Ðoàn Phú Tứ sinh ở Hà Nội, học ở Hà Nội và sống chủ yếu cũng ở Hà Nội. Nghiệp
chính của ông là sân khấu. Ông cũng có biệt tài viết kịch và diễn kịch.Về thơ,
Ðoàn Phú Tứ chỉ viết dăm bảy bài nhưng theo nhận xét của Hoài Thanh thì
"bài nào cũng có đặc sắc". Trong quyển "Thi nhân VN" chỉ
duy nhất "Màu thời gian" của Ðoàn Phú Tứ là được chọn bình một cách
trọn vẹn.
Ở BÀI
VIẾT NÀY, TÔI CHỈ XIN NÓI THÊM CÁI CHẤT HUẾ của "Màu thời gian". Nghĩ
cũng lạ: có bao nhiêu người làm thơ về Huế, nêu đủ các địa danh sông Hương, núi
Ngự... tả đầy đủ những cảnh đẹp, những đền đài, lăng tẩm... thế mà phần đông
trong số họ không nắm bắt được cái hồn xứ Huế. Ta rất khó tìm chất Huế trong
hàng loạt bài thơ ấy của họ. Trái lại, Ðoàn Phú Tứ không hề có ý định viết về
Huế, trong "Màu thời gian" không hề có một địa danh nào của Huế được
nhắc, không có một phong cảnh nào của Huế được tả, vậy mà đọc bài thơ ta cảm thấy
như tác giả đang nói đến cái màu tím Huế, đang viết về một mối tình ở Huế. Ngay
cách thể hiện tinh tế và kín đáo của Ðoàn Phú Tứ trong "Màu thời
gian" đã là Huế rồi. Vì Huế, đặc biệt là "nữ sinh Ðồng Khánh ngày
xưa" vốn nổi tiếng kín đáo và tinh tế. Tinh tế trong cảm nhận cái hay, cái
đẹp, kín đáo trong cách biểu hiện tình cảm. Các thi sĩ thường mê con gái Huế
chính là mê cái nét kín đáo và tinh tế ấy. Âm điệu trong "Màu thời
gian" rất nhẹ nhàng:
Âm điệu này cũng rất
gần gũi với Huế. Hiếm có nơi nào mà các cô gái nói năng nhỏ nhẹ như con gái Huế.
Cái mùi hương "thanh thanh" và "trời mây phảng phất nhuốm thời
gian" cũng rất Huế. Cả bài thơ như có một màn sương mỏng bao phủ. Nó cũng
huyền ảo như sương khói xứ Huế. Chất Huế trong "Màu thời gian" còn được
thể hiện qua giọng thơ trang trọng, cổ kính gợi nhớ về cố đô của thuở xa xưa:
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương.
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương.
Một vài điển tích
được kín đáo nhắc đến trong "Màu thời gian" nói về nàng Lý phu nhân
và Vua Hạng Võ, Dương Quý Phi và Ðường Minh Hoàng cũng góp phần làm cho
"Màu thời gian" phảng phất chất Huế. Các tích ấy khiến ta liên tưởng
đến lâu đài cung điện cùng những thiên tình sử nổi tiếng một thời ở Huế. Nhưng
chất Huế rõ nét hơn cả là cái màu thời gian tím ngát cả bài thơ.
Trong bức gửi cho
nhóm biên tập "Bài thơ thôn Vĩ" đề ngày 6/10/1986, Ðoàn Phú Tứ viết:
"Hai câu thơ cuối cùng của bài thơ "Màu thời gian" của tôi là:
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
Màu thời gian tím ngát
Tôi nghĩ rằng vô
tình nó đã ghi được những cảm xúc của tôi trước màu tím Huế của các cô gái sông
Hương vẫn vấn vít trong tâm hồn tôi". Ðoàn Phú Tứ không hề có ý định tả
cái màu tím Huế. Nhưng cái màu tím Huế cứ "vấn vít" trong tâm hồn tác
giả. Bởi vậy, khi cầm bút pha "màu thời gian", chính tác giả cũng
không ngờ mình đã chọn gam màu đặc biệt của xứ Huế. Chỉ Huế mới có cái màu
"tím ngát" ấy. Chẳng phải vô cớ mà màu tím gắn liền với Huế để thành
"tím Huế". Người ta không nói tím Hà nội, tím Nha trang, Sài gòn, Ðà
lạt... mà chỉ nói "tím Huế". Màu tím chẳng biết từ lúc nào đã trở
thành màu sắc riêng của xứ sở thơ mộng này.
Những gì đã góp phần
tạo nên cái màu tím Huế? Phải chắng là những buổi chiều trên cầu Bãi Dâu với "Chân
trời tím nhạt mênh mông, Ngã ba bồng bềnh sương khói"? Phải chăng là màu mực
tiếm của nữ sinh Ðồng Khánh thường dùng để chép những "trang thơ học
trò"? Phải chăng là những tà áo dài màu tím của những cô gái sông Hương ngầy
ấy vẫn "vấn vít" trong tâm hồn các chàng thi sĩ? Lúc mới đọc
"Bài thơ thôn Vỹ" - tập thơ viết về Huế trước 1945 gặp "Màu thời
gian" thú thực là tôi hơi ngạc nhiên. Nhưng đọc kỹ lại nhiều lần tôi thấy
nhóm biên tập thật có lý khi tuyển chọn. Tác giả "Thi nhân Việt Nam"
cho rằng: "Trong thơ ta có lẽ không có bài nào khác tinh tế và kín đáo thế".
Tôi xin bổ sung thêm: Có lẽ cũng ít có bài nào bàn bạc chất Huế như "Màu
thời gian" của Ðoàn Phú Tứ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét