"Tây phương mỹ nhơn" trên nền cảm hứng
đạo lý trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn giao thời
1. Mở đầu
Trong quá trình hình thành
và vận động của nền văn học hiện đại bằng chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX, văn xuôi được xem là bộ phận “mới lạ nhất, hiện đại nhất”. Và trong văn
xuôi, tiểu thuyết là thể loại rất đáng được lưu tâm. Dù chưa phải là chặng hoàn
tất và đạt được nhiều thành tựu thể loại như giai đoạn sau (1930-1945), nhưng
tiểu thuyết giai đoạn giao thời (1900-1930) đã xuất hiện nhiều tác phẩm gây được
ấn tượng. Cho đến nay, người ta vẫn nhắc tới Tố Tâm (Hoàng Ngọc
Phách) với vai trò của “cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tiên”, Quả dưa đỏ (Nguyễn
Trọng Thuật) với vị trí của “cuốn tiểu thuyết luận đề đầu tiên”, Cậu bé
nhà quê (Nguyễn Lân) với ý nghĩa của “cuốn tiểu thuyết giáo dục đầu tiên”…
Trong bài viết này, chúng tôi muốn nói đến một cuốn tiểu thuyết cũng rất đặc sắc: Tây
phương mỹ nhơn của nữ văn sĩ Huỳnh Thị Bảo Hoà. Xét về mặt thể loại, tác
phẩm này có thể được xem là một cuốn tiểu thuyết luân lý. Nhưng đặc sắc của Tây
phương mỹ nhơn không phải ở chỗ nó là cuốn tiểu thuyết luân lý đầu tiên,
mà chính là ở tính chất “ngược dòng”, sự khác biệt của nó so với những cuốn tiểu
thuyết cùng thời khi có chung nguồn cảm hứng đạo lý.
2. Cảm hứng đạo lý trong tiểu
thuyết Việt Nam giai đoạn giao thời
Trong tiểu thuyết Việt Nam
giai đoạn giao thời, cảm hứng đạo lý nổi lên thành một đặc điểm tiêu biểu về nội
dung. Nội dung đạo lý gắn liền với chức năng giáo dục, cảnh tỉnh của văn học
nói chung và tiểu thuyết nói riêng được hình thành chủ yếu từ bối cảnh văn hoá,
xã hội nước ta giai đoạn này. Quá trình đô thị hoá, tư sản hoá đã dần dần hình
thành nên lối sống tư sản. Bên cạnh những ưu điểm đáng ghi nhận, lối sống tư sản
cũng bộc lộ rất nhiều mặt trái đáng phê phán. Không những thế, đạo đức truyền
thống đã tồn tại hàng nghìn năm, tới đây có nguy cơ lung lay trước cuộc “mưa Âu
gió Mỹ”. Nhiều giá trị đạo đức truyền thống bị đảo lộn hoặc bị đo bằng thước đo
phi đạo đức. Nhưng nguyên nhân sâu xa hơn là do chính sách của thực dân Pháp
trong việc cải cách nền giáo dục ở Việt Nam. Việc nhanh chóng loại bỏ nền giáo
dục Nho học của nhà cầm quyền đã dẫn đến tình trạng suy đồi đạo đức trong xã hội.
Các giềng mối không còn được duy trì như trước nữa, thực dân Pháp gặp phải khó
khăn trong việc cai trị. Họ liền nhận ra rằng việc sớm chấm dứt dùng chữ Hán là
một sai lầm, cần phải trả lại vị trí cho các giá trị đạo đức, luân lý cũ, trước
hết là trong các nhà trường. Kết hợp với việc truyền bá chữ quốc ngữ, thực dân
Pháp cho dịch sách chữ Hán (Minh tâm bửu giám, Hiếu kinh diễn nghĩa...), phiên
sách chữ Nôm (Huấn nữ ca, Thơ mẹ dạy con, Gia huấn ca...) ra thứ chữ mới này.
Bên cạnh đó, các sách đạo đức được biên soạn mới bằng chữ quốc ngữ như Ngũ
luân minh cảnh(Nguyễn Đình), Việt Nam luân lý tập thành (Diệp Văn
Cương), Ấu viên tất độc (Trần Phong Sắc)... cũng xuất hiện ngày càng
nhiều. Ngoài ra, các sách giáo khoa của Nha học chính Đông Pháp như Quốc
văn giáo khoa thư, Hán văn tân giáo khoa thư,Luân lý giáo thư… cũng dạy về
đạo đức. Tuy nhiên, cuộc tái hồi của đạo đức Nho gia trong hoàn cảnh xã hội mới,
lại gắn liền với một phương tiện ngôn ngữ mới nên không còn giữ được nguyên vẹn
những khuôn mẫu của đạo đức Khổng Mạnh mà có nhiều sự điều chỉnh. Bên cạnh những
bài học về đạo lý làm người có giá trị nhân văn sâu sắc và mang tính chất vĩnh
hằng như phụ từ, tử hiếu, lòng nhân..., sách đạo đức còn có những bài dạy về
lòng biết ơn đối với nước đại Pháp đã có công bảo hộ. Đặc biệt, vào thập niên
hai mươi của thế kỷ XX, nhiều cuốn sách nói lên quyền của nữ giới như Nam
nữ bình quyền (1928),Phụ nữ dự gia đình (1929) của Nữ lưu thư quán đã
ra đời. Cùng với đó là sự xuất hiện của một số tờ báo như Nữ giới chung,Phụ
nữ tân văn… Quan niệm về người phụ nữ trong xã hội, do vậy, đã có rất nhiều
thay đổi.
Trong bối cảnh đó, cảm hứng
đạo lý - nguồn cảm hứng đã có cơ sở vững chắc từ văn học trung đại, vẫn tiếp tục
dòng chảy của nó. Tuy nhiên, trong tương quan đối lập giữa đạo đức truyền thống
phương Đông và lối sống tư sản do ảnh hưởng phương Tây đang diễn ra ngày càng
gay gắt, nhiều người, nhất là các nhà Nho, đã nhận thấy cái mới không hoàn toàn
đồng nghĩa với cái tốt đẹp. Bởi vậy, cảm hứng đạo lý trước hết tập trung vào việc
vạch trần, phê phán đạo đức, lối sống tư sản. Đáng phê phán nhất lúc này là
thái độ sùng bái chủ nghĩa kim tiền dẫn tới lối sống tham lam, ích kỷ, độc ác.
Đây là một trong những đặc điểm tính cách nổi bật của con người thuộc mọi tầng
lớp trong xã hội bấy giờ, cả ở nông thôn lẫn thành thị. Thị Hạnh (Cuộc tang thương)
là một nàng hầu, vì tham tiền của mà bất chấp đạo lý, lấy ông Hàn, một ông già
đáng tuổi cha cô để rồi sau khi đã bòn rút hết tiền bạc của cải, lại đem cả
nhân tình về nhà khiến ông Hàn giận quá sinh ra ốm đau mà chết. Lê Kỳ Xuân (Lòng
người nham hiểm) vì háo sắc ham tài mà lập mưu hãm hại người bạn là Hoàng Hữu
Chí, những mong chiếm đoạt được con gái bà phủ Ân giàu có để ngày sau được nhờ
cậy. Ông Đinh (Chuyện chị em cô Lê trò Lỳ) là một cán bộ nhà nước nghỉ hưu, vì
lòng ham muốn tiền của, đã ép gả cô con gái xinh đẹp, nết na là cô Lê cho Ông Đốc,
một tên quan giàu có trong vùng... Tuy nhiên, thói ham giàu, coi đồng tiền là mục
đích, lý tưởng sống ở đời được thể hiện tập trung và sâu sắc hơn cả trong những
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh. Các nhân vật như thông Phong (Thầy thông ngôn),
Đỗ Thị (Tiền bạc bạc tiền), Trường Xuân (Tỉnh mộng), hội đồng Lâm Yên (Nhân
tình ấm lạnh)... đều là những kẻ “sống chết vì tiền”, coi đồng tiền trọng hơn
nhân nghĩa, đạo lý, danh dự. Theo đó, xã hội đang ngày càng điên đảo, quay cuồng,
thương luân bại lý. Là một người rất trọng đạo lý, Hồ Biểu Chánh đau xót trước
hiện thực ấy. Bởi vậy, ông đã giữ được cái nhìn tỉnh táo để đi tới tận cùng số
phận những nhân vật này, cho người đọc thấy được những hệ quả của lối sống chỉ
biết có đồng tiền. Cuộc hôn nhân mà thông Phong những tưởng sẽ đem lại cho anh
ta sự huy hoàng, lại kết thúc một cách đau đớn. Thông Phong bị vợ phụ tình, bị
cha mẹ vợ hắt hủi, công việc khó khăn dẫn đến đau ốm, người đời khinh khi. Những
người đàn bà ham tiền trọng của trong Tiền bạc bạc tiền là bà phủ
Khánh Long và bà Đỗ Thị đều bị chết…
Bên cạnh thái độ sùng bái chủ
nghĩa kim tiền, nhiều kẻ có học, thậm chí du học bên Tây về, thay vì bắt tay
vào việc cải tạo xã hội, đem lại ánh sáng văn minh cho đồng bào đồng chủng đã lạnh
lùng quay lưng, khinh rẻ, chê bai nước nhà. Hiện thực đó cũng đã được nhiều tác
phẩm phản ánh. Nhân vật Vĩnh Thái (Khóc thầm) “khảng khái”: “Từ hồi nào cho đến
bây giờ tôi nhứt định không thèm đọc nhựt-trình quốc-ngữ”(1). Roger Trần Thình
(Kim Anh lệ sử) phải học mười năm bên Tây mới lấy được bằng tốt nghiệp trường
“Máy-móc”. Vậy mà: “Từ ngày cậu đậu được cái bằng về, cậu nghênh-nghênh
ngang-ngang lên mặt kỹ sư, không coi ai bằng mình nữa. Cha mẹ cậu thì cậu chê
là gàn, mà người đồng-bang với cậu thì cậu khinh là hủ”(2). Còn người vợ cha mẹ
hỏi cho từ trước lúc đi Tây, người vợ “nết hạnh mà đảm-đang lắm”, thì “nó chê
là đàn-bà An-nam không biết ái-tình, nó không thèm nhìn-nhận gì nữa”(3). Nước
Pháp (người đương thời quen gọi là “bên Tây”) là một xứ sở văn minh, điều này
không ai phủ nhận. Người Việt Nam sang du học bên Pháp phần nào cũng đã lĩnh hội
được sự văn minh ấy. Những điều Vĩnh Thái hay Trần Thình nói ra không phải đều
là sai cả. Chẳng hạn Vĩnh Thái so sánh: “Bên mình bán bánh-mì ngang tàng quá,
bán không có cân lượng gì hết, lại nó muốn bán giá nào nó bán. Bên Tây làm như
vậy có được đâu, ở tù chết”(4). Trần Thình từ khi đi học Tây về “nó nói nó đã
thành nhân nó có quyền tự do của nó”(5). Tiếc rằng, họ chưa có đủ hiểu biết để
tiếp nhận nền văn minh ấy một cách chân chính và đúng đắn. Hiểu biết hạn chế cộng
với thái độ sùng bái phương Tây tới mức bệnh hoạn, đã khiến trong mắt họ những
gì thuộc về “người mình”, “nước mình” đều đáng khinh bỉ, đáng bỏ đi cả. Vì thế,
chính khi trở về nước, họ lại biến thành những kẻ vong bản, mất gốc, không còn
liên hệ gì với giống nòi.
Ngoài ra, tình trạng nhiều
thanh niên trong nước trước "làn sóng Âu Mỹ tràn qua Á Đông", trước
những cám dỗ của hoàn cảnh đã không biết giữ mình, tự buông thả mình vào vòng
sa đoạ, chơi bời vô độ, tới mức huỷ hoại cả tinh thần lẫn thân xác cũng khá phổ
biến và rất đáng lên án. Tiêu biểu là các nhân vật như Văn Sinh (Phồn hoa mộng
tỉnh), Thị Phượng (Mồ cô Phượng), Liên Tử Tâm (Cô Ba Tràh), Yến Hoa (Cô giáo Yến
Hoa luỵ vì tình)… Điểm gặp gỡ giữa họ là trước những cám dỗ của hoàn cảnh hay từ
những đau khổ của cuộc đời, thay vì phải vượt lên để sống cho có ý nghĩa, họ lại
để cuộc đời mình trôi theo những xô đẩy của hoàn cảnh sống, một hoàn cảnh sống
luôn sẵn chứa những mầm mống tội lỗi. Ở đó đầy rẫy những sòng bạc, những ổ mại
dâm, những Sở Khanh, Bạc Bà... Chúng vuốt ve, nuôi dưỡng để cái ác phát triển,
làm biến dạng những bản tính tốt đẹp của con người.
Trong những biểu hiện của sự
sa đọa lối sống, suy thoái đạo đức, hiện tượng phụ nữ ngoại tình, thậm chí là
những người phụ nữ nông dân, đã trở thành một nỗi ám ảnh ghê gớm đối với nhiều
nhà tiểu thuyết, nhất là Hồ Biểu Chánh. Dù chủ trương viết văn để “gieo hột giống
nhân nghĩa”, ông cũng không thể phủ nhận đã có một thực trạng đau buồn như thế
trong xã hội. Thị Lựu dan díu với Hương hào Hội (Cha con nghĩa nặng), Như Hoa
dan díu với xã Xù (Thầy thông ngôn), vợ Hương hào Đều dan díu với Vĩnh Thái (Khóc
thầm)... Đó là còn chưa kể chuyện quan hệ tình dục trước hôn nhân như Bạch Tuyết
với Chí Đại (Ai làm được), Hiển Vinh với Thu Vân (Chút phận linh đinh)... cũng
không phải là hiếm gặp. Hiện tượng phổ biến này trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
đã khiến một số nhà nghiên cứu đi đến kết luận: “Hồ Biểu Chánh tuy có đề cao đạo
lý Khổng giáo trong các tác phẩm của mình, nhưng ông cũng công nhận một thực tại
khó chối cãi là sự thèm muốn trần tục của thân xác con người. Khuynh hướng kiềm
chế dục vọng của thế kỷ XIX đã bị phá tan trong các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh”(6).
Đúng vậy, tất cả những hành động hủ bại, những dục vọng thân xác của nhân vật
trong tác phẩm Hồ Biểu Chánh đều được thể hiện như một sự thật không thể chối bỏ.
Và dường như càng nhận ra đó là một thực tế hiện hữu, Hồ Biểu Chánh càng muốn
quyết liệt chỉ ra để lên án, để loại trừ. Nhà văn tuyệt nhiên không thể hiện
thái độ khoan nhượng hay che dấu.
Không chỉ phổ biến trong tác
phẩm của Hồ Biểu Chánh, phụ nữ ngoại tình đã là tình trạng phổ biến trong xã hội
lúc bấy giờ. Bởi vì điều đó còn được nói tới trong Hà Hương phong nguyệt (Lê
Hoằng Mưu), Cuộc tang thương (Đặng Trần Phất), Một thiên thảm sử (Võ
Nghi Lập), Mồ cô Phượng (Trứ giả)... và nhiều tác phẩm khác cùng thời.
Nhưng chuyện “tày đình” đối với người phụ nữ phương Đông không chỉ xảy ra trong
môi trường đô thị hay những vùng quê nham nhở do thực dân tạo nên, kinh ngạc
thay, nó còn diễn ra ngay trong chốn “lầu son gác tía”. Đó là câu chuyện của Hồ
phu nhân trong Người bán ngọc (Lê Hoằng Mưu). Nàng là mệnh phụ phu
nhân của quan đề đốc Hồ Quốc Thanh. Trong thời gian chồng đi dẹp giặc chưa về,
cảnh chăn đơn gối chiếc đã khiến Hồ phu nhân không giữ nổi mình. Nhà quan cổng
kín tường cao, đêm ngày có lính canh phòng cẩn mật, người tình của Hồ phu nhân
là Tô Thường Hậu đã cải dạng thành một người phụ nữ đi bán ngọc. Viện cớ làm
rơi chuỗi ngọc, chưa lượm hết được, Tô Thường Hậu đã được Hồ phu nhân lưu lại
qua đêm. Một đêm chung phòng, cũng là một đêm ân ái mặn nồng của họ. Để rồi sau
đó, dưới danh nghĩa là một bạn tâm giao của Hồ phu nhân, Tô Thường Hậu đã ở lại
hẳn trong dinh. Hai người cứ thế vui say trong “nguồn ân bể ái”, bất chấp sự
nghi ngờ của đám gia nhân, cho tới tận lúc Hồ Quốc Thanh đột ngột trở về. Tuy lấy
bối cảnh của vùng đất Tô Châu (Trung Quốc), nhưng câu chuyện mà Lê Hoằng Mưu kể
ra, đối chiếu với thực tế xã hội ta lúc ấy cũng chẳng xa lạ gì. Thậm chí, nó
còn như một cái bóng, mà Lê Hoằng Mưu vì những ý tưởng quá táo bạo, đã không tiện
nói ra một cách trực diện.
Trong dòng chảy chung đó của
cảm hứng đạo lý, Tây phương mỹ nhơn đứng thành một mạch riêng. Tác phẩm
gây được ấn tượng ngay từ khi ra đời không phải chỉ vì được liệt vào “thời kỳ
thứ nhất của mục văn tiểu thuyết đàn bà”(7), mà chủ yếu là bởi một đề tài và chủ
đề khá đặc sắc. Câu chuyện về số phận con người trong cảnh mộ lính đầu thế kỷ
XX tự nó đã chứa nhiều thông điệp về hiện thực cuộc sống và bản lĩnh người cầm
bút. Điều đáng nói là, tác giả còn khéo léo lồng vào đó một bài học, một tấm
gương về đạo làm vợ và hơn thế, là đạo làm người thông qua hình tượng nhân vật
là một người phụ nữ phương Tây. Dường như có một sự nghịch đảo trong trường hợp
này. Giữa lúc những ảnh hưởng phương Tây đang làm thay đổi đạo đức và lối sống
của một bộ phận lớn người Việt Nam, tình trạng tha hoá về đạo đức trong xã hội
đã đến mức đáng báo động, thì lại có một người phụ nữ phương Tây mang những phẩm
chất rất đáng quý của phụ nữ Á Đông truyền thống. Bạch Lan là một thục nữ
"mặt trái xoan, mày lá liễu, da trắng như tuyết, môi đỏ như son, hàm răng
trong như ngọc, mái tóc vàng như tơ, cặp mắt thu ba, miệng cười hoa nở"(8).
Là con gái của ông Đạt Văn - trung uý quân đội Pháp, Ngọc Lan sống trong
"một toà nhà lộng lẫy, bày biện trang hoàng. Ngoài vườn trồng các thứ cây
như sa-lê, thái bình và các thứ hoa, trông rất thanh và rất tao nhã. Trong nhà
có một phòng riêng để làm bàn giấy có quạt máy đèn máy đủ thứ"(9). Tuy được
sinh ra ở xứ sở tự do mà cô "không hề lạm dụng chữ tự do như các người con
gái khác"(10). Trên chiến trường Vệ Đông, Bạch Lan là một tình nguyện viên
của hội Hồng-Thập-Tự, đã quen và đem lòng yêu Tuấn Ngọc, chàng trai của xứ sở
thuộc địa An nam đi lính mộ. Mặc cho những kẻ giàu có người Pháp như Mi Sen, Sĩ
Vinh theo đuổi, thậm chí bày trò để xúc phạm Tuấn Ngọc và chia rẽ tình cảm giữa
họ, Bạch Lan vẫn một lòng tin tưởng vào tư cách của người yêu. Đám cưới của họ
đã được tổ chức và sau đó là cuộc sống hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ. Giữa lúc
Bạch Lan đang mang thai đứa con thứ hai thì chiến tranh kết thúc, Tuấn Ngọc bị
trục xuất về nước. Tìm mọi cách để trở lại Pháp với mẹ con Bạch Lan, Tuấn Ngọc
lại bị kẻ xấu hãm hại nên ý định không thành. Bạch Lan từ ngày xa cách, lòng
thương nhớ chồng khôn xiết. Biết tin Tuấn Ngọc không thể trở lại Pháp để đoàn tụ
gia đình, Bạch Lan dù bụng mang dạ chửa, vẫn nhất định từ biệt mẹ cha, dắt theo
con nhỏ, xuống tàu sang Việt Nam tìm chồng. Trải qua bao khó khăn, phiền luỵ,
cuối cùng “gái có công thì chồng không phụ”, gia đình họ đã được đoàn tụ, hạnh
phúc bên nhau.
Nét nổi bật trong phẩm chất
của Bạch Lan chính là tình yêu trong sáng bất chấp ranh giới giàu nghèo, sang
hèn, và hơn thế, bất chấp cả màu da, tiếng nói; là lòng thuỷ chung trọn vẹn với
người chồng mà cô tin tưởng và lựa chọn. Viết lời tặng cho cuốn sách, Tản Đà thừa
nhận: “Truyện Tây phương mỹ nhơn có trọng giá nhất ở chỗ đó”(11).
Trong bối cảnh nhiều tiểu thuyết quốc ngữ giai đoạn này phản ánh thực trạng người
phụ nữ Việt Nam đang chạy theo một lối sống cá nhân ích kỷ, phản bội gắt gao những
phẩm chất quý báu của người phụ nữ Á Đông, chúng tôi gọi Tây phương mỹ
nhơn là cuốn tiểu thuyết "lội ngược dòng" văn chương đạo lý
đương thời. Theo lôgic thông thường, đây có vẻ như là một "tứ lạ" để
diễn tả một ý tưởng độc đáo, hay ít nhất cũng là một tác phẩm thuộc loại luận đề,
thuyết giáo về vấn đề đạo đức phụ nữ trong buổi giao thời của xã hội. Nhưng
theo chúng tôi, câu chuyện này hoàn toàn có thể có thật. Phán đoán này không chỉ
dựa vào lời tác giả: "Câu chuyện Tây Phương Mỹ Nhơn nầy vốn là
chuyện thiệt xảy ra ở xã hội ta: nhơn có một người đàn bà ngoại quốc sinh trưởng
ở nước tự do, kết duyên với một người nước Việt Nam ta, mà ăn ở có tiết nghĩa
có thuỷ chung, thiệt xưa nay hiếm có"(12). Bên cạnh thông tin từ tác giả,
ông Bùi Thế Mỹ trong "Bài tựa cuối cùng" cũng cho biết: “Còn như câu
chuyện trong sách này vốn là một câu chuyện thực đã xảy ra ở hạt Quảng Nam xưa.
Năm xưa, nhân về nghỉ hè ở quê nhà, tôi đã được nghe nhiều người thuật lại”(13).
Ngoài những "nhân chứng sống", nhận định đây là chuyện có thật, theo
chúng tôi, còn có thể được lý giải bằng một lôgic khác. Suốt hàng nghìn năm, dưới
chế độ quân chủ, người phụ nữ Việt Nam đã bị gò bó trong một khuôn khổ quá ư chật
chội của đạo lý luân thường. Đến khi gặp gỡ phương Tây, sự dồn nén ấy được bung
ra. Và như một con lắc, từ tận cùng bên này nó sẽ được đưa đến tận cùng bên
kia. Đạo đức Nho gia lúc này được xem như sợi dây trói buộc cần phải tháo bỏ
triệt để. Quan niệm sống cho người chuyển thành tư tưởng sống cho ta. Ý thức về
con người cá nhân do vậy đã nhanh chóng chuyển thành một lối sống cá nhân ích kỷ.
Trong khi đó, ở các nước phương Tây, quá trình giải phóng cá tính đã qua đi,
người ta nhận thấy giá trị đích thực của cá nhân chỉ có thể có được trong những
mối tương giao đồng loại. Nhiều thứ chúng ta coi là mới lạ đến từ phương Tây có
khi lại là cái mà người phương Tây đã bỏ đi hoặc vượt qua rồi. Do vậy, trong
quy luật tiếp thu, ảnh hưởng, người ta thường nói tới quy luật tiếp biến. Sự tiếp
thu có chọn lọc và biến đổi cho phù hợp với đạo lý, văn hoá Việt Nam là điều
đương thời không phải ai cũng có thể làm được.
4. Kết luận
Tây phương mỹ nhơn cho
dù viết lại một chuyện có thật hay chỉ là hư cấu để làm tấm gương đạo đức, thì
tác phẩm vẫn là một hiện tượng đặc sắc. Nó thể hiện sự giao thoa văn hoá Đông
Tây theo chiều ngược lại với những gì đang xảy ra trong đời sống xã hội ta lúc
bấy giờ. Tác phẩm không chỉ có ý nghĩa với đương thời mà ngày nay, nó vẫn khiến
người đọc phải ngạc nhiên. Đối với đương thời, một mặt nó thể hiện xu hướng tư
tưởng “Pháp - Việt đuề huề”, mặt khác chứng tỏ một cái nhìn khách quan và “rộng
lượng” của tác giả ngay trong hoàn cảnh nước ta đang bị thực dân Pháp xâm lược:
"Lấy lẽ công bình mà phán đoán, thì một người có đức hạnh, có tài hoa hơn
người, dầu cho ở nước nào, ở phương nào, cũng đáng quí trọng, vì là một cái
gương chung cho hậu thế" (14). Trong tinh thần giao lưu hiện đại, tác phẩm
còn có thể được tiếp nhận với ý nghĩa thể hiện mối quan hệ hoà hiếu giữa các
dân tộc trên thế giới. Điều này càng thực sự cần thiết trong bối cảnh toàn cầu
hóa, "thế giới như là không biên giới" hiện nay.
(1), (4) Hồ Biểu Chánh, Khóc
thầm, An Tường xb, Sài Gòn, 1929, tr. 46, 30.
(2), (3), (5) Trọng Khiêm, Kim
Anh lệ sử, Đông-Kinh Ấn-quán xb, Hà Nội, 1924, tr. 20, 16, 15.
(6) John C. Schaffer và Thế
Uyên, “Tiểu thuyết xuất hiện tại Nam Kỳ”, Tạp chí Văn học, Số 8,
1994, tr. 6-14.
(7), (8), (9), (10), (11),
(12), (13), (14) Trương Duy Hy (biên soạn), Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hoà - Người
phụ nữ viết tiểu thuyết đầu tiên, Nxb Văn học, Hà Nội, 2003, tr. 39, 69, 75,
74, 37, 41, 39-40, 41-42.
Thanh Hóa, 12/2008
Lê Tú Anh
Nguồn: Văn học và Ngôn ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét