế mà ông không cảm thấy sợ sệt, chỉ cô
đơn thôi. Riêng nàng, đã quen với những tình cảm chân thật trong cõi linh hồn,
giới tính của con người chết rồi, chẳng còn gì để mà tán tỉnh nhau, chỉ còn sự
cảm thông hay không cảm thông mà thôi. Nàng nhẹ nhàng lên tiếng trả lời:
- “Xin chào ông, cư dân mới
của miền vĩnh cửu.”
- “Hóa ra chúng ta đều là ma
cả, nhưng không sao, nếu như cô không nhắc thì tôi cũng quên béng đi và tưởng
là mình vẫn còn sống. Thôi thì kẻ đi trước người đi sau, mỗi người đều mua vé cả
rồi, chỉ chờ đến lượt là lên xe, chuyến xe vĩnh cửu ấy mà. Anh em chúng tôi
chia tay nhau từ lâu, bạn bè đồng đội còn đi trước tôi hằng mấy chục năm trước,
đi từ khi đầu họ còn xanh, nay đến lượt mình thì đầu đã bạc, giờ này mới tới lượt
mình là trễ rồi đấy. Hì hì, nhưng không sao, tôi chỉ đang bỡ ngỡ suy nghĩ về
cái gì từ cuộc đời mình đã sống, đã trải qua, và mang qua đây thì không biết
con đường mình đi nó như thế nào, có chông gai khó nhọc như cuộc đời người lính
trận ngày ấy không thôi cô ạ. Ô hay! Sao tôi lại nói với cô điều ấy, hình như tự
tôi cũng cảm nhận được là cô sẽ cùng tôi chia xẻ những điều mới mẻ gì đó, phải
vậy không cô?”
Nàng mỉm cười, trăng đã xế
dìu dịu màu âm u mang vẻ đẹp của phong cảnh khi trời hoàng hôn, dù rằng giờ này
sương xuống nhiều bao phủ cảnh vật như một dòng sữa. Êm đềm nàng lên tiếng với
người bạn mới:
- “Thưa ông, tôi ở đây đã
lâu, chúng tôi tập được thói quen là đón chào người mới đến, trước làm bạn và
hướng dẫn nhau làm quen với thế giới bên này, sau cũng để tìm hiểu thêm để học
hỏi mà chuẩn bị con đường sắp tới. Hành trình còn dài và thăm thẳm, chưa ai nắm
rõ đường đi nước bước, nhưng trong tư thế chuẩn bị và học hỏi, cũng giúp nhau rất
nhiều khi chấp nhận và tìm ra nẻo đường mà linh hồn sẽ trải qua. Buông được dĩ
vãng, hiểu được hiện tại thì con đường đi về tương lai sẽ dễ chịu tốt đẹp hơn,
vì mình không nắm nuối dĩ vãng, mà cũng không chìm đắm trong ảo vọng.”
Người đàn ông bật cười, tiếng
cười của ông vô cùng sảng khoái vì tự tin:
- “Cảm ơn! Cảm ơn tấm tình của
cô đến với người bạn mới. Tôi đã từng là một quân nhân, không hề sự hãi trước
quân thù, áo giày quân nhân đã từng lặn lội với gian khổ chiến trường, tay đã
vuốt mắt bao nhiêu anh em đồng đội của mình, và cũng từng bóp cò súng để kết liễu
kẻ thù không đội trời chung vì chúng đem đau thương đến cho đồng loại. Tôi hãnh
diện vì mình là một quân nhân tốt, làm tròn nhiệm vụ cấp trên giao phó, nhưng
bây giờ khi nằm xuống, dường như linh hồn tôi có phần hoang mang vì luấn quấn
cái tàn bạo hiện diện trong đời tôi, như một cái lưới nhện của chiến tranh, vì
thế không biết tôi sẽ nhận được cái quả gì đây?”
Nàng ôn tồn giải thích theo
sự hiểu biết của mình:
- “Thưa ông! Theo thiển ý của
tôi thì sợi dây nghiệp quả này nó liên quan đến cả một quốc gia dân tộc, mà người
dân trong một quốc gia cùng được hưởng hay trả. Ông sinh ra chọn binh nghiệp
làm con đường thăng tiến, ít nhiều gì cũng từ đó mà gây hay hưởng ít nhiều nghiệp
quả cho mình, vì thế không thể đơn phương chịu cái tội là mình đã nhúng tay vào
máu. Nhúng như thế nào mới là điều đáng đề cập ở câu chuyện này ông ạ...”
Người quân nhân thở phào,
vui vẻ nói với nàng:
- “Sao cô có thể hiểu được sự
suy nghĩ của tôi như vậy? Quả là một câu trả lời tuyệt diệu cho những người
lính xả thân vì đại nghĩa, chẳng lẽ lại mang tội vì giết người mà khi nằm xuống
linh hồn sẽ gánh chịu nhiều oan nghiệt chập chùng. Thế này cô nhé! Chẳng hạn
khi kẻ thù xâm lăng, mang hiểm họa đến cho dân lành, ai cũng ngồi đó ngoảnh mặt
làm ngơ trước nỗi hưng vong của tổ quốc, tìm thân tâm an tịnh trong nỗi thống
khổ của toàn dân, phải chăng đó là điều thiện?”
Bằng một giọng ngao ngán
nàng thổ lộ:
- “Bởi thế mà chiến tranh mới
là hiểm họa của nhân loại, người dân lương thiện sống trong một đất nước lắm
thù oán, nhận nhiều oan nghiệt bởi chiến tranh, chính là đang chịu chung nhân
quả của tổ quốc đó. Vì vậy người ta mới suy rằng một đất nước được thanh bình
hay thịnh vượng, đau khổ lắm tai ương cũng bị lây cái nhân quả của người lãnh đạo,
được người hiền hay minh chúa thì đất nước an bình, muôn dân no đủ hạnh phúc, gặp
thứ lãnh đạo bất tài, kém đạo đức, không lèo lái được con thuyền quốc gia thì
cuối cùng xô đẩy toàn dân vào nỗi thống khổ.”
Ông ta ngắt lời nàng, hào hứng:
- “Ôi! Được nói chuyện với một
người hiểu biết, thật đúng là “một lần tri kỷ với người khôn còn hơn ngàn lần đối
thoại với người ngu”, tôi vô cùng cảm kích.”
Nàng vội kêu lên vì câu nói
quá đáng của linh hồn người quân nhân:
- “Xin ông đừng nói vậy, kẻo
tổn hại thêm vì mắc thêm tội miệt thị người khác, dù không nói rõ là ai, cái
khôn cái ngu của con người chắc chắn cũng nằm sẵn trong trí tuệ từ khi được
sinh ra làm người. Tôi cũng rất đồng ý với ông về quan niệm “đất nước hưng
vong, thất phu hữu trách”, nên khi thấy ông băn khoăn về luật nhân quả, tôi
không khỏi trộm nghĩ đây là một vấn đề lớn, mà mình là người dân trong một nước
nên vì thế người ta gọi là “cộng nghiệp”. Dĩ nhiên là mỗi người còn tùy theo chỗ
đứng của mình, hoàn cảnh của mình và cách hành xử ra sao để mà giải thích được
đó là công hay tội nữa.”
Linh hồn người quân nhân kêu
lên:
- “Thú vị quá! Ít ra những
người quân nhân lương thiện như tôi không phải chịu cái quả xấu, nếu như trong
cuộc đời binh nghiệp, vì trách nhiệm chúng tôi phải thi hành bổn phận, danh dự
của tổ quốc lên trên hết.”
Nàng gật đầu nói tiếp:
- “Thưa ông, như vậy là mình
đã khai triển được vấn đề một cách cởi mở hơn, công bằng và không nghịch lý vai
trò của người quân nhân đứng trước hiểm họa của đất nước. Trường hợp của ông giống
như một người ở trong một gia đình, có vũ khí trong tay mà thấy tên ăn cướp vào
nhà, uy hiếp mọi người để cướp của và cưỡng hiếp đàn bà con gái, dĩ nhiên là
mình phải dùng vũ khí để tự vệ và để diệt trừ kẻ gian. Ngồi trong nhà thấy cọp
mà làm thinh để nó lộng hành tấn công ăn thịt người, chẳng hay không sát sinh,
không giết người để tự vệ là điều hay. Đứng trước bạt ngàn quân thù, nếu người
quân nhân không chiến đấu để bảo vệ bờ cõi, bảo vệ dân lành, dẫu có chết vài mạng
người cỏ rác đó để mà bảo vệ bao nhiêu người lương thiện, ở kiếp người đã là một
hành động quả cảm thì không lẽ ở cõi này lại phải chịu cái nghiệp khổ.”
Người quân nhân gật gù, đồng
ý với nhận xét của nàng, ông ta cảm thấy sự hiểu biết của nàng về nghiệp quả
không gò bó trong cái nhìn vay trả một cách máy móc, nên rất có thiện cảm với
linh hồn người phụ nữ mà ông đang trò chuyện:
- “Phải, phải đấy, nếu không
thế mà nước ta có một Đức Thánh Trần, có một anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ,
có một anh hùng áo vải đất Lam Sơn, và bao nhiêu anh hùng không tên tuổi, vẫn
được nhiều người ca tụng và tôn thờ. Nhưng cái chính là những bậc danh nhân lịch
sử ấy phải sống cho lẽ phải và chết cho lẽ phải, dưới sự lãnh đạo của họ, việc
làm của họ dù phải đem máu xương mà đánh đổi lấy sự no ấm an vui cho mọi người
qua sự quyết định sáng suốt của họ, thì khi cảnh núi xương sông máu đã qua đi,
người ấy vẫn xứng đáng vinh dự là một nhà ái quốc. Hoặc là một vị tướng dẫu cuối
cùng có phải “sinh vi tướng, tử vi thần” thì vẫn xứng đáng với nhân cách và tiếng
thơm của một người có nhân cách, có phải vậy không cô?”
Nàng mỉm cười gật đầu với
người quân nhân rất trực tính và đầy đức tính quả cảm của một người lính, nên
thú vị nói thêm về sự suy nghĩ của nàng đối với những người khi sống đã dấn
thân vào sự hiểm nguy để bảo vệ cho mọi người khác được an lành:
- “Thưa ông, có lẽ ông Trời
sinh ra con người ở nhiều hoàn cảnh khác nhau, định mệnh đã gắn bó với họ để
làm nên một bức tranh sống động của nhân loại, lại tùy theo sự cống hiến của họ
mà nghiệp quả trở nên tốt hay xấu hơn mà thôi. Con mèo ngồi tư lự bên thành cửa
sổ nghe lá mía reo, trông hiền lành như một bậc thức giả đang an nhiên tự tại để
thành Phật, nhưng nó có thành Phật đâu, con thỏ ăn cỏ ngoài cánh rừng không làm
hại ai, hay con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô, chẳng có nghĩa là con
người ngồi yên đó để an nhiên tự tại sẽ tìm được Phật. Sự Dấn Thân của người
lính ngoài chiến trường, dẫu có phải cầm súng bắn lên đầu quân thù trong cái thế
tự vệ, và bảo vệ người khác khỏi chết thảm sống khổ vì bọn vô nhân, thì không
lý gì phải chịu quả xấu trong kiếp khác.”
Người đàn ông bật lên cười
như bản chất quân nhân từ cõi bên kia vẫn theo ông ta về cõi bên này. Ông rất
vui vẻ khi có người hiểu và cảm thông với ông về những băn khoăn của linh hồn
trong cõi mù sương, và ông cũng không khỏi hãnh diện rằng trong suốt cuộc đời quân
nhân của mình, ông chưa hề dùng nòng súng và uy quyền của mình để phục vụ điều
xấu, luôn ưu tư về đời sống của anh em binh sĩ thuộc quyền, chưa bao giờ vì
lòng ích kỷ, hành hạ người thua cuộc. Bấy nhiêu đó đủ cho linh hồn ông hãnh diện
làm một người tử tế, còn chuyện vận mệnh của một quốc gia, dân tộc ảnh hưởng
lên đời sống của người dân sống trong đất nước đó, lại là ở một vấn đề khác, nếu
như người ta đọc lại lịch sử, hoặc với thời gian cũng có thể trả lời được câu hỏi
đó.
Suy nghĩ một lát, nàng tỏ bày
điều mình nghĩ với người quân nhân:
- “Thực ra thưa ông, không
phải ngẫu nhiên mà mình sinh ra trong đất nước loạn ly, có khi chính cái nghiệp
quả của đất nước đã cần đến những bàn tay như ông để chống đỡ trong cơn nghiêng
ngả, thế nhưng nó vẫn không khá được chỉ vì vẫn không thiếu những con sâu đục
ruỗng củ khoai, dân tình đói khổ cũng vì vậy, kẻ thì thừa thãi phè phỡn ra còn
người thì lại không cơm ăn, áo mặc. Nếu tất cả đều ý thức được sự góp sức của
mình trong chiều hướng tốt, chắc hẳn đất nước ấy sẽ vươn lên dễ dàng. Thương
làm sao khi có nhiều người hiền lương mà đời vẫn khốn khổ không ngóc đầu lên được,
y hệt như con cùng một nhà, chung một cha một mẹ và vẫn có đứa sướng đứa khổ,
chẳng hay mà bảo không có tiền kiếp thì định mệnh của mỗi người chính là sự bất
công của Thượng Đế.”
Rồi im lặng trong vài phút
giây, nàng lại tiếp:
- “Thưa ông, chẳng phải chỉ
có những người lính ở ngoài chiến trường mới là những người tham dự vào chiến
tranh mới tạo nên nghiệp xấu. Thực ra có biết bao nhiêu người không hề bước
chân ra chiến trường, không bắn một viên đạn nào nhưng họ là nguyên nhân hoặc
điều khiển chiến tranh, thì mới thực sự là người đúng nghĩa nhúng tay vào tội
ác. So sánh các nguyên lý để tạo ra chiến tranh, kẻ gây hấn bao giờ cũng hoàn
toàn chịu trách nhiệm vì đã tạo nên cảnh máu đổ thịt rơi, còn người quân nhân
chỉ là một trong cái Nhân nghiệt ngã của một đất nước binh đao nhiều nghiệp chướng
mà thôi.”
Hai người lan man nói mà
quên rằng trăng đã lặn, đêm sắp tàn, sương phủ mênh mang trên những ngọn đồi thấp
nhấp nhô bao nhiêu nấm mộ lớn, mộ bé. Tất cả cũng chỉ thế thôi, nàng lặng lẽ
nhìn cuộc đời của chính mình, của người quân nhân đã từng “vào sinh ra tử”, chỉ
như những nhánh cây khô sống hết một đời đốt lên một ngọn lửa nhỏ, rồi cuối
cùng để lại nhúm tro tàn buồn hiu trên nền đất ẩm.
Nguyên Nhung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét