Bạn bè thời trung học thỉnh thoảng gặp lại vẫn nhắc về nhau với
những nét tính cách không thay đổi của từng người. Chỉ có Chung là hiếm khi được
gợi nhớ trong ký ức những người bạn cũ. Có thể vì lâu nay ít ai được tin tức gì
của Chung, không biết chàng ở nơi đâu. Cũng có thể vì ngay từ thời cùng học,
anh đã tỏ ra xa cách với bạn bè.
Trong
lớp, Chung ngồi bàn đầu dãy bên phải gần cửa ra vào, bên kia là hai dãy bàn con
gái. Ngồi đó có thể nhìn ra sân trường, xa hơn là con đường chính băng qua phố quận
và bầu trời xanh trên cao. Nhưng chỗ ngồi đó thật “nguy hiểm” vì những động
tĩnh luôn dưới ánh mắt “theo dõi” của các thầy cô, nhất là dễ bị gọi lên bảng
trả lời câu hỏi hay giải đáp những bài toán khó, việc mà nhóm bạn “xóm nhà lá” ở
cuối lớp tìm cách tránh né.
Chung
đi học rất đúng giờ, lúc nào cũng áo sơ mi bỏ trong quần, nhưng luôn giữ một vẻ
thờ ơ, chểnh mảng với sách bài. Học cấp 2 hồi đó không phải mang nặng như bây
giờ, nhưng chúng tôi ai cũng có một cái cặp sờn cũ, còn Chung thì chỉ kẹp vài
cuốn vở trên tay, đủ để ghi bài từng buổi. Giờ ra chơi, chúng tôi tụ tập từng
nhóm tán đủ thứ chuyện, trong khi anh lang thang trong sân trường, thỉnh thoảng
mới ban cho chúng tôi một nụ cười thân thiện.
Một bữa
kia, khi đang tìm cách giảng cho chúng tôi hiểu được cách chia động từ bất quy
tắc, thầy N. nổi tiếng khó tính bỗng thấy Chung mắt nhìn ra ngoài cửa lớp mà
tay thì hí hoáy viết gì đó trên tờ giấy dưới hộc bàn. Không bỏ lỡ cơ hội, thầy
đến thẳng chỗ Chung với chứng cớ rõ ràng về người học trò lười biếng, làm việc
riêng trong giờ học. Không chối cãi, anh từ tốn đưa cho thầy tờ giấy trắng kẹp
giữa cuốn vở. Thì ra đó là một bài thơ viết dở dang của anh. Và thế là giờ học
Pháp văn trở thành giờ bình văn quốc ngữ mà đối tượng là bài thơ ấy.
Bao
nhiêu năm qua rồi, tôi không còn nhớ bài thơ ấy viết gì, ngoài câu đầu tiên
“Mây bay về núi hẩm hiu…”, nhưng tôi vẫn nhớ nụ cười chế nhạo của thầy giáo và
dáng đứng tiu nghỉu thật tội nghiệp của Chung. Hòa vào đó là những tiếng cười khoái
trá của cả lớp mỗi khi thầy giáo đọc một câu thơ kèm theo lời chê bai thật độc
địa. Bài học thầy giáo rút ra cho chúng tôi là đừng làm thơ vớ vẩn mà hãy lo học
tập chăm chỉ để lớn lên có nghề nghiệp tử tế và không bị đưa vào quân trường.
Từ đó Chung
nổi tiếng khắp trường là nhà thơ mang “vẻ buồn quận lỵ”, một nhà thơ “viễn mơ”
chưa gặp thời. Nhưng anh không tỏ ra oán giận thầy giáo và trách móc chúng tôi,
cũng không nản chí với thú vui làm thơ của mình, chỉ kín đáo hơn để thầy giáo
không phát hiện. Thật ra lớp chúng tôi đâu phải chỉ có mình Chung làm thơ.
Nhưng vì nhút nhát và thiếu tự tin, chúng tôi giấu biến những bài thơ vụng về
và non nớt của mình. Còn Chung, anh không thấy có gì phải sợ sệt khi truyền tay
những bài thơ của mình cho bạn bè, vì đó là tâm tình thật của anh.
Tết năm đó lớp
tôi làm báo xuân, Chung cũng gởi bài đóng góp; nhưng vì chịu ảnh hưởng những lời
nhận xét của thầy giáo, chúng tôi đã không chọn đăng bài của anh. Điều đó gây
ra một nỗi ân hận sẽ dày vò chúng tôi nhiều năm sau. Nhưng thật lạ, Chung không
hề giận chúng tôi, lại vẫn sẵn lòng rộng lượng chia sẻ với bạn bè những bài thơ
mới mà anh chép rải rác trên những tờ giấy rời sau này đóng thành một tập vở
riêng.

Sau ngày hòa
bình, bạn bè lớp tôi nhiều người thành đạt, làm những nghề khác nhau: quan chức,
doanh nhân, nhà giáo... Nhưng không có ai thành thi sĩ. Gần đây tôi biết Chung
cũng bỏ làm thơ lâu rồi, khi chữ nghĩa không còn đem lại niềm vui nữa. Anh lập
gia đình, làm nghề trồng cây kiểng và tác phẩm của anh bây giờ là những cây
bonsai đặt trong vườn nhà. Mỗi năm Tết đến, nhiều người đặt mua cây kiểng của
anh và thay cho những bài thơ, hoa lá trong vườn anh tỏa về đến những đường
quanh ngõ hẹp tận các xóm quê. Thật đáng tiếc, nếu hồi đó chúng tôi chịu khó chọn
vài ba bài trong tập thơ chép tay của Chung đăng báo in ronéo, thì bây giờ lớp
tôi còn lưu giữ một kỷ niệm êm đềm về người bạn khác thường đó. Điều duy nhất
mà Chung để lại cho chúng tôi là cảm giác rằng trên đời này có những điều tưởng
chừng “vớ vẩn”, nhưng lại khiến lòng ta nhớ tiếc biết bao.
(*) Lời trong ca khúc Hoa xuân của Phạm Duy.
Huỳnh Như Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét