Hát Trống Quân là hình
thức sinh hoạt ca hát giao duyên rất phổ biến ở các tỉnh đồng bằng và trung du
của Việt Nam, kể từ Thanh Hóa trở ra. Một số nơi có nghệ thuật Trống Quân phát
triển như ở Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, vùng ven H.Nội, Vĩnh Phúc và Phú Thọ.
Hát trống quân ở mỗi địa
phương có chút ít khác nhau về làn điệu, cách thức, thời điểm hát nhưng có đặc
điểm chung là cách thức hát xướng giống nhau, làn điệu gần giống nhau và sử dụng
một loại trống để đánh nhịp khi hát và đoạn “Lưu không” giữa những câu đối đáp.
Hát Trống Quân phổ biến ở Bắc
Bộ thường được tổ chức vào những tuần trăng tháng bảy, tháng tám âm lịch, ngoài
ra còn được tổ chức hát thi vào những ngày hội. Trong những ngày mùa, những người
thợ gặt ở nơi khác đến thường tổ chức hát với trai hoặc gái trong làng hoặc giữa
họ với nhau vào buổi tối, lúc nghỉ việc. Hát trống Quân thường được tổ chức
ngoài sân nhà hoặc ở bãi cỏ rộng, ở gần đình làng, giữa một bên là nam và một
bên là nữ.
Khi hát Trống Quân có trống
dẫn nhịp. Người ta còn gọi là trống này là “Trống thùng”. Trống thùng được cấu
tạo như sau: Hai cọc được cắm ở hai bên, một bên cọc là phe nam, một bên cọc là
phe nữ đứng (hoặc ngồi). Một sợi dây thừng được buộc vào hai cọc, chính giữa sợi
dây đặt một cái thùng, mặt rỗng úp xuống một hố đất nhỏ, mặt đáy trên sát sợi
dây. Người ta gõ vào đầu dây ở phía cọc, dây bật vào đáy thùng mà kêu thành tiếng.
Xưa kia, trống thùng làm bằng hai cọc tre cao khoảng 1 mét và một thanh tầm
vông gát ngang. Giữa thanh tầm vông người ta đặt một thanh tre vuông góc, một đầu
chống lên một miếng ván mỏng được đặt hờ trên một hố đất nhỏ. Khi đối đáp, bên
nào hát dứt câu thì đánh vào trống thùng (là phần dây nơi đầu cọc hoặc đầu
thanh tầm vông) để làm nhịp “Lưu không”, vừa để thúc giục phe bên kia hát đáp lại.
Về âm nhạc, Trống Quân là một
làn điệu gần với tiếng nói hơn. Vì lời ca là thơ lục bát và mỗi lần hát có thể
dài ngắn khác nhau, nên giai điệu biến đổi theo dấu giọng, Trống Quân lấy đối lời
làm chính và được diễn xướng ở tốc độ nhanh vừa, lời ca chỉ có vài tiếng đệm nhằm
phục vụ cho việc xây dựng giai điệu như: thời, có mấy, hời, ư, nầy, rằng…
Đoạn tiết tấu “Lưu không” của
hát Trống Quân:
♪♪|♪♬ ♪♪|♩
♪♪|♪♬ ♪♪|♩
hoặc
♪♪|♩ ♪♪|♩
♪♪|♪♬ ♪♪|♩
Trống quân
Có đám mây xanh
Trên trời (thời) có đám mây xanh
Ở giữa (thời) mây trắng (ấy)
Chung quanh mây bển vàng (ư…) – “Lưu không”
Ước gì (thời) anh lấy được nàng thì anh (này)
Mua gạch (ấy) Bát Tràng đem về xây (ư…) – “Lưu không”
Xây dọc (thời) anh lại xây ngang (chứ)
Xây hồ (thời) bán nguyệt (ấy)
Cho nàng chân rửa chân (ư…) – “Lưu không”
Nên chăng (thời) tình ái nghĩa ân
Chẳng nân (này) phi giả (ấy)
Về dân Tràng Bát Tràng – “Lưu không”
Trên trời (thời) có đám mây xanh
Ở giữa (thời) mây trắng (ấy)
Chung quanh mây bển vàng (ư…) – “Lưu không”
Ước gì (thời) anh lấy được nàng thì anh (này)
Mua gạch (ấy) Bát Tràng đem về xây (ư…) – “Lưu không”
Xây dọc (thời) anh lại xây ngang (chứ)
Xây hồ (thời) bán nguyệt (ấy)
Cho nàng chân rửa chân (ư…) – “Lưu không”
Nên chăng (thời) tình ái nghĩa ân
Chẳng nân (này) phi giả (ấy)
Về dân Tràng Bát Tràng – “Lưu không”
Dưới đây mình có bài “Hát Trống
Quân Người Việt” của anh Bùi Trọng Hiền sẽ dẫn giải giúp các bạn tham khảo thêm
chi tiết về điệu hát truyền thống này.
Đồng thời mình có 2 clips giới
thiệu các nghệ nhân, tài liệu, thể loại & cách chế tác loại nhạc cụ duy nhất,
“Trống Thùng”, được sử dụng trong Hát Trống Quân, cùng với 3 clips các bài Hát
Trống Quân để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
HÁT TRỐNG QUÂN NGƯỜI VIỆT
Bùi Trọng Hiền
Hát trống quân vốn là một
hình thức hát đối đáp trai gái của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ. Thời xưa,
chủ nhân khởi thủy của hình thức sinh hoạt nghệ thuật này là nam nữ chưa lập
gia đình. Trong sinh hoạt đó, họ bộc lộ tài năng thông qua nghệ thuật ứng tác bẻ
vần lời ca, nắn làn điệu nhạc. Bằng cách đó, trai gái có điều kiện tìm hiểu người
bạn đời tương lai của mình ở một tầng bậc cao hơn. Như thế, chức năng xã hội của
hát trống quân thuộc vào vòng sinh hoạt theo chu kỳ đời người, gắn bó mật thiết
với lứa tuổi trai gái tuần cập kê.
Hát trai gái là thể loại rất
phổ biến ở nhiều nền âm nhạc dân tộc. Từ xa xưa, con người đã biết tận dụng thế
mạnh của âm nhạc như một động lực quyến rũ tạo điều kiện thuận lợi cho trai gái
tìm bạn đời thông qua các sinh hoạt nghệ thuật cộng đồng. Nhìn chung, các thể
loại thường giống nhau ở hình thức sinh hoạt hát cặp đôi, có nghĩa 2 người nam
lần lượt hát đối đáp với 2 người nữ trong cuộc hát giao duyên. Tùy từng truyền
thống tộc người, hát trai gái có thể hát đồng giọng hoặc hát 2 bè đối tỷ.
Ở đây, sẽ thấy tính hợp lý của
việc hát cặp đôi trong sinh hoạt này. Thông thường, khi hẹn hò chúng bạn tụ tập
giao duyên, sự ngượng ngùng là tâm lý phổ biến của lứa tuổi thanh thiếu niên.
Không còn sự hồn nhiên của cái thủa đồng dao chơi đùa ngắt hoa đuổi bướm, việc
hẹn hò chúng bạn giờ đây đã mang một ý nghĩa mới mẻ, chịu sự chi phối đặc biệt
của trạng thái tâm sinh lý giới.
Bởi vậy, trong sinh hoạt
giao duyên, việc có bạn đồng giới hỗ trợ tương tác trở nên có ý nghĩa lớn lao,
như một chỗ dựa vững chắc cả về tinh thần cũng như nghệ thuật, giúp cho từng cá
thể tự tin hơn trong sinh hoạt cộng đồng nam nữ. Đó là đặc điểm phổ biến ở hát
trai gái các tộc người thiểu số, nhưng thể loại hát trống quân người Việt, điều
này lại không xảy ra.
Ở đây, cách thức sinh hoạt
hoàn toàn dựa trên cơ sở của hình thức đơn ca. Có nghĩa lần lượt từng cá thể sẽ
vào cuộc hát đối đáp trước sự chứng kiến của cộng đồng. Điều này được xem như sự
khác biệt cơ bản giữa hát trống quân và các thể loại hát đối đáp trai gái nói
chung. Liệu có phải so với các tộc anh em, trai gái Việt tự tin hơn trong sinh
hoạt giao duyên, hay đơn giản chỉ là sự lập định kiểu dạng nghệ thuật cho riêng
mình?
Cho đến nay, lịch sử đã ghi
nhận một vài kiểu dạng hát trống quân ở vùng châu thổ Bắc Bộ và một phần Bắc
Trung Bộ. Thường thì chúng ta vẫn nghe thấy trống quân gắn liền với địa danh
như Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thanh Hóa, Xuân Cầu, Đức Bác, Dạ Trạch… Nếu
xem xét kỹ lưỡng về mặt chức năng xã hội, có thể chia hát trống quân người
Việt làm 2 loại.
Hình thức giao duyên nam nữ:
là hình thức phổ biến nhất, có thể thấy ở nhiều vùng với sự tồn tại độc lập
trong các sinh hoạt cộng đồng.
Nghi thức trong tế lễ tín
ngưỡng: đây chính là trường hợp cá biệt của trống quân Đức Bác. So với hình thức
sinh hoạt trống quân phổ biến, hát trống quân ở xã Đức Bác (Lập Thạch, Vĩnh
Phúc) là một hiện tượng đặc biệt. Trên thực tế, hình thức hát này nằm trong một
quy trình diễn xướng lớn hơn, thuộc không gian văn hóa nghệ thuật hát xoan. Đó
là lễ hội khai xuân cầu đinh – lễ hội của người dân địa phương cầu
mong mưa thuận gió hòa, vạn vật sinh sôi nảy nở. Trong hình thức hát trống quân
này, các chàng trai Đức Bác bao giờ cũng hát đối đáp với các cô đào đến từ Phù
Đức (Kim Đức, Phú Thọ). Đây được coi như phong tục truyền đời, không có ngoại lệ
(1). Bắt đầu ngày hội, đám trai làng Đức Bác ra bờ sông đón đào xoan Phù Đức.
Khi đào xoan vừa xuống thuyền, các chàng trai xúm lấy vây quanh đeo vào cổ các
đào những chiếc trống nhỏ được chuẩn bị từ trước. Rồi cứ thế, họ vừa đi vừa
đánh trống, cùng nhau hát đối đáp từ bến sông về tới đình làng. Điệu hát có tên
gọi trống quân Đức Bác là bởi vậy.
Cho đến nay vẫn phổ biến một
số giả thiết về nguồn gốc của hát trống quân nói chung.
Thứ nhất, hát trống
quân, tục truyền, có từ đời Trần (TK XIII) vào thời kỳ lịch sử chống quân
Nguyên. Những lúc nghỉ ngơi, binh sĩ Đại Việt đã nghĩ ra cách giải trí là ngồi
thành hai hàng đối diện nhau gõ vào tang trống mà hát, cứ một bên hát xướng vừa
dứt thì bên kia lại hát đáp. Sau khi đã đánh đuổi quân xâm lược, điệu hát được
phổ biến trong dân gian miền Bắc…(2).
Thứ hai, hát trống quân
xuất hiện vào cuối TK XVIII. Khi vua Quang Trung tiến quân ra Bắc đánh đuổi
quân Thanh, để động viên binh sĩ và tạo sự thư giãn trong các đợt hành quân,
ông đã bày trò cho binh sĩ chia thành 2 tốp, một bên cải trang thành nữ để hát
đối đáp với bên nam, kèm theo trống đánh điểm nhịp lúc nghỉ cũng như lúc đi đường.
Về sau, lối hát này đã phổ biến ở hầu khắp vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ
(3).
Như vậy, dù gắn với giả thiết
nào, nguồn gốc của hát trống quân bao giờ cũng liên quan mật thiết tới binh sĩ
quân đội – tức gắn liền với những sự kiện chống ngoại xâm của dân tộc. Cũng có
thể nói, đó là một nguồn gốc mang đậm dấu ấn lịch sử Đại Việt.
Về thời gian diễn xướng, trống
quân Đức Bác (trống quân nghi lễ) do gắn liền với lễ hội khai xuân cầu
đinhvào dịp từ mùng 1 đến mùng 4-2 âm lịch, nên vài ba năm mới tổ chức một lần
(4). Khi đó, các hình thức sinh hoạt trống quân giao duyên lại diễn ra thường
xuyên vào nhiều dịp trong năm. Có thể chia các hình thức sinh hoạt hát trống
quân giao duyên nam nữ thành 2 loại.
Loại có tổ chức: bao gồm 2
hình thức sinh hoạt mang nặng tính chất thi thố đối đáp, dân gian gọi là nhữngđám
hát. Những đám hát trống quân thường chỉ được tổ chức vào buổi tối, rất hiếm
khi tổ chức ban ngày.
Hát lúc nông nhàn: xuân thu
nhị kỳ, vào những dịp nhàn rỗi sau vụ mùa thu hoạch, bà con nông dân thường tổ
chức hát trống quân ở trong làng. Các đám hát chọn những địa điểm rộng rãi, thuận
lợi như bãi đất trống dưới bóng cây đa đầu làng, ở ngã ba đường làng, bên điếm
canh đê hay sân đình, sân chùa… Những đêm trăng sáng, họ có thể tổ chức nhiều
đám hát cùng lúc. Các làng lân cận có thể đến tham gia. Đây là một hình thức
sinh hoạt mang tính thời vụ bởi nó phụ thuộc vào chu kỳ cây trồng
nông nghiệp.
Theo thời gian, lịch sử đã
ghi nhận, dịp thường thấy nhất của hát trống quân chính là những đêm rằm trung
thu. Ngoài ra, tùy từng vùng, người ta cũng có thể tổ chức đám hát vào tiết
xuân trong các dịp hội làng. Có ý kiến cho rằng, hát trống quân thường gắn với
đêm rằm trung thu bởi những quan niệm tín ngưỡng nông nghiệp (5). Về mặt khách
quan, cũng cần thấy rằng mùa thu trăng thanh gió mát, tiết trời thuận lợi hơn
mùa xuân mưa phùn ẩm ướt. Đó cũng là điều kiện thời tiết thuận lợi để người ta
có thể lập những đám hát.
Hát trong đám khao: đây là
hình thức sinh hoạt văn hóa nghệ thuật mang tính gia đình. Dưới thời phong kiến,
ở làng quê Việt Nam, khi có người được phong chức, phong sắc, lên lão… thường tổ
chức đám khao. Đó là dịp để người ta tổ chức vui chơi, sinh hoạt văn nghệ. Và,
hát trống quân là một trong những sự lựa chọn ở vùng quê có nhiều nghệ nhân tài
ba. Người ta tổ chức đám hát ở ngay tại sân nhà chủ. Những người hát hay, ứng đối
giỏi trong vùng được mời đến hát, gia chủ và dân làng cũng có thể tham gia. Tuy
nhiên, đây thường được coi là sân chơi của những người được xếp vào hàng nghệ
nhân nên giới bình dân ít khi dám tham dự. Bởi vậy, có thể coi hát trong đám
khao là lối hát trình diễn mang tính nghệ thuật cao nhất của sinh hoạt hát trống
quân. Và, gia chủ bao giờ cũng treo thưởng cho những người ứng đối tài giỏi nhất,
hát hay nhất.
Loại tự do: là những sinh hoạt
hát trống quân ở mọi lúc, mọi nơi, thuộc về những cá nhân đơn lẻ. Người ta có
thể hát khi đi cấy, đi làm cỏ, lúc nghỉ bên vệ đường… Hình thức sinh hoạt này
thường không mang nặng tính thi thố, mà phần nhiều là để giải trí. Đây thực sự là
một lớp học ngoài giờ lý tưởng cho đám trẻ có điều kiện học hỏi và rèn luyện
theo lớp người đi trước.
Về số lượng người hát, các cụ
kể rằng một đám có tổ chức, thường chỉ khoảng 4 – 5 người tham gia mỗi nhóm bên
nam và bên nữ. Tất nhiên phải là những người có trình độ nghệ thuật nhất định.
Hát hay nhưng nếu ứng đối lời thơ không nhanh nhạy hoặc ngược lại, ứng đối giỏi
nhưng không có chất giọng thì cuộc hát trống quân sẽ bất thành.
Mở đầu, một bên cử người đại
diện vào hát trước để chèo kéo bên kia vào cuộc. Khi cặp nam nữ đối đáp so tài,
tất có kẻ thắng, người thua. Và, bên nào thua sẽ thay người khác vào hát tiếp.
Như vậy, số lượng người tham gia mỗi bên không nhất thiết phải bằng nhau. Bởi nếu
một thành viên bên này đủ tài ứng đối thì rất có thể sẽ lần lượt đánh bại tất cả
thành viên bên kia và ngược lại. Mặt khác, nếu có một cặp hát ứng đối ngang
tài, ngang sức thì họ sẽ chiếm sân chơi lâu hơn, thậm chí có thể bao sân cả một
cuộc hát đến khi mệt thì thôi. Hiện tượng này không phải là hiếm, đặc biệt trong
các đám hát khao, sân chơi của những nghệ nhân tài danh trong một vùng.
Ở nhiều nơi, cũng phổ biến
vai trò cố vấn của một đôi người có trình độ ứng đối văn thơ. Có những đám hát,
mỗi nhóm mời hẳn một cụ đồ nho có uy tín giúp đỡ, gà bài tại chỗ. Họ có nhiệm vụ
mách nước giúp các chàng trai, cô gái thoát khỏi thế bí, khi đối phương ra bài
đối hóc hiểm. Điều đó càng khiến cho sức hấp dẫn của đám tăng lên bội phần. Ở
nhiều vùng, khi các đám hát trống quân phát triển tới quy mô lớn, mang nặng
tính chất thi thố thì làng thường phải lập ra một ban giám khảo để giám định cuộc
chơi. Giải thưởng có thể là đôi ba vuông lụa hay mấy gói chè thuốc… mang tính
khích lệ hơn là giá trị vật chất. Bởi danh dự nghệ thuật là niềm tự hào trong mỗi
cộng đồng.
Như vậy, có thể thấy hát trống
quân giao duyên đã có bước chuyển tiếp quan trọng, từ một sinh hoạt văn nghệ
dân gian mang tính thực hành xã hội là giao duyên nam nữ đã phát triển
vượt tầm để trở thành một thú chơi nghệ thuật của người dân lao động. Ở giai đoạn
sau, theo thời gian, tính thực hành xã hội ngày càng mờ nhạt. Do những đặc tính
nghệ thuật đã tiến tới cấp độ cao, nên hát trống quân đòi hỏi những người tham
gia phải có một trình độ nhất định. Ngoài giọng hát hay đủ độ chín muồi, họ còn
phải có khả năng chuyển làn bẻ điệu và có vốn sống đủ để ứng đối thơ ca.
Để đạt được những tiêu chuẩn
này, một người trung bình ắt phải trải đời tới độ trên dưới 40 tuổi. Bởi vậy,
trong các đám hát trống quân có tổ chức, người chơi được xác định là những tài
năng đại diện cho cộng đồng, được coi như một nghệ sĩ dân gian thực thụ. Khi
đó, các nam thanh nữ tú sẽ chủ yếu đứng chầu rìa, tham dự với mục đích thưởng
thức và học hỏi là chủ yếu. Có chăng, họ chỉ dám hát ở ngoài đồng hay hát chơi
trong phạm vi hẹp mà thôi. Khi ấy, những đám hát trống quân chỉ còn là dịp, là
cớ cho nam nữ tụ tập vui chơi tìm hiểu nhau, tức làsự giao duyên khi đó đã
nằm ngoài chứ không ẩn chứa bên trong cuộc chơi. Do đó, việc nam nữ thực sự tìm
bạn đời thông qua câu hát trống quân có lẽ chỉ thấy ở hình thức sinh hoạt tự
do.
Về mặt nghệ thuật, các hình
thức sinh hoạt trống quân giao duyên có tổ chức bao giờ cũng đi đôi với việc sử
dụng một nhạc cụ độc đáo, đó là cái trống quân.
Khi làng lập đám hát, việc đầu
tiên phải làm là dựng trống (bắc trống). Trước hết, phải chuẩn bị một sợi dây
mây tươi dài khoảng 4,5 – 5m, hai chiếc cọc tre hoặc gỗ dài chừng 35 – 40cm, một
thùng gỗ (hoặc sắt tây) có đường kính từ 35 – 45cm, cao khoảng 45 – 50cm và một
cái nạng gỗ (làm bằng chạc cây) cao chừng 12 – 15cm.
Khi bắc trống quân, người ta
ngâm sợi mây xuống nước sao cho nó đạt tới độ mềm dẻo cần thiết rồi đập dập 2 đầu
dây và buộc chặt vào 2 cái cọc. Dưới đây là cách buộc dây phổ biến.
Tiếp theo, người ta căng sợi
mây ra và đóng lút 2 đầu cọc xuống nền đất rắn. Họ phải tính toán làm sao để
khi kéo sợi dây mây gác lên nạng gỗ đặt trên cái thùng, nó phải đạt một độ căng
tối đa để đảm bảo tiếng vang của trống quân.
Ở chính giữa sợi dây mây,
người ta lật úp cái thùng gỗ xuống đất, miệng thùng được chêm cách đất để tạo
khe thoát âm. Sau đó đặt cái nạng gỗ lên chính giữa đáy thùng và căng sợi dây
mây lên đó. Cái thùng có vai trò như bầu cộng hưởng còn chiếc nạng là ngựa
đàn.
Khi diễn xướng, 2 người hát
bên nam và bên nữ bắc nghế ngồi chéo nhau quay mặt vào chỗ chiếc thùng gỗ. Đến
phiên ai hát thì người đó dùng dùi gõ vào đoạn dây mây ở gần nạng gỗ, trống sẽ
phát ra những âm thanh không xác định cao độ, sắc thái hơi giống với tiếng trống
da loại nhỡ, nhưng nghe nhỏ và đanh hơn.
Tùy vào truyền thống từng
vùng mà trống quân có những sự thay đổi nhất định về cấu tạo. Chẳng hạn có thể
không cần dùng nạng chống mà căng thẳng dây mây lên mặt thùng.
Có nơi, người ta đào hẳn một
hố sâu làm thùng cộng hưởng. Trên bề mặt hố, người ta đặt ván gỗ hay một chiếc
mâm đồng và ngựa đàn lúc này làm bằng một que chống khá dài.
Ngoài ra, từ đầu TK XX, người
ta thường dùng dây thép hay dây đồng thay cho dây mây. Cá biệt, có nơi thay cho
dây đàn, người ta còn dùng một thanh tre dài chừng 4 – 5m, gác 2 đầu lên đầu 2
chạc cây. Giữa thanh tre đó, người ta buộc lạt tre (hoặc dây mây) vít thanh tre
xuống miếng ván mỏng được cố định trên miệng hố.
Nói chung, đây là những dạng
cấu tạo trống quân phổ biến nhất đã được nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận (6). Có
thể thấy, cái trống quân do được tạo dựng trên mặt đất nên nó còn có tên nôm
là trống đất. Xin nhắc lại rằng, nhạc cụ này chỉ dùng trong hình thức trống
quân giao duyên nam nữ, còn trong hình thức trống quân nghi thức tín
ngưỡng (trống quân Đức Bác), nhạc cụ chỉ là những chiếc trống da bò loại
nhỏ. Người ta chơi trống bằng 2 dùi và không gọi đó là trống quân. Điều đặc
biệt ở trống quân Đức Bác là chỉ có bên nam đánh trống và chiếc trống da luôn
được đeo vào cổ bên nữ (7). Vì thế, đôi nam nữ luôn phải quấn quýt bên nhau
trong quá trình diễn xướng từ bến sông về đình làng.
Theo cách phân loại ngày
nay, có thể xếp trống quân vào loại nhạc cụ họ dây, chi dùi gõ. Còn người xưa
có lẽ căn cứ vào phương pháp kích âm dùi gõ mà coi nó như một loại trống. Điều
thú vị ở đây là tên gọi của thể loại đồng thời là tên gọi của nhạc cụ mà thể loại
gắn bó. Hát trống quân giao duyên gắn liền với cái trống quân, bởi vậy có thể
xác định, trống quân là một nhạc cụ mang tính chuyên dùng.
Ngoài chức năng giữ nhịp và
tạo âm nền tiết tấu đệm cho giọng hát, trống quân còn được dùng để đánh dấu sự
phân ngắt giữa các câu thơ, giữa các trổ hát. Bên cạnh đó, nó còn khỏa lấp chỗ
trống khi người hát chưa kịp nghĩ ra lời ca tiếp theo. Dưới đây là một số mô
hình tiết tấu phổ biến của trống quân:
Lời ca của hát trống quân
xưa, có câu:
Trống quân anh đánh nhịp ba
Khi vào nhịp bảy khi ra nhịp mười
Khi vào nhịp bảy khi ra nhịp mười
Cũng giống như khái niệm nhịp một,
các khái niệm nhịp ba, nhịp bảy… được dùng đơn thuần để chỉ số lượng
âm thanh trong mỗi mô hình tiết tấu trống quân.
Đây là quan niệm phổ biến
trong nhiều thể loại âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Nó khác hẳn với quan niệm về nhịp trong
nhạc Tây phương.
Về cấu trúc, mỗi lượt hát đối
(hay đáp) được coi như một trổ. Mỗi trổ hát gồm ít nhất 2 cặp thơ lục bát.
Những trổ hát dài nhất thường chỉ tới 12 đến 14 cặp thơ là cùng. Điều này là
phù hợp với tâm sinh lý của người trình diễn và tính chất của thể loại. Bởi nếu
một trổ hát quá dài thì bạn diễn khó có thể nắm bắt kịp mọi chi tiết nội dung
mà ra bài ứng đối, và đám hát sẽ bị nghiêng về tính chất độc diễn.
Với các hình thức diễn xướng
có tổ chức, người ta bao giờ cũng chia một đám hát trống quân thành nhiều chặng,
với những chủ đề nội dung đặc trưng. Tuy mỗi vùng một kiểu nhưng nhìn chung,
các quy trình diễn xướng trống quân đại thể thường biểu hiện cấu trúc kiểu mở
đầu – tiếp diễn – kết thúc với tính lề luật khá cao. Có thể thấy ở trình tự: hát
lập đám (hát chào), hát vận, hát giao hẹn, hát mời nước, hát mời trầu, hát
huê tình, hát họa, hát đố, hát thách cưới, hát kể truyện.., kết thúc bằng hát
chia tay.
Mở đầu, xen giữa hay kết
thúc các trổ, các phần, người ta thường sử dụng các làn điệu dân ca khác của
người Việt như hát ví, cò lả, sa mạc… làm phần kết nối. Chúng có tác dụng như
những đoạn chen khiến cho tính nghệ thuật của đám hát thêm phong phú, làm cuộc
chơi thêm hấp dẫn. Mặt khác, đặc điểm đó cũng đòi hỏi người trình diễn buộc phải
có khả năng bẻ làn, nắn điệu. Đó là một năng lực nghệ thuật phải được rèn luyện
theo thời gian.
Về lời ca, các làn điệu hát
trống quân thường dùng thể thơ lục bát, lục bát biến thể hay song thất lục bát.
Nói chung, các vần thơ chủ yếu được phổ theo kiểu xuôi chiều, tức các câu thơ
khi chuyển thành lời ca được bảo lưu trật tự các từ trong câu. Riêng trường hợp
trống quân Dạ Trạch có đặc điểm ngoại lệ: câu lục mở đầu và câu bát kết thúc mỗi
trổ hát có hiện tượng thay đổi cấu trúc lời thơ. Có thể coi đó như một nét độc
đáo của riêng thể loại trống quân nơi đây.
Cụ thể, câu lục mở đầu mỗi
trổ bao giờ cũng bắt đầu bằng cụm từ thứ 3-4-5- 6, sau đó mới xuất hiện cả câu
đầy đủ. Ví dụ:
Lời thơ:
Tháng bảy anh cắm nhành đa
Khi hát thành:
Anh cắm nhành đa, tháng bảy
anh cắm nhành đa
Sơ đồ cấu trúc lời ca của
câu lục sẽ là:
3-4-5-6/ 1-2-3-4-5-6.
Hiện tượng này được coi như
một sự nhấn mạnh vào cụm từ 3-4-5-6, chúng tôi tạm gọi là thủ pháp nhấn từ.
Đây được coi như một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt. Thủ pháp này đôi khi cũng gặp
ở hát trống quân phổ biến. Tuy nhiên, nó không trở thành một hiện tượng mang
tính quy luật như ở trống quân Dạ Trạch. Ngoài ra, chúng ta cũng còn gặp thủ
pháp nhấn từ ở nhiều thể loại nhạc cổ truyền Bắc Bộ khác nữa.
Với câu bát kết thúc mỗi trổ
hát trống quân Dạ Trạch, hiện tượng nhấn từ lại xảy ra ở từ thứ 8. Ví dụ:
Lời thơ:
Hay là nàng bỏ chốn này nàng
đi
Khi hát thành:
Hay là nàng bỏ chốn này, đi
nàng đi
Cấu trúc sơ đồ lời ca câu
bát là:
1-2-3-4-5-6/ 8-7-8.
Thủ pháp nhấn từ nêu trên được
coi như quy luật cấu trúc lời ca của mỗi trổ hát trống quân Dạ Trạch. Nghệ nhân
ở đó thường gọi các câu bát kết thúc mỗi trổ hát là câu đổ. Đó cũng chính
là dấu hiệu báo kết trổ để bạn hát đối đáp chuẩn bị nhập cuộc, tiếp nối. Đối với
thể loại trống quân phổ biến, dấu hiệu kết trổ chỉ đơn giản là sự ngưng nghỉ của
người hát với những chùm tiết tấu của dùi gõ đơn thuần. Riêng trong trống quân
Đức Bác, dấu hiệu ngắt trổ lại là câu hát cố định kìa hỡi a trống quân (8).
Về nội dung lời ca, do bản
chất của hát trống quân là hình thức hát đối đáp trai gái, nên tình yêu nam nữ
vẫn là chủ đề nổi bật nhất. Nó biểu hiện ngay từ cách xưng hô: anh – em, chàng
– nàng, ta – mình giữa các cặp hát. Thế nhưng cần phải thấy rằng, chủ đề tình
yêu nam nữ ở hát trống quân nói chung chỉ được xác định như một chất xúc tác
nghệ thuật. Bên nam và bên nữ đối đáp thi thố đơn thuần (hoặc phục vụ tín ngưỡng)
chứ không hề có tình ý gì khác.
Bên cạnh tình yêu, nội dung
lời ca còn đề cập đến những chủ đề ca ngợi thiên nhiên, đất nước cũng như cuộc
sống lao động của con người. Với thể loại hát trống quân giao duyên, người ta
còn đề cập đến các điển tích văn học hay tích cũ như Truyện Kiều, Chinh phụ
ngâm, Nhị độ mai, Tần cung oán… Ở đây, không thấy xuất hiện những chủ đề mang
tính thời sự đả kích, châm biếm xã hội… như kiểu hát xẩm. Đặc biệt, với bản chất
thể loại đối đáp, các chủ đề nội dung nhất thiết phải được sắp đặt thành hai phần
đối – đáp cân xứng, từ số lượng câu thơ mỗi trổ cũng như nội dung tương ứng.
Về kỹ thuật thanh nhạc, hát
trống quân thường được trình diễn bằng lối hát dân dã tự nhiên, không thấy phổ
biến những kỹ thuật thanh nhạc đặc trưng của cổ nhạc Việt như rung giọng, nảy hạt.
Đôi khi người ta còn có cách nhả chữ gần với giọng nói. Điều đó là hợp lý với một
loại hình nghệ thuật dân gian có tính phổ quát cao.
Về giai điệu, như nhiều thể
loại nhạc cổ truyền khác, giai điệu hát trống quân cơ bản được vận hành trên
hàng âm ngũ cung với mối tương quan kiểu thang âm Bắc của người Việt. Điều đặc
biệt ở đây là sự tồn tại của 3 loại làn điệu trống quân khác nhau hoàn toàn về
giai điệu: trống quân phổ biến, trống quân Dạ Trạch, trống quân Đức Bác.
Trong 3 loại làn điệu trống
quân trên, 2 làn điệu Dạ Trạch và Đức Bác thuộc vào loại giai điệu khu biệt
trong mỗi địa danh. Còn làn điệu trống quân phổ biến thì thấy có ở hầu khắp các
vùng miền Bắc. Sự khác biệt giữa các làn điệu này là rất rõ, chẳng hạn, với
cùng một lời thơ, trống quân Dạ trạch và trống quân phổ biến sẽ hát khác nhau:
Cũng như những thể loại dân
ca thuộc kiểu dạng làn điệu, hát trống quân có thể sử dụng bất cứ câu thơ lục
bát nào làm lời ca. Nghệ nhân thường gọi đó là thủ pháp vận thơ. Điều đó
có nghĩa làn điệu trống quân có cấu trúc giai điệu mở với nhiều sơ đồ
âm điệu khác nhau vận hành ứng với những sơ đồ thanh điệu câu thơ khác nhau. Vì
thế, có thể xếp hát trống quân vào loại những làn điệu hát – ngâm thơ lục
bát tiêu biểu của người Việt, trong đó mỗi làn điệu là một tập hợp những
sơ đồ âm điệu khác nhau biến hóa theo từng cấu trúc lời thơ. Nó được xem như đối
lập với cấu trúc ca khúc dân gian, vốn có đường tuyến giai điệu tương đối định
hình, kiểu hệ thống các bài lý hay dân ca quan họ. Như thế, hát trống quân thuộc
vào dạng làn điệu có cấp độ dị bản lớn.
Trong các làn điệu trống
quân, làn điệu trống quân phổ biến được các nghệ nhân xẩm và chèo du
nhập vào kho tàng bài bản của họ với sự nắn điệu, biến báo ít nhiều. Khi
đó, giai điệu trống quân được đệm bằng cơ cấu dàn nhạc chuyên nghiệp. Các nghệ
nhân xẩm thường dùng trống quân như một làn điệu hát kể chuyện. Có thể coi đó
như một bước chuyển tiếp quan trọng của hát trống quân từ một điệu hát đối đáp
dân dã trở thành một làn điệu nhạc dân gian chuyên nghiệp.
Chú thích:
1, 4, 7, 8. Thông báo khoa học,
Viện Âm nhạc, số 9-2003.
2. Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, tr.581.
3. Xem Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội, 1941.
5. Trần Việt Ngữ, Hát trống quân, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002, tr.31.
6. Trần Việt Ngữ, Hát trống quân, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002.
2. Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, tr.581.
3. Xem Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội, 1941.
5. Trần Việt Ngữ, Hát trống quân, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002, tr.31.
6. Trần Việt Ngữ, Hát trống quân, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002.
Trống quân dạ trạch
Giới
thiệu các nghệ nhân, tài liệu & HTQ
HÁT TRỐNG QUÂN DẠ TRẠCH - HƯNG YÊN
Giới thiệu nhạc cụ
Trống quân mời trầu
Trống quân thách cưới
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét