Xuôi ra biển cả, ngược dòng về nguyên

Thế nhưng, hai chữ “Xuôi” và “Ngược” không gói ghém đầy đủ ý
nghĩa phức-tạp trong cuộc đời.
Bởi
vì cuộc sống thì “thiên-hình vạn-trạng”; có cái bề ngoài không đồng nhứt với
cái bề trong.
Ví
như: Trái dưa hấu, cái da bên ngoài thì xanh mà ruột bên trong lại đỏ. Hoặc
như:
Có
khi ngoài mặt thì giử vẻ tươi cười, nhưng trong lòng thì “gan bầm ruột tím”
Phật-Giáo
có câu: “Phật-Pháp bất ly thế-gian-pháp”.
Rồi
cũng có người nói thêm:”Trong Đời có Đạo, lấy Đạo xây Đời”
Nhưng
cái “Đạo” trong “Đời” ấy ra sao? Có phải xuôi theo Đời chăng? Nếu “xuôi” theo Đời
tại sao có câu:”Bội trần, Hiệp giác”? Là vì “Trần” là bụi bậm, mà bụi
thì hay làm hoen-ố mãnh gương lòng như: “Bụi tài-sắc, bụi danh-lợi”
Nếu
bảo rằng phải “Bội-Trần” là đưa lưng với các thứ bụi đó. Phải chăng Thánh-Hiền
khuyên người đời ngoảnh mặt làm ngơ với danh-lợi sắc-tài chăng? Vì nếu không
ngoảnh mặt thì bụi kia ắt phủ lấp cả đầu, rồi mắt đã bị vướng bụi
thì, dù có mở trao tráo nhưng nào có thấy đâu là Nhơn đâu là Nghĩa? Nhơn Nghĩa
là cái tầm thường mà còn không thấy thì làm sao thấy được Ánh-Giác của Đấng
Chí-Tôn?
Do
đó mà cần phải phân-định cái “hiện-tượng” và “bản-chất” của con người. Có phân
biệt được hình-thể bên ngoài với thực-trạng bên trong thì
mới mong tìm về được cái Chơn-Lý tuyệt-đối.
Cũng
như đấng Jésus bảo con người: “Tìm cái sống trong cái chết” nghĩa
là:
”Không
giết cái “Sống-Phàm” thì làm sao sống được cái “Sống-Thánh”?
“Không
giết đời sống xác thịt, là ăn no ngủ kỹ, mừng-giận ghét-thương , thì làm sao nếm
được cái hương-vị của đời sống tâm-linh an-lành và giải-thoát?.”
Thế
cho nên, người trong Đạo-Giáo có tìm ra được ý-nghĩa cái “Sống Đạo” trong
cái “Chết -Phàm” thì cái “Ngược” mà “Xuôi” mới thêm phần ý nghĩa.
Ý Nghĩa của đời sống con người:

-
Cái gì trong thân cây nhô lên làm thành nụ?
-
Cái gì xé tét da cây để lấy chổ cho tược non xuất hiện?
-
Có phải cái tược non đã xé da cây chăng?
-
Nhưng nó yếu ớt quá thì làm sao đâm lủng vỏ cây vừa dày vừa cứng?
Thật
là bí mật, thật là huyền-diệu cho cái sức sống trong cây, ẩn tàng dưới lớp da
cây, mạch nhựa dường như lưu-chuyển khắp cùng từ rể đến ngọn, tung ra tứ phía,
từ cành lá đến nụ và hoa. Tất cả cành lá non nầy là những sai biệt đều do một
cái “cứu cánh độc nhứt” tiềm-ẩn trong thân cây để nuôi dưỡng. Đó là “Sự Sống”.
Nhìn cây hường, tôi học được một bài học về “mãnh lực sinh-tồn của nhơn-sinh vật-loại.
Con
người đang sống là người “đang đi” trên cuộc hành-trình. Khi nói đang đi nghĩa
là đã khởi hành tức là đã “khởi điểm” và đang hướng về đích-điểm,
nhưng chưa đến chốn. Nhìn cây hường tôi học được bài học cho cuộc đời của tôi.
Nếu
đem so sánh, sự phát-triển tiềm-ẩn bên trong của cây hường với cái
mà Khổng-Tử đã bảo:”Sinh-sinh chi vị dịch” và “Cái gì tạo thành một chuổi dài
cuộc đời để trở nên và triền-miên biến đổi? Đó là “Sự Sống” mà một triết-gia
Tây-Phương đã nói:” La vie: Éternel devenir éternel changement”.
Như vậy, “Sống là kế-tục của cái Chết và Chết là cái bắt đầu
của cái Sống”.
Thế
nên, Sống và Chết là nhịp điệu liên-hồi của cái dòng sinh-hoạt vô-biên vĩ-đại,
là một sự nối-tiếp nhấp-nhô lên xuống của lượng sóng vô cùng.
Khi
nói đến Sự Sống tức nói “cái hiện-hữu của ta” là cái có mặt của con người trên
vũ-trụ nầy.
Khi
ta chấp nhận sự có mặt của ta ở đây thì con người phải có một chổ ở, nghĩa là
phải có một địa-vị và một vị-trí trong sứ-mạng làm người. Vì nó đang mang nặng
nhân-cách nên bao giờ cũng phải biến đổi và “thời-gian” là yếu-tố cần-thiết cho
sự biến đổi đó.
Như
vậy con người là một hiện-hữu trong một địa-vị và vị-trí nhứt định. Nhưng không
phải vì thế mà con người là một cố-định, vì sự có mặt cũa con người với thời-gian
nào đó; một trăm năm càng tốt, một đôi giờ cũng nên, rồi con người sẽ biến đổi.
Khi bỏ địa-vị và vị trí củ con người vẫn mang theo mình hậu quả của những nếp sống
ở những địa vị và vị trí trong cuộc đời quá khứ.
Vậây
khi không gian là một yếu-tố cần-thiết cho cuộc sống làm người, khi hiểu con
người như một cái “Có” đây; một hình-thái tương-giao và liên lạc trong những ảnh-hưởng
hổ-tương giữa người với người và người với vạn vật, bằng hành vi thay đổi địa-vị
và vị-trí.
Như
thế,mổi người còn là một “Cáù Thể”, vì với không-gian và thời-gian, mỗi người đều
biến-dổi. Con người biến đổi khi hoạt-động cũng như khi vô-vi, vì cả hai hoạt-động
và vô-vi đều thay đổi con người. Nói cách khác, con người đang có
đây là con người ở trạng-thái Động hay Tĩnh vì con người lúc nào cũng biến đổi.
Khi hiểu con người là một cái hiện-có, con người sẽ giàu hơn trong cả hai phạm-vi
chiếm-hữu và hiện-thể, vì sống làm người là sống tu-thân và chí-thiện.

Vì
cuộc đời là một cuộc biến-đổi không ngừng cho nên, tự nó chứng minh,
tự nó hiện-hữu, không cần phải sửa đổi nó cho hợp “lý’ hợp “tình”. Làm sao hợp
lý hợp tình cho được khi mà sự hiện-hữu của nó chỉ trong vài giờ hay 100 năm.
Mà “Lý” và “Tình” là gì? Là những ước-lệ của người muốn vậy. Vì lẽ có người nên
mới có Đời: Hai đối-thể nhưng có một thực tại. Vì có ước lệ nên Người muốn cho
Đời phải như thế nầy hay thế khác. Trong khi: “Đời chỉ là Đời, tự nhiên vậy đó
thôi. Cho nên mới có câu: “Nhân nguyện như thử như thử, Thiên-Lý nhi lai
nhi lai”
Thiên-Lý
là Cuộc Sống, mà Cuộc sống là Thực-tại”
Cho
nên, muốn nắm lấy cái Thực-Tại thì phải nhãy vào tâm-điểm của sự sống chớ đừng
lảng vảng ở vòng ngoài rồi sẽ bị sức ly-tâm làm ta chán-ván mê-hoặc
bởi nghiệp-lực quay tròn của bánh xe Tạo-Hoá mà Lão-Tử khuyên người đời phải biết.
“Thệ viết viển, viển viết phản” nghĩa
là “phải biết trở về với Bản-Thể Chơn-Như của sụ sống”
(Nếu
Bản-Thể của mình là Sự Sống mà mình chưa biết thì làm sao biết được việc lúc chết)
Đó
là lời dạy của đức Thánh Khổng rằng:”Dị tri sanh, yên tri tử”
Bây
giờ xin phát họa lại cuộc đời của con người rồi ta mới thấy: “Từ lúc một đứa
hài-nhi mới bước vào đời cho đến lúc trưởng thành; vì miếng cơm manh áo, vì
giang-sơn, xã-hội, nên con người đem tâm-thần phục vụ cho hoàn-cảnh
là điều bắt buộc, nhưng khi nhơn-đạo đã tròn mà vẫn còn bon-chen lận-đận
mải trên bến chợ chiều thì thật là uổng phí cho một cuộc đời..Vì
thế mà Thầy Trang-Tử khuyên:”Đừng lấy người giết Trời” (Vô dĩ Nhân
diệt Thiên) NHK (chương Thu-Thủy)
Nói
cách khác, hoàn-cảnh bên ngoài chỉ cốt là để hổ-trợ phụ-bật, duy-trì tinh-thần
bên trong. Cho nên người xưa cho rằng:”Đem tâm-thần vĩnh-viển để làm tôi tớ cho
vật-chất hình-hài là một lỗi lầm rất lớn” (Tâm vi hình Dịch - Dịch Khôn quãi)
Con Người từ đâu mà có?
Mãi
chạy theo vòng đời vật-chất để tạo danh tác lợi và quên rằng:”Thân nầy có đây
là do Tánh và Tình của Mẹ. Tánh và Tình có hoà-hiệp thì Âm-Dương Ngủ-Hành
mới vầy-kết để nên ngôi Thái-Cực, rồi nương theo hô-hấp của Mẹ là sinh-khí của
Trời-Đất mới tượng thai-bào.
Nên
Lão-Tử mới nói:”Người có tuân theo Đất, Đất có tuân theo Trời
Trời tuân
theo Đạo, Đạo có thuận theo Tự-Nhiên
Thì Đạo-Thể mới suốt
thông (ĐĐK, ch.25)
Cũng
như nói về Ngũ-Hành có luân-chuyển, Tứ-Thời có xây vần không ngừng nghỉ như cái
khoen không đầu không mối. Có vậy mới gọi là “Du hành bất tức”

Hoạt-động ở đây là những hành-động của mổi con người. Mỗi cá
nhân chúng ta sanh ra từ trong cảnh bần hàn hay trong địa vị giàu sang, nhưng
con người tự mình nắm lấy vận-mạng của mình, tự tìm đường thoát khỏi sức cám dổ
của dục-vọng. Như vậy sự sống của mỗi cá-nhân phải đi qua những giai-đoạn:
1/- Sống là đấu tranh - 2/- Sống là lựa chọn.
1/- Đấu-tranh để sinh-tồn, để tiến-hóa thì có khác nào một sự
tranh-đấu giữa:
- Một con hươu cao cổ và một con sư-tử trong bãi sa-mạc
- Với con hươu, chân phải cao, cổ phải dài
để vươn mình tới trước và ăn những lá cây, cỏ cao, nhưng
- Với con sư-tử, tánh-chất của nó phải lanh-lẹ mới có thể đuổi
bắt và giết chết thú vật khác để làm mồi mà
ăn.
- Đó là chưa kể đến những cuộc chiến-đấu một mất một
còn của hai loại vi-trùng củ mới trong cơ thể chúng ta.
- Ngoài ra còn biết bao nhiêu cuộc chiến-đấu vật lộn, biết
bao những thao-thức băn-khoăn giữa lý-trí và tình-cảm
trước khi quyết-định thi-hành một việc gì.
Như vậy, chúng ta không ngạc-nhiên
khi nghe nói:”Đời là môi trường tranh-đấu!”
2/- Nói đến đấu-tranh tức là nói đến lựa chọn một trong hai
điều, đúng hơn là nói đến một thái-độ dứt-khoát trong lẻ sống của cuộc đời.
Dứt-khoát
làm sao cho trắng ra trắng, đen thành đen trong cái vòng tương-đối; mặc dù có một
thái-độ lờ-mờ bao trùm cả trắng lẩn đen. Đó là một trong những giai-đoạn tạm bợ,
tính toán cho một lập trường hơn thiệt. Tuy nhiên cuối cùng, thái-độ ấy cũng vẩn
phải ở trong phạm-vi lựa chọn.
Cũng
như: - Một anh nông-dân, lựa chọn một thửa ruộng phì-nhiêu hơn,
-
Sự ghi tên vào một phân-khoa đại-học của một sinh-viên,
-
Sự lựa chọn một tôn-giáo cho cuộc đời lý-tưởng của mình.
Nhiều
khi ta tự hỏi: Tại sao lại có sự chấp thuận hay phủ-nhận một hiện-tại hiện-hữu?
Tất
cả những cái đó đều do một động-cơ thúc đẩy đưa ta đến một sự lựa chọn
của ý-thức phân-biệt, cái đó có thích-hợp hay không đối với sự sống còn của con
người mà thôi. Thật vậy, không ai có thể trút lên lưng người khác gánh nặng
trách-nhiệm của mình. Như vậy, tranh-đấu, giao-phong vào trận chiến không phải
để bám-víu vào một cuộc đời vật lộn không ngừng và không lối thoát, một cuộc đời
điểm-tô bằng những cái vô-vị hằng ngày, bằng những cái lo nghĩ bân-quơ không
đáng vào đâu; cũng không phải như kẻ ngày ngày cố lăn tảng đá cho đến chết mà
không thấy đó là một cái thất-bại hoàn-toàn. Thế nên, tham-chiến là thức-tĩnh
nhậân-chân trạng huống của mình là sáng-suốt đo lường cái hữu-hạn của con người
và như thế là nhận-thức cái tình cảnh chiến-bại cố-hửu của mình để chuyển bại
thành thắng. Như thế là, tự nhận cái số-phận hữu-sanh, hữu-diệt, để tự diệt mọi
cái sợ hãi trước tử thần.
Phải
dám từ chối cái đời sống giả-nhân, giả-nghĩa đừng tự dối mình bằng những hy-vọng
thấp hèn, mà phải: -
-
Sáng-suốt tự thấy cái bần cùng xơ-xác của mình,
-
Sáng-suốt tự thấy cái thái-độ nhắm mắt đưa chơn.
Làm
được như thế là ta đã đạt cái chân thật, là ta đã đặt chân lên con đường “Hướng
Thượng” là con đường “Ngược dòng về nguyên” .
Tôi
vừa thưa trình cùng Quí Vị giai-đoạn đầu của cuộc đời là giai-đoạn: “Xuôi ra cuộc
sống: hay là “Giai đoạn Phóng-Ngoại”. Con đường Phóng Ngoại là con đường đi ra
cuộc đời để chịu khổ sở gian-truân ngỏ hầu đền bù tội ác của kiếp quá-khứ và
cho đời hiện tại là biển khổ, cho xác thân là thù địch. Đó là quan-niệm tiêu-cực
của con người Tĩnh. Nhưng nếu có một cái nhìn bao-quát hơn và có một quan-niệm
tích-cực của con người Động thì ta sẽ thấy con người thật ra: Đã, Đang và Sẽ tạo
cho mình một lịch-sử rất ly-kỳ, lắm lúc cũng gặp nhiều truân-chuyên, nhưng cũng
hưởng nhiều vinh-hạnh. Thực-tế hơn là con người luôn luôn tiến-hóa.
Nói
đến tiến-hóa, tức là nói đến chiều-hướng và mục-tiêu của cuộc tiến-hóa đó. Một
cuộc tiến-hóa mà nhân-loại đã đi qua và sẽ đến. Dựa vào Dịch-Kinh và
Trung-Dung, Đức Khổng-Tử đã cho biết:
-
Căn-bản của nhân-quần là Trung-Tâm-Điểm của vòng Tròn là Trời.
-
Mục-phiêu của nhân-loại quần-sinh cũng là Trời, là Trung-Điểm.
Con
đường tiến-hóa của nhân-loại đi từ giai-đoạn thực-tiển là Trung-Điềm đến
Vòng-Tròn là đến giai-đoạn vật-chất mà khi đến hết giai-đoạn vật-chất thì con
người sẽ đến chổ bế-tắc là múc đầu đường, muốn khỏi tiêu-diệt lẻ tất nhiên con
người phải quay lưng lại với cuộc đời vật-chất để hướng về tinh-thần. Có hướng
về tinh-thần thì mới mong có hy-vọng Phục-Hồi (conversion) được ngôi vị củ.
Đi
vào con đường vật-chất, là con đường đi ra từ trung-điểm ra vòng ngoài, tức
là lạc-lõng vào bến chợ đời, tượng-trưng bằng vòng tròn, mải chen lấn
tranh đua nhau để mua danh bán lợi. Khi mà mặt trời xế ngả về Tây là cuộc đời bắt
đầu đen tối. Nếu con người biết sực tỉnh giấc mê để quày đầu trở lại
(Dégénération) tìm về ánh sáng.
Quày
đầu trở về ánh sáng là quày về hướng tinh-thần là đi vào con đường Phục-Sinh
(Rédemption, Régénération, Salut).
Cái
thời kỳ Hồi-Phục là thời-kỳ đen tối nhứt của cuộc đời mà Dịch-Học tượng-trưng bằng
giờ Tý (nửa đêm và bằng quẻ Khôn (hoàn-toàn vật-chất). Nhưng giữa cái đen tối
giao-thời ấy lại có một ánh sáng hiện ra. Cũng như,:
-
Giữa cái cảnh điêu tàn của nhơn-loại lại có cái mầm-móng tái-sanh hiện ra.
-
Sau cái cảnh phũ-phàng của nhân-thế, sau cái giờ phút chán-chê vật-chất, con
người hồi-tỉnh lại mà quày về với giá trị tinh-thần.
-
Dĩ nhiên giai-đoạn đầu làm sao tránh khỏi cảnh gian-truân, phong-trần
tân-khổ, nhưng chung cuộc, sớm muộn gì rồi cũng sẽ được hiển-vinh.
Tuy
nhiên, cần phải đi theo cho đúng con đường mà Tạo-Hóa đã vạch sẳn cho nhơn-loại,
nhưng kết-quả sẽ sớm muộn còn tùy ở sự giác-ngộ, tùy theo tốc-độ của trí-tuệ,
tùy theo công-phu tu-luyện, cho nên thời-gian trên trở nên co-giãn vô hạn-định.

-
Trái đất có lúc xa lúc gần mặt trời.
-
Nhơn loại cũng có lúc gần lúc xa Thượng-Đế.
-
Tạo-Hoá đã vạch sẳn cái vòng tiến-hóa từ muôn tuở cũng như cái vòng châu-luân của
trái đất và các vì sao, từ khi chúng vừa tạo-vựng. Cuộc tiến-hóa của con người
cũng như cái vòng tròn có hai chiều “Thuận và nghịch”
Theo
chiều Thuận là từ vô hình tiến ra hữu hình. Đó là chiều “Xuôi ra biển cả” là
chiều “Sanh” của vũ-trụ. Trên giai đoạn nầy, ta sẽ tìm ra những học hỏi, tạo dựng
vật-chất, tìm ra được nhiều ứng-dụng mới mẻ cho cuộc đời, nhưng dần-dà ta sẽ tiến
lên chổ phàm-phu tục-tử. Đó là 50 năm đầu.
Còn
50 năm sau của chu kỳ trăm tuổi ta phải theo chiều “nghịch” là từ hữu-hình trở
ngược về vô-hình. Đi chiều nầy ta sẽ tìm ra được Chơn-Lý tuyệt-đối
và tinh-hoa của nhơn-loại và dần-dà sẽ tiến tới bực Siêu-Phàm Thánh-Thiện.
-
Chiều Thuận là chiều SANH của Trời-Đất, là chiều “Nhứt Bản Tán Vạn Thù”
-
Chiều Nghịch là chiều THÀNH của Trời-Đất, là chiều “Vạn Thù Qui Nhứt Bản”
Theo
lẽ thường của Trời Đất thì có đầu rồi mới có đuôi, có thủy mới có chung, có
Dương rồi mới có Âm. Có Sống rồi mới có Chết. Riêng về con người nếu không áp dụng
định-luật Dương Âm Thủy-Chung thì cuộc sống, dọng đầu xuống đất mà
đi.
Nhưng
Dịch-Lý thì dụng ý nói nghịch lại: Âm-Dương - Tử-Sanh - Chung-Thủy.
Đó
là dựa theo sự biến-hoá vô biên của Trời-Đất để:
1/-
Xiển-Minh cái lẻ “Cùn tắc biến - Biến tắc Thông” để
2/-
Bày ra 2 chiều tiến-hóa xuôi ngược lại qua.
Đó
là đứng trên quan-niệm Lưỡng-Nguyên mà nói (Théorie dualiste de l’homme)
Còn
đứng trên quan-niệm Tam-Tài (Conception Dualiste de l’Homme)
Chúng
ta có thể tìm ra bổn-phận và mục-đích Chơn-Thật của con người là:
- Vì con người có Xác, có Hồn và có Thần
1/-
Vì có Xác (Matériel).- Nên ai ai cũng lo cho có Của có Tiền, Đủ Ăn, Đủ Mặc, có
một hoàn-cảnh vật-chất khả-quan mà trên hình-thức Đạo-Giáo gọi là “Vật-Đạo” hay
“Địa-Đạo”.
-
Đức Ramakhrishna cũng nói: “Kẻ bụng rổng không thể theo Đạo được”
-
Phương-ngôn VN cho rằng: “Có thực mới vực được Đạo”.
-
Vivekananda viết: Ngày nay, tôi tin chắc rằng không giúp cho dân chúng bớt
nghèo nàn thì giãng Đạo cho họ nghe vô ích
2/-
Bước sang phần Hồn (Âme).- Đạo-Giáo gọi là Nhơn-Đạo
Nhơn-Đạo dạy con người ăn ở làm sao cho hợp-tình hợp-lý, xứng
đáng với danh-nghĩa con người để mọi người cùng chung nhau sanh sống trong
tình-thương Huynh-Đệ Đại-Đồng, không còn ai bị áp-bức, lợi-dụng, bóc-lột nhau.
- Chúa Jésus, cả Đức Khổng-Tử
cũng như Thánh-Thư của Ấn-Độ-Giáo không hẹn nhau mà:
-
Đều đồng thanh kêu gọi mọi người phải thương yêu người khác như chính mình.
-
Đều chủ-trương:”Kỷ sở bất dục, vật thi ư-nhơn”.
Như
vậy, Nhơn-Đạo không xa lánh cuộc Đời, mà chính hằng lo lắng sao cho
xã-hội loài người mỗi ngày một trở nên hoàn-mỹ.
Sau
khi phần Xác và phần Hồn của mỗi con người đã làm xong trách-nhiệm sứ-mạng tại
thế của mình rồi
3/-
Bây giờ bước sang giai-đoạn thứ Ba là con người còn có Tinh-Thần
-
Đạo-giáo gọi đây là “Thiên-Đạo” là một lối sống hoàn-thiện phối-kết với Thượng-Đế.
-
Âu-Châu gọi đây là “Cuộc sống Huyền-Đồng” (vie mystique)
-
Khổng-Tử và Lão-Tử gọi là Phối-Thiên
-
Bà-La-Môn-Giáo gọi là “Sống Hiệp-Nhứt với Atman hay Thượng-Đế
-
Phật-giáo gọi là “Đáo-Bỉ-Ngạn” hay “Nhập Niết-Bàn”.
Theo
Thánh-Kinh của Công-Giáo gọi:
- Thiên-Đạo là thờ-phượng Thượng-Đế bằng Tâm-Thần, vì Thượng-Đế là
Thiên-Thần và Nhơn-Thần con người mới có thể tìm cầu ứng-hợp với Thượng-Đế.
Theo
Nho-Giáo:
Thiên-Đạo chính là Đạo Trung-Dung. Vì Nho-Giáo chủ-trương cần
phải tìm cho ra Thượng-Đế để làm trụ cốt, làm Tâm-Điểm cho hoàn-vũ và đem tâm-hồn
con người gạn lọc khơi trong để đạt tới tinh-hoa của nhơn-loại trở nên thuần-túy
chí-thiện..
Xuyên
qua ít nhiều dẩn chứng vừa nêu trên, để chúng ta có một chiều hướng suy tư hầu
lưu ý đến Bổn-Nguyên của mình, tìm cho ra từ Khởi-Thủy đến ngày Huờn-Nguyên.
Vì
trước khi đến thế-gian nầy để làm người, chúng ta đều phải xuất-phát từ chổ Khởi-Thủy
ấy không phải từ chổ nhục-thể của cha sinh mẹ đẻ mà từ một khối Đại-Linh-Quang
trong đức Háo-Sanh của Thượng-Đế. Các Tiểu-Linh-Quang từ khối Đại-Linh-Quang
phân thân xuống trần, rồi tùy theo nhiệm-vụ và sứ-mạng đã định của mỗi một
đơn-vị đến cõi dinh-hoàn nầy để làm công việc tiến-hóa trong đức háo-sanh.
Rồi
trải qua một giai-đoạn dài trên đường tiến-hóa, những Tiểu-Linh-Quang ấy ví như
khách lữ-hành từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc, đã thay đổi biết bao nhiêu lần
phương tiện để di-chuyển.
Đối
với những phương-tiện đó là thể xác của mổi kiếp sống, là mỗi giai-đoạn mà
linh-hồn đã mang nặng mỗi kiếp người ví như một mắc khoen trong sợi dây xích
dài vô-tận.
Thánh-giáo
trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ độ, Đấng Thiêng-Liêng thường nhắc:”Cõi đời
là chốn phù-du giả tạm. Đừng ai quá chấp Ngã rồi ôm chầm lấy nó để rồi tự hủy-hoại
bước đường tiến-hóa trong kiếp tái sanh”

Cũng
như: Cuốn vần A.B.C. không làm cho học-sinh trở nên hàng bác-học nhưng muốn trở
nên hàng bác-học, khởi-thủy phải trải qua cuốn vần ấy.
Những
vui buồn sướng khổ của kiếp sanh-tồn, con người phải chịu trong luật tuần-huờn,
là con đường tiến-hoá để giúp cho con người giác-ngộ để “Phản-Bổn Huờn-Nguyên”
là “Trở về nguồn cội của mình”.
Nguồn
cội của con người là Đại-Linh-Quang hay là Đạo. Vì Đạo đã tạo-dựng nên vạn-vật
mà Đạo và vạn-vật liên-hệ nhau từ lúc khởi-thủy sơ-sanh. Nói đến “Nguồn cội con
người” là nói đến cái “Lý Nhứt-Quán”. Mà muốn hiểu Lý-Nhứt-Quán thì phải hiểu
cái Sơ-Thủy của vạn-vật và con người rồi ta mới thấy rõ nghĩa Nhứt-Quán đó.
1/- Tỷ
như một rừng cây: Cả ngàn cây hình-dạng đều khác. Nếu nói hình-dạng
đều khác sao lại nói rằng”Sự vật tỷ như rừng cây?” Thật ra, muôn lá ngàn cây,
nhưng cái nghĩa Nhứt-Quán của nó nằm ở “chổ buổi đầu”. Vì buổi ban đầu, khi cây
mới mọc, từ cái hột đến cái mộng đều ngồng-ngoèo như cọng lá, muôn hột
đều như nhau. Đó là cái nghĩa Nhứt-Quán, vì tiền-thân của cái cây là
do cái “hột” và cái “mộng” ấy, nhưng cái giống nhau là cái “mộng”
2/-
Xin chứng minh thêm bằng một tỷ-dụ khác: “Con người mới sanh ra, tất cả người
nào cũng mình-trần thân-trụi, tai, mặt, đầu, mình, tay chơn, mắt, mủi
đều giống nhau. Nhưng sau khi trưởng-thành rồi, do tập-tục thói quen hay thất-tình lục-dục
ô-nhiểm, nên mỗi người khác biệt tâm-tình đổi thay y-phục.
Một
việc rất tầm thường, nhưng vì khinh-thường nên chẳng bận tâm lưu ý, do đó mà
làm mất hết ý-nghĩa Đồng-Nhứt của Nhứt-Quán, rồi mới coi ta khác người, người
khác ta, từ đó con người mất hết tình-thương, chớ kỳ thật, giữa hai người nam-nữ
hoà-hiệp nhau sẽ sanh ra muôn ngàn người.
Một
hột lúa, sanh ra cây mạ - Cây mạ sẽ trở thành cây lúa và cây lúa sẽ trổ bông -
Một bông lúa có cả trăm hột. Như vậy, chúng ta cùng chung một thể-chất là cùng
một “Điểm-Linh-Quang” thì nhơn-loại đều là anh em nhau cả. Cùng
chung một khởi điểm để rồi “Xuôi ra cuộc thế” nhưng thất-tình lục-dục che
mất cái “ánh-sáng của Đại-Đạo”, mà “Đại-Đạo thì bao giờ cũng bao-dung rộng mở,
như “Biển Cả” sẳn sàng đón nhận mọi giòng sông.
Vậy
thì, điểm then-chốt của bài viết của tệ đệ hôm nay là mong đợi Huynh
Tỷ chúng ta quên đi cái dị đồng, để cùng nhau đem cái tình-thương hạn hẹp để
“Ngược dòng về Nguyên”
NGỌC-HUỆ-CHƠN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét