(Nguyễn Du, Trần Trọng Kim,
Tản Đà, Hoài Thanh, Hàn Mạc Tử, Huy Cận, Xuân Diệu, Ngân Giang Nữ Sỹ, Hồ Dzếnh,
Phạm Hầu, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Tuệ Sỹ; Lý Bạch, Shakespeare; Thơ, Dịch,
Tư tưởng và thi ca).
LỜI TỰA CỦA BÙI GIÁNG
Đi vào cõi thơ theo lối ngẫu
nhiên tao ngộ. Cơ duyên sẽ dun dủi… Chẳng nên gò ép cưỡng cầu.
Người viết sách này có dụng
tâm không sắp đặt theo thứ tự thứ loại thường thấy. Những bài thơ đến rồi đi. Lời
“nhận định” cũng đi rồi đến…
NGUYỄN DU(*)
I/ Nguyễn Du cũng như Camus,
lúc nào linh hồn ông nói đúng tiếng nói của hồn ông, thì lời thơ biến ra làm
thơ phong cảnh.
Điều nên lưu tâm là: phong cảnh
Nguyễn Du tuyệt nhiên không liên can chi tới loại thơ phong cảnh của bọn chuyên
môn tả thực.
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà
sang xuân.
II/ Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang
xuân…
Những câu thơ đẹp thiên hình
vạn trạng, Nguyễn Du đã dành riêng cho Thúc Sinh một bồ rất lớn.
Mày xanh trăng mới in ngần
Phấn thừa hương cũ bội phần
xót xa…
Lưu tâm tới những vần riêng
biệt Nguyễn Du dành riêng cho Thúc Sinh, ắt ta sẽ nhận ra một ngụ ý sâu thẳm của
Nguyễn Du. Người ta sẽ không xô bồ đứng trên quan điểm tâm lý học để bảo rằng
Nguyễn Du đã tả được linh động một nhân vật nhu nhược, sợ vợ, hèn nhát, v.v…
Hình ảnh Thúc Sinh sẽ đứng tại
Trung tâm cái vùng tư tưởng thăm thẳm của Liệp Hộ, mà Dịch Kinh sẽ
chiếu cố tới bằng những tiếng chả hạn như: “Nhứt tịch nhứt hạp vị chi Biến,
Vãng lai bất cùng vị chi Thông…”
Hoặc: “Phù kiền thiên hạ chi
chí kiện dã. Đức hạnh hằng dị trĩ tri hiểm. Phù khôn thiên hạ chi chí thuận dã.
Đức hạnh hằng giản dĩ tri trở…”
Hoặc: “Nguy giả, an kỳ vị giả
dã. Vong giả báo kỳ tồn giả dã. Loan giả hữu kỳ trị giả dã. Thị cố quân tử an
nhi bất vọng nguy, tồn nhi bất vọng vong, trí nhi bất vọng loạn…”
Vân vân vân vân. Và mọi thứ
vân vân đều có thể lược giảm về một tiếng đơn sơ “vô khả, vô bất khả”.
Riêng một sự nhầm lẫn dị thường
của học giả bấy nay về Thúc Sinh, đủ khiến chúng ta kinh dị hãi hùng, chẳng còn
biết ăn nói gì ra gì được cả. Chẳng còn biết phải đặt vấn đề từ đâu ra đâu.
(Đã như vậy, còn biết rớ vào
đâu mà bừa bãi nêu câu hỏi về Shakespeare, Homère, Lý Bạch, vân vân?)
Cái cuộc Kim Kiều dễ hiểu.
Cuộc Từ Hải Kiều, cũng không rắc rối gì lắm. Nhưng cái cuộc Thúc Sinh Kiều, Hoạn
Thư Kiều, lại là cái cuộc hàm hỗn gây náo động nhiều nhất trong tác phẩm Nguyễn
Du.
Đừng nói chi xa xôi. Chỉ thử
hỏi: - Riêng cái việc Kiều tắm hoa trong một mùa Hè, lúc lửa lựu lập lòe đơm
bông ở đầu tường, riêng cái việc cô Thúy tắm thôi, đã có gì như một “biến cố”
hãi hùng, đến nỗi Nguyễn Du đã phải để chàng Thúc vịnh vào chỗ đó, bằng một bài
Đường Thi – nghĩa là bằng cả lịch sử thi ca Trung Quốc? Đem cả một khối lịch sử
kia về mở đối thoại với cái tòa thiên nhiên dày sẵn đúc kia, Nguyễn Du có dụng
ý gì? Và từ đó Thiên Nhiên (Phusis) đã thành Tượng?
Người ta sẽ xô bồ đáp một
cách nông nổi rằng: - Nguyễn Du chả có đặc biệt dụng ý gì hết cả. Ông phỏng
theo truyện Tàu, trong truyện Tàu có bài thơ vịnh Kiều tắm, thì ông Nguyễn Du
cũng nhắc qua loa cái chuyện Thúc Sinh vịnh Kiều tắm đấy thôi. Hỡi ôi! Nếu xét
cho cùng kỳ lý, thì trong truyện Tàu lại còn tỷ mỷ ghi chép bài thơ nảy lửa nọ
ra:
Dạ nguyệt thanh lâu đảo ngọc
hồ
Mỹ nhân thừa túy khiết cù du
Băng cơ thỏ phách tranh minh
mỵ
Tuyết thái hoa âm bán hữu vô
Sở khởi đái tu hô bạn thức
Dạ hành hàm tiếu thiến nhân
phò
Lâm ty khoái nhập phù dung
trướng
Chẩm thượng đê thanh xướng
chá cô….
Bây giờ chúng ta nghĩ sao?
Có phải rằng bấy lâu nay những lời bàn tán của chúng ta về Nguyễn Du, chẳng qua
chỉ là tán hươu tán vượn? Nếu có đúng chăng nữa, thì cũng phải nên trả hết những
lời ấy về cho truyện Tàu của Thanh Tâm Tài Nhân?
Nếu câu hỏi não nùng ra như
thế, bỗng nhiên chúng ta chạm phải một ẩn ngữ không cách gì trực tiếp giải đáp.
Trong truyện Tàu, quả thật
Thanh Tâm Tài Nhân đã có dành cho cặp Thúc Sinh Thúy Kiều một chỗ nằm ngồi rộng
rãi tình tứ miên miên. Há đâu phải đợi tới ông Nguyễn Du mới có!
Kiều tiễn Thúc Sinh đi, đề
mười bài miên man những tán thán “Kim tịch thi hà tịch?” những thở than “Vấn
quân hà nhựt tái quy đầu? Bất tri hà nhựt thị quy kỳ?”, Chiêm vọng hương quan
hà xứ thị?”…Thúc Sinh đi rồi, Thúy Kiều nằm trong giường mê man hoài niệm ngâm
vịnh sáu bài trùng trùng điệp điệp những “Tự quân chi xuất hỹ”, những “Bất cảm
thượng thanh lâu”, những “Bất ngôn diệt bất ngữ”, những “Vô nhựt bất nam tư”,
“Tư quân quân bất chí…” vân vân…
Những lời nồng nàn cháy bỏng
máu me liên tồn thốt ra như thế, quả thật không còn coi trời đất ra gì. Chúng
ta không dám nấn ná ở lại lâu. Ở lại lâu trong bầu khí hậu đó, ắt sẽ loạn mất
tâm thần, tiêu ma tinh thể, còn đâu bình tĩnh sáng suốt mà nhận định đâu vào
đâu để bàn tới dụng ý ông Nguyễn Du hay là dụng tâm của ông Du Nguyễn. Xếp lại
mọi thứ đó, câu hỏi được nêu thành chất vấn như sau: “Cả ông Nguyễn Du, cả ông
Thanh Tâm Tài Nhân, cùng có dụng tâm dụng ý gì, mà lại tả cái cuộc Thúy Kiều
Thúc Sinh một cách não nùng thiết tha như thế?”
III/ Từ rằng: ân oán hai bên
Mặc nàng xử quyết báo đền
cho minh
Nàng rằng: nhờ cậy uy linh
Hãy xin báo đáp ân tình cho
phu
Báo ân rồi sẽ trả thù
Từ rằng: việc ấy để cho mặc
nàng
Hai lần Từ Hải dùng tiếng “mặc
nàng”. Để cho mặc nàng. Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh.
Rồi Từ Hải im lặng suốt buổi.
Trong cơn im lặng, Từ Hải đã nhìn thấy Kiều chẳng minh mẫn gì hết. Nhưng không
hề gì. Điều trầm trọng là cái tiếng “mặc nàng” Nguyễn Du đã để cho Từ Hải thốt
lúc bấy giờ.
Hai tiếng “mặc nàng” đó ngày
sau sẽ quyết định cuộc đầu hàng của Từ Hải. Việc bây giờ để cho mặc nàng, thì mọi
việc về sau cũng sẽ để cho mặc nàng quyết định.
Nghe lời nàng nói mặn mà
Thế công Từ mới đổi ra thế
hàng
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường
giải binh
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng.
Nguyễn Du dùng tiếng “vội vàng” một cách thật kỳ bí. Càn khôn vũ trụ gì cùng
theo nhau điên tam đảo tứ hết cả, trong hai tiếng vội vàng kia. Cái “triều đình
riêng một góc trời” của Từ Hải đang lăn lóc quay lông lốc trong hai tiếng vội
vàng.
Từ Hải “chịu chơi” đến cái mức
bất khả tư nghị. Tuyệt đỉnh của thiên tài Từ Hải là ở chỗ đó. Trong một nháy,
đem xô ùa hết cả cứu cánh đời mình để đáp lại những lời “nhạt như nước ốc” của
Kiều. Nhạt như nước ốc, mà chàng thấy mặn mà khôn tả, ấy bởi vì cõi lòng của kẻ
anh hùng vốn là: đã chịu chơi, thì bất kể lam hồng tạo bạch. Từ Hải và Tú Bà là
hai thái cực. Nhưng đáo cùng, hai thái cực khác nhau ở hai điểm:
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Từ Hải đã vì Thúy Kiều mà
nghênh ngang dựng một cõi biên thùy, theo chàng nói:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng loa giậy đất uy linh rợp
đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nường
nghi gia
Nhưng bây giờ Kiều đã bảo
“Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào” thì lập thời Từ Hải vội vàng xóa bỏ hết
cái cuộc kia.
Tin lời thành hạ yêu minh
Cái niềm tin thật sự của
chàng đã mất, thì bây giờ chàng trở thành đứa bé thơ ngây, tin mọi thứ tầm phào
vậy.
Tin lời thanh hạ yêu minh
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh
trễ tràng…
Từ công hờ hẫng biết đâu
Đại quan lễ phục ra đầu cửa
viên
Những tiếng “hờ hẫng, trễ
tràng, ngơ ngác”, Nguyễn Du dùng một cách não nuột quỷ khốc thần sầu.
Tôi viết vội vã. Tôi không
có một ngàn năm ở trước mặt. Nhưng kẻ nào có được trước mặt một ngàn năm, thì
hãy thư thả đọc lại Nguyễn Du và sẽ khám phá ra nhiều thứ thiên thu vạn đại
khác.
Heidegger bảo rằng: “Nhà tư
tưởng càng hoằng viễn, thì phần vô ngôn trong sách họ càng khôn lường”. Lúc nói
câu đó, Heidegger ắt là có nghĩ tới Nguyễn Du vậy.
Phần vô ngôn khôn lường?
Khôn lường đối với mọi người và khôn lường tự mình đối với mình. Người tư tưởng
(cũng như thi nhân) không bao giờ lường được hết tư tưởng mình. Đọc tư tưởng, đọc
thi ca, từ đó chúng ta chỉ có thể nêu những câu hỏi đại khái kỳ dị như sau:
Vì sao con đường đi trong đó
không bằng phẳng?
Đó có phải là một lối cưỡng
bức không?
Nguyễn Du đã cưỡng bức đủ điều.
Heidegger đi tới đâu cũng cưỡng bức tràn lan tới đó. Cưỡng bức Nietzsche,
Rilke. Rồi quay lại tự mình cưỡng bức chính mình.
Cổ kim có nhà tư tưởng nào tự
mình cưỡng bức mình nhiều như Nietzsche, như Heidegger, như Sade? Sự đó có liên
can mật thiết gì tới Khổng Tử, Jésus Christ hay không?...
TRẦN TRỌNG KIM
Trần Trọng Kim cũng là một
thiên tài thy sỹ. Ông dịch thơ Đường không đạt tới cái độ tài hoa của Tản Đà,
nhưng trong mạch ngầm lại thâm hậu hơn Tản Đà.
Tản Đà bị tẩu hỏa nhập ma.
Trần Trọng Kim lại là người duy nhất trong thế kỷ này, giữ vững được tâm hồn trong
niềm tịch nhiên bất động giữa mọi phong ba.
Tản Đà chú giải Truyện
Kiều một cách thô thiển lệch lạc quá. Trái lại Trần Trọng Kim có những ghi
chú hoằng đại âm thầm.
TẢN ĐÀ
Nếu tiên sinh còn sống, ắt tại
hạ xin được phép cùng tiên sinh nhậu nhẹt một trận lu bù. Thơ của tiên sinh
làm, chẳng có chi xuất sắc. Nhưng bản dịch “Trường Hận Ca” của tiên sinh quả thật
là vô tiền khoáng hậu.
I. Ngôn ngữ thơ Việt Nam thành
tựu bởi Nguyễn Du. Văn xuôi Việt Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài Thanh. Hoài
Thanh bình Kiều, Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam, có những lời bất hủ.
Thiên tài Hoài Thanh đủ tư cách dựng sừng sững những thiên tài đứng lên chót
vót. Và ông mở ra không biết bao nhiêu con đường cho những thy sỹ và phê bình
gia đi sau. Dù thỉnh thoảng cũng phải bài bác ông trong phép “cưỡng bức chịu
chơi”, nhưng phải nhìn nhận rằng nếu không có Hoài Thanh, thì có lẽ ngày này
chúng ta chẳng có thể viết nên một cái gì ra cái gì gì cả?
Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trần
Đình Đàn… là ba ông thầy cũ của tôi. Ba ông thuộc nòi giáo sư xuất chúng. Rủi
thay ngày học với ba ông, tôi đã thuộc Huy Cận, Nguyễn Du, Nerval, nên bài vở
nhà trường của các ông chẳng đem lại chút gì đáng kể cho tôi. Nhưng cái phong
thái trang nhã thâm viễn của các ông, vô hình trung, lại giúp đỡ tôi rất nhiều.
Và vì thế sách vở của các ông, về sau tôi chịu khó đọc chậm rãi.
Bây giờ các bạn thử tưởng tượng.
Nếu không có sách Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim… thì ngày này có quả
rằng chúng ta giống như những con gà con mất mẹ.
Riêng nói về Hoài Thanh, cái
tâm hồn thi nhạc nơi ông còn cao xa hơn hầu hết mọi thy sỹ tôi đã gặp.
Tiện đây tôi xin tặng ông
Hoài Thanh một bài thơ.
Cỗi nguồn quá vắng lặng sao
Câu kinh trầm thống phương
nào dậy tuôn
Mộng thừa nhị bội bắt buông
Lừng vang tử trúc điệu buồn
như mai.
II/ Nếu cuốn sách của Hoài Thanh
(Thi nhân Việt Nam) không ra đời, thì thi ca hiện đại Việt Nam ắt phải tang
hoang tinh thể do sức tàn phá của cuốn sách Nhà văn Hiện đại Vũ Ngọc
Phan. Trong thế hệ trước, ngoài Hoài Thanh ra, không còn một kẻ nào có thể ngờ
ra thiên tài Huy Cận. Dẫu có ngờ ra ắt cũng không thể viết được như Hoài Thanh.
Hoài Thanh am hiểu thi ca
Tây Phương, mà vẫn dám coi nhẹ Tây Phương trước thiên tài Huy Cận, Nguyễn Du.
Đó là điều hy hữu.
Hoài Thanh thừa biết rằng những
thứ ta quen gọi là “chủ đề” trong thơ Huy Cận - những suy tư về thân phận con
người, về cái chết, về tình yêu v.v… - những thứ đó chả có chi tân kỳ. Cũng như Truyện
Kiều của Nguyễn Du chả có chi bí ẩn, nhưng thiên tài chính là kẻ làm “mới”
lại những chủ đề cũ kỹ trong ngôn ngữ đơn giản của mình.
Thơ Xuân Diệu tràn lan những
chất liệu thi ca Pháp. Nhiều phen ông nói toàn chuyện rởm. Nhưng thiên tài của
ông là ở chỗ: vì quá thâm hậu, nên đùa chơi suốt kiếp với chuyện rởm. Hoài
Thanh cũng là kẻ riêng biệt âm thầm cảm thấy sự đó.
HÀN MẠC TỬ
I. Làm sao nói gì về Hàn Mạc Tử?
Ông gào kêu trong thơ thảm họa của đời ông. Mà đời ông là chỗ về tụ tập của mọi
thảm họa nhân sinh.
Thơ ông là một tiếng thét và
một lời than. Tiếng thét đầy máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Lúc hãi hùng khiếp
đảm, lúc quạnh quẽ lạc phách xiêu hồn.
Tôi không đọc thơ ông. Tôi đứng
xa xa, người ta hỏi tôi về thơ ông thì tôi xin đánh trống lảng.
Thơ tôi làm, một lần tôi tặng
ông trong Mưa Nguồn – ngoài ra mọi làn sóng bành bái trong mấy cuốn
thơ của tôi chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm
bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ
gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian mang trên hai
cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Clavaire viếng
thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu.
Làm mục tử không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng khoai sắn, thì
tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút
giây trong linh hồn bao dong phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ
sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng
đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao:
Một hôm đếm một ra hai
Lộn là lạ lắm lai rai bốn lần
Trăng Châu Thổ rất mực gần
Mà ra tại hạ vô ngần chiêm
bao.
II. Thưa, tôi không dám si mê
Một mai tôi chết bên khe ngọc
tuyền
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền
không gian.
Ông nói lời như thế mặc
nhiên xóa sạch hết mọi nguồn thơ thế gian. Còn ai có thể làm thơ được nữa.
Thưa, tôi không dám si mê
Một mai tôi chết bên khe ngọc
tuyền
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chấp tay tôi lạy cả miền
không gian
Tôi lạy cả miền không gian?
Hãy để yên cho tôi điên tôi dại. Đừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng có bàn đến
thơ tôi. Tôi không dám si mê, cũng không dám hoài vọng. Một mai tôi chết. Nghĩa
là bây giờ tôi không còn sống. Tôi sống trong cơn dại cơn điên. Tôi làm thơ
trong cơn điên cơn dại. Nghĩa là tôi chết hai ba lần trong trận sống. Tôi lạy cả
miền không gian đừng có bắt tôi chết thêm một trận thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ
bảy, chủ nhật…
Một mai tôi chết bên khe ngọc
tuyền
Còn bây giờ không có ngọc
tuyền đâu để tôi đến một bên tôi chết.
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chấp tay tôi lạy cả miền
không gian
Người yêu đừng bén mảng tới.
Bạn bè hãy đi xa. Để tôi một mình tha hồ tôi điên tôi dại. Ai có đến gần thì
hãy thử điên dại như tôi.
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ
Ông xua đuổi người đi vì ông
không thể kêu gào người ở lại. Bởi vì nếu người ở lại, thì ông sẽ giết chết mất
người. Ông giết chết mất người vì ông không thể đấm cho vỡ toang vũ trụ.
Bao giờ mặt nhật tan thành
máu
Nhưng vì sao ông muốn mặt nhật
tan thành máu? Tan thành máu để cùng nhân gian chìm ngập trong đoạn trường? Mặt
nhật chưa tan thành máu, thì chỉ riêng con người chịu đau khổ mà thôi. Hàng triệu
triệu con người bị dìm trong máu. Trong oan nghiệt không cùng. Hàng triệu con
người cũng đang cầu nguyện cho lòng mình cứng tợ si.
Cả thế giới này đang cùng
Hàn Mạc Tử chia một thảm họa.
Em cố nghĩ ra một chiều vàng
úa
Ngày nay người ta không cần
cố gắng cũng thấy rõ sờ sờ một chiều vàng úa kia.
Em cố nghĩ ra một chiều vàng
úa
Lá trên cành héo hắt gió ngừng
ru
Một khối tình nức nở giữa âm
u
Một hồn đau rã lần theo
hương khói
Một bài thơ cháy tan trong nắng
dọi
Một lời run hoi hóp giữa
không trung
Cả niềm yêu ý nhớ cả một
vùng
Hóa thành vũng máu đào trong
ác lặn.
Hàn Mạc Tử biết rằng trừ ông
ra, ngàn thế kỷ sau không còn ai có thể nói tới tận cùng thảm họa nhân gian.
Nên ông phải dốc hết tim phổi nói một lần. Đó cũng là lời cầu nguyện cho nhân
gian. Lời cầu nguyện sẽ phát khởi từ thảm họa dâng lên tới trời xanh. Lời cầu
nguyện vang dội song song với lời nguyền rủa, vì có lẽ đó là chỗ bất khả tư nghị
của từ tâm. Chúng ta có thể đọc ẩn ngữ kia trong mấy câu:
Ánh trăng mỏng quá không che
nổi
Những vẻ xanh xao của mặt hồ
Những nét buồn buồn tơ liễu
rũ
Những lời năn nỉ của hư vô…
Ánh trăng mỏng quá không che
nổi, thì lời năn nỉ của hư vô đã khiến Hàn Mạc Tử dốc hết bồ đề tâm của mình ra
trong tiếng gào thét hỗn độn của Caligula…
HUY CẬN
I. Hồn lưu lạc chưa hề thờ một
chúa
Yêu một người ta dâng cả
tình thương
Câu thơ đó dường như là cái
chìa khóa mở đường vào cung thành Lửa Thiêng.
Huy Cận chẳng khi nào trực
tiếp nói tới tình yêu một cách quay quắt sôi cuồng như Xuân Diệu, hoặc tràn lan
ra như Nguyễn Bính.
Huy Cận kín đáo ngậm ngùi.
Và thỉnh thoảng vài lời chân thành thăm thẳm của ông bỗng xô nguồn thơ tình yêu
kia vào một cõi thống thiết cổ kim chưa từng có.
Bóng đêm tỏa không lấp niềm
thương nhớ
Tình đi mau sầu ở lại lâu
dài
Ta đã để hồn tan trong tiếng
thở
Kêu gọi người đưa tiễn nỗi
tàn phai.
Bốn câu đơn giản thiết tha
đôn hậu thượng thừa như thế, chính là vùng khí hậu riêng biệt để toàn thể cuốn Đoạn
Trường Tân Thanh Nguyễn Du đi về ngưng tụ hết mọi màu hương vang bóng.
Huy Cận là người đồng quận
Nguyễn Du – Hà Tĩnh. Sông núi non nước kia đẹp dị thường. Và con người đất nước
kia sống lận đận làm ăn cày cấy cũng cực nhọc dị thường. Giữa phong cảnh và con
người từ đó liên miên có một cuộc đối thoại thiết tha không lời, về một nỗi bất
khả tư nghì. Tình yêu sẽ đưa con người ta tới một cõi xót xa, là căn bản cho một
cuộc phát nguyện từ bi, gây dựng nên những thiên tài vô song của Hồng Lĩnh.
Chỉ những thiên tài Hồng
Lĩnh mới thành tựu một cuộc Trùng Phục dị thường giữa vũ trụ trời mây phong cảnh.
Phong cảnh trong thơ Huy Cận
là một loại phong cảnh đã khiến con người mở những cuộc “Lữ” huyền hoặc củaDịch
Kinh. Khổng Tử đã chu du theo một cuộc Lữ dị thường Homère Hy Lạp, mà con người
ngày nay không thể nào quan niệm được ra.
Xa nhau mười mấy tỉnh dài
Mơ màng suốt xứ đêm ngày nhớ
nhung
Tâm tình một nẻo quê chung
Người về cố quận muôn trùng
ta đi.
Nguyễn Du đã làm Liệp Hộ.
Huy Cận đã đi muôn trùng. Mặc dù các ông có thể ngồi im lìm giữa một triều
đình, các ông vẫn cứ thành tựu cuộc “Lữ” như thường, nơi một triều đình khác,
riêng ở một góc trời miêu cương mạc ngoại.
Trông vời trời biển mênh
mang
Thanh gươm yên ngựa lên đàng
ruổi rong.
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon
Đi rồi khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn
tịch liêu.
Tiếng nhỏ thưa tràng đạc đó
bàng bạc tịch liêu trong Lửa Thiêng cũng như suốt Đoạn Trường
Tân Thanh, là khởi từ một duyên do uyên nguyên thăm thẳm, mà bấy lâu ta không
ngờ tới, nên thường ngạc nhiên tự hỏi vì lẽ gì thơ Huy Cận lại đạt tới hai chóp
đỉnh huyền diệu nhất ở hai cõi chênh vênh: thơ phong cảnh của ông không ai đi kịp;
thơ tình yêu của ông khiến mọi thiên hạ đầu hàng.
Tình yêu và lữ thứ, lữ thứ
và không gian, đó là những gì quyết định hết nguồn thơ Lửa Thiêng. Bao
nhiêu màu quan san ly biệt bàng bạc trong Truyện Kiều, bỗng nhiên về quy tụ
tinh hoa trong một bài “Thuyền Đi” của Huy Cận.
Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều
mới lên
Thuyền đi sông nước ưu phiền
Buồm treo ráng đỏ giong miền
viễn khơi
Sang đêm thuyền đã xa vời
Người ra cửa biển nghe hơi lạnh
lùng
Canh khuya tạnh vắng bên cồn
Trăng phơi đầu bãi nước dồn
mênh mang
Thuyền người đi một tuần
trăng
Sầu ta theo nước trường
giang lững lờ
Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ
Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ
nhau.
Lời thơ đi phiêu phiêu, tuyệt
nhiên không thấy dấu vết một chút kỹ thuật nào còn vướng sót. Tưởng như không
còn một chút cố gắng tìm lời lựa ý gì hết cả. Nguồn thơ ngập tràn dâng lên nhẹ
nhẹ, len lỏi thấm nhuần mọi ngôn ngữ ly biệt Nguyễn Du và toàn thể Đông Phương
Lữ Thứ, Tây Phương Lang Thang.
Các bạn thử thong dong hình
dung lại cái khối Đường Thi Vương Duy, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Thôi Hộ, Cao Thích,
Sầm Tham, Apollinaire, xem thử có một cái gì lọt ngoài vòng lục bát Huy Cận kia
chăng.
Chúng ta quen thói ngóng chạy
theo đuôi mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một
chút tinh thể cỏn con nào cả để thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng
viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba bảy sông hồ.
Cái thói học đòi vá víu
thông thái đã âm thầm giết chết mất máu me thân thể chúng ta. Hết chạy theo
đuôi ông Camus, tới chạy theo đít bà Simone Weil, rồi xô ùa chạy theo giò cẳng
ông Krishnamurti. Nghĩ rằng cũng đáng tủi cho cái kiếp con người. Nhục cho cái
phận con ngợm.
Đó chính là cái lõi của lai
rai thượng thừa, của bê bối tối hậu. Tới bao giờ mới chịu đi về giũ áo đười
ươi? Hỡi những thằng trung niên thy sỹ, và hỡi những đứa chẳng thy sỹ trung
niên. Cái trò ma quái lóc lăn nọ, kể cũng đáng tởm hơn cuộc dập dìu mà Tú Bà đã
bố trí cho Nuồng Thúy xưa kia.
Cái tinh thần nô lệ không tự
biết mình nô lệ, cái tinh thần ấy nó thấm nhập tủy xương chúng ta đến độ nào,
mà mỗi phen chúng ta kêu gào tự do, đòi hỏi tự tại, gào thét tự tôn – càng mỗi
phen cho thấy hiện thị lù lù cái linh hồn đĩ điếm.
Chúng ta thà chui vào một
cái hang dế đen ngòm, một cái hang chim đen ngộm, một cái hang chuột đen thui,
cam lòng thờ phượng Brigitte, sùng phụng Bardot, chui đầu vào tà xiêm Monroe để
nằm ngủ, hơn là phải đi thức tỉnh tự do trong cái bầu khí hậu gớm guốc kia.
Nghĩ cũng kỳ dị thật. Người
Việt Nam vốn là người thơ mộng thy sỹ nhất thế giới (chỉ riêng cái màu da vàng
Việt Nam thôi cũng đã thơ mộng hơn mọi màu da đen trắng) thì người Việt Nam lại
chẳng bao giờ đọc thơ Việt Nam, lại luôn luôn đem trút hết cõi lòng thơ mồng của
mình cho những thứ sách vở thổ lốn tạp pí lù ở đâu đâu. Lại chạy đi si mê những
da trắng Marilyn những da đen Phi châu chiêm bao bờ cỏ. Làm bao nhiêu thơ mộng
lại đem gán hết cho châu chấu chuồn chuồn. Ẩn ngữ gì mà đoạn trường ra như thế.
Lâu lâu lại còn ca ngợi tài hoa ông Kút Xếp, tài liệu ông Vương Dương Minh.
Thôi thì thôi cũng chìu lòng
Cũng cho nghỉ nghị trong
vòng lai rai.
Huy Cận cũng đã có phen gián
tiếp giải oan cho mọi người lưu lạc:
Hỡi Thượng Đế! Tôi cúi đầu
trả lại
Linh hồn tôi đà một kiếp đi
hoang
Sầu đã chín xin người thôi
hãy hái
Nhận tôi đi dù địa ngục
thiên đường…
Huy Cận nói cái lời gì bao
la như thế? - Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường?
Đáp: Huy Cận đã khai tỏ cái
chỗ u ẩn nhất trong ngôn ngữ Jésus Christ.
Và đọc Huy Cận, chư vị Bồ
Tát ắt phải gật đầu với Long Thọ Bồ Tát mà rằng:
“Chư Phật vô lượng phương tiện
lực, chư pháp vô quyết định hướng; vị độ chúng sinh, hoặc thuyết nhứt thiết thực,
hoặc thuyết nhứt thiết bất thực, hoặc thuyết nhứt thiết thực bất thực, hoặc
thuyết phi thực phi bất thực…” (Xem Sương Bình Nguyên, trang 490).
Cũng vì lẽ đó, nên lần giở Dịch
Kinh, chúng ta đọc lại ngôn ngữ thi ca của Khổng Tử:
“Hữu thiên địa, nhiên hậu vận
vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả. Duy vạn vật, cố thụ chi dĩ Truân.
Truân giả doanh dã. Truân giả vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ
chỉ dĩ Mông. Mông giả Mông dã. Vật chi trĩ dã, vật trĩ bất khả bất dưỡng dã. Cố
thụ chi dĩ Nhu. Nhu giả ẩm thực chi đạo dã… Ẩm thực tất hữu Tụng. Cố thụ chi dĩ
Tụng. Tụng tất hữu chúng khởi. Cố thụ chi dĩ Sư… vân vân vân vân vân vân…”
Từ cõi Vô Ngôn của Bồ Tát tới
cõi Vô Ngôn của Khổng Tử chúng ta trở lại với Kiều, Lửa Thiêng, sẽ nhận ra
một chân lý mà không có sách vở học giả ru rú nào có thể chỉ vẽ ra. Phusis Sơ
Nguyên Hy Lạp cũng lại lập lòe hiện thị một cách phong nhiêu dị thường trong
hai câu mở đầu bài “Thuyền Đi”:
Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều
mới lên.
Thuyền Đi
Thuyền đi là nước đi, thời
gian đi, hay đời người đi? biệt ly, nói tóm lại?
Nhưng tại sao bài thơ “Thuyền
Đi” của Huy Cận lại xa vắng mênh mông hơn bất cứ một bài thơ ly biệt nào xưa
nay? Nó tiềm ẩn những tố chất gì như thế?
Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều
mới lên
Thuyền đi sông nước ưu phiền
Buồm treo ráng đỏ dong miền
viễn khơi.
Sang đêm thuyền đã xa vời
Người ra cửa biển nghe hơi lạnh
buồn
Canh khuya tạnh vắng bên cồn
Trăng phơi đầu bãi nước dồn
mênh mang.
Thuyền người đi một tuần
trăng
Sầu ta theo nước tràng giang
lững lờ
Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ
Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ
nhau.
Bài thơ mười hai câu cả thảy.
Mười hai câu lục bát Huy Cận trông giống như một cung thành Đông Á, một chùa
chiền Á Đông, một tượng vân thạch, hoặc đồng đen Đông Phương đang nhô lên nhìn
sang khối Sơ Nguyên Hy Lạp.
Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều
mới lên.
Một cái gì bỗng dưng về giữa
hai câu thơ, một cái gì đồ sộ, bất tuyệt, vô thủy vô chung về trong một lúc? Phải
là Thời Gian của Vĩnh Viễn về trì ngự trong Phusis Mở Phơi? Về trong một lúc?
Là về trong một sát-na của Viên Mãn Viên Dung cho âm dương tịch hạp? Cuộc Nảy Nở
của Càn Khôn đang phơi mở thịnh triều trì ngự trong tiếng “trăng lên, triều
lên”. Tươi thắm của Sơ Khai hiển hiện trong những tiếng “gió về trong lúc, trăng
lên, đang chiều…” .
Hai câu thơ đong đưa kỳ ảo
dìu Thiên Nhiên về giữa lòng vạn vật để thành tựu cái mà người xưa đã thể nghiệm
thiên hình vạn trạng qua những tiếng Vĩnh Thể và Tồn Lưu, Thời Gian và Thời Thể.
Một cái gì nhiệm màu cũng song trùng về trong những tiếng “là là” nhịp điệu của
Nguyễn Du.
Thanh minh trong tiết tháng
ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp
thanh.
Trong bài thơ Huy Cận, cuộc
Lễ Hội ấy đang hiển hiện trong cảnh trời là nơi chốn của Phùng Ngộ trong chia
ly. Một cuộc hôn phối dị thường mà Khổng Tử xưa kia cũng đã từng thể nghiệm qua
cuộc Lữ.
Thiên Nhiên rộng rãi đang
lên lời giục giã người lên đường lữ thứ để thành tựu cuộc Trùng Phục Quy Hồi
trong mỗi bước chân đi.
Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều
mới lên
Thuyền đi sông nước ưu phiền
Buồm treo ráng đỏ giong miền
viễn khơi.
Ra đi như thế là kết hợp vũ
trụ vào trong nhịp lưu ly của tại thể mình. Dìu tồn lưu về để mở phơi ra và đón
nhận lấy. Cái ân huệ vô ngần kia đòi hỏi những cuộc ra đi, từ giã cõi miền đóng
kín quanh quẩn trong nếp quen thuộc nhân tuần. – “Lữ chi thời nghĩa đại hỹ
tai!”.
Nỗi ưu phiền của sông nước
kia là một niềm kỳ vọng, một niềm chúc phúc lên đường.
Sang đêm thuyền đã xa rồi
Người ra cửa biển nghe hơi lạnh
lùng.
Thế thì các cuộc đi kia đã
khiến cho sự hiện diện của kẻ đi càng bát ngát thêm trong cơn khiếm diện.
Kẻ đi và toàn thể cái khối
gì đang đi?
Và do đó một cõi mênh mông
nào đang phát hiện tinh thể? Cõi thái hư tịch mịch? Cõi sầu bi siêu thoát?
Canh khuya tạnh vắng bên cồn
Trăng phơi đầu bãi nước dồn
mênh mang
Thuyền người đi một tuần
trăng
Sầu ta theo nước tràng giang
lững lờ.
Có cuộc đi trong một tuần
trăng thời thể, mới có theo về trong một xứ sở của bĩ ngạn chon von. Thời gian
được thời thể hóa. Thời thể được thể nghiệm trong Mnemosyne Ký Ức lưu
tồn. Nó giữ lại một cái gì trường lưu hằng cửu mà con người vong thể ngày nay
chẳng thể nào thể hội được nữa. Chạy theo đuôi danh từ lí nhí, đem phân chia cắt
xén thời gian ra làm khoảnh khắc tủn mủn, rồi chối bỏ lung tung chẳng còn rõ
mình đang tham dự vào cái cuộc nhảy múa ma trơi nào thiểu não.
Thuyền người đi một tuần
trăng
Sầu ta theo nước tràng giang
lững lờ
Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ
Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ
nhau
Cuộc ra đi như thế trở thành
cuộc lên đường lữ thứ tìm lại tinh thể mình. - Hãy trở thành… Nhà ngươi là gì,
hãy trở thành cái ấy. “Deviens ce que tu es” – Té ra con người phải đi một cuộc
mười lăm năm, rồi ra mới nhận chân được tinh thể mình nằm tiềm ẩn trong cung
đàn ban sơ bạc mệnh: và từ đó? – phát nguyện đại từ bi?
Đức Khổng còn khổng lồ nói
lên sự đó một cách đơn sơ ẩn mật vô ngần:
“Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn
vật sinh yên, doanh thiên địa chi nhàn giả, vạn vật, duy cố thụ chi dĩ Truân…
Truân giả doanh dã. Truân giả vạn vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố
thụ chi dĩ Mông…”
Bấy lâu chúng ta quen nghĩ rằng
Huy Cận chỉ là nhà thơ có cảm giác bén nhạy và tài hoa riêng biệt trong phép tả
cảnh tả tình sầu. Nhưng thật ra Huy Cận là khối óc vĩ đại đạt tới một cõi tư tưởng
bát ngát nên tự nhiên như nhiên, lời thơ ông đi vào trong phong cảnh bao la, dội
vào đáy thẳm thiên nhiên, và gửi lại cho ta những dư vang bất tận. Khối óc kia
cũng là thông tuệ của tâm thể thiên tài.
CHẾT
Chân quấn quít rồi đến ngày
nghỉ bước
Miệng trao lời rồi đến buổi
làm thinh
Thân có đôi chờ lúc ngủ một
mình
Không bạn lứa cũng không mền
ấm nóng
Tai dưới đất để nghe chừng
tiếng sống
Ở trên đời - đầu ấy ngửng
lên cao
Sẽ nằm im! Ôi đau đớn chừng
nào
Thân bay nhảy giam trong mồ
nhỏ tí
Một dáng điệu suốt trăm
nghìn thế kỷ
Ngày sẽ về gió sẽ mát hoa
tươi
Muôn trai tơ đi hái vạn môi
cười
Làn nắng ấm vào khua trong
lá sắc
Nhưng mắt đóng trong đêm câm
dằng dặc
Còn biết gì đất ở trên kia
Bướm bay chi! Tay nhậy đã
chia lìa
Tình gọi đó nhưng lòng thôi
bắt mộng
Bỏ chung chạ để nằm khô một
bóng
Chẳng ai vào an ủi nắm bàn
tay
Khổ bao nhiêu cho một kẻ hằng
ngày
Tìm thế giới để làm khuây lẻ
chiếc.
Huy Cận tặng Thần Chết một
bài thơ cảm động. Nói là tặng Thần Chết nhưng cũng là dâng cho Cuộc Sống. Cuộc
Sống ôi! Hình dạng của Thần Chết đã ra như thế thì Thánh Sống nghĩ sao?
Ắt nghĩ rằng: Nên kiệt tận
miên bạc bình sinh để sống cho đậm đà thơ mộng. Vì không làm thế, thì cái sống
sẽ giống tợ như cái chết.
Cái chết trông dị dạng quá.
Mà hằng ngày vô tình ta sống theo lối chết đó. Tuy không đến nỗi căm căm gớm guốc
như thế, nhưng cũng tai hại điêu linh gần bằng. Chúng ta dường như quên mất rằng
mỗi người chỉ có một cuộc sống thật xinh, và cuộc sống đó rất có thể bị những
thứ tai hại trong hồn ta làm cho méo mó đi. Và meo mốc tử khí bám đầy rẫy cái
hình hài cuộc sống.
Tiếc sao! Tiếc sao! Một sự sống
quá đơn sơ, chúng ta cứ đời đời quên bẵng.
Xin một lần thử thong dong
nhìn lại rõ bộ mặt cái chết, để hỏi lại linh hồn mình nên nhớ lại chuyện chi.
Thì từ đó rất có thể rằng
cái chết hãi hùng sẽ là một cơ hội huy hoàng cho cái sống thành tựu được tinh
hoa. Ta sẽ nhìn các em, các em sẽ nhìn con chim, con cá. Con cá sẽ nhìn con dế
con giun… Mọi mọi sinh vật sẽ mọi mọi nhìn nhau bằng một nhãn quan khác hẳn. Và
cõi đời từ đó sẽ đúng là đời cõi của yêu thương.
Đức Phật ôi! Chính Ngài đã
có cái dụng tâm giống như chàng Huy Cận. Ngài đã đem những não nùng sinh lão bệnh
tử ra nói lên cho kiếp phù du thể hội cái nghĩa não nùng, là phát nguyện bi tâm
để dìu tồn sinh về bỉ ngạn…
Cái chết được thể nghiệm sâu
xa sẽ trở thành cái khả năng vô thượng của con người mang một cái sống phù du.
Đó là lý do (do lý) đã khiến ông Heidegger đem cái chết mà thiết lập căn cơ cho
cái sống của Dasein. Và gọi rằng: Con người ta là một sinh-thể-cho-tử-diệt.
Tinh thể của con người là:
sinh-thể-cho-tử-vong?
Thì tử diệt tử vong chính là
Tặng Vật vô ngần cho Sinh Thể. Sinh Thể sẽ ôm cái Tặng Vật vô ngần đó mà đi khắp
mặt biển dâu lảo đảo.
Em quốc sắc, em thiên hương,
em hoàng hậu, em nữ chúa, em giai nhân da vàng, em mọi nào da trắng, em mọi nào
da đen…
Thảy thảy mọi mọi em em cùng
chia nhau cái món quà kỳ ảo. Thì can chi các em lại bảo rằng cái da vàng thơ mộng
hơn cái da đen? Cái da trắng văn minh hơn cái da đỏ?
Buổi hội trần gian sẽ từ đó
mà mất vui. Thế giới mất ân tình. Cõi đời mất đời cõi. Thì lễ hội mất đi cái gọi
là. Là gì? Ban sơ xuân xanh ngày đó, ông Nguyễn Du đã bảo rằng:
Thanh minh trong tiết tháng
ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp
thanh.
Hội đạp thanh mất đi cái ý
nghĩa vô ngần của thanh đạp, một phen thanh đạp trở thành đạp thành, phá lũy,
theo thể điệu Caligula. Ấy cũng chỉ vì đăm đăm riêng nghĩ tới hội là đạp thanh,
mà bỏ quên cái tình riêng của lễ là tảo mộ…
Ai chết đó? Nhạc sầu chi lắm
thế?
Kèn đám ma? Hay ấy tiếng yêu
thương
Của cuộc đời…
Tiếng đau thương đó của cuộc
đời dội vào cuộc sống, thì cuộc sống đổi hình thay dạng…
Tôi nhớ lại ngày tháng chuyển
dịch
Những thay hình đổi dạng mở
phơi
Trong ly nước mộng tuyệt vời
Mối sầu dao động nỗi đời
giao thoa
(Apollinaire)
Cuộc sống thay đổi hình dạng
theo thể thái sầu bi ngậm ngùi đó trong tâm hồn người ta. Cũng có thể nó đổi dạng
theo lối tuyệt vô hy vọng, hoặc điên cuồng, hoặc rồ dại. Nhưng cuối cùng, phải
nên dìu nó về thể thái thanh thản khiêm tòng… Cạo đầu sạch sẽ đi tu? Đi làm đạo
sỹ? Hay tiếp tục làm thy sỹ phiêu bồng? Làm nhà thương mãi đi buôn? Kỹ nghệ
gia? Làm gì thì làm, cũng hơn là làm Caligula vậy.
Ngày còn đi học, hai bài thơ
“Chết”, “Nhạc sầu” của Huy Cận đã gây chấn động dị thường cho tôi. Tôi bỏ học,
chẳng thiết chi sách vở. Chạy về quê làm thằng chăn bò. Bao nhiêu thơ làm ra,
tôi âm thầm tặng hết cho chuồn chuồn châu chấu!
Thế cũng là một cách chịu
chơi với Thần Chết vậy. Nghe tin Marilyn Monroe lìa đời, tôi buồn bã suốt mấy
tháng. Phải chi bình sinh nàng có đọc thơ Huy Cận, ắt nàng chẳng nên giận phận
gì mà vội ngang tàn tính mệnh như thế.
Bây giờ tôi xin chậm rãi
chép bài “Nhạc Sầu” ra tặng nàng. Mong rằng ở dưới suối vàng nàng hãy bỏ chút
thì giờ đọc giải trí cho vui.
NHẠC SẦU
Ai chết đó! Nhạc buồn chi lắm
thế
Chiều mồ côi đời rét mướt
ngoài đường
Phố đìu hiu màu đá cũ lên
sương
Sương hay chính bụi phai tàn
lả tả
Từng tiếng lệ ấy mộng sầu úa
lá
Chim vui đâu? Cây đã gẫy vài
cành
Ôi chiều buồn! Sao nắng quá
mong manh
Môi tái nhạt nào cười mà héo
vậy
Ai chết đó! Trục xoay và
bánh đẩy
Xe tang đi về tận thế giới
nào
Chiều đông tàn lạnh xuống tự
trời cao
Không lửa ấm chắc hồn buồn lắm
đó
Thê lương vậy mà ai đành lìa
bỏ
Trần gian sao? Đây thành phố
đang quen
Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã
xa miền
Đường sá lạ thôi lạnh lùng
biết mấy
Và ngựa ôi đi nhịp đằm chớ
nhảy
Kẻo thân đau chưa quên nệm
giường đời
Ai đi đưa, xin đưa đến tận
nơi
Chớ quay lại nửa đường mà
làm tủi
Người đã chết. Một vài ba đầu
cuối
Dăm bảy lòng thương tiếc đến
bên mồ
Để cho hồn khi sắp xuống hư
vô
Còn được thấy trên mặt người
ấm áp
Hình dáng cuộc đời từ đây xa
tắp
Xe tang đi xin đường chớ gập
ghềnh
Không gian ơi xin hẹp bớt
mông mênh
Ảo não quá trời buổi chiều
vĩnh biệt
Và ngươi nữa tiếng gió buồn
thê thiết
Xin lặng giùm cho nhẹ bớt cô
đơn
Hàng cờ đen như bóng quạ chập
chờn
Báo tin xấu dẫn hồn người đã
xế
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm
thế
Kèn đám ma hay ấy tiếng đau
thương
Của cuộc đời? Ai rút tự
trong xương
Tiếng nức nở gởi gió dường
quạnh quẽ
Sầu chi lắm trời ơi chiều tận
thế…
(Huy Cận)
Nhưng cố nhiên, chép xong rồi
thì nên xếp giấy lại, ra đường phố dạo một phen rong chơi. Để nhìn lại đậm đà
những tà áo phấp phới. Chẳng nên đăm chiêu dằng dặc. Chẳng nên o bế cái chết.
Kéo dây dưa cuộc tình duyên với Tử Thần, là điều tối kị. Nó có tính ăn hiếp. Ta
lân la chơi đùa với nó, thì nó rút mòn xương tủy ta.
Bây giờ nên ngâm chơi vài vần
“Tặng Em Mười Sáu” của Huy Cận:
TẶNG EM MƯỜI SÁU
Em mười sáu xuân lang vừa độ
tốt
Trời trong sáng sông trôi
vui chim lảnh lót
Để tay người nối lại với tay
anh
Anh thấy mơ hồ huyền diệu
mong manh
Một dải lụa quấn qua hồn đây
đó
Nỗi vui cũ ngày nay anh lại
có
Thêu đời hồng anh nói ít lời
hoa
Em ca lừng cho bốn phía sinh
ca
Đem dâng tặng mặt trời muôn
thuở mới
Hãy đẹp giọng khúc huy hoàng
vời vợi
Nhạc tưng bừng tuôn chảy tự
hồn vui
Thuyền du dương anh cầm lái
em mui
Chèo một nhịp hò khoan cùng
vũ trụ
Em mười sáu ấy hoa đời đương
nụ
Nở xuân quang anh vừa quá
hai mươi
Ta nối tay tròn kết một vòng
tươi
Mà vẫn lấy cuộc đời. Em có
thấy
Trong máu thắm dòng vui luôn
tiếp chảy
Suối hân hoan cuồn cuộn sóng
dương hòa
Làm nụ cười cho vạn vật muôn
hoa
Em! Nào ta hát bài Thiên Cổ
Lạc
(Huy Cận)
Nguồn thơ vui nhất của Việt
Nam nằm trong Huy Cận. Mà nguồn thơ buồn nhất Việt Nam cũng là nơi Huy Cận. Sự
đó không còn chi đáng nên ngạc nhiên.
Huy Cận đã sống trọn vẹn với
linh hồn mình, vì thế ông sống trọn linh hồn nhân gian. Nguồn thơ ông chảy khắp
mặt buồn vui của nhân thế.
Từ Nguyễn Du đến chúng ta
bây giờ, chỉ có một Huy Cận mà thôi. Một Quang Dũng mà thôi. Một J. Leiba, Kiên
Giang, Hồ Dzếnh mà thôi.
Và mọi mọi chúng ta cũng từ
đó mà mọi mọi được có một nguồn thơ duy nhất của ta ta mọi mọi mà thôi.
Ta còn bận tâm chi nữa về
câu chuyện xếp loại, định nguồn, nhận riêng khuynh hướng?
Huy Cận có làm văn nghệ văn
gừng gì đâu. Thi sĩ chân chính cổ kim có một ai chịu thiết lập trường trại gì
đâu. Họ vào cuộc Lễ Hội Trần Gian cũng đơn sơ như con chim về Mùa Xuân ca hót.
Đến từ xứ lạ? Xứ quen? Xứ xa xôi vô ngần thân thuộc? Ngứa cổ hát chơi? Khi gió
nắng vào reo um khóm lá? Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời? Chim ngậm suối đậu
trên cành bịn rịn? Kêu tự nhiên nào biết bởi sao ca? Tiếng to nhỏ chẳng xui
chùm trái chín? Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa?
Họ đơn sơ hồn nhiên như thế.
Sao ta lại cầu kỳ buộc họ phải cầu kỳ gay cấn như ta? Họ có đòi hỏi chi đâu? Họ
chẳng bao giờ tranh giành địa vị? Chẳng bao giờ chịu làm thần tượng. Chỉ xin
vào cuộc Hội Hoa Đăng, ca một lời cho Hoa Đăng xán lạn. Cho mọi người cùng yến
tiệc giữa Hoa Đăng…
Khi ta đến các ngươi đà đến
cả
Có Thiên Nhiên Suối Chị với
Rừng Anh
Cỏ vạn đại đã quen chiều óng
ả
Liễu thiên thu từng thuộc lối
buông mành
Thơ Huy Cận dịu dàng như thế
đốt cháy bỏng máu me ta bởi ông đơn giản ca ngâm. Ông chân thành khiêu vũ. Đừng
ai nỡ đem gán bừa cho họ những gì họ chẳng hề có bận tâm. Bao phen chúng ta từng
tàn nhẫn một cách quá vô tình. Và vì thế, họ đành quay lưng trốn chạy. Kêu gọi
buổi chiều về bên mình để tâm sự cô đơn:
Chiều ơi hãy xuống thăm ta với
Thiên hạ lìa xa đời trống
không
Nắng xế ngậm ngùi bên mái cũ
Đìu hiu bên phố nhớ bên
lòng.
Thiên hạ lìa xa? Thiên hạ vẫn
ngồi đó. Vẫn làm thơ tặng nhau. Nhưng cũng bằng gấp mấy quan san trong gang tấc.
Vì đã tuyệt dòng chân thành tương ứng. Mỗi người mỗi đánh lạc mất linh hồn tinh
thể mình, và mỗi mỗi đầy đọa nhau dằng dặc…
Đã mấy năm rồi thơ nở hoa
Trang vui cũng lúc lệ buồn
nhòa
Dòng đời cũng nặng sầu lưu
thủy
Tóc nặng sầu tư gió thổi tà
Chiều ơi gặp gỡ đã đòi cơn
Sương lạnh dồn thêm lệ tủi hờn
Một buổi xưa kia phòng vắng
bạn
Đó ngày quen biết với cô đơn
Buổi hoàng hôn dị thường nào
xưa kia Nguyễn Du đã nhìn và tâm sự? Buổi hoàng hôn nhân loại. Ngày tận thế đó
chăng? Không có lẽ như thế. Vì lời thơ thân thiết vẫn như âm thầm báo hiệu một
bình minh sắp mọc trong hoang liêu:
Có lúc xa người bởi quá yêu
Than ôi sông núi lại buồn
nhiều
Mây xa lạc gió bên trời vắng
Đời bạt lòng ta lại gặp chiều.
II.
A thân thể! Một cái bình tội
lỗi
Đất sơ sinh đã hóa lại bùn lầy.
Một ý tưởng chẳng có chi mới
lạ. Nhưng câu thơ của Huy Cận lại tươi mát như bầu trời.
Và cổ đứng như mình cây vững
chãi
Và vai ngang như mặt nước
xuôi dài.
Viết câu thơ lai rai như thế
mới đích thật là thiên tài. (Còn như bài “Tràng Giang” của ông chính ông cũng lấy
làm đắc ý lắm, thật ra còn vướng vướng, không có chi huyền ảo cả.)
Và cái câu:
Tôi đội tang đen và mũ trắng
Ra đi không hẹn ở trên đường.
Ông viết hai câu thơ kỳ tuyệt
như thế, thì thử hỏi: còn chi đáng kể nữa? Ông thừa sức xô ùa Đường Thi chạy mất
hút. Toàn khối thi ca Trung Quốc, toàn khối thi ca Tây Phương, hầu như bị nổ
bung lông lốc, vì trái lựu đạn đơn giản đó của ông tung ra.
Và đôi mắt ấy biết nhìn xa
Khi ngoảnh gần bên biết đậm
đà
Nhưng cũng biết gieo buồn
khía cạnh
Lạnh đồng tê giá nét thu ba.
Tại hạ mấy mươi năm nay đọc
cũng nhiều loại thi ca ngoại quốc, mà tuyệt nhiên chẳng thấy một vần nào dám
ngang nhiên đứng vững trước mấy vần thất ngôn của Việt Nam nọ.
Ấy bởi vì? Bởi vì thơ Huy Cận
vốn là sầu, nhưng đó là loại sầu thượng đẳng Như Lai, nên chi trong cái nỗi sầu
có pha chất gay cấn chịu chơi. Thơ Homère, Sophocle, Shakespeare, Nietzsche
cũng thường có chất đó. Trái lại, thơ hoằng viễn như không của Nerval,
Hoelderlin, Eluard, lại dường như không có. (Ấy bởi vì họ chịu chơi theo lối từ
bi khác).
Dù sao ta cũng có thể nói rằng
thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông Phương.
XUÂN DIỆU
I. Dường như thuở bấy giờ ông
linh cảm rằng ngày mai chỉ còn đau khổ và tan nát trên mặt đất quê hương, nên
trong tiếng thơ thanh xuân của ông, ông đã dốc hết ra một lần tất cả niềm vui
và nỗi buồn của thời đại.
GỬI HƯƠNG CHO GIÓ
Biết bao hoa đẹp trong rừng
thẳm
Đem gửi hương cho gió phụ
phàng
Mất một đời thơm trong kẽ
núi
Không người du tử đến nhằm
hang
Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều
Là truyền tin thắm gọi tình
yêu
Song le hoa đợi càng thêm tủi
Gió mặc hồn hương nhạt với
chiều
Tản mác phương ngàn lạc gió câm
Dưới rừng hương đẹp chẳng
tri âm
Trên rừng hoa đẹp rơi trên
đá
Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước
thầm
Tình yêu muôn thuở vẫn là
hương
Biết mấy lòng thơm mở giữa
đường
Đã mất tình yêu trong gió rủi
Không người thấu rõ đến nguồn
thương
Thiên hạ vô tình nhận ước mơ
Nhận rồi không hiểu mộng và
thơ
Người si muôn kiếp là hoa
núi
Uổng nhụy lòng tươi tặng
khách hờ.
Xuân Diệu có chỗ đặc biệt
là: ông nói tới niềm bi đát tồn sinh, ông nói rốt ráo cùng cực, mà vẫn ẩn ẩn một
chút mỉm cười mát mẻ. Những hình tượng ông vẽ ra bay múa rộn ràng khiến cho thảm
kịch trở thành một ân huệ mưa móc. Nỗi đời gay cấn biến làm màu sắc phiêu du.
Đoạn trường trở thành mùi hương rớt hột.
Người thi sĩ vốn tiềm tàng một
chứa chất một tư lự hoằng viễn của những linh hồn thượng đạt, nên ngôn ngữ quay
cuồng đủ hướng vẫn qui về thể thái phiêu nhiên niêm hoa vi tiếu của Khổng Tử điềm
đạm trang nghiêm; niêm hoa vi tiếu của Như Lai heo hút man mác; niêm hoa vi tiếu
của Long Thọ Bồ Tát và Heidegger đi bước nghiêm mật trừu tượng trong ngôn ngữ
quẩn quẩn quanh quanh thoáng hiện thoáng ẩn: niêm hoa vi tiếu của Huy Cận suốt
bình sinh thốt tiếng ngậm ngùi; niêm hoa vi tiếu của Trang Tử “mộ tứ nhi triêu
tam, triêu tứ nhi mộ tam”. Niêm hoa vi tiếu của Xuân Diệu “lòng tôi đó một vườn
hoa cháy nắng, xin lòng người mở cửa ngó lòng tôi”…
Biết bao hoa đẹp trong rừng
thẳm
Đem gửi hương cho gió phũ
phàng
Mất một đời thơm trong kẽ
núi
Không người du tử đến nhằm
hang.
Trong kẻ núi? Là nơi chốn của
những hang hốc ngổn ngang um tùm cỏ mọc. Hương hoa mất cả một đời thơm trong kẻ núi. Nghĩa là gió phũ phàng không đem hương hoa về đồng nội thôn làng thôn ổ,
cho nhân gian tiếp đón. Gió phụ phàng đẩy hương vào trong kẻ núi tối om om, lạnh
căm căm, chịu đọa đày trong quạnh hiu tù ngục. Một đời thơm mất đi trong kẽ núi
đá đờ đẫn ra như thế, thì kể cũng đà thiểu não lắm thay. Còn khốn đốn hơn tình
cảnh Thuý Kiều lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh. Bởi vì lênh đênh là trôi dạt.
Trôi dạt thì còn dịp được tấp vào bờ. Hoặc còn mong lưu ly thì được gặp bàn tay
tế độ của Thúc, của Từ… Mà cho dẫu không gặp bàn tay nào cả, thì riêng cái việc
được lưu ly cũng là thơ mộng. Có chìm, có nổi, có dìu dặt, có nhấp nhô.
Còn như? Còn như cái sự tình
mất một đời thơm trong kẽ núi, là cái sự tình ngột ngạt, không khác chi bị vùi
chôn trong nấm mồ, chẳng khác chi cái nhà mồ Siêu Hình Học Âu Châu đã chôn vùi
sấp ngửa Nerval Hoelderlin.
Bị vùi chôn ngột thở, hy vọng
có người du tử nào ngẫu nhiên đi nhằm hang trúng hố, mà cứu ra? Nhưng núi non
thì trùng trùng điệp điệp, hang hố thì hàng triệu ngổn ngang, nằm ù lỳ trong tịch
mịch.
Hy vọng được cứu thoát là hy
vọng của tuyệt vô hy vọng.
Biết bao hoa đẹp trong rừng
thẳm
Đem gửi hương cho gió phụ
phàng.
Biết bao hoa đẹp? Hoa đẹp của
rừng thẳm rừng thiêng? Loại hoa đó không giống loại hoa của phồn hoa son phấn.
Loại hoa đó u nùng như rừng thẳm âm u. Loại hoa đó mọc từ uyên nguyên vũ trụ. Từ
giữa lòng tịch hạp của càn khôn.
Nó tin cậy đem ký thác tinh
thể nó cho gió. Thấy gió phiêu bồng chịu chơi, nó hân hoan gửi hương cho gió.
Thì đùng một cái, vừa gửi đi, thoắt thấy mình chết đắm. Tại sao gió không mang
nó đi tỏa ra man mác bốn chân trời chân mây tứ hải. Gió lại chơi khăm đưa nó
vào trong kẽ núi bịt bùng. Cái tiếng phụ phàng chọi lại đem gửi. Chọi một cách
kịch liệt. Đem gửi? Đem ra mà gửi? Là tin cậy mới đem ra. Gửi đi là kỳ vọng.
Bốn câu tiếp chậm rãi nói ra
sự tình trớ trêu cắc cớ:
Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều
Lá truyền tin thắm gọi tình
yêu
Song le hoa đợi càng thêm tủi
Gió mặc hồn hương nhạt với
chiều…
Mọi tiếng không một tiếng
nào không nói ra cớ sự ảo não. Hoa bản chất vốn là phù du. Đợi nhiều như thế
thì còn gì tinh thể của hoa:
Gió mặc hồn hương nhạt với
chiều
Chiều là hoàng hôn. Hoàng
hôn là đêm tối. Đêm tối là dặm khuya ngất tạnh mù khơi. Ngất tạnh mù khơi là
câm nín. Không một âm thanh tương ứng vọng lại suốt rừng cao, lũng thấp, cồn
bãi lè tè.
Tản mác phương ngàn lạc gió
câm
Dưới rừng hương đẹp chẳng
tri âm
Trên rừng hoa đẹp rơi trên
đá
Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước
thầm.
Gió câm? Gió sao lại câm? Nó
câm bởi vì nó điếc. Nó không nghe cái lời. Nếu nó có nghe cái lời thì ắt nó
không điếc. Nó không điếc thì ắt nó không câm. Nó không câm ắt nó thốt lời đáp.
Nhưng sự tình trái hẳn. Dưới
rừng cũng như trên rừng, hai ngả đều lạnh giá câm nín cả hai.
Dưới rừng hương đẹp chẳng
tri âm
Trên rừng hoa đẹp rơi trên
đá.
Nếu rơi trên đất còn khả dĩ
gọi là. Mà nếu rơi được trên giòng khe thì càng may mắn hơn nữa. Nhưng hoa đẹp
rơi trên đá? Rơi trên đá thì còn ra cái thể thống gì?
Thì cũng tỷ như cô Marceline
rơi rụng cái hồng nhan mình trên cái hình hài anh chàng Michel (L’Immoraliste).
Hoặc cái chú Jan chạm phải
cái phũ phàng cứng rắn của cô em gái Martha. Hoặc cái cứng nuồng Caesonia
Seiphion vấp phải cái khối Caligula sa mạc.
Sa mạc phát tiết anh hoa ra
ngoài một phen thì sự tình đi tới chỗ trầm trọng bất khả vãn hồi.
Jésus Christ phải lên
Calvaire, song song với hai tên trộm cướp…
Tình yêu muôn thuở vẫn là
hương
Biết mấy lòng thơm mở giữa
đường
Đã mất tình yêu trong gió rủi…
Cái trận gió rủi kia đã đem
tai họa đến cho gia đình Nguyễn Trãi. Đã xô Nguyễn Du về giữa triều đình Gia
Long. Đó là nơi chốn phát tiết tiếng thơ xưa kia:
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc.
Và:
Chắc chi thiên hạ đời nay
Mà đem non nước làm rầy
chiêm bao
Và:
Người đâu tá? Quê nhà chưa tỏ
Tuổi bao nhiêu? Tên họ là
chi?
Đã sinh cùng nước cùng thì
Cùng ta không biệt mà ly bao
giờ?
Không biệt mà ly có nghĩa
là: mất hết mọi tương ứng thông cảm. Xô bồ chém giết nhau đủ lối. Thì như thế
cõi đời không còn là cõi sống của con người ta. Lúc Jésus Christ nói với Ponce
Pilate: “Vương quốc ta không phải là cõi đời này” thì ý Ngài muốn nói gì như thế?
Nói xong câu đó, thì Ngài im
lặng. Ponce Pilate hỏi: “Bọn chúng lên án Ngài lan tràn như thế, Ngài nghĩ
sao?” Jésus Christ vẫn im lặng.
Ấy bởi vì câu nói trên của
Ngài đã là lời đáp cho mọi câu hỏi rồi. Ngài không phải là con dân của non nước
này, thì luật lệ của non nước này sao có thể lên án Ngài. Ngài chỉ ghé lại viếng
chơi giây lát, ôn tồn tâm sự phút giây, rồi phiêu nhiên nhi khứ, như đã phiêu
nhiên như lai…
Mọi oan nghiệt trần gian thế
là được gột rửa sạch sẽ vệ sinh.
Ngài đã đóng xong vai trò của
thân thể ở trong cuộc hý trường hư vô kim cổ vô cùng giang mạc mạc.
Bài thơ của Xuân Diệu không
có nói ra như thế. Lời thơ Nguyễn Trãi cũng không. Nhưng nó đã bao hàm tất cả
những gì chuẩn bị cho linh hồn con người ta thể hội sự tình kia, trong cái thể
điệu thi ca hiu hiu hắt hắt. Nó nói chuyện hoa rừng mà không phải chuyện hoa rừng.
Nó nói chuyện người thơ, mà không hẳn là chuyện người thơ. Nó nói một đường để
người ta nghe một ngả. Nó nói chuyện bà la mật để người ta thấy bỉ ngạn là thử
biên. Mà thử biên cũng có thể là vô biên vô tế. Vô biên vô tế cũng có thể là hư
vô mà cũng có thể là không phải là hư vô. Non nước ta không phải ở cõi đời này
nhưng vì sao ta lại về đây và gieo Phúc Âm vào cho non nước? Gieo vào cho non
nước, mà vẫn biết trước rằng non nước chẳng nghe ra. Non nước chẳng nghe ra thì
công gieo là công uổng. Công uổng là luống công lao. Thế tại sao lại bận lòng
gieo rắc? Bận lòng gieo rắc mà lòng dạ vẫn chẳng bận tâm. Chẳng bận tâm sao có
sự đoạn trường. Sao có sự vụ đoạn trường tân thanh? Đã có đoạn trường tân thanh
sao còn gọi là góp nhặt lời quê mua vui một vài trống canh cũng được? Mua vui
chơi một cuộc sao còn thở than “bất tri tam bách dư niên hậu?”.
Nêu câu hỏi lai rai ráo riết
như thế rốt cuộc ta chạm phải cái gì? Ấy là lời thơ hắt hiu đồng Bương Cấn:
Bao giờ ta gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở
hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến
cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta?
Triệt ngộ cái lẽ ẩn mật
trong nếp gấp thi ca, từ đó về sau chẳng bao giờ ta còn dám trách chúa Jésus
mâu thuẫn. Tại sao lúc Ngài bảo là non nước này chẳng phải non nước của Ngài, rồi
lúc lâm biệt, ngài lại thở than: “Hỡi Thượng Đế! Vì sao Người bỏ rơi con !”.
(Xem Trăng Châu Thổ).
II.
Nếu đọc Vân Đài và Ngân
Giang, phải nghĩ rằng đó là lời thơ của bà ngoại bà nội chúng ta, mới cảm thấy
hay thấm thía – thì đọc Xuân Diệu, ắt nên nghĩ rằng đó là thơ của một thằng em.
Sự tình tứ đó sẽ đổi hẳn tính cách.
Sau ba mươi năm dài, trải
bao trận phiêu du ngoài đời, cũng như lưu ly trong thi ca tư tưởng, ngày nay cầm
lại cuốn Thơ Thơ, tại hạ cảm thấy một cái gì không thể tả. Đọc lại thơ
Nguyễn Bính, thơ Lưu Trọng Lư, có thể không bồi hồi chi mấy. Nhưng đọc Thơ
Thơ, lại khác hẳn. Dường như toàn thể tuổi xuân bỗng sống dậy kêu gào.
Xóa đi những lời lếu láo lải
nhải, còn lại những lời chân thật riêng biệt chân thành của tuổi trẻ:
Không có cánh nhưng vẫn thèm
bay bổng
Đi sâu trong sân mà nhớ chuyện
trên trời
Trút thời gian trong một phút
chơi vơi
Ngắm phong cảnh giữa hai bề
lá cỏ
Thơ hồn nhiên rộng rãi như
thế đúng là thơ của thiên tài tuổi trẻ.
Đi trong sân mà nhớ chuyện
trên trời
Ngắm phong cảnh giữa hai bề
lá cỏ
Chúng ta đã ngột ngạt vì thơ
đoạn trường của Nguyễn Du, thơ đìu hiu của bà huyện Thanh Quan, thơ ồ ạt lếu
láo của Nguyễn Công Trứ, thơ trắng trợn của Trần Tế Xương… thơ già trước tuổi của
những thi tài nảy ra trong vòng mười năm nay…
Thì bây giờ cũng đã tới lúc
xua ùa đi hết mọi thứ thơ não nùng kia, và đọc lại Xuân Diệu:
Vì sao giáp mặt buổi đầu
tiên
Tôi đã đày thân giữa xứ phiền
Không thể vô tình qua trước
cửa
Biết rằng gặp gỡ đã vô
duyên.
Kể từ sau 1945, các loại thơ
này vốn không mảy may rung động chúng ta được nữa. Chúng ta đứng trước những
phong ba, linh hồn chúng ta mang những ưu tư khắc khoải khác. Thơ trữ tình, thơ
yêu đương vớ vẩn nhớ nhung kia, chúng ta bỏ trôi mất hút, không một chút bận
tâm.
Nhưng rồi phong ba cứ dồn dập,
càng ngày càng mang tính cách nhố nhế thêm ra, tủn mủn đầu độc thêm ra, thì ưu
tư khắc khoải trở thành chuyện tầm phào, siêu thi, siêu tưởng, siêu triết… trở
thành chuyện đĩ điếm. Văn chương văn nghệ trở thành chuyện bán cá ngoài chợ. Nợ
tang bồng vay trả trả vay, trở thành chuyện phỉnh phờ con nít. Lưu thủ đan tâm,
trở thành chuyện tán gái đâm toàng. Chiếu hãn thanh, trở thành chiếu chăn mài cọ
lầu xanh meo mốc.
Ngót hai mươi năm rồi, ngụp
trong đó, chúng ta lừa lọc nhau và tự lừa dối mình. Bây giờ đã thấm mệt với cái
trò nhảy nhót nhấp nháy kia. Thôi xin từ giã mọi thứ đó. Xin chạy theo sau thằng
thanh niên ngây ngô ngày trước chơi một trận.
III.
Trưa hôm nay con ngồi như trẻ
nhỏ
Giữa đáy trưa trong lòng mẹ
vô cùng
Con là sáo, Mẹ là ngàn vạn
gió
Mẹ là trời, con là hạt sương
rung.
Sương uống mãi chẳng bao giờ
hết sáng
Của trời cao chói lói mỗi
chiều ngày
Sáo ca mãi, lòng mẹ run
choáng váng
Gió vẫn đầy ngàn nội bốn
phương bay
(“Mẹ Việt Nam”)
Thơ Xuân Diệu thường có chất
bát ngát hồn nhiên như thế. Tây Phương Đông Phương cổ kim không có nguồn thơ
nào sánh kịp. Chúng ta quen thói chạy theo đuôi phong trào sùng phụng những
Nerval, Hoelderlin, Rilke, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Tagore, chúng ta không còn cách
gì ngờ ra rằng nguồn thơ Xuân Diệu có thể bao la hơn bất cứ một nguồn thơ thy sỹ
nào. Việt Nam đã có một Nguyễn Du đi khắp cung bậc đoạn trường gay cấn, về sau
có một Huy Cận tiếp hậu ngậm ngùi, một Phạm Hầu cô tịch, một Nguyễn Bính man
mác ca dao. Thử hỏi: chúng ta còn cần chi tới bất cứ một nguồn thơ Tây Phương
nào? Dù là Nerval hay Rilke, dù là Whitman hay Henri Michaux?
Chúng ta cần Xuân Diệu. Cần
một vài vần lục bát của Hồ Dzếnh. Chúng ta đứng xa xa, nguyện cầu cho Hàn Mạc Tử,
Chúng ta phải để cho thơ Xuân Diệu rúc vào tủy xương mình. Vì y đủ thói bông
lông thắm thiết của con người thượng đạt. Y trẻ dại, y lăng nhăng, y nói tới nỗi
đời rồi y xóa đa đoan dâu biển. Y hồn nhiên giũ áo, nắm dây cung cầm Tăng Điền
đánh lên giữa mùa Xuân…
Có một suối thơ chảy từ gần
gũi
Ra xa xôi và chảy đến gần
quanh
Một suối thơ lá ngọt với hoa
lành
Nói trong xóm và rỡn cười dưới
phố
Nguồn thơ mới tuôn ra từ vũ
trụ
Có lẽ là hơi là gió cũng
nên…
(Suối)
“Thiên hạ xuôi xuôi ngược
ngược, khệnh khạng kềnh càng, còn ta, ta hồn hồn ngạc ngạc ca hát như trẻ thơ…
Hãy để cho trẻ thơ tới bên ta… Chim chóc tới bên ta… Các ngươi hãy gột rửa cái
thói học đòi bác học đi. Các ngươi hãy mù lòa đi, và các ngươi sẽ không còn tội
lỗi…”
Chân nhân đời xưa nói gì?
Nói rằng: các người đừng dùng thủ đoạn, đừng lợi dụng những ông Nietzsche để
sát hại trẻ con. Thảm họa của Nietzsche không phải là ở chỗ bị công kích, cũng
không phải bị mấy ông linh mục lên án. Thảm họa của Nietzsche là ở chỗ: bị bọn
hãnh tiến lôi về phe cánh mình để tiện bề gây rối loạn.
HUY CẬN, XUÂN DIỆU
Huy Cận đi từ Lửa
Thiêng tới Hội Hoa Đăng, Tặng Em Mười Sáu, tức là ông đi cái bước tối
hậu, tại bách xích can đầu. Cũng như Nguyễn Du đã dẫn cung cầm bạc mệnh Thúy Kiều
tới giai đoạn “đầm ấm dương hòa”. Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy? Xuân Diệu
già trước tuổi, nên ngay từ đầu, ông đã xóa tiếng đoạn trường bạc mệnh bằng cái
thể điệu ngấm ngầm niêm hoa vi tiếu bàng bạc trong thơ ông. Già trước tuổi?
Nghĩa là phản lão hoàn đồng? Nghĩa là quá già nên hóa ra trẻ nít trở lại? Quá
già kể từ đâu? Kể từ cõi Nguyễn Du vậy. Kẻ nào chưa hiểu rõ chỗ tận cùng tàn
sơn thặng thủy trong cung bậc Nguyễn Du, kẻ đó không thể nào hiểu Huy Cận, Xuân
Diệu đã vì đâu mà già, do đâu mà trẻ.
(Xét lại xem Shakespeare đã
đánh cung bậc nhị bội như thế nào kể từ Hamlet, Macbeth, Othello sang những vở
hài kịch bát ngát của ông. Xét lại Sophocle: bên bi kịch Oedipe, còn có vở
kịch Philoctète).
NGÂN GIANG NỮ SĨ
Xin tặng bà mấy câu thơ tôi
lắp lại thơ bà một buổi chiều lỡ dở:
Hoa đào ngỏ vắng rụng mong
manh
Tỉnh giấc trà suông liễu rủ
mành
Đất lạnh xóm nghèo hoa chậm
nở
Can tràng ai hẹn với ngày
xanh.
Ngày xưa chúng tôi không được
đọc thơ bà. Sách Hoài Thanh Hoài Chân đã bỏ sót. Nay gặp bà trong sách của Nguyễn
Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng. Thấy ông Bùi Khánh Đản họa thơ bà, tôi cũng xin nối
điệu chút ít. Tôi không biết họa thơ. Xin gieo vài lời vịnh lạc lõng:
Mưa thu buổi sáng ướt thềm
Tiếng rên rỉ nọ còn thêm nỗi
gì.
Dâng lên từng đợt lỗi nghì
Mùa xuân đã chết ai về gọi
thu.
Tôi đọc kỹ những bài thơ và
văn xuôi của bà trong cuốn sách ấy. Tôi biết nói gì bây giờ? Chẳng lẽ lại lảm
nhảm nói một điều quá hiển nhiên rằng thơ bà cũng quan trọng như thơ Bà Huyện
Thanh Quan? Đằm thắm não nùng như linh hồn Đoàn Thị Điểm? Bà hiện giờ ở đâu? Nếu
quẩn quanh có mặt ở Sài Gòn? Thì chắc tôi xin rúc ra khỏi gian nhà, đi tìm thăm
viếng bà.
Bài “Xuân Tưởng”, bà có ghi:
“Dám mong các bạn thơ trả lời bằng những câu hỏi thơ này”.
Tôi cũng không thể trả lời bằng
thơ. Trả lời bằng văn xuôi cũng không thể. Chỉ có thể viết câu hỏi của bà đã
nêu ra:
Hoa đào múa cánh cuối đông rồi
Một vẫy tay tiên đủ tám bài
Ngày muộn trường văn tàn nét
bút
Người làm thơ muộn đấy là
ai?
Là ai? Tôi không biết. Nhưng
người làm thơ muộn có thể biết. Vậy để nhờ người ấy đáp.
Cách mấy mươi năm giấy mực
già
Bất ngờ trùng hiện gió xưa
hoa
Người làm thơ muộn nêu câu hỏi
Kẻ muộn làm thơ họa há là…
Tạm đáp dở dang như thế. Bây
giờ tạm gọi là bình tĩnh yên ổn. Xin chậm rãi chép lại vài bài thơ của bà ra
đây.
1. NGÀY XƯA
Ngày xưa có một người thơ
Vào rừng thông lạnh đợi chờ
gió reo
Chim hôm loáng thoáng qua
đèo
Cảnh chiều buông tiếng
chuông chùa ngân nga…
2. THẾ RA
Thế ra thu đã đến rồi
Thảo nào mưa gió tơi bời mấy
hôm
Xa xôi ai đấy có buồn?
Thôn Dương nhành liễu võ
vàng tương tư
3. ĐÊM MƯA
Gió mưa ướt áo đủ rồi
Sao còn ngấm lạnh lòng tôi
thế này
Ốm đau đã mấy tuần nay
Nét cười đã với tháng ngày
trôi xa
Giờ không gạn chút vui thừa
Tựa song quạnh vắng nhìn mưa
rơi buồn
Nhờ ai chắp hộ mảnh hồn
Đã vì đau giận rũ tan khắp
trời
Mưa rơi từng giọt mưa rơi
Lòng ai có lạnh như tôi thế
này
Kính thưa Ngân Giang nữ sỹ!
Vãn bối nhận thấy rằng thơ
và văn xuôi của tiền bối đều đạt tới mức lô hỏa thuần thanh. Tiền bối hồn nhiên
đạt tới như thế là vì tâm hồn tiền bối mênh mông? Hay là tiền bối có chịu khó
luyện tập nhiều năm nên mới đạt được thập thành công lực?
Nay mai nếu tôi làm được bài
thơ nào, tôi xin đề tặng tiền bối. Và nếu tiền bối cần thỉnh giáo điều gì, tại
hạ cũng sẽ sẵn sàng chỉ vẽ cho. Chả hạn? – Chả hạn: tại hạ vốn là thằng thy sỹ
đi khắp cõi uyên nguyên, siêu thực, gặp từ con chuồn chuồn nguyên thủy bão
giông, tới con hùm thiêng thủy nguyên giông bão, vì lẽ gì tại hạ lại còn chiều
chuộng những bài thơ chả có chi bão tố phong ba? – Đáp rằng: tại hạ đã chán ngấy
hết mọi thứ phong ba bão tố rồi. Tại hạ thấy nó cũng ù lý le lói ra một thứ nhà
ma đó thôi. Ích gì mà triền miên lâu ngày ở trong đó. Nên bế mạc sớm cho xong.
Tại hạ tìm tới viếng thăm tiền bối, xin uống một tách nước trà đạm nhiên là đủ.
Chỉ cầu mong một điều: trà kia không có pha thêm những bột phấn phồn hoa, và
bàn tay pha trà không phải là bàn tay của một kẻ tốt nghiệp chuyên môn nơi một
trường cao đẳng Trà Đạo, Trà Lý gì gì hết cả!
HỒ DZẾNH
I.
Bài “Rằm Tháng Giêng” của Hồ
Dzếnh quả thật là một bài thơ hay:
Chị tôi vào lễ trong chùa
Hai chàng trai trẻ khấn đùa
hai bên
Lòng thành lễ vật dâng lên
Cầu cho tiểu được ngoài
giêng đắt chồng
Chị tôi phụng phịu má hồng
Vùng vằng suýt nữa quên bồng
cả tôi
Tam quan ngoài mát chị ngồi
Chị nghe đoán quẻ chị cười
luôn luôn
Quỉ thần thóc mách mà khôn
Số này chồng đắt đẻ con cũng
nhiều
(“Rằm tháng Giêng”)
Người Việt Nam có thể không
đọc Nguyễn Du, nhưng không thể nào không đọc bài thơ kia của Hồ Dzếnh.
Bài “Lời Về” của ông riêng bốn
câu cuối cũng đủ là một tuyệt tác cổ kim:
Vó ngựa từ ngày vỗ xuống Nam
Truông mòn đưa lối Hải Vân
San
Áo nâu phai nhạt màu cây cỏ
Lá rụng hoa rơi đất nước
Chàm.
Một bài tứ tuyệt như thế
đúng là một tặng vật của Đường Thi. Nhưng Đường Thi ghé xuống Việt Nam, Đường
Thi đã nhảy một bước vô biên. Không còn Lý Bạch, Thôi Hiệu, Tô Đông Pha nào chạy
kịp được nữa.
Vì trong đó có ba sử lịch
đang gùn ghè nhau. Sử lịch Trung Hoa, sử lịch Việt Nam, sử lịch Chiêm Thành:
Lá rụng hoa rơi đất nước
Chàm.
Một câu thơ đơn giản như thế
mang toàn khối Như Lai trong mấy trăm bộ kinh Phật. Và thừa dư công lực hư vô để
thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học Tây Phương. Ông Heidegger khỏi phải bận tâm
hỳ hục lôi cả Hoelderlin, Sophocle, Parménide, vào trong cuộc thiết lập cơ sở mới
làm gì.
Cái cuộc Lữ dị thường của Khổng
Tử bỗng nhiên tiếp giáp với Thái Hư Tịch Mịch trong bốn câu thơ kia của Hồ Dzếnh.
Đó là điều mà trong tập Điêu Tàn của Chế Lan Viên, ta mỏi mắt tìm
không thấy.
II.
Phải quên mấy bài lục bát của
ông Hồ Dzếnh thì mới còn can đảm làm thơ. Hoặc còn chịu khó đọc thơ Tây thơ
Tàu.
Nhưng mỗi phen đang giữa cơn
chịu khó liên trì mà chợt sực nhớ cái bài “Phút Linh Cầu” của Hồ Dzếnh, thì ối
thôi! ối thôi! Chẳng còn thể nào tiếp tục công việc gì nữa cả. Linh hồn bỗng
nhiên xô ùa máu me chạy tuột đi hướng khác, vô phương nắm cầm lại…
Khói trầm bén giấc mơ tiên
Bâng khuâng trăng rải qua miền
quạnh hiu
Tô Châu lớp lớp phù kiều
Trăng đêm Dương Tử mây chiều
Giang Nam.
Không còn một loại thơ kim cổ
nào đứng nổi trước cái trận chiêm bao kỳ ảo kia. Tôi thách các bạn tìm trong
thi ca cổ kim bất cứ một bài thơ nào đứng vững nổi trước mấy vần lục bát của
ông bạn Minh Hương kia.
Hễ thong dong tự tại thả
mình theo thơ đó, thì cảm thấy như mình biến làm thiên thần. Mà hễ hì hục cố
bàn giải vào, thì bỗng nhiên tức thở, ngột hơi, cảm thấy mình là một con đười
ươi lếu láo trơ trẽn, không biết xấu hổ là gì.
Lỡ viết ra đôi lời giải
thích thì về sau sẽ ân hận, sẽ mòn mỏi máu me kịch liệt.
Cũng may cho ông Nguyễn Du
sinh ra ở thế kỷ trước. Nếu sinh ra đồng thời với Hồ Dzếnh, ắt ông Nguyễn Du
không còn chịu viết Đoạn Trường Tân Thanh làm gì.
Mọi thy sỹ ngày nay đều là kẻ
bất hạnh. Bị đọa đày làm thy sỹ, trong khi cõi thơ không còn lối để bước. Mấy
chục bài lục bát của Hồ Dzếnh là đại dương thi ca. Ta còn đem vài giọt nước rót
vào đại dương làm gì?
Có lẽ Hồ Dzếnh cũng rõ điều ấy,
và vì lòng từ bi, ông bèn làm thêm nhiều bài thất ngôn xoàng xoàng in xen lẫn
vào. Cốt để che bớt cõi bao la của đại dương. Nếu không làm thế, thì mặc nhiên
lên án tử hình hết mọi thy sỹ năm châu.
Ấy có nghĩa rằng: tập thơ Quê
Ngoại của ông cho người đọc nhìn ra ẩn ngữ thơ mộng của mặt đất chỗ này: một
tâm hồn nhỏ dại, quanh quẩn với những nhớ nhung nhõng nhẽo tâm tình bê tha, mỗi
phút xuất thần kỳ ảo bỗng nhiên nhảy vọt một bước lên tột đỉnh thiên tài, không
có gì giải thích được.
III. (HỒ Xuân DzẾnh)
Tôi thêm chữ Xuân vào tên
ông, ấy chẳng phải là hoàn toàn làm điều phi lý. Chính ông đã có tập thơ Hoa
Xuân Đất Việt. Tôi không thể tự ban thêm cho mình một tiếng xuân vào trong tên
tuổi. Nhưng riêng biệt với Hồ Dzếnh, chúng ta được quyền gọi ông là Hồ Xuân Dzếnh.
Chính ông cũng đã ngang nhiên tuyên bố:
Ý thiêng người thiếu ta thừa
Nghìn kho ân lộc trăm mùa mạnh
xuân.
Một loại xuân kỳ lạ cứ về
kêu gào làm nứt rạn những vần lục bát của ông. Nứt rạn không phải là vỡ toang.
Nứt rạn là cái vùng ẩn mật để cho mọi thứ mùa xuân có chỗ len lấn đi về trong một
mùa xuân. Chất thơ xuân của ông từ đó mang tính chất hàm hỗn bát ngát. Xuân vui
mà nghe như buồn. Xuân buồn mà nghe như vui.
Ý thiêng choán hết linh hồn
Còn đâu gió nhớ cung buồn mà
ca.
Ông vừa dứt câu, quyết liệt
như thế, thì mọi người bỗng nhiên tê lạnh cả máu me, vì biết rằng cái cung buồn
kỳ ảo đang lù lù thị hiện trong câu thơ đòi xóa sạch cung vui. Và quả thật người
ta không lầm. Trong Hoa Xuân Đất Việt bốn câu này vẫn nằm sừng sững
đó:
Ngoài kia niên thiếu ca xuân
mới
Trong lũy tre xanh đời vẫn
buồn
Ai biết để lòng yêu một buổi
Bay về thăm viếng mái cô
thôn.
Bài “Mái Lều Tranh” ghi lại
hình ảnh đối kháng nhau; đi sát bên nhau, vẫn không làm sao hòa vào nhau cho được.
Hai hình ảnh thăm thẳm riêng biệt trong lịch sử người ta:
Mẹ tôi sống lặng trong làng
nhỏ
Đâu biết thời gian đổi mới rồi
Lòng vẫn đau buồn thiên vạn
cổ
Nào hay non nước hãy reo vui
Cái tiếng “hãy” đơn sơ kia lại
đang làm nứt rạn câu thơ một lần nữa. Cũng như tiếng “đâu biết, đổi mới rồi”.
Còn tê buốt hơn tiếng “Đau buồn thiên vạn cổ”.
Vú mẹ đã khô nguồn sữa cũ
Tình con còn lại bấy nhiêu
thôi.
(“Trang sách xưa”)
Trở lại với Quê Ngoại,
chép bài “Phong Châu”:
Giếng vàng ánh ngọc nghìn
xưa
Giở trang sách cũ hương thừa
còn bay
Mà sao người đó ta đây
Tình duyên phảng phất như
ngày đã xa.
Người về ta mới nhớ ra
Yêu là thế ấy mơ là thế
thôi.
IV.
Bài “Giang Tây”, và bài
“Phút Linh Cầu” khiến tôi bải hoải tay chân. Không còn can đảm đọc thơ Nguyễn
Du, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Nguyễn Bính gì được nữa.
Hồ Dzếnh cũng không thể nào
làm thơ tiếp được nữa.
Gauguin bỏ chạy trốn Âu
Châu, tìm tới một hải đảo vô biên vô tế, suốt bình sinh ngồi vẽ lại màu mắt gái
trùng khơi trong những buổi hoàng hôn đại hải, ấy cũng là một lối đi tìm cái dư
vang nào trong thơ Hồ Dzếnh.
Biển chiều vang tiếng nhân
ngư
Non xanh thao thiết trời thu
rượu sầu
Nhớ thương bạc nửa mái đầu
Lòng nương quán khách nghe
màu tà huân.
PHẠM HẦU
I.
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những
ai
Đó là hai câu thơ cuối bài
“Vọng Hải Đài”. Đó cũng là bầu khí hậu mênh mang sầu cô độc bàng bạc khắp mấy
bài thơ của Phạm Hầu còn rơi rớt lại chúng ta ngày nay.
“Chúng tôi đã cố công sưu tầm
nhưng chỉ được đãi ngộ sáu bài thơ. Âu cũng lấy đó là niềm vui vậy.” (Việt Nam
Thi Nhân Tiền chiến)
Hai ông Nguyễn Tấn Long,
Nguyễn Hữu Trọng đã viết một bài hoàn hảo về Phạm Hầu.
Chẳng biết trong lòng ghi những
ai?
Thềm son từng dội gót vân
hài
Hỡi ơi! Người chỉ là du
khách
Giây phút dừng chân vọng hải
đài
Kể từ ngày gặp Phạm Hầu
trong Thi Nhân Việt Nam (của Hoài Thanh - Hoài Chân) tới nay đã ngót
một phần tư thế kỷ. Thằng học sinh đầu xanh nay tóc đã bạc. Nó xin đọc ôn lại
thơ Phạm Hầu.
Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ
trước
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi
thêm chi?
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ
bi
Gió bốn hướng giằng co trong
tử biệt.
Phạm Hầu viết những lời như
thế thuở ông hai mươi mấy tuổi đầu. Hai mươi mấy tuổi mà dường như đã có đủ
trong hồn một trăm năm đạo hạnh. Ông đi vào thi ca, nghệ thuật, với tâm hồn con
người thanh tu đạt đạo. Người thanh niên ấy đã biết khước từ hết mọi thứ “dưỡng
chất trần gian” và âm thầm gửi cho trần gian một chút tặng vật nho nhỏ.
Ngờ đâu tặng vật nho nhỏ kia
lại khổng lồ như một Kim Tự Tháp nằm giữa sa mạc mênh mông để ghi lại ngấn tích
một nền văn minh huyền ảo nhất thế gian.
Ông là con nhà thế phiệt trâm
anh. Ông được kế thừa “y bát” của phụ thân Phạm Liệu. Y bát chân truyền kia đã
đặt toàn khối văn học tư tưởng Trung Hoa tới đứng trước trận gió Tây Phương thổi
lại. Thơ Phạm Hầu từ đó là cái vùng kết tinh của hai thể tinh văn minh. Hai văn
minh đang gặp gỡ nhau, gùn ghè gắn bó hay tương tranh tiêu diệt nhau chơi? Chẳng
rõ. Nhưng cái Tại Thể Thi Nhân của Phạm Hầu đã chịu hiến dâng thân mình ra làm
Trường Sở Trụ cho cuộc cơn kia. Ông chấp thuận cuộc hôn phối cũng như cuộc giằng
co. Và đem thân mình làm chiếc dương cầm cho ngân lên những cung bậc mênh mang
chưa từng thấy trong văn chương kim cổ.
Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ
trước
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi
thêm chi?
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ
bi
Gió bốn hướng giằng co trong
tử biệt
Trong Thi Ca Tiền Chiến, đã
có một Xuân Diệu làm người thanh niên ráo riết, một Huy Cận làm người thanh
niên ngậm ngùi, một Hàn Mặc Tử làm người thanh niên đau khổ cực độ, Chế Lan
Viên làm người chứng nhân cho điêu tàn, Hồ Dzếnh làm người đề huề giao hảo…lại
thêm một Phạm Hầu làm người nghệ sỹ cao vời trang trọng mang một thánh tính u u
ẩn ẩn như Nerval. Phạm Hầu mở ra trở lại chân trời bát ngát của Nguyễn Du trong
giai đoạn cuối buổi Hoàng Hôn. Ông nói ít hơn Nguyễn Du, ông không đi vào giữa
những thiên vạn thể của biển dâu, ông chỉ đơn sơ có mấy lời, nhưng mấy lời đào
sâu khôn tả trong mạch giếng tân thanh. “Mãi Dâng Trọn Hồn Vui” là một kỳ tác
muốn chìm sâu xuống mạch thẳm sinh tồn. Rồi khi ta cũng chịu ngập mình xuống
đáy thẳm kia, thì kỳ tác nọ bỗng hiện thị như một Tòa Cổ Tháp nguy nga. Xin
chép hết ra đây bài thơ đấy.
MÃI DÂNG TRỌN NIỀM VUI
Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ
trước
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi
thêm chi?
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ
bi
Gió bốn hướng giằng co trong
tử biệt
Tiếng rên siết giờ tàn khi
chấm hết
Cảnh thường xuyên đêm sáng đổi
thay màu
Tim nhói lên nức nở những
Ban Đầu
Những giờ cuối rơi rơi thầm
tuyệt vọng
Hay đời hỏi thịt êm và tủy
nóng
Tôi xin nằm yên ổn cả chân
tay
Nắng có lên không mượn rợp
cây bày
Mưa có xuống thêm băng hàn
chút nữa
Trong đầy ải mình trần tê ngọn
lửa
Tiệc chim bằng rỉa rói một
lòng đơn
Nếu tôi đau mà người nhẹ căm
hờn
Chắc hoa núi vui lay ngàn
đóa mộng
Muôn miệng thắm tươi nụ cười
hé rộng
Muôn chân say lay động khúc
quân thiều
Nếu tôi đau mà người được
tin yêu
Trang sách nhỏ nâng niu hồn
xứ lạ
Trên đêm thúy hoa nô liều áp
má
Đôi bạn đời tay dính nhựa
a-giao
Nếu tôi đau, Trời đẹp! Nếu
tôi đau
Mà muôn đời mưa nắng hiểu
lòng nhau.
Jésus Christ lúc lên
Calvaire, ắt Ngài cũng âm thầm nguyện cầu như lời đó. Ngài đã về giữa bụi hồng,
rửa chân cho bụi hồng nhân gian, bây giờ Ngài vĩnh biệt nhân gian, bây giờ Ngài
vui lòng vĩnh biệt, và lời chúc phúc tối hậu của Ngài hẳn nhiên là: bụi hồng ở
lại hãy tiếp tục rửa chân cho nhau.
Còn Như Lai? Như Lai ỡm ờ
niêm hoa vi tiếu: - “Ta có thấy bụi hồng nào đâu? Ta đâu nào thấy đâu có bàn
chân chi đâu mà rửa với chẳng rửa? – Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà?...”
Như Lai có cái tài tình
trong phép đánh trống lảng. Đọc mấy bộ kinh Phật, ta xin xóa hết những nhan đề
“Kim Cương Kinh, Bát Nhã Kinh, Bà Là Mật Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Pháp Hoa Kinh,
Diệu Hoa Kinh, Huyễn Hoa Đệ Nhị Kinh, Ảo Hoặc La Treizième Kinh…” Xóa hết và
chép lại là: “Như-Lai-đích-đánh-trống-lảng-tài-tình-tuyệt-kỹ-kinh.
II.
Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân
Xa nắng chiều hoe nhạt mấy
phần
Một cột đèn cao mơ góa bụa
Đường dài toan nối hận gian
truân.
Bốn câu thơ đầu bài “Lý Tưởng”
của Phạm Hầu dường như kết tụ cả mối sầu của lớp người ngày trước… Sầu trong Lửa
Thiêng, sầu trong những vần tịch mịch nhất của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn
Bính… cùng tìm về đây hội họp. Bốn câu quá sức mênh mang trầm tịch. Dường như tất
cả những buổi chiều cô tịch Việt Nam đã ngưng đọng lại một lần. Những buổi chiều
Thừa Thiên, chiều Hà Tĩnh, chiều Quảng Ngãi Nam, chiều Sơn Tây…
Nhưng mà thật ra trong bài
thơ kia Phạm Hầu không có dụng ý tả buổi chiều gì cả. Nhan đề là “Lý Tưởng”.
Người thy sỹ đi theo bóng lý tưởng đã bắt gặp màu sắc chiều tàn. Lý tưởng ở
đâu? Thiết tha theo đuổi, nhưng chỉ nhìn thấy hoang vu. Chẳng ra lý tưởng là
hoang vu hư không? Phải o bế hư không? Hôn phối với hư không, để thành tựu mộng
hờ lý tưởng? Lý tưởng là mộng hờ? Biết rõ mộng hờ mơ góa bụa, sao vẫn cứ đeo
đai đòi giao hoan với góa bụa?
Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
Phung phí đời tôi mấy độ
tươi.
Cổ kim có một thi nhân, nghệ
sỹ, hiền nhân chân chính nào, lại chẳng nhận ra chính mình trong lời thở than
đó của Phạm Hầu?
Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc
Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ.
Nói theo ngôn ngữ bình dân
thì ấy chính là cái cuộc:
Thả mồi bắt bóng
Bóng bắt chẳng được
Mồi kia không còn
Há chẳng là
Vâng. Biết rành rành rằng thế
là đáng tiếc, mà sao vẫn cứ lu bù mài miệt trong cuộc đáng tiếc kia? Vì sao như
thế?
Ấy bởi lẽ trầm trọng sau
đây:
Thằng thy sỹ có cái cảm tưởng
cắc cớ rằng: nếu từ bỏ cái cuộc cặm cụi loay hoay bắt bóng nọ, đã đành là tránh
được một cuộc đáng tiếc, nhưng vì lẽ gì, hỡi ôi! Chính cái sự tình tránh được
cuộc đáng tiếc, lại chính đó là điều đáng tiếc khôn hàn, gay cấn trong mọi sự
đáng tiếc ở đời.
Do đó, dù biết rằng đuổi đeo
là đáng tiếc, là mòn thân mỏi thể, thân tàn ma dại, v.v… vẫn cứ ù lỳ đuổi theo
mãi mãi suốt một bình sinh.
Thì cũng chẳng khác chi ông
già Heidegger suốt một bình sinh cố công nhọc sức chạy đi kiếm tìm hư vô, để nắm
lấy cái hư vô mà dắt dìu dẫn nó về cho Tại Thể đem nó ra mà thiết lập căn cơ
cho Siêu Hình Học!!! Một hai lận đận nói mãi rằng Tồn Lưu chỉ có thể nhận diện
mình là lúc Tồn Lưu chịu soi bóng mình trong tấm gương vô dạng của Hư Vô!
Một trận hiện diện dị thường
trong khiếm diện gây nên một tình tự vừa hoang vắng vừa chan hòa, một khuyết phạp
thường hằng lại để mọc ra sum suê những lá cây viên mãn cứ xô ùa nhau rụng mãi.
Đó là cái tạm gọi là rappochement
des extrêmes: participation totale et solitude.
Bây giờ chúng ta nên thư thả
đọc lại bài “Lý Tưởng” kia, suốt từ đầu tới cuối, thử đọc thuộc một trận chơi,
để xem mai sau trong chiêm bao, có còn cơ hội điều tra ra manh mối chập chờn
kia của “Lý Tưởng”.
LÝ TƯỞNG
Sầu hương hoa gạo đỏ bên
chân
Xa nắng chiều hoe nhạt mấy
phần
Một cột đèn cao mơ góa bụa
Đường dài toan nối hận gian
truân
Tôi theo tư tưởng vô cùng tận
Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh
hiu
Sáng sớm: rạng đông, chiều:
chạng vạng
Những giờ mới lạ có bao
nhiêu?
Thuở nhỏ đêm mơ nằm thấy bướm
Giờ không mơ bướm lại mơ thơ
Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc
Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ.
- Ao ước ngày mai sắc nắng
thơm
Chiều mai thôi ráng nhuộm cô
đơn
Chiều qua gió thổi lời tôi
nguyện
Quên thổi giùm tôi hận chập
chờn.
Tôi đợi người đây, Tuyệt
Đích ơi!
Dẫu xa, xa cách mấy phương
trời
Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
Phung phí đời tôi mấy độ
tươi.
Nếu bây giờ chúng ta đem cái
tiếng “lý tưởng” của Phạm Hầu ra bài xích theo lối thô thiển của những người
chuyên môn đẽo gọt từ ngữ theo lối phân tích tủn mủn “hợp thời trang”, thì ắt
cái lý tưởng kia không còn đất đứng. Phải xóa sạch nó đi để dọn đường cho khoảnh
khắc hiện tại. Người ta quên mất rằng mọi ngôn ngữ thi ca là của riêng thi ca.
Chúng không có liên can chi tới cái ngôn ngữ máy móc. Chúng nằm trong cái mạch
sinh động tuôn trào như một làn phi tuyền từ lòng đất uyên nguyên. Chúng nói
lên cái niềm ngạc nhiên nguyên thủy của con người đối diện với cõi thế lưu ly.
Nó quên bẵng mọi thứ nhân tuần cập kè trong xã hội ganh đua. Vì thế nó khai trừ
cái “ký ức” lếu láo, cái “kinh nghiệm” bon chen, để phục hồi cái ký ức mênh
mông, cái kinh nghiệm bát ngát trong những cuộc Lữ dị thường “Trải qua một cuộc
biển dâu…”
Muốn quên, thì phải có nhớ.
Muốn nhớ thì phải có quên. Nhưng quên cái gì và nhớ cái gì? Người ta xao lãng sự
xác định đó. Người ta hí hửng a dua lao đầu tới ghì chộp viên kẹo “mới” và cứ
tưởng mình tân kỳ biết coi thường cái bánh cũ.
Nếu bây giờ chúng ta thử
quên hết mọi giáo lý mà Ki Tô Giáo cũng như Phật Giáo ngày nay nói với ta, thì ắt
cái hình ảnh nguyên thủy của Chúa Ki Tô và Như Lai sẽ hiện ra trong một niềm
kinh thán bao la. Nếu ta quên đi hết mọi bài giảng giải chuyện Kiều của giáo dục
nhà trường và của mọi ông học giả, ắt Nguyễn Du uyên nguyên sẽ hiện trở lại với
cái vùng sương bóng của cuộc Lữ mênh mông Liệp Hộ, và của cơn Tịch Nhiên bất động
của Thanh Hiên. Từ đó sẽ nảy ra một cuộc Hiện Diện vô ngần trong một cuộc Đối
Thoại vô tức vô thanh. Vô tức vô thanh, vì nó không liên can chi tới những âm
thanh của học giả. Vô ngần nghĩa là vô ngấn tích. Cuộc hiện diện vô ngấn tích
vì nó nằm trong một trận khiếm diện dị thường đối với mọi thứ mưu toan thủ đoạn.
Bài thơ của Phạm Hầu đi về
giải thích cho Gia Long cái thái độ im lìm của Nguyễn Du. Giải thích cho Gia
Long? Nhưng có đời nào Gia Long hiểu. Những ông vua Gia Long là những ông Chúa
Tể Vạn Vật, những ông ấy không bao giờ chịu làm Kẻ Láng Giềng thơ mộng của Tồn
Lưu. Biết rõ rằng những ông ấy không bao giờ nghe ra gì gì cả, nhưng Khổng Tử
xưa cũng cứ mở cuộc Lữ Chu Du tới bên gùn ghè đối thoại. Đó cũng là một cách chịu
chơi với Sa Mạc. Cuộc Chu Du của Khổng Tử từ đó mang trọn cái ý nghĩa câu thơ:
Một cột đèn cao mơ góa bụa
Đường dài toan nối hận gian
truân.
ĐINH HÙNG
I.
I.
Nguồn thơ của Đinh Hùng
trong Mê Hồn Ca là nguồn thơ lạ nhất trong thi ca Việt Nam.
Tới Đường Vào Tình Sử,
thì nguồn thơ kia bỗng như tắt ngấm. Đinh Hùng trở thành kẻ rờ rờ rẫm rẫm. Tuy
nhiên, trong Đường Vào Tình Sử cũng còn mấy bài bát ngát ở lại buồn
bã vô song.
II.
Chúng ta khóc như một bầy
thú dữ
Lòng dã man nghe trái đất
tan tành.
Câu thơ như thế đủ giúp mọi
người bước vào cung cấm Mê Hồn Ca, chậm rãi đón nghe cái lời gì trong linh
hồn vân thạch.
Tặng ông Đinh Hùng vài vần cảm
khái:
Bị thường bách tân toan dự
khổ
Ngọc vẫn hương tiêu tộ thử
thân
Vẳng nghe hàng xóm lối gần
Chân đi gót bước cơ trần đa
đoan
Hoàng hậu luống muộn màng
công chúa
Nảy hoa xuân cùng múa lộn
vòng
Ba thu càng lắc càng đong
Càng đầy tâm sự nỗi lòng
càng vơi.
Ngày ông còn sống, tôi gặp
ông mấy lần. Câu chuyện cứ lạc lõng âm thanh. Ông đánh mất ông, tôi đánh mất
tôi. Không hề gì, không hề gì.
Tặng ông một bài nữa:
Tam thiên thủ lạc thiên trường
đoản
Tiểu viên hương vũ loạn mông
lung
Cuồng ca túy hậu điệp trùng
Diệu từ tiền diện bách tùng
tiểu tiên
Hà xứ khán minh niên minh
nguyệt
Thử sinh hòa thử tuyết thử
sương
Vô thanh ngân hán đoạn trường
Mộ vân thu tận vô thường vân
tiêu.
Con người nguyên thủy, ta
không thể rõ tâm tình họ như thế nào. Đứng trước những quyền lực thiên nhiên,
những bão giông sấm chớp, nhìn lại phận thân mình, họ khủng khiếp kinh hoàng,
hay là hồn nhiên chấp thuận? Nhìn xác đồng loại bị rắn độc cắn, hoặc bị cọp beo
vồ nát, họ rú lên những âm thanh hãi hùng như thế nào, ta không hình dung nổi.
Những đêm đông mưa bão rét buốt, ẩn thân trong những hang đá lạnh lẽo, họ suy gẫm
những gì về kiếp sống phù du của mình? Họ không được che chở trước trời đất. Đời
sống vật chất cũng như tinh thần, đều hoàn toàn phó thác cho hiểm họa diêu
mang. Không một đức lý, triết lý nhân sinh vũ trụ nào che chở linh hồn họ.
Không một thánh hiền nào thiết lập một Hình Nhi Hạ để họ chui vào nằm yên ổn giữa
cương thường.
Ngày nay, con người có được
nhiều chốn “nương tựa”. Rượu đế, la de, cà phê, khiêu vũ, xi nê… Nếu những thứ
đó không còn chi cám dỗ nữa, thì còn người chạy đi đào sâu những hang hố siêu
hình, tồn thể, hết đào hang xuống tận ruột rà trái đất, lại đào hang lên khắp
cõi thanh thiên. Hoặc chạy ra đại hải đuổi theo con cá vô hình của trùng khơi.
Hoặc chạy vào sa mạc, đuổi theo con chim vô dạng của hư vô. Rồi vẽ vời bao
nhiêu luyến tiếc, chờ mong, hoài vọng, thiên hình vạn trạng để che lấp khoảng
trống vắng dị thường của phù sinh hư huyễn. Rốt cuộc vẫn đối diện với cái khối
lù lù bất khả tư nghị do Tử Thần dựng lên ở giữa đường. Cái khối dị dạng nọ quả
thật gay cấn khôn hàn. Xua đuổi nó không được. Trừ khử nó không tan. Thôi đành
ôm chầm lấy nó ve vuốt mà bảo rằng: - Tử Thần ôi! Em chính là lẽ sống của ta.
Ta sống bao nhiêu tuế nguyệt lao đao lận đận, là chỉ cốt để thành tựu đời mình
trong cái Chết Thơ Ngây Man Mác. Ta ôm lấy em và cảm thấy ấm cúng vô song. - Tử
Thần ạ, lại gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền…
Đó là một lối tự dối mình vậy.
Tô son phết phấn vào khuôn mặt Tử Thần, kể cũng đà thiểu não lòng người bấy
nay. Mà kể ra, suốt bình sinh, con người ta đeo bám vào những thứ gọi là văn
minh tiến bộ, gây dựng nên những thứ gọi là công nghiệp lưu tồn, chẳng qua cũng
chỉ là một cách tự dối mình đấy thôi.
Đinh Hùng Mê Hồn Ca muốn
nhảy vọt một trận, trút bỏ hết mọi thứ “quà” của văn minh gạt gẫm, đi giữa thế
kỷ hai mươi, ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy về đối diện với xã hội
văn minh. Ông muốn khước từ hết mọi thứ xây dựng êm ấm của xã hội văn minh, muốn
trơn trụi gào kêu giữa lạnh lùng vạn vật.
Chúng ta khóc như một bầy
thú dữ
Lòng dã man nghe trái đất
tan tành.
Trái đất chưa tan tành,
nhưng liên miên như đang tan tành, vì kể từ nguyên thủy, linh hồn con người và
thể xác con người đã nối đuôi nhau tan tành giữa vạn vật. Và mọi cuộc xây dựng
chân chính nào của con người, rốt cuộc vẫn như oái oăm góp phần thêm vào mọi thứ
tàn phá ở mọi bình diện.
Người thy sỹ thâm cảm sự
tình éo le đó trong tuổi xuân xanh, và nỗi phẫn nộ không sao giập tắt được.
Không còn tìm đâu ra con đường “phục vụ”. Mọi cố gắng giữa nhân gian, dường như
phó thác hết cho diêu mang hỗn độn “giữa chợ đời vất vưởng bóng sầu nhân…” Thì
văn minh, thì đức lý, thì thì thì? Phân biệt thị phi, hư thực thế nào? – “phù
dung bên phù thể, cõi nào thực cõi tiêu tao? Hồng phấn lẫn hồng trần, đâu đã vì
đâu ô trọc?”
Thì tiếng gào thét của con
người nguyên thủy trở thành tuyệt đối trắng trợn dã man cho vừa tầm diêu mang của
cõi đời hỗn độn:
Ta lảo đảo vùng đứng lên cười
ngất
Ghì chặt nàng cho chết giữa
mê ly
Rồi dày xéo lên sông núi đô
kỳ
Bên thành quách ta ra tay
tàn phá
Giữa hoang loạn của lâu đài
đình tạ
Ta thản nhiên đi trở lại núi
rừng
Một mặt trời đẫm máu xuống
sau lưng.
Nhưng chỉ có thể thét lời ấy
trong thơ, và thét một lần. Rồi ân hận tới. Trong cơn đoạn trường, vị “bạo
chúa” kia đã nằm thiêm thiếp khóc. Vì cuộc tàn phá kia, chẳng giải tỏa được gì.
“- Giết đi hồn nguyệt hoa chiều? Giết đi cả dáng diễm kiều của xuân?” Tàn phá
trong tưởng tượng xong một trận, lại tha thiết nguyện cầu cho nguôi lãng.
Đi vào mộng những Sơn Thần
yên ngủ
Em! kìa em! đừng gọi thức hư
không
Hãy quỳ xuống đọc bài kinh
ái mộ
Hồn ta đây thành tượng giữa
Vô Cùng.
Toàn tập Mê Hồn Ca, vẳng
lên một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét của bạo động, của phản kháng, và
lời than của ân hận nguyện cầu. Tiếng thét đạt tới chỗ cuồng loạn thống thiết
nhất. Lời than cũng thê thảm sâu xa nhất.
Tiếng thét và lời than trầm
thống của Đinh Hùng “Sầu trong tà dục, vui ngoài hiện tâm” dội lên song song với
Hàn Mạc Tử, mở ra cuốn sổ đoạn trường của con người thế kỷ hai mươi, không còn
nơi cư trú. Cuốn sổ đoạn trường mở ra như thế để làm gì? Không biết. Không biết.
Nhưng cuộc mở ra nào cũng đi tới một trận khép lại.
Đinh Hùng trong Đường
Vào Tình Sử, vốn đã có một lối khép lại của riêng ông sau cái trận Mê Hồn
Ca, một lối “Dùng độc dược thử lòng thế tục”. Chúng ta còn có nhiều lối “tịnh hạp”
khác. Xin để tùy mỗi người tìm lối riêng của mình.
Ngôn ngữ thơ trong vài thế kỷ
này đã nẩy nở sum suê, thiên hình vạn trạng. Hoặc ẩn mật thần bí, hoặc đơn giản
như một lời ca dao, thi ca vẫn có sức đưa dẫn người ta vào giữa huyền nhiệm của
cuộc sống. Cuộc sống vừa khủng khiếp vừa nên thơ, cuộc sống không thể nào đem
ra lý luận một cách máy móc. Luận lý học đã gạt gẫm người ta, người ta thi đua
nhau tán dóc. Thằng thy sỹ không thể nào nhảy vào vòng luận lý đú đởn để hơn
thua. Nó cảm thấy chán chường khi phải cùng người luận lý bàn luận thị phi. Tha
hồ để cho bọn họ mặc sức tán hươu tán vượn, ngấm ngầm dùng mọi thủ đoạn để sát
hại thi ca và thằng thy sỹ.
Nhưng thằng thy sỹ có tội lỗi
gì đâu. Nó chỉ ghi lại một đường trăng tê dại, vẽ lại một màu tuyết lạnh, ngắt
một chùm bông ở trên núi chiêm bao đem về làm tặng vật cho con người được rồ dại
chịu chơi giữa chốn phù vân hoặc bụi hồng lông lốc. Mở ra những cuộc tình yêu rờn
rợn vô thủy vô chung, o bế những cơn mơ tuyệt vọng, thì kể cũng hơn o bồng hôn
hít mãi những con vợ già cục mịch cằn nhằn. Đêm tân hôn chỉ có một lần, buổi ly
dị cũng chỉ ra tòa một bận, uống rượu ly bì cũng tới lúc tỉnh ra, chém giết
nhau cũng mất công đào huyệt… Chi bằng vớ lấy bài ca mê hồn, thì lúc nào cũng
có thể mở trận đảo tứ điên tam, ngang tầm với tứ khuynh ngũ phúc của cuộc thế
dâu biển ngục tù. Tuyệt vọng? Thì thà rằng tuyệt vọng với những Kỳ Nữ
Chiêm Bao, những Nữ Chúa Thái Cổ, những màu mắt nâu vô ngần của Gái Hải
Đảo sơ khai, cũng hơn là tuyệt vọng vì những thiếu phụ đẫy đà ngồi trước
quày hàng đếm những đồng tiền dị dạng… Một tay đếm tiền, một tay gãi vào chùm
lông nách… thì như vậy còn chi là khói trầm bén giấc mơ tiên? Còn chi là bâng
khuâng giải qua miền quạnh hiu? Ôi ông Hồ Dzếnh!
Thơ về nắng sáng lừng lay
Gấp đi cánh phượng cho ngày
rạng ra
Cõi trần vẳng tiếng Thiên
Nga
Thơ không tuổi, ý không già:
muôn năm
Gối lên Bắc Đẩu ta nằm
Nghe rung chân lạ, thơ thần
mười phương.
(Hoa Xuân Đất Việt)
BÙI GIÁNG
Những bài thơ “chuồn chuồn
châu chấu” của ông quả thật là có ý nghĩa. Nó bay nhẹ vi vu quả có đúng như là
phận mỏng cánh chuồn. Vào những buổi sáng mùa đông lạnh lạnh ở Trung Việt, vào
những buổi chiều mùa thu ở Bắc Hà, hình bóng những con chuồn chuồn bay lượn cuối
ngõ, đầu xuân, quả thật là tha thướt. Đôi phen mất cái tiết điệu riêng biệt ấy
cũng còn tái hiện trong đôi vần phồn hoa, mặc dù ở chốn phồn hoa không bao giờ
có chuồn chuồn bay vòng múa lượn.
Bài thơ “Giữa phố” sau đây
là một thí dụ:
Thiên tiên đẹp cũng như người
Ngẫu nhiên kỳ ngộ miệng cười
nửa môi
Miền xanh đứng bóng mặt trời
Cõi xanh cung nguyệt cạn lời
cảo thơm
Đi qua làn gió xanh rờn
Đi về ở lại còn hơn xanh rì
Phút giây đè nặng như chì
Thoảng qua như mộng không kỳ
hạn qua
Chiêm bao nàng ghé lại nhà
Môi cười nửa miệng như là ngẫu
nhiên
Nửa môi còn ngậm phi tuyền
Tuyết pha in mặt thần tiên
như người.
Tuy nhiên vì Bùi Giáng là chỗ
quen biết với tôi nên không tiện bàn luận chi nhiều. Chê thì mất lòng nhau. Mà
khen thì mang tiếng “mẹ hát, con vỗ tay”.
Dù sao, bài sau đây cũng nên
trích thêm vào tập:
Bóng dương buồn ngủ qua chiều
Qua sông tại hạ toan liều dấn
thân
Đường sông bóng đổ cơ trần
Gẫm chông gai ấy ai từng đạp
qua
Ghì môi cơn mộng la đà
Tiêu dao suốt cõi mù sa bên
rừng
Nửa vời trăng rộng mông lung
Đường hoa nghi hoặc tháp
tùng ni cô.
TUỆ SĨ
Tuệ Sỹ là một vị sư. Ông viết
văn nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy
ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm
viễn u u …
Một bữa ông đọc cho tôi nghe
hai câu thơ chữ Hán của ông:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh
tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa
phi
Ông bảo làm sao tiếp cho hai
câu để nên một bài tứ tuyệt.
Tôi đề nghị với ông nên nhờ
ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy
tôi xin lai rai thử viết:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh
tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa
phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty.
Và xin ông chả nên lấy thế
làm bực mình.
Nhưng có ai ngờ đâu nhà sư
kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt
phi phàm? Một bài thơ “Không đề” của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ:
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung
trời hội cũ.
Áo màu xanh không xanh mãi
trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình
du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện
trăng tàn…
Mới nghe bốn câu thôi, tôi
đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.
Từ núi lạnh đến biển im muôn
thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó
chưa tan
Cười với nắng một ngày sao
chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn
chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi
quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ
rũ
Suối nguồn xa ngược nước
xuôi ngàn.
Tôi hoảng vía đề nghị: Đại
sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho. Nếu không thì nền thi ca
Việt mất đi một thiên tài quá lớn.
Ông đáp:
- Để về hỏi lại cô Trí Hải
xem có đúng như lời thế chăng.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời
Hội cũ
Xin viết xuống dòng thư thả
như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì? –
Cung trời hội cũ. Một hội đạp thanh? Một hội nao nức? – “Giờ nao nức của một thời
trẻ dại?”.
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung
trời hội cũ…
Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập
vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời
xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh… Một đôi mắt ướt
ngậm ngùi của hiện tại.
Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết
nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói
được hết mọi điều “phải nói” với mọi người “muốn nghe”, với riêng mình “không
thiết chi chuyện nói”.
Người thi sĩ xuất chúng xuất
thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ
nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói
hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên
hạ nghe hay là chẳng nghe.
Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường
như chẳng có chi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một
cách lệch lạc hết cả - par manque de justice interne.
Trong một cuộc vui, ta hỏi họ
vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào
khóc giữa một đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm
hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.
Vua Gia Long ngày xưa đã từng
lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du: - “Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ
Nam, kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (...) Cớ sao khanh lại u sầu ít nói
suốt năm như thế?”.
Ông vua kia lấy làm lạ là phải
lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị
di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch!
Vua đã ban cho chan hòa mưa
móc, ơn Thánh Đế đã dồi dào với Liệp Hộ như thế, lộc trọng quyền cao đặc ân
thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn cứ như thả mộng chạy lang
thang về chân trời hướng khác.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời hội cũ.
Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai?
Vì sao ướt? Vì lệ trào, hay vì quá long lanh?
Thi sĩ không nói rõ. Ấy là
giữ một khoảng trống vắng lặng phóng niệm cho thơ.
Tha hồ chúng ta tự do nghĩ
hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội
cũ.
Hoặc là đôi mắt giai nhân
nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất
tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng?
Áo màu xanh không xanh mãi
trên đồi hoang…
Áo nào màu xanh? Màu xanh
màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã
ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối?
Tôi nói không sai sự thật mấy
đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung
Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng có về Sài Gòn tới chùa viếng ông, đem quà cho
ông một đôi dép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình
du thủ. Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn.
Phút vội vã bỗng thấy mình
du thủ?
Mình là thân bồ tát, quanh
năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du
thủ? Dám gác bỏ kệ kinh? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn?
Phải có nhìn thấy gương mặt
khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời
nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du
bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
Từ núi lạnh đến biển im muôn
thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó
chưa tan
Cười với nắng một ngày sao
chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn
chăng.
Mối tình rộng thả suốt biển
non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ
vơ không gột rửa.
Từ núi lạnh đến biển im muôn
thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó
chưa tan.
Ta tưởng như nghe ra “cao
cách điệu” bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong
cung bậc Nietzsche.
Thi nhân đã mấy phen ngồi
ngó trăng tàn? Ngồi trên một đỉnh đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn
màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải?
Đỉnh đá và hạt muối là hai
chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây
rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận
của tâm tình dừng sững tại giữa tuế nguyệt phiêu du:
Cười với nắng một ngày sao
chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn
chăng.
Một tiếng “buồn chăng” lơ lửng
nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tân thanh đoạn
trường:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà
sang xuân.
Đếm tóc bạc tuổi đời
chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi
quanh.
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi:
Đếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh
Tiết điệu cũng rời rạc như
gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ? Một tuổi Xuân chưa vừa? Một tuổi vàng sớm
chấm dứt? Một tuổi “đá” sớm giã từ mọi yêu thương?
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ
rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn…
Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt
kéo dài trong đêm lữ thứ khép mình trong bốn bức tường vôi nhạt nhòa ủ rũ ngục
tù.
Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã
trùm lấp hết chân trời mới cũ từ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
LÝ BẠCH
Cái sầu của Tản Đà dễ hiểu.
Cái lối cợt nhả của Trang Tử, cũng chẳng có gì lạ. Nhưng mỗi phen nghĩ tới Lý Bạch,
lại như chạm phải một cái gì đồ sộ quá xa xôi. Chúng ta cũng nhiều phen thử uống
rượu lu bù, xem có gần gũi được ông Lý chăng. Nhưng lời thơ nhẹ như tơ trời của
ông vẫn xa vắng quá.
Yên thảo như bích thy sỹ
Tần tàn đê lục chi
Đương quân hoài quy nhật
Thị tiếp đoạn trường thì…
Hoặc:
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương…
Rượu chúng ta uống ngày nay
không phải là thứ rượu Lý Bạch ngày xưa đã uống. Phong cảnh Trung Hoa ngày xưa
cũng chẳng giống phong cảnh thế giới ngày nay. Mà Lý Bạch lại là kẻ thy sỹ quá
riêng biệt. Chúng ta có thể làm thơ chữ Hán vượt hẳn Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Lý
Thương Ẩn. Nhưng chẳng thể nào viết được những lời đơn sơ bát ngát như mấy câu
thơ của Lý Bạch.
SHAKESPEARE
Những hài kịch hý hước của
ông đã đành là vui đáo để. Nhưng những bi kịch âm u nhất của ông cũng pha cái
điệu cười ngầm bất tuyệt. Những nhân vật bê bối nhất cũng chịu chơi trong tấn
tuồng quỷ loạn, và có cái vẻ khả ái riêng biệt.
Cũng vì lẽ đó nên đọc Shakespeare
có cái chỗ nguy hại là: sách ông khiến cho người ta mất ngủ trong những trận cười
suốt đêm.
Chỉ riêng một điều: ngôn ngữ
Tây Phương không có phép nói lái. Do đó Shakespeare đã tiêu hao tài nghệ trong
những trận cưỡng bức dữ dội. Ngôn ngữ không nói lái, mà những Tên Hề của ông,
ông buộc chúng phải nói lái bằng bất cứ giá nào. Thì thử hỏi: làm sao thành tựu
viên mãn cuộc nói lái cho được?
Thế mà Shakespeare vẫn cứ
thành tựu được cuộc ấy như thường. Có lẽ ông đã tận dụng khả năng Anh ngữ trong
cái kho văn chương bình dân bát ngát. Từ đó, những kịch bản của ông vượt hết mọi
kịch bản Hy Lạp Eschyle Sophocle Euripide. Bởi vì trong kịch bản của ông có bao
hàm mọi thứ dị thường của kịch bản Hy Lạp được đẩy tới tột cùng cuống rốn, mà
còn thêm những màu sắc riêng biệt của thiên tài ông, không một thiên tài cổ kim
nào bì kịp trong lãnh vực kịch trường.
Shakespeare có con mắt trông
thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời - đó là điều mà học giả Tây
Phương không thể nào ngờ tới. Mọi sách biên khảo về Shakespeare đều bưng bít
trong những nhận định tủn mủn, gò bó trong những nhận xét về tâm lý nhân vật, về
nghệ thuật kịch bản - những định kiến bám sâu trong tủy não người học giả Âu
Châu trải mấy thế kỷ - trong khi anh hoa thiên tài là tái tạo, là tái lập mọi
quy chế, là phá vỡ những lề luật vớ vẩn chỉ cần thiết cho bọn tài năng thông
thường.
Những bản dịch Shakespeare
ra Pháp ngữ đều chịu đầu hàng vô điều kiện trước phép nói lái của Shakespeare.
THƠ
Thơ là cái gì không thể bàn
tới, không thể dịch, diễn gì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa rào bằng
lời thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một
trận mưa rào, hoặc một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm
thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là: muốn bàn tới một bài
thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác.
Người xưa am hiểu sự đó, nên
họ chỉ vịnh thơ, chớ không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về thơ. Người đời này
trái lại. Họ buộc phải luận thơ cho có mạch lạc luận lý, không được “bốc đồng”
(!) vịnh lăng nhăng. Cái chỗ ngu sy đó là điều bất khả tư nghị vậy.
Sự ngu sy đã tràn lan khắp
chốn, thì kẻ hiểu thơ đành phải tuân theo khắp chốn để mở trận ngu sy.
Từ đó nảy ra không biết bao
nhiêu trận luận về thơ theo lối bửa củi, dịch thơ theo lối gặm xương gà (gặm được
chút da, nhưng không hút được cái tủy).
Muốn hút được chút tủy, đành
phải liều nhắm mắt cắn mạnh một cái. Cắn mạnh một cái, thì gãy mất hai cái răng.
Thì còn bù vào đâu mà hút tủy được nữa. Kể đà thiểu não lòng người bấy nay.
Ông Crayssac dịch Kiều,
ông có hút được nhiều chút tủy, và đã chịu gãy bao nhiêu cái răng của ngôn ngữ
Pháp. Sau đây là một thí dụ của hút tủy và gãy răng.
Sinh rằng lân lý ra vào
Gần đây nào phải người nào
xa xôi
Được rày nhờ chút thơm rơi
Kể đà thiểu não lòng người bấy
nay
Bấy lâu mới được một ngày
Dừng chân gạn chút niềm tây
gọi là
Cái chất tủy trong thơ Nguyễn
Du là: dừng chân gạn chút, được rày nhờ chút, người nào xa xôi, gần đây nào phải,
lân lý ra vào, kể đà thiểu não, bấy lâu mới được, lòng người bấy nay, mới được
một ngày, dừng chân gạn chút… vân vân.
Hãy xem Crayssac dịch:
Et le jeune homme alors à
Thuy Kiéou répondit:
“Je suis votre voisin;
j’habite près d’ici…
Ne voyez pas en moi quelque
étranger, ma chère
Arrivant, impromptu, d’une
lointaine terre…
Grâce à cet incident, j’ai
respiré, très doux,
Quelque peu du parfum qui
rayonne de vous,
Mais, hélas! de combien et
de combien d’angoisses
Mon coeur dut-il subir les
étreintes tenaces,
Et combien dut attendre, ô
Ciel, mon triste amour
Avant de recevoir l’ivresse
de ce jour!
De grâce, arrêtez-vous; que
je puisse, de suite,
Montrer les sentiments
intimes qui m’agitent…”
Ông dịch thơ Việt ra thơ
Pháp như thế, kể còn trúng cách điệu hơn người Âu Châu dịch thơ người Âu Châu.
Henri Michaux có bốn câu vịnh
“Băng Sơn” (Icebergs) đơn sơ bát ngát, mà bản dịch ra Đức ngữ đã chịu gãy mấy
cái răng?
Icebergs, Icebergs, dos du
Nord-Atlantique, augustes Boudhas,
Gelés sur des mers
incontemplées,
Phares scintillants de la
Mort
Sans issue, le cri éperdu du
silence dure de siècles
Bản dịch:
Eisberge, Eisberge, Rücken
des Nord-Atlantik, großartige
Gefrorene Buddhas auf den
unruhigen Meeren.
Blitzende Leuchtfeuer des
Todes ohne Ende wilder
Schrei des zähen Schweigens
der Jahrhunderte.
Tiếng incontemplé (vô
quan chiêm) lại dịch ra làm bất an, dao động… Le cri éperdu du Silence dure des
siècles, trong bản dịch biến ra làm: le cri sauvage du dur silence des siècles.
Thế là nghĩa lý gì? Không biết.
Không biết.
Duy có điều: dù sai lệch bao
nhiêu chăng nữa, thì tinh thể ngôn ngữ Âu Châu vẫn nhiều điểm tương đồng, khiến
dịch giả không đến nỗi phải chịu phận gãy răng lang bối bất kham.
Trái lại, giữa ngôn ngữ Âu
Châu và ngôn ngữ Á Đông, có quá nhiều hang hố. Và những kẻ tự phụ cho mình đạt,
công kích kẻ khác dịch là diệt, những kẻ đó hãy thư thả gẫm lại xem. Nếu những
kẻ đó chịu bỏ ra vài chục năm suy gẫm vấn đề, ắt chẳng còn bao giờ dám tự phụ nữa.
DỊCH.
Từ trong tinh thể của nó, dịch
là tái tạo. Sự ấy dường như quá hiểu nhiên. Ông Nguyễn Du, ông Nguyễn Khắc Hiếu
đều tái tạo triệt để trong các bản dịch chuyện Tàu của các ông.
Nhưng nói gì xa xôi. Thử nói
gần gũi hơn. Nếu bây giờ ta đem Truyện Kiều dịch trở lại bằng văn
xuôi Việt ngữ, hoặc bằng thơ thất ngôn, ngũ ngôn, thì ấy cũng là tái tạo.
Một ca nhi đem một bài ca,
ca lên, cũng là tái tạo bài ca.
Xét cho cùng, mọi hành động
và vô vi, cũng là tái tạo. Tái tạo bằng hơi thở riêng biệt một lần.
Tôi có cảm tưởng rằng lúc thật
sự “sáng tạo”, tôi lại cũng đang dịch. Tôi viết vần thơ “độc đáo” nào, cũng là
đang dịch. Tôi dịch lại ông Nguyễn Du, ông Hồ Dzếnh. Cũng như ông Nguyễn Du,
ông Hồ Dzếnh đã từng dịch người trước, và người trước đã từng dịch người xưa,
hoặc dịch một cái gì đó ở trong vạn vật đang muốn hiển hiện liên tồn trong âm
thanh ngôn ngữ.
Và những người cho rằng kẻ dịch
không có tinh thần sáng tạo, những người ấy cũng đang dịch.
Vậy bây giờ chúng ta hay thi
đua nhau dịch, và thi đua nhau bỏ dở dang cuộc dịch, và đừng thi đua gì hết cả,
để cho cuộc dịch tự nó thành tựu thể thân nó. – “Trời có nói gì đâu… bốn mùa vẫn
chuyển nhịp tuần hoàn… Trời có nói gì đâu…” (Khổng Tử).
II.
Từ trong tinh thể nó, Dịch
là làm điều cưỡng bức. Dịch văn xuôi là điều cưỡng bức. Dịch thơ lại càng là cưỡng
bức triệt để hơn nữa.
Đừng nói chi tới sự vụ dịch
thơ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Chỉ thử hỏi: Có thể nào đem thơ Việt, dịch
ra trở lại làm thơ Việt được không? Có thể nào đem thơ lục bát dịch ra làm thơ
thất ngôn, hoặc ngũ ngôn, hoặc song thất lục bát, hay là thơ tám chữ?
Nói triệt để hơn nữa: Có thể
nào đem thơ lục bát dịch trở lại làm thơ lục bát? Chính ông Nguyễn Du, ông có
thể nào tự mình đem thơ lục bát của mình dịch trở lại làm thơ lục bát?
Không. Lời thơ kia chỉ hiện
ra một lần trong phong thái riêng biệt của anh hoa phát tiết một lần. Buộc nó
phải hiện ra trở lại trong phong thái khác, thì anh hoa tài tử có thể cho phát
tiết một lần nữa, nhưng lần sau không còn là lần trước.
Màu xanh của biển chiều thu
năm nay không phải màu xanh của biển chiều thu năm ngoái. Màu xanh biển phút
trước, không phải màu xanh biển phút sau. Luôn luôn trong vạn vật cũng như
trong sinh hoạt tâm linh, có một trận tái tạo không ngừng. Phải chấp nhận sự đó
như là điều hiển nhiên, thì mọi cuộc dịch dy mới có thể còn chút gì chính đáng
trong cơn liên tồn cưỡng bức.
Trái lại, nếu quan niệm hẹp
hòi, nếu cho rằng dịch phải thật “sát”, không được cưỡng bức dịch dy, thì mặc
nhiên người ta đã cưỡng bức một cách không chính đáng. Vì cuộc cưỡng bức nọ
không đưa tới tái tạo tinh hoa, mà dẫn tới nô lệ ngục tù, nghĩa là sát phạt
tinh hoa.
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là
ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau
đớn lòng.
Nếu người dịch là kẻ tài
hoa, ắt nhận thấy rằng điều cốt thiết trong mấy câu thơ kia, chẳng phải là cái
ý tưởng nó hàm ngụ - ý tưởng “tài mệnh tương xung”, “cõi người ta trăm năm ngắn
ngủi”, “cuộc biển dâu thương hải tang điền”… là những ý tưởng sáo. Trái lại,
cái chỗ bất tử, cái chỗ huyền diệu của câu thơ kia lại là ở những điệp thanh,
điệp âm, đối ngữ…
Trăm năm - một cuộc - những
điều…
Trong cõi - trải qua – trông
thấy…
Chữ tài - chữ mệnh…
Khéo là ghét nhau – mà đau đớn
lòng…
Một cuộc tương tranh, một cuộc
xô xát, trong một cõi trăm năm, được âm ỷ nêu ra âm thầm triền miên trong những
đối ngữ, điệp âm nọ. Đó là cái chỗ thần diệu phát tiết của thơ. Vậy lời dịch
làm sao tái lập được cái chất linh diệu đó?
Ông René Crayssac, ông
Trương Cam Vũ, vô tình hoặc hữu ý đã tái tạo được trong hai bản Pháp ngữ và Hoa
ngữ cái chất thơ âm thầm triền miên trong cốt cách lục bát Việt Nam. Mỗi ông
theo mỗi lối, thuận theo tinh hoa ngôn ngữ mình, đã thể hiện trở lại trong bản
dịch được chín phần mười tinh hoa ngôn ngữ.
Hãy xét bốn câu của Trương
Cam Vũ trước:
Nghịch lữ nhân sinh bách tuế
trung
Mệnh tài lưỡng tự xảo tương
xung
Nhất kinh thương hải tang điền
biến
Mục kích tâm thương kỷ vãng
tung.
Có thể nghĩ rằng đó là do ngẫu
nhiên mà Việt ngữ và Hoa ngữ đã hôn phối chặt chẽ. Cũng có thể nghĩ rằng ấy là
do cuộc tương giao hằng bao thế kỷ mà nảy ra kết quả đẹp đẽ kia. Dù sao thì dù,
lời thơ dịch đã không bỏ lạc cái cốt yếu trong thơ Nguyễn Du. Xin ghi ra những
ngôn ngữ gùn ghè tịch hạp:
Bách tuế - lưỡng tự - nhất
kinh (trăm năm – hai chữ - một trải qua.)
Đó là những đối ngữ. Và đây
là những điệp thanh:
Tuế - tài - tự - tương –
tang – tâm – tung nhất kinh - mục kích – thương hải – tâm thương…
Bốn câu dịch bốn câu, Trương
Cam Vũ có thể tái lập được chừng đó điểm đặc biệt, lại còn dịch được tiếng
“khéo là ghét nhau” ra làm “xảo tương xung” - Thế là người dịch đã thể hội huy
hoàng cứu cánh của công việc vậy. Ông vừa thong dong đi sát ý, lại còn thể hiện
được viên mãn cái hồn thơ.
Bây giờ xét tới lời dịch của
René Crayssac. Crayssac sử dụng Pháp ngữ, Crayssac không thừa thụ những thuận lợi
như Trương Cam Vũ – những thuận lợi do những tương giao lâu ngày giữa Hoa ngữ
và Việt ngữ đem lại – Crayssac đã phải cưỡng bức như thế nào, theo đường lối
nào, trong lời dịch?
Những đối ngữ đi mật thiết
sát gót nhau trong bốn câu nguyên tác, Crayssac không cách gì thể hiện lại được,
thì ông thể hiện theo lối khác bằng cách dịch dôi ra và đưa vào những điệp
thanh phong phú.
Bốn câu của Nguyễn Du, ông
phải dịch ra làm mười hai câu cả thảy mới tạm gọi là lột được phần nào tinh hoa
nguyên tác:
Cent ans – le maximum d’une
humaine existence!
S’écoulent rarement sans
qu’avect persistance
Et comme si le Sort
jalousait leur bonheur,
Sur les gens de talent
s’abatte le malheur
Subissant l’âpre loi de la
métamorphose,
On voit naitre et mourir si
vite tant de choses!
Bien peu de temps suffit
pour que fatalement
Surviennent ici-bas
d’étranges changements,
Pour que des vert muriers la
mer prenne la place
Tandis que, devant eux,
ailleurs, elle s’efface!
Or, dans un temps si court,
ce que l’observateur
Peut bien voir ne saurait
qu’endolorir son coeur.
Nhận định thấy gì?
Những tiếng “trăm năm, một
cuộc, những điều” của Nguyễn Du không còn có thể đi sát nhau để gùn ghè mật thiết,
vì chúng bị loãng mất trong mười hai câu dài dậm duộc.
Nhưng Crayssac ngược lại đã
biết tận dụng những điệp thanh lai láng để thể hiện chất thơ bàng bạc của Nguyễn
Du. Xin chép ra đây những âm thanh âm vận láy đi láy lại:
Cent ans – s’écoulent – sans
que – comme si – le sort – sur les – s’abatte – subissant si vite – suffit –
surviennent – s’efface – si court – ne saurait – son coeur –
Ngoài ra, những đối ngữ thật
sự của Nguyễn Du mà Crayssac không thật sự tái lập được, thì ông cũng đã tái lập
đối ngữ theo cách khác:
Sans qu’avec – et comme si –
Bonheur – malheur
Nâitre – mourir
Tant de choses – bien peu de
temps
Prenne la place – elle
s’efface
Trên đây chỉ là một trong
muôn ngàn thí dụ khác có thể đưa ra khi bàn tới chuyện dịch. Dù sao, điều cốt yếu,
chẳng phải là đạt hay không, có lẽ… Điều cốt yếu, là ý thức về cái chỗ gay cấn
kia, lúc khởi sự đọc văn thơ. Thơ Nerval, thơ Apollinaire, Baudelaire, Whitman,
Dickinson, Rilke, Nietzsche, Heidegger, vân vân, đã bao phen khiến người dịch
đành phải bó tay, bó chân, xin nhảy lùi từng trận.

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là
ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau
đớn lòng.
Thơ Nguyễn Du thị hiện một
cách đoạn trường như thế, thì sự cố nào xảy ra cho thằng tài tử? Ấy là sự cố Mưa
Nguồn, Lá Hoa Cồn… Mọi bài thơ tôi viết ra, đều là vịnh thơ Nguyễn Du tại chỗ
gay cấn âm thầm nhất. Dịch thơ từ đó biến ra làm Vịnh Kiều, trong từng cơn cưỡng
bức. Thơ Nguyễn Du cũng là tự mình cưỡng bức mình. Người ta công kích thơ tôi,
chẳng qua chỉ vì người ta tưởng rằng tôi làm thơ đưa ra cái gì độc đáo lắm.
Lại có kẻ cho rằng thơ tôi
làm u ẩn, súc tích, hơn thơ Nguyễn Du. Ấy chẳng qua là người ta không chịu đọc
thơ Nguyễn Du trong nếp gấp của nguồn thơ ông đấy thôi.
TƯ TƯỞNG VÀ THI CA
Chân nhân đời xưa đưa ra một
“chủ thuyết” nào, đều có như là tình phi đắc dĩ. Chẳng đừng được mà phải nói.
Nói ra, mà vẫn có chỗ như là chẳng có muốn nói ra.
Chẳng đừng được mà phải nói
tới nhân nghĩa lễ nghĩa, như Khổng Tử. Chẳng đừng được mà phải nói bỏ nhân
nghĩa lễ nghĩa đi, như Lão Tử. Chẳng đừng được mà viết tề vật luận, như Trang Tử.
Trang Tử thường dùng phép
“chi ngôn”, ấy là bởi ông đứng ngay giữa cơn lốc của sự tình bất đắc dĩ: muốn gạt
bỏ chuyện thị phi, mà vẫn cứ bị bó buộc phải nêu mãi chuyện thị phi.
Ta thường đem tư tưởng Khổng
Lão Trang ra đối kháng nhau (kẻ chủ trương vô vi, kẻ hữu vi, kẻ xuất thế, kẻ nhập
thế …) nhưng nếu xét tới cái lẽ “sở dĩ nhiên” của những chủ trương “trái ngược”
kia, ắt mọi lời phân biệt phải dừng lại. Mọi lời biện bác bỗng có tính cách phù
phiếm.
Và dường như không còn ai
còn có thể đưa ra được một “tổng hợp” dưới hình thức một học thuyết.
Sau ba cái khối Khổng Lão
Trang, tư tưởng Trung Hoa đã đi vào phiêu nhiên trong cung bậc Đường Thi. Rồi
nó kết tinh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện Kiều là
chỗ dung hợp của Khổng Lão Trang Phật.
Người tư tưởng không còn dám
viết gì về tư tưởng nữa. Trang Tử tái sinh sẽ nghĩ sao về cuốn Nam Hoa
Kinhcủa ông? Ông sẽ viết một bộ Tân Nam Hoa Kinh, hay là ông hồn nhiên
ngâm câu thơ Hồ Dzếnh?
Thơ về nắng sớm lừng lay
Gấp đi cánh phượng cho ngày
rạng ra.
Hoặc câu thơ Xuân Diệu?
Trưa hôm nay con ngồi như trẻ
nhỏ
Giữa đáy trưa trong lòng mẹ
vô cùng
Con là sáo mẹ là ngàn vạn
gió
Mẹ là trời con là hạt sương
rung
Sương uống mãi chẳng bao giờ
hết sáng
Của trời cao chói lọi mỗi
chiều ngày
Sáo ca mãi, lòng tre run
choáng váng
Gió vẫn đầy ngàn nội bốn
phương bay.
Thơ như thế là cái chốn của
“Tâm vô thố hồ thị phi, hưu hồ thiên quân”.
(1-11-69).
(*) Trong nguyên bản văn của
Bùi Giáng, về một nhà thơ ông có thể nói tới nhiều lần, ở những đoạn khác nhau, được
sắp xếp ngẫu hứng hoặc theo một trật tự nào đó của riêng ông. Những người biên
soạn sách này xin ghép tất cả những đoạn nói về cùng một tác giả vào một chỗ,
có đánh số I., II., II…, và xếp các tác giả theo trật tự thời gian xuất hiện (một
cách tương đối), để bạn đọc dễ theo dõi.
Nguồn: Bùi Giáng, Đi
Vào Cõi Thơ (Cuốn I), Ca Dao xuất bản lần thứ nhất 10/69; Thi
Ca Tư Tưởng (Sổ Đoạn Trường - tức Đi Vào Cõi Thơ cuốn II), Ca Dao xuất
bản lần thứ nhất 12/69, Sài Gòn..
BÙI GIÁNG
Nguồn: Bùi Giáng trong
cõi người ta.
Trung tâm VHNN Đông Tây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét