Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài
Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo
nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao
tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia, văn nghệ sĩ cự phách thượng đẳng.
Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê
Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị xưa nay chưa từng thấy
xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
Tạp chí Tư Tưởng do viện trưởng
Thích Minh Châu làm chủ nhiệm là cơ quan luận thuyết là tiếng nói của viện Đại
học Vạn Hạnh, thường xuyên đăng tải bài viết của các bậc cao thủ này. Những tác
phẩm thi ca, tư tưởng, triết lý, đạo lý của họ vô cùng thâm thúy, có giá trị
mãi cho đến ngày hôm nay.
Lúc bấy giờ có nhà xuất bản
An Tiêm do Thanh Tuệ làm giám đốc, vì một cơ duyên hy hữu nào đó đã dốc toàn
tâm toàn lực ra để lo cho công việc in ấn riêng biệt những tác phẩm thơ văn,
biên khảo, dịch thuật của Bùi Giáng. Sức sáng tạo của thi sĩ vào thời gian này,
từ năm 1960 đến năm 1975 rất mãnh liệt, như ngọn lửa thiêng sáng bừng rực rỡ khắp
trời đất u huyền, khiến cho nhà xuất bản An Tiêm in ấn không kịp:
Tưng bừng xuất bản An Tiêm
Ấn hành cổ lục chung niềm cảo
thơm
Mưa nguồn tuôn ngát xanh rờn
Ngàn thu rớt hột cô đơn cuối
bờ
Đó là một điều không ai hiểu
nổi vì suốt ngày thâu đêm, người ta chỉ thấy một Bùi Giáng lang thang rong
chơi, nhảy múa ngoài đường. Thường ngâm thơ uống rượu lu bù với mọi giới bình
dân đây đó, bạ đâu ngủ đấy ngay ngoài vỉa hè xó chợ, góc quán hiên chùa, rong
rêu lêu lổng khắp đầu phường cuối phố, ngao du trào lộng giữa ta bà, quá độ nồng
say như Tản Đà, Lý Bạch nhưng vẫn thung dung:
Uống xong ly rượu cuối cùng
Bỗng nhiên chợt nhớ đã
từng đầu tiên
Uống như uống nước ngọc tuyền
Từ đầu tiên mộng tới phiền
muộn sau
Uống xong ly rượu cùng
nhau
Hẹn rằng mai sẽ quên nhau
muôn đời
Em còn ở lại vui chơi
Suốt năm suốt tháng suốt nơi
lan tràn
Riêng anh về suốt suối vàng
Trùng phùng Lý Bạch nghênh
ngang Tản Đà
Thi sĩ sống không nhà cửa, không
vợ con, không tài sản, không sự nghiệp, không danh lợi, không là gì cả ngoài một
bầu rượu túi thơ và một bộ quần áo xốc xếch cũ mèm, rách nát tả tơi, trông giống
như một Tế Điên, một Hàn San, Thập Đắc, một gã ăn mày quái dị lạ lùng. Thế mà sức
sáng tạo, sáng tác quá đỗi rạt rào như thác đổ trào tuôn, thật là vô tiền
khoáng hậu. Nhà thơ viết như thần nhập, như nhảy tung vào cõi mật ngôn ẩn ngữ,
làm khơi mở mối giềng xiết bao rực cháy, gây nên một nguồn cảm hứng tưng bừng,
dậy sóng phiêu bồng cho biết bao kẻ đồng điệu, đồng cảm vút hồn bay chuếnh
choáng, ngất ngây trong cơn say sưa túy lúy.
Thi sĩ Bùi Giáng sinh năm
1926 tại Quảng Nam, quả nhiên là một hiện tượng kỳ lạ mà cho đến ngày nay, chưa
một ai có thể hiểu thấu đáo về thế giới tâm hồn hoằng đại, cõi tư tưởng hoằng
viễn thâm hậu và cõi thi ca bát ngát vô song đó. Có người hỏi tiểu
sử thì Bùi Giáng cười đáp: “Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây gay
cấn ly kỳ và sẽ chết đi giữa cỏ cây ly kỳ gay cấn… Thuở nhỏ bỏ học về nhà quê,
làm thơ tặng chuồn chuồn và châu chấu.” Hỏi về sự sáng tác phi thường thì
lai rai nói : “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội,
thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ nhưng thơ là gì, thì đó là điều ta không biết.”
Tuyệt mù những ngày quá mộng
thời còn thanh xuân lang thang ở Huế, Quế Sơn, Hội An, Vĩnh Điện, Đà Nẵng… Đến
năm 1952, lúc mới 24 tuổi, thi sĩ lên đường phiêu lưu vào Sài Gòn, bắt đầu cuộc
lữ phiêu bồng khốc liệt. Từ đó cho đến nay, suốt mấy chục năm trời viễn du biền
biệt, chưa một lần quy hồi cố quận nhưng lòng thì vẫn nhung nhớ triền miên:
Điện Bàn Đại Lộc Duy Xuyên
Xiết bao tình nghĩa thần
tiên mộng đầu
Vĩnh Trinh Lệ Trạch Thanh
Châu
Thi Lai Hà Mật nhìn đâu dáng
người
Người đầu tiên đã mỉm cười
Nhìn tôi tưởng thấy niềm vui
vô cùng
Tôi ngồi tưởng nhớ mông lung
Tưởng từ chín suối tới bao
dung Bầu Trời
Thi sĩ khơi vơi ngồi nhớ quê
như thế. Quê hương cố xứ bên dòng sông Thu Bồn ở Duy Xuyên Quảng Nam. Về sở học
của nhà thơ, quả thật là thông đạt quảng bác vô cùng, làu thông nhiều ngôn ngữ
như Anh, Pháp, Đức, Hán. Không biết thi nhân tự học từ lúc nào mà trở thành một
bậc thượng trí, hầu như vô sư tự ngộ, chỉ do đọc sách mà phát minh tâm địa
như trường hợp thiền sư Huyền Giác đọc kinh Duy Ma Cật mà hoát nhiên triệt ngộ
chân lý diệu thường. Từ đó, trọn suốt cuộc đời thi sĩ cứ phiêu nhiên trên con
đường thênh thang sáng tạo, bước đi thi ca tỏa rợp trời thơ đất mộng bồng bềnh,
bát ngát phiêu diêu.
Nhiều người cho rằng Bùi
Giáng là một gã cuồng sĩ điên rồ hay một đại thi hào, một Bồ tát nghệ sĩ gì gì
đó cũng được, chỉ là những danh từ, khái niệm mà thôi. Điều cần thiết phải làm
là chúng ta hãy đi vào bên trong tâm hồn phong phú, thể hiện qua tác phẩm, may
ra có khám phá được điều gì mới mẻ trong cõi tư tưởng của nhà thơ tài hoa này
hay không?
Tư tưởng trong thơ Bùi Giáng
là gì? Nhưng tư tưởng là chi ? Theo Tuệ Sỹ thì: “Tư tưởng là Con Đường,
là Đạo, là Tiếng Gọi mời ta lên đường. Chính bằng và trên Con Đường ấy, chúng
ta mới có thể bắt gặp được bóng dáng của con người.”*
Vâng, tư tưởng là con đường
mời gọi chúng ta hành động và do vậy, do bởi hành vi tư tưởng cho nên hành động
mới mang một ý nghĩa hoàn toàn mới mẻ mới lạ. Tư tưởng thi ca Bùi Giáng khởi
phát rạt rào từ suối nguồn sâu thẳm tâm linh, từ cõi ban sơ tịch mịch khôn dò.
Đó là cõi bờ âm thanh vi diệu ngữ của trời trăng mây nước, chim bướm cỏ hoa và
ánh sáng rạng rỡ huyền hòa, là bước đi đã đạt tới cảnh giới thượng thừa thi sĩ,
chỉ có thể cảm nhận chứ không thể suy nghĩ luận bàn.
Đi vào cõi thơ Bùi Giáng,
chúng ta cần phải buông xuống cái biên kiến, chấp thủ và chỉ khi nào cái bản
ngã hạn hẹp của mình được chuyển hóa thì lúc ấy chúng ta mới lãnh hội, tương ứng
với ngôn ngữ chân thực nghĩa tân kỳ của thi ca, của một cái gì vốn dĩ vô ngôn
mà phải nói đột xuất bất ngờ:
Ấy là nhạc? Ấy là thơ?
Ấy là rượu đế một giờ bỗng
dưng?
Ấy điên đảo? Ấy điệp trùng?
Ấy từ vô tận lừng khừng mà
ra
Thưa em ngôn ngữ thật là
Cái gì như thể ngọc ngà
thiên hương
Thưởng thức thơ Bùi Giáng,
nên thưởng thức như Phạm Công Thiện nói : Đọc thơ cũng giống như đọc kinh.
Phải thọ, trì, đọc, tụng. Đọc không phải để hiểu mà để biết. Biết cái thâm mật
của một giây phút thoáng qua nhanh chóng hơn ánh sáng và biết cái thâm mật của
tam thiên đại thiên thế giới, của vô số hằng hà tỉ tỉ thiên hà trong lòng ta và
ngoài kia không gian phiêu dật, mà lòng ta là tất cà không gian phiêu dật.
Tại sao Nguyễn Du thường sử
dụng chữ biết trong thơ và ít khi dùng chữ hiểu? Đây là một sự việc quảng mật
cần nên biết trong tương lai của văn hóa Việt Nam. Thơ là cái gì mà chỉ nên biết
chứ không thể hiểu, may ra thì chúng ta có thể biết được cái thâm mật, cái quảng
mật và cái thâm quảng mật, có thể biết được sơ sơ qua loa, chứ không thể nào hiểu
được. Đó là diệu nghĩa vô lượng của tam mật, tam muội trong thơ văn của những
thiên tài vĩ đại trên thế giới.”2/.
Bùi Giáng đương nhiên là một
thi sĩ thiên tài, siêu quần bạt tụy rồi. Tư tưởng nhà thơ bao trùm khắp thiên hạ
và thấu đạt hết ý nghĩa sâu xa thâm trầm của đạo học Đông phương cũng như triết
lý Tây phương. Hầu hết các bậc đạo sư, thiền sư, văn nghệ sĩ phương Đông như Đức
Phật, Duy Ma Cật, Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng,
Huyền Giác, Lâm Tế, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Lý Bạch,
Tô Đông Pha, Tô Mạn Thù, Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Tản Đà đến các triết gia, văn
hào, thi sĩ vĩ đại của phương Tây như Martin Heidegger, Nietzsche, Holderlin,
Wart Whitman, Shakespeare, Gerard Nerval, Kierkegaard, Malraux, Karl Jaspers,
Albert Camus, Saint Exepery, Andre Gide, Apollinaire, Emily Dickinson, Paul
Eluard, Dylan Thomas, Saint John Perse, Rimbaud, Rainer Maria Rilke… đều được
thi nhân nói đến một cách rốt ráo cặn kẽ, tận sâu vào mạch ngầm tư tưởng uyên
nguyên, uyên áo vô cùng.
Chúng ta hãy nghe Bùi Giáng
phát biểu về thi ca: “Thơ là cái gì không thể bàn tới, không thể dịch, diễn
được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa bằng lời thơ, thì có lẽ muốn diễn tả
một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào hoặc một cơn gió
thu, mà muốn thực hiện điều đó, thì ngoài việc làm thơ ra, con người không còn
phép gì khác. Thế có nghĩa là muốn bàn tới thơ, diễn dịch thơ, người ta chỉ có
thể phải làm một bài thơ khác.
Người xưa am hiểu sự đó, nên
họ chỉ vịnh thơ, chớ không bao giờ điên rồ gì mà luận bàn về thơ. Người đời nay
trái lại, họ buộc phải luận thơ có mạch lạc, luận lý, không được bốc đồng vịnh
lăng nhăng. Cái chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghì vậy.”Cho nên, ở đây người
viết không dám luận bàn về thơ Bùi Giáng mà giản dị chỉ là cảm nhận một phần
nào hương vị suối nguồn thi ca lai láng dạt dào, quá sức dữ dội của thi nhân mà
thôi.
Vào miền cõi thơ Bùi Giáng
là tha hồ tự do lang thang tang bồng, rong rêu phiêu lãng ngàn phương mọi chốn,
trên rừng dưới biển đầy kỳ hoa dị thảo, dạo chơi giữa ngã ba, ngã bốn những con
đường sương mù, mây trắng rồi bất ngờ mở ra một phương trời xanh biếc Nguyên
Xuân, đồng thanh tương ứng, tương giao theo điệu chào sơ ngộ xưa sau:
Hỏi rằng: Người ở quê đâu
Thưa rằng: Tôi ở rất lâu
quê nhà
Hỏi rằng: Từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm
dài
Thưa rằng: Nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi
vào
Hỏi rằng: Đất trích chiêm
bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón
nhau
Thưa rằng: Ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu
Nguyên Xuân
Nguyên Xuân là mùa xuân rực
rỡ sơ nguyên trong lòng người, là Diệu Tâm trầm ẩn nhiệm mầu của chúng ta. Từ
cõi quê lòng thanh tịnh đó, thi sĩ bước ra hòa điệu cùng cát bụi phù hoa phố thị,
ngao du ngày tháng ta bà qua biết bao heo hút dặm dài, giáp mặt với sơn cùng thủy
tận của mộng đời hư huyễn phù du. Nhà thơ chứng kiến cõi người ta cứ lo tranh đấu,
tranh cãi đúng sai, phải trái, hơn thua giành giật nhau mãi, ai ai cũng phát
huy cái bản ngã to bự của mình bằng cách chạy theo danh lợi, địa vị, dấy khởi
hoài tham lam, sân hận, si mê... để vô tình quên đi mất cái bản tâm thực
tánh, cái mặt mũi xưa nay, cái cõi miền Tâm Xuân thuần nhiên huyền diệu giữa
lòng mình, cho nên thi nhân chạnh lòng trắc ẩn, thương xót cho những cảnh đời
quá nhiều thống khổ điêu linh, bởi con người cứ mãi đắm chìm trong vọng tưởng,
vô minh, hiểu lầm ngộ nhận:
Trần gian thơ mộng xiết bao
Mà buồn vô tận ai nào biết
ai
Chưa yêu dấu đã lạc loài
Chát chua ngộ nhận tự ngoài
vào trong
Tháng giêng đau khổ mặt trời
Đông sầu lạnh giá đêm dài nửa
năm
Về Bắc ngất tạnh mù tăm
Về Nam chỉ thấy thẳm thăm mịt
mù
Đau thương từ bấy đến giờ
Ai người đã tỉnh đã mơ một lần
Ấy đau thương ấy tử phần
Không cho phép cánh đại bàng
viễn du
Kể từ vô tận mùa thu
Vô biên khốn khổ tội tù một
thân
Kể xa xôi kể gũi gần
Không từ đâu có dặm phần
chia ly
Ôi từ vô thủy ra đi
Đến vô biên xứ từ quy xa vời
Trần gian đáng lẽ tuyệt vời
Về sau chẳng rõ muôn đời đảo
điên
Niềm đau nỗi khổ ưu phiền
Khi biết rõ từng giờ từng phút
buồn thảm, u sầu cứ triền miên vây khổn chốn phù sinh đầy trầm mê, phiền não,
khổ lụy như thế, thi sĩ phát đại bi tâm, nguyện yêu thương hết cả trần gian,
yêu muôn loài vạn vật, cả thập loại chúng sinh giữa ba đời sáu
cõi luân hồi, qua lại đến đi:
Tôi tự nguyện sẽ một lòng
chung thủy
Qua những lần buồn tủi giữa
đảo điên
Thân xương máu đã đành là ủy
mị
Thì xin em cùng lên thác xuống
ghềnh
Em đứng mũi anh chịu sào có
vững
Bàn tay bưng đĩa muối có chấm
gừng
Tôi đã nguyện yêu trần gian
nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da
xương
Xin yêu mãi yêu và yêu nhau
mãi
Trần gian ôi cánh bướm cánh
chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ
dại
Con vi trùng cùng sâu bọ
cũng yêu luôn
Còn ở lại một ngày còn yêu
mãi
Còn một đêm còn thở dưới
trăng sao
Thì cánh mộng còn tung lên
không ngại
Níu trời xanh tay vói kiễng
chân cao
‘‘Con vi trùng cùng sâu bọ
cũng yêu luôn’’huống chi là con người phải không? Tình yêu tình thương ấy
tràn ngập khắp các tác phẩm thơ văn Bùi Giáng, dòng dòng long lanh lấp lánh
như mưa nguồn tuôn đổ, như thác lũ trường giang chảy hoài miên
man ngàn trùng đại hải:
Anh đã định chẳng bao giờ sẽ
nói
Rằng tình yêu là chóp đỉnh
phượng thờ
Vì anh biết gào kêu thân thiết
gọi
Khó lọt vào tim máu của em
thơ
Anh đã định sẽ yêu đời suốt
kiếp
Suốt thiên thu từ vạn thuở
phiêu bồng
Rồi anh chợt thấy mình luôn
liên tiếp
Nửa điên cuồng nửa rồ dại
lông bông
Và từng phút từng giây chồng
chất ngất
Một trăm năm đứt ruột nát
gan vàng
Một vĩnh viễn đoạn trường
chìm ngây ngất
Dưới trầm luân từ thực thể
muôn vàn
Từ thực thể muôn vàn trầm
luân kiếp nhân sinh đó, cũng như Nguyễn Du, nhà thơ tự nguyện gánh vác
lên vai vô số khổ lụy đoạn trường của Thúy Kiều hay như sư cô Tam Hợp âm thầm
nhiếp dẫn từ bi cứu nhân độ thế. Chính vì dâu bể vô thường trong cõi đời máu lệ
điêu linh mà Diệu Pháp Liên Hoa Kinh đi về thể hiện tinh thần ‘‘khai thị
chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến’’ chỉ ra Phật nhãn, cái thấy biết tuyệt
vời tối thượng:
Từ bi? Vô tận đoạn trường
Đạo cô Tam Hợp ? Hoa
Hương Bốn Mùa
Trăm năm dâu bể thiệt thua
Cũng là Diệu Pháp thượng thừa
Liên Hoa
Từ cõi Diệu Pháp vô vi bất
khả tư nghì ấy bước ra, nên hành động của thi sĩ không giống như cõi hệ lụy ta
bà đầy đa đoan chấp ngã của chúng ta, thành thử nhà thơ tự nhận mình là thằng
điên, thằng khùng, ngây ngô khờ dại cho khỏe nhẹ để khỏi còn ai thắc mắc phân
vân:
Thần Tiên Thánh Phật uy quyền
Giúp đời vô tận thằng điên
quý gì?
Điên từ muôn một liên miên
Mà ra vạn thuở nối liền Liên
Hoa
Ấy từ Diệu Pháp mà ra
Đất đồng mộc mạc nở hoa lẫy
lừng
Đó là thể điệu cuồng điên
uyên mặc thượng thừa của thần tiên du hý, dậy lừng cung bậc Lăng Nghiêm trầm hùng
cùng tuyệt:
Tam bành tứ trướng cuồng
điên
Thần thông du hý thiên tiên
dự phần
Lăng Nghiêm tam muội dậy lừng
Vượt non băng núi qua trùng
điệp truông
Ấy từ bất khả nghị bàn
Từ vô tận xứ mà Nghiêm Hoa rằng
Hoặc từ vô tận hằng hằng
Từ đâu tới một Nghiêm Lăng
khôn lường?
Lăng Nghiêm Kinh khai thị
cái tâm chơn, tâm vọng của con người vốn bất nhị viên dung. Một khi thấu thị kỳ
cùng điều đó, thi sĩ bất thần nhập diệu vào cảnh giới huy hoàng hoan hỷ địa, hồn
phách bay bổng một niềm vui sướng lâng lâng:
Thượng thừa thể lệ trăm năm
Thần tiên du hý đánh chìm
tài hoa
Cái tài hoa trác việt, độc
đáo của mình, đáng lẽ nên tự hào, hãnh diện nhưng thi sĩ tự mình làm cho chìm
khuất, tiềm ẩn đi, chứ không huênh hoang phách lối, khoe khoang, kiêu ngạo phô
bày ra như kẻ phàm phu tục tử thường tình. Đó là nhân cách cao thượng của bậc đại
trượng phu, của những tâm hồn thượng đẳng hoằng đại. Tự mình vượt lên trên vòng
đối đãi thị phi phải trái, thoát ra ngoài mọi sinh hoạt quy ước của xã hội, để
sống tự do tự tại theo ý mình, thay vì làm một bậc thượng sĩ cao nhân xuất
chúng thì ngược lại, thi nhân thực hiện một bước nhảy trọng đại, ngoạn mục phi
thường lả tự nguyện làm người điên khùng, khờ dại lãng trí, tự mình trách móc,
mắng nhiếc mình theo cách điệu thể thái tùy nghi:
Bỏ đi dẹp mặt mày đi
Làm thằng thi sĩ như mi dơ
tuồng
Mi say rượu mi điên cuồng
Mi không ý thức vui buồn thế
gian
Lão già say rượu nói nhăng
Làm thơ lẩm cẩm gia tăng tâm
tình
Máu tim chia sẻ tâm tình
Nửa dâng Thần Rượu nửa trình
Nàng Thơ
Suốt ngày suốt tháng suốt
năm
Nó be bét rượu muôn năm đế nồng
Thượng thừa kỳ vĩ vân mông
Sịch mành tỉnh mộng đêm mồng
một giêng
Đền bù xiết kể bao lăm
Đáp đền muôn một trăm năm dại
khờ
Khờ như dại dại như thơ
Dại không biết thẹn trơ trơ
điên cuồng
Nói thì nói khề khà theo kiểu
tự chế giễu, bỡn cợt khôi hài như thế, nhưng trái tim thi sĩ luôn luôn rực hồng
ngọn lửa tình yêu thương vô lượng vô biên đối với cuộc đời đang sống trong túy
sinh mộng tử này. Nhà thơ đau nỗi đau của con người, sầu nỗi sầu thiên cổ của
kiếp nhân sinh tàn úa phai nhàu:
Nỗi buồn khôn tả từ đâu
Đi về phảng phất nỗi sầu
thiên thu
Giữa đêm chén tạc chén thù
Một mình độc ẩm sương mù dưới
trăng
Nỗi thương nỗi nhớ hằng hằng
Nhớ thương vô cớ cầm bằng
như không
Ừ thì như không như có, như
mộng như thực, như tỉnh như say... hết thảy đều là một chứ chẳng khác gì nhau
như Tâm Kinh đã nói “sắc tức thị không, không tức thị sắc” đó mà:
Giật mình tôi chợt nhớ ra
Rằng đây đất của chúng ta
chúng người
Mở môi em mỉm miệng cười
Tình yêu từ đó vẹn mười muôn
năm
Yêu em yêu mãi tấm lòng
Yêu em quá độ long đong suốt
đời
Nhớ em nhớ suốt mây trời
Tình yêu đó lai láng như trường
giang đại hải mênh mông, cứ tự nhiên trôi chảy, thường hướng đến những tầng lớp
nghèo khổ trong xã hội như anh đạp xích lô, cô quét rác hay cô mua bán ve chai.
Niềm thương cảm của thi sĩ có cái gì đó thật khác thường kỳ lạ:
Kính thưa đồng chí đại ca
Xích lô vô lượng kể đà bao
phen
Từng phen lay lất ưu phiền
Niềm vui vô tận thường hằng
đeo đai
Các em quét rác mỗi ngày
Mỗi năm mỗi tháng kéo dài
muôn năm
Dzeee chai bán ! Bán dzeee
chai
Tiếng rao mộng ảo dẻo dai dị
thường
Tiếng rao huyền diệu phố phường
Tôi đi khắp chốn tình trường
nhớ nhung
Tiếng rao lanh lảnh nghìn
trùng
Nghìn nhung nhớ một tao
phùng nết na
Người đi tôi ở lại nhà
Chiêm bao mộng tưởng vẫn là
dzeee chaiii
Ve chai giày dép cũ càng
Em mua giúp hết dịu dàng em
mua
Tơ trời thêu dệt bốn mùa
Đổi thay thời tiết nắng mưa
luống từng
Dạn dày cho rõ phong sương
Âm thầm ý nghĩa muôn phương
mây vàng
Từ cô thôn nữ ở đồng quê
chân lấm tay bùn đến cô em mọi nhỏ ở trên rừng truông rú thẳm hoang lương, thi
nhân cũng chia sẻ tỏ bày rất đỗi ân cần trìu mến:
Cày sâu cuốc bẫm cấy bền
Tháng ngày thanh thản êm đềm
buồn vui
Thương em ngày tháng ngậm
ngùi
Nhớ em ngày tháng sụt sùi giữa
đêm
Thương em như thương một nường
Thiên thu là gái bình thường
nhà quê
Em từ thôn nữ năm kia
Về đây phút chốc sẻ chia tấm
lòng
Kể từ vô tận tiêu tao
Yêu em mọi nhỏ chốn nào đầu
non
Thấy em như thấy vuông tròn
Thành thân thiên hạ biển non
dịu dàng
Yêu em như nước lan tràn
Nhớ em như nhớ những tràng
giang xa
Nguồn thơ xanh ngát lại mênh
mang chảy tràn qua cổng chùa tu viện, vào thăm viếng thùy mị ni cô. Trước những
vẻ đẹp hiền lành thanh thản đoan trang, chàng thi sĩ lóng cóng theo cách điệu
bông đùa cà rỡn quý ni cô thuần hậu, thuần phác thảnh thơi, nhẹ nhõm trong tâm
hồn:
Ngoài trời trận gió trở cơn
Rượu trong đáy cốc đầu hôm
đi đời
Trở cơn trận gió ngoài trời
Tôn tiền hoàn xướng tuyệt vời
ni cô
Than dài trận trận mù sương
Mười ra em mọi một nường ni
cô
Gọi tôi bằng bác xô bồ
Bảo tôi đừng gọi ni cô là nuồng
Đi tu em nhớ một lời
Đừng bao giờ trở lại đời làm
giai nhân
Đừng đẹp đẽ đến vô ngần
Chỉ cần chút đỉnh đẹp tần ngần
tu (đi)
Còn gì đẹp hơn là buông bỏ hết
những phiền não, vọng mê để lên đường xuất gia, đi tu một trận ly kỳ, hy hữu giữa
ảo mộng tồn sinh? ‘Tu là cội phúc tình là dây oan’’ Nguyễn Du đã nói
như thế, còn Bùi Giáng thì:
Tu là cội phúc phôi pha
Tình là oan nghiệt chiết ma
đoạn trường
Đó là thứ tình dính mắc ràng
buộc, chiếm hữu nên luôn luôn giận hờn ghen ghét, gây nên bao tan nát đoạn trường.
Vượt qua thứ tình yêu nô lệ đó là tự do cất bước thong dong với chiếc áo nâu sồng
mộc mạc, thoát khỏi mọi nỗi khổ niềm đau:
Nâu sồng đã bén muối dưa
Còn tình đâu nữa dây dưa tâm
tình?
Sự đời tắt lửa tồn sinh
Hồng quần quên mất rằng mình
đã quên
Chép tờ địa lý đầy vai
Hùng tâm thánh nữ thiên tài
ni cô
Định thần mừng rỡ bước vô
Song trùng chúc phúc hai cô
một lần
Ni cô? Thánh mẫu nhu
mì
Thành thân vô tận thuận tùy
đầu tiên
Ni cô? Thục nữ thuyền
quyên
Tìm đâu thấy được Nguyên Tuyền
Ni Cô?
Đặc biệt Bùi Giáng dành một
tình yêu thương thanh thoát đối với sư cô Trí Hải ở Đại học Vạn Hạnh, người đã
dịch Câu chuyện dòng sông của Herman Hesse. Thi sĩ cũng thường gọi sư cô là mẫu
thân Phùng Khánh một cách tân kỳ sáng tạo:
Lúc về thờ phượng ni cô
Mẫu thân Phùng Khánh điểm tô
đạo trời
Thần lên tiếng thánh đổi lời
Niềm riêng Vạn Hạnh mọc mời
cô đơn
Con về giũ áo đười ươi
Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu
thân
Đẻ con một trận vô ngần
Mẹ còn đẻ nữa một lần nửa
thôi
Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời
Chiều xuân thơ mộng dưới trời
bước đi
Kể từ con lạc ra khơi
Mẫu thân Phùng Khánh vội dời
chân đi
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Hai vùng sóng lục nhu mì mở
ra
Con về trong cõi người ta
Nghe tin sét đánh mẹ đà đi
tu
U hoài đầu mộng hôm qua
Mẫu thân Phùng Khánh thật là
u u
Chân đi từng bước hư phù
Mộng đi từng bước tuyệt trù ống
chân
Mẹ về đứng giữa đầu sân
Cuối cùng mẹ bước vô ngần mẹ
đi
Mẹ còn nhớ nữa con chăng
Mẫu thân Phùng Khánh con hằng
chẳng quên
Tuy đòi phen chết nếp nền
Cung vang lừng bậc điệu đền
bù xoang
Mẹ về ngõ vắng vườn hoang
Thừa Thiên sông lạnh kéo
sang khu rừng
Mẹ về đẫm lệ trời xa
Gót đi cuối phố mưa sa đầu
đường
Ôi Phùng Khánh mộng mười
phương
Này mai này mốt mùi hương cuối
cùng
Tà xiêm dấu trải mông lung
Một trường mê hoặc đóng
khung cung hành
Con về vội vã chép nhanh
Mù sương nhị bội vây quanh
thân hình
Nâu sồng kết tụ kệ kinh
Có người thắc mắc hỏi: ‘‘Cớ
sao Phùng Khánh nhỏ tuổi hơn mà đại ca gọi là mẫu thân?’’ Thi sĩ trả
lời: ‘‘Bởi vì Phùng Khánh là mẹ Việt Nam, tôi là con dân Việt Nam thì tất
nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy. Nếu tôi không nhận Phùng Khánh là mẹ thì
hóa ra tôi là người Lào, người Cao Miên hay con dân Âu Mỹ ư? Huống nữa
Phùng Khánh là bà mẹ loài người, vậy Phùng Khánh là mẹ của tôi rồi. Nếu tôi
không phải con của Phùng Khánh thì hóa ra tôi chẳng phải con người mà là con vật
hay sao ?’’
Ngoài Phùng Khánh ra, kỳ nữ
Kim Cương cũng là một nàng thơ được thi sĩ đem lòng chiếu cố quý mến vô lường:
Kính thưa công chúa Kim
Cương
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi
đây
Tờ thư rất mực mỏng dày
Làm sao định nghĩa đêm ngày
yêu nhau?
Em vui nước ngọt tuôn dòng
Em buồn toàn diện đèo bòng
buồn theo
Em vui tinh thể bọt bèo
Em buồn toàn diện thu vèo
sang đông
Ngổn ngang gò đống chất chồng
Em về vĩnh viễn đêm mồng một
giêng
Em đi thanh thản ngọc tuyền
Anh ngồi nốc rượu nốc phiền
thiên thu
Kim Cương nương tử tuyệt trù
Thơ thần chất vấn dặm cù
tình điên
Với một suối nguồn thương
yêu vô điều kiện, yêu thương vô phân biệt, nhà thơ cũng rộn ràng trang trải
cùng các cô gái đứng đường, xem các cô kỹ nữ như là tiên nương, thánh nữ giáng
trần và tâm sự cùng các cô chan chứa nỗi niềm:
Bất ngờ tôi bắt gặp em
Vu vơ đi đứng một đêm giữa
đường
Đến gần bất chợt tình thương
Bất ngờ tâm sự phi thường gần
xa
Em từ viễn ngạn tuôn ra
Mười hằng hồng lệ chín sa
dòng dòng
Tôi từ lịch kiếp long đong
Em từ lận đận tấm lòng bao
lâu
Chúng ta từ cõi lao đao
Quen nhau từ những kiếp nào
xưa xa
Tâm hồn của gái giang hồ
Các em vô tận kể từ đâu
ra?
Anh nay tuổi quá cỡ già
Thương em như nhớ gian nhà
lưu ly
Các em dù tuổi tên gì
Cũng từng đã thốt lời gì anh
nghe
Ngày nay đứng phố ngồi hè
Nhớ em mộng tưởng muôn bề rã
tan
Cậy em lời cậy muôn vàn
Mình em riêng một đá vàng
thiên thu
Tình yêu vô tận tự lòng
Tình không yêu cũng tùy tòng
vô biên
Lỡ làng chút phận thuyền
quyên
Chưa là thánh nữ cũng tiên
nương rồi
Chỉ có cái nhìn vô phân biệt
trí mới thấy được như thế. Dễ có mấy ai trên đời này xem các kỹ nữ lầu xanh là
tiên nương thánh nữ? Chỉ duy nhất thi sĩ Bùi Giáng mới có cái nhãn quan đại
từ đại bi, đại hỷ đại xả như thế và từ cái nhìn thấu thị nhân sinh đó, thi sĩ
ngợi ca, tán thán hết lời và gọi chung tất cả thục nữ mười phương là nàng thơ,
nàng tiên diễm tuyệt vô ngần. Các nàng thơ, tiên nữ cứ đi về kề cận gần gũi,
thân thiết miên man, bàng bạc ở khắp mọi nơi khắp chốn, từ phồn hoa đô hội đến
lâm tuyền huyễn ngạn, ngoài bến gió bờ sương ngút ngàn quyến rũ mộng mị chiêm
bao, dạt dào xao xuyến, xiết bao tâm tình du dương tha thiết:
Các em vô tận thuyền quyên
Từ thiên cổ tới đầu tiên bây
giờ
Các em không thể nào ngờ
Rằng đầu tiên đã bài thơ luống
từng
Em từ trái đất tuôn ra
Em đi xinh đẹp tiên nga dậy
thì
Gặp em toàn thể nhu mì
Non sông đất nước thuộc tùy
tình em
Thương em hơn cả phượng thờ
Ông trời ông Phật mút mùa thần
tiên
Yêu em từ cái diện tiền
Của em số dzách thuyền quyên
ấy là
Em từ một thuở tuôn ra
Một hơi hô hấp thiết tha dịu
dàng
Từ đầu truông tới cuối ngàn
Cỏ cây nhớ mãi muôn vàn tình
yêu
Thương em mỗi lúc mỗi nhiều
Yêu em mỗi lúc mỗi trìu mến
em
Đường đi lát đá êm đềm
Cậy em thủng thẳng dịu mềm
em đi
Mai sau còn một tí gì
Ấy là khu vực nhu mì của em
Cái gì vô tận của em
Ấy là cái ấy của em lạ lùng
Dị thường vô tận hoành tung
Tình yêu tim máu thủy chung
tót vời
Anh từ vô tận viễn khơi
Gặp em như gặp đất trời vô
biên
Chợt nhìn ta thấy em xinh
Buột mồm ta viết bình minh đờn
bà
Bài thơ từ đó tuôn ra
Khôn lường vô tận ấy là em
ôi
Riêng em có lẽ thật là
Thiên thu một thuở muôn nhà
một nơi
Cùng em vô tận rong chơi
Khắp trùng dương dội sóng đời
đời dâng
Ngân nga vang vọng sóng đời
từ cuộc lữ đến cuộc chơi, từ cuộc tình đến cuộc mộng rồi từ cuộc mộng đến cuộc
thơ, mở ra tưng bừng những làn gió hương màu phất phới, những phảng phất rung động
trầm sâu mầu nhiệm bồi hồi:
Lối đi bình lặng nhiệm mầu
Lối về phấp phới hương màu đầu
tiên
Lối đi nhìn ngửa ngó nghiêng
Lối về phảng phất nợ duyên
khôn bì
Chập chùng những cuộc đi cuộc
về trên con đường mây trắng phiêu du, lãng đãng phiêu bồng. Không từ đâu đến
cũng chẳng đi về đâu nên thi nhân dấn mình nhập cuộc vào tồn lưu trôi chảy và đột
ngột, thốt nhiên bỗng thấy trần gian đẹp đẽ vô cùng. Đẹp kinh hồn đến độ choáng
váng mặt mày, ngập tràn cơn say chuếnh choáng, ngây ngất yêu đời vô tận nên
nghêu ngao dạo khúc hát xênh xang.
Trạng thái xuất thần nhập diệu
ấy càng ngày càng đến thường xuyên hơn trong cuộc sống thường nhật, nên thi sĩ
phiêu hốt, phiêu diêu trong cảnh giới tiêu dao vô ngại đó nhiều đến nỗi phải
khiêu vũ nhảy múa như một hoàng đế tự vất bỏ ngai vàng điện ngọc, đi vi hành
làm kẻ vô danh tiểu tốt, tha hồ đùa chơi tiếu ngạo, ngâm nga la hét giữa phố thị
ồn ào, tấp nập người qua kẻ lại, khiến thiên hạ cứ tưởng là nhà thơ điên. Kỳ thực
đó là những phút giây bay bổng, khinh an, hoan lạc, nhập vào hoan hỷ địa xuất cốt
diệu thường, cực lạc vô song:
Ông vua kỳ vĩ thập thành
Vì vui quá độ nên thành ra
điên
Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay quỳ lạy khắp miền
nhân gian
Chao ơi! Thái độ ‘‘Chắp
tay quỳ lạy khắp miền nhân gian’’ đó, chẳng khác chi hạnh nguyện của
Bồ tát Thường Bất Khinh, luôn luôn kính trọng hết thảy mọi người dù ngu
trí, lớn nhỏ, giàu nghèo một cách trân quý lạ thường. Dường như nhờ đọc sách,
kinh điển Phật giáo Đại thừa mà thi nhân bất ngờ trực ngộ, thấy ra tận tường
cái bản tâm thanh tịnh chói sáng vạn hữu an lành:
Thượng thừa hồi phục tâm
thanh
Thốt nhiên đốn ngộ ngọn
ngành cảo thơm
Bước vào nào thấy chút chi
Bước ra bỗng thấy cái mì nhu
em
Toàn nhiên đại ngộ hoát
nhiên
Hoát nhiên đốn ngộ thần tiên
thượng thừa
Giữa đỉnh cao và hố thẳm, giữa
vô hình và hữu hình, giữa phù du và vĩnh cửu với điệu cười sinh tử như không,
thi sĩ thấy ra cảnh giới Hoa Nghiêm trùng trùng duyên khởi nên hòa chung cung bậc
đất trời rộng mở, thở cùng không khí phóng khoáng, hý lộng giữa đôi bờ mộng thực,
tỉnh điên một cách khoan thai thoải mái:
Cái điên cái tỉnh ở đời
Nào ai dám chắc thế thời ra
sao?
Kéo dài rất mực chiêm bao
Cuộc chơi kỳ vĩ tiêu tao
điên cuồng
Cuồng điên là gì, thế nào là
điên cuồng? Vì sao các thiên tài trên thế giới thường hay bị điên?
Có lẽ điên là một cảnh giới dị thường mà người tỉnh táo không bao giờ hiểu được
như có lần thi sĩ tự lý giải lai rai: ‘‘Nó điên? Vâng, nhưng
điên một cách dzui dzẻ, bạ đâu gọi đó là mẫu thân bát ngát của con. Người ta bảo
rằng nó không điên, có kẻ nói rằng nó giả vờ điên. Muốn biết nó điên hay không
điên hoặc giả vờ điên thì trước hết phải đáp vào câu hỏi: Sao gọi là
điên? Nhưng mà, nhưng mà đó là một câu hỏi chưa hề có lời giải đáp dưới gầm
trời suốt xưa nay vậy.’’
Vậy thì coi như bất khả tư
nghì, không thể nghĩ bàn chi được nữa cả, chúng ta cứ tiếp tục đọc thơ chơi,
phiêu hốt theo ngôn ngữ thượng thừa:
Nỗi buồn nỗi khổ đời xưa
Nỗi sung sướng đến móc mưa bất
ngờ
Đời nay đất đá cằn khô
Đời xưa đất đá đều đờ đẫn
điên
Điên duỗi dọc điên ngửa
nghiêng
Điên là hạnh phúc thần tiên ở
đời
Cuộc chơi kỳ vĩ thập thành
Các em kỳ bí hơn anh quá nhiều
Tử sinh giữa cuộc dấn liều
Tử sinh liều giữa diễm kiều
cuộc chơi
Chuyện sinh tử đối với phần
đông phàm phu tục tử chúng ta là rất đỗi trầm trọng, kinh hoàng khủng khiếp,
nhưng với thi sĩ thì thấy nhẹ như lông hồng, cho nên cứ tiếp tục cuộc rỡn
đùa chơi, vì đã thấu triệt được lẽ bất sinh bất diệt, chết rồi cũng chẳng mất
đi đâu mà chuyển qua hình thức khác, chuyển biến theo luân hồi giữa ba đời sáu
cõi, tái sinh theo nghiệp báo của riêng mình đấy thôi:
Em về choáng váng tê mê
Em về từ tử diệt về tái
sinh?
Em về vô tận bình minh
Từ em tử diệt tái sinh mừng
chào
Chào mừng cuộc sống vô lượng
vô biên giữa biển đời trùng trùng sóng phong quang Bát Nhã, sóng lai láng tràn
vào từng trang cổ lục cảo thơm, giúp cho người ta thấy lại vẽ đẹp huy hoàng
tráng lệ của trí tuệ muôn đời tung bay phất phới:
Thình lình vô tận biển khơi
Sóng triều Bát Nhã đẩy chơi
vào bờ
Thượng thừa trí tuệ thẩn thơ
Chép tờ cổ lục cho tờ cảo
thơm
Trí tuệ Bát Nhã ấy chẳng ở
đâu xa mà nó ở ngay giữa tâm hồn chúng ta đây thôi. Em hãy quay nhìn lại chính
mình thì sẽ thấy ngay lập tức cái lòng trong trẻo nguyên sơ hiển hiện ra khắp
muôn chiều diệu dụng:
Em đi vô tận trùng trùng
Em về vô lượng tự lòng mà ra
Đại thi hào Nguyễn Du cũng
đã từng nói ‘‘Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra’’ giống như Hoa
Nghiêm Kinh ‘‘Tất cả do tâm tạo.’’ Thì ra, cả sơn hà đại điạ, cả ba nghìn
thế giới này cũng đều do tâm mình tạo ra mà thôi. Người thi sĩ hốt nhiên ‘‘ồ
lên một tiếng’’ và mỉm cười rỗng rang sảng khoái:
Cõi bờ con mắt Hoa Nghiêm
Tường vôi lá cỏ lim dim vô
cùng
Cảnh giới Hoa Nghiêm đang thị
hiện diễn bày chung quanh khắp mặt đất trần gian cát bụi, từ vô lượng kiếp đến
một phút giây của từng sát na vĩnh cửu. Một hôm lang thang lêu lổng, bỗng thi
sĩ kỳ ngộ trùng phùng đức Thế Tôn bên vĩa hè phố chợ, khiến chàng rúng động
cả thần hồn, vội quỳ xuống đãnh lễ thành tâm:
Thập thành đãnh lễ bước chân
Như Lai hộ niệm phù vân điệu
chào
Quan Âm Bồ tát chốn nào
Cũng cho nghĩ nghị lối vào
Trung Niên
Ôi Bồ tát hỡi Nhu Lai
Lời thơ đãnh lễ lai rai vài
hàng
Ngàn thu rớt hột xuống trang
Lá hoa cồn dậy muôn vàn bữa
qua
Trung Niên thi sĩ bàng
hoàng, choáng ngợp trước ánh hào quang tuệ giác siêu việt, trực kiến vô ngần
Chân Không Diệu Hữu, không biết nói gì hơn là làm thơ tán thán ca hát chan hòa:
Ca về tuế nguyệt thiên thâu
Về ca khoảnh khắc sơ đầu sát
na
Chân Không Diệu Hữu là ca
Không chân hữu diệu lưu sa hằng
hằng
Đứng đi ngồi ngả ba đàng
Thượng thừa cung bậc muộn
màng cứ ca
Chân Không mà Diệu Hữu nên mới
có chuyện nói đi nói lại, nói mãi suốt từ thiên cổ xưa nay. Nói từ ngày Đức Phật
chứng đạo dưới gốc cây Bồ đề đến bây giờ cũng bấy nhiêu chuyện mà thiên kinh vạn
quyển, trùng trùng vô tận vẫn nói không hết lời. Cho nên thi nhân cũng hòa theo
chiếu cố, ngưỡng mộ trước phong cách trầm hùng bất động vô nhiễm của Như Lai:
Phật ngồi dưới gốc Bồ đề
Tiên nương dừng bước tóc thề
chấm vai
Thưa rằng Phật thật là tài
Thấy mà như chẳng từ ngoài
vào trong
“Thấy mà như chẳng từ ngoài
vào trong.”Chỉ cần một câu thơ đó thôi, Bùi Giáng đã lột tả hết được tinh túy của
đạo lý Đông Phương suốt từ mấy ngàn năm rồi, Khổng Tử, Long Thọ hay Cưu
Ma La Thập thì cũng muốn nói quanh nói quẩn cái vô sở trụ, vô sở chấp ấy mà
thôi:
Lời thô tục? Ý u tồn?
Ý nào u tục thô ngôn là lời?
Giả danh chân đế cũng rồi
Giả danh tục đế đún đẩy lời
cũng qua?
Trăm năm trong cõi người ta
Lọ là Long Thọ lọ là Khổng
Khâu?
Vàng beo lục gấu trắng trâu
Đìu hiu trăng mọc nhịp cầu
phù du
Bão giông hằng thể bi thanh
Liên Hoa Diệu Pháp lịch hành
Thệ Đa
Thập thành sử hiện ra hoa
Thập Ma La Thập lời Hoa
Nghiêm rằng
Rằng thì là...như thế. Như
thế là như thế nào? Chúng ta hãy nghe Bùi Giáng khề khà đối thoại thong dong:
“- Đọc thơ văn mày viết
ra, tao thấy rằng thỉnh thoảng mày nói lên đúng cái tư tưởng ẩn mật trong kinh
Hoa Nghiêm, mặc dù mày viết theo cái điệu riêng biệt của mày. Thế nên tao càng
ngạc nhiên thấy rằng thường thường mày cứ luẩn quẩn đọc những sách nhảm nhí
lăng nhăng. Tao muốn hỏi mày tại sao mà như thế? Mày quên mất cõi tư tưởng lớn
hay sao?
- Tao cũng chẳng rõ tại sao,
nhưng mày thử giải nghĩa tao nghe thế nào là cõi tư tưởng lớn. Lớn là lớn bằng
mặt trời hay mặt trăng hoặc to bự như vũ trụ?
- Cứ tạm cho là to bự như vũ
trụ.
- Thế thì tao thử hỏi lại
mày: Có khi nào mày nhìn thấy vũ trụ to bự nằm ở ngay trong một giọt sương?
- Có
- Trong một lá cỏ?
- Có
- Trong một lổ chân lông?
- Có
- Thế thì bây giờ mày đã nhận
thấy rằng câu hỏi của mày nêu ra ở trên kia đích thực là lệch lạc?
- Có lẽ ”
Thế đó, cảnh giới Hoa Nghiêm
là vậy, thấy tất cả vũ trụ mười phương, muôn loài vạn vật, thánh phàm, thế gian
và xuất thế gian đều nằm gọn trong tâm của chúng ta đây mà thôi. Tâm như hư
không, vốn là rỗng lặng thanh tịnh, chẳng có hình dáng, không sinh không diệt,
nhưng vô cùng diệu dụng rất sinh động, tuy bất biến mà tùy duyên. Cái tâm sinh
động ấy ứng vào lòng thi sĩ Bùi Giáng nên hồn thơ xuất thần bay bổng lồng lộng
giữa trời đất phong quang bát ngát mông mênh. Bên ngoài thì nhảy múa hát ca
nhưng bên trong vẫn tịch nhiên niệm Phật như thường:
Huyền hoa đứng ở giữa đường
Người đi rốt cuộc phi thường
vẫn đi
Nam mô Đà Phật A Di
Lan mùa nam diện lai quy phục
hồi
Con đường hân hoan sáng tạo
bước đi đã quá đổi dập dìu, phiêu lãng hoan say, khiến cho thánh thần cũng lắc
đầu chịu thua, chỉ có những bậc Bồ tát mới độ lượng mỉm cười tương ứng cùng thi
sĩ sâu xa:
Bây giờ huyền diệu sát na
Bước về gọi mộng sơn hà
Trung Niên
Là thằng thi sĩ diện tiền
Làm thơ lố bịch thánh hiền
chịu thua
Chỉ duy Bồ tát vui đùa
Niêm hoa vi tiếu là vừa lòng
thôi
Bồ tát là người có tâm hồn rộng
mở, bao dung, chấp nhận tất cả thuận nghịch tỉnh táo hay điên rồ của thế gian,
luôn ban vui cứu khổ cho con người, như Tuệ Sỹ phát biểu: ‘‘Không tận
hữu vi, Bồ tát chấp nhận sự tồn tại của dị biệt giữa các loại chúng sinh mà kiến
thiết quốc độ thanh tịnh. Không trụ vô vi, Bồ tát nhận thức tính bình đẳng như
hư không trong tất cả các loại chúng sinh, nên mọi giá trị cá biệt đều được
kính trong như là giá trị phổ quát. Không tận hữu vi, nên Bồ tát xây dựng
quốc độ thanh tịnh không bằng hận thù tranh chấp. Không trụ vô vi, nên Bồ tát
xây dựng quốc độ thanh tịnh bằng tình yêu và sự kính trọng giữa các loại chúng
sinh.’’3/. Thế là, người thi sĩ tuy điên cuồng nhưng vẫn được các vị
Bồ tát chiếu cố, vì thế cứ tha hồ rong chơi, tiếu ngạo giang hồ và chuếnh
choáng làm thơ tình yêu, ca ngợi tình thương vô lượng như muốn nhắn gởi điều
chi bí mật cho người em chí cốt diệu thường:
Gởi em chút đỉnh mùi hương
Tình yêu xa vắng như dường
như không
Gởi em mật pháp phiêu bồng
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng
quy lai
Sau bao nhiêu trận trận tang
bồng, phiêu dật, nhà thơ đã truyền âm nhập mật pháp môn gì đó? Chỉ có
nàng thơ mới có thể nghe và hiểu ra mật pháp đó mà thôi. Chúng ta đừng có tò mò
mà luận bàn đủ thứ. Thi sĩ hẹn hò nàng thơ cùng gặp nhau ở phương trời cố quận
cuối nẻo nào heo hút tận chân mây:
Mây theo gió thổi về mau
Bây giờ tiễn biệt mai sau
trùng phùng
Cùng em cố quận sẽ cùng
Xiết bao tâm sự điệp trùng
tái sinh
Bởi vì cũng từ nàng thơ huyền
mộng, từ ngày em xuất hiện trên mặt đất sa mạc hoang vu này đã khiến cho thi sĩ
bừng ngộ ra một điều chi kỳ bí lặng im:
Em từ thiếu nữ bước ra
Thành thân thục nữ tên là
thuyền quyên
Mang thêm mỹ nữ chênh vênh
Em làm đắm đuối dưới trên
bao người
Mỹ nhân cách điệu tuyệt vời
Giai nhân từ đó cũng vời tuyệt
hơn
Em muôn vạn xứ êm đềm
Cho em rất mực muôn nghìn mà
ra
Anh từ đó ngộ thiết tha
Em là vô tận em là em
ơi!
Nàng thơ thỏ thẻ hỏi chàng
thi sĩ đã ngộ điều chi ly kỳ gay cấn như rứa thì chàng nhẹ lắc đầu chỉ
đáp:
Anh chỉ biết mỗi một điều là
như thế
Như thế nào anh nói rõ
em nghe?
Là thế đó muôn đời là như thế
Nói làm gì em nghe nữa
làm chi!
Phải chăng đó là thể lệ vô
ngôn, vì ngôn từ bất lực không thể diễn tả được cái trực ngộ kia? Thôi
đành lặng lẽ lắng nghe điều huyền diệu đang dần dần lan tỏa quanh gót ngọc em về
dưới nắng sớm chiều mưa:
Em đi bất chợt thượng thừa
Thoảng trong phút chốc còn
lưa muôn đời
Em từ viễn tượng xa xôi
Về từ thiên thượng tuyệt vời
tố nga
Tình yêu có lẽ chăng là
Tình thương vô tận tặng quà
vô tâm
Té ra là như rứa, tất cả
muôn sự muôn việc triền miên xảy ra từ xưa đến nay cũng chỉ là vô tâm, vô niệm
như không, chẳng là gì gì hết cả:
Như không là ấy ruột rà
Như không vô tận từ ta tặng
người
Tặng người em gái quê, gái
phố, gái núi, gái rừng, gái biển, gái thuyền quyên thục nữ mười phương một bài
thơ tình thương yêu bất tuyệt vĩnh hằng:
Tặng em thể điệu toàn thân
Kết chùm nguyệt rộng đôi vần
thi ca
Tặng em thỉnh thoảng mà ra
Thiên thu tặng vật đóa hoa
tình đầu
Chiều nay bỗng thấy tình
thương
Chảy tràn ngập khắp du dương
cõi bờ
Chân tình anh hỏi nàng thơ
Chẳng thà như rứa chớ bơ vơ
- ồ!
Hình thành tinh thể bài thơ
Vô cùng kiều diễm một giờ mà
ra
Muôn trùng vĩnh biệt thiết
tha
Một giờ như thể muôn hoa một
mùa
Một mùa chi mà lạ rứa?
Thưa rằng không biết nữa. Chỉ hay rằng, đặc biệt, nhà thơ Bùi Giáng có một niềm
tương ứng đậm đà, thâm sâu đến độ tâm đắc cùng lục bát Nguyễn Du qua tác phẩm
Truyện Kiều. Hình ảnh thi hào Tố Như luôn luôn xuất hiện, đi về trên khắp hàng
ngàn trang thơ văn dặt dìu lãng đãng:
Sáng nay chim hót thật nhiều
Tưởng nghìn tiếng nói tình
yêu đất trời
Chiều nay có lẽ lá rơi
Mưa rừng đổ xuống khắp nơi
ào ào
Mai kia sẽ nhớ ngày nào
Ngày nay ấy mộng rì rào máu
tim
Thượng thừa tiếng hót của
chim
Của gà gáy sáng từ khuya tới
giờ
Làm đi làm lại bài thơ
Kể từ tao ngộ bất ngờ Nguyễn
Du
Tôi từ muôn kiếp phôi pha
Gặp em ngàn thuở mà ra một
thời
Một lần vô hạn em ơi
Gặp từ vô tận đất trời Nguyễn
Du
Chào em thiên nữ vong hồn
Thiên thu đã tới mang dồn dập
hoa
Tán hoa thiên nữ ấy là
Thúy Kiều vô tận tên là Nguyễn
Du
Thúy Kiều một thuở mà ra
Muôn thu vạn thuở nõn nà hiện
thân
Kiều ôi có lẽ một lần
Hồng Sơn thiên lý tử phần
tái sinh
Một vùng cỏ mọc nước ngâm
Nghìn năm nhớ mãi cung cầm
Nguyễn Du
Các con không gặp Nguyễn Du
Chính ông cũng chẳng gặp Du
bao giờ
Nhưng bài thơ ấy còn trơ
Bên nguồn vĩnh phúc bất ngờ
tỏa ra
Những là ánh sáng chói lòa
Việt Nam văn hiến băng qua dặm
nghìn
Đã hơn bốn nghìn năm văn hiến
trôi qua, thi sĩ đi về cố xứ và âm thầm nhập diệu vào cõi miền vĩnh cửu uyên tư:
Về bên cố quận tuyệt trù
Vượt biên giới nhập thiên
thu vô lường
Thiên thu vĩnh cửu nằm ngay
trong giây phút bây giờ và ở đây. Không còn biên giới phân biệt nhị nguyên đúng
sai, phải trái, hết rồi những có không, mộng thực giữa chốn tồn sinh. Người thi
sĩ hồn nhiên như trẻ thơ, thở nhẹ nhàng từng điệu thở hài nhi nhẹ vời với tiếng
cười nhẹ nhõm reo vui:
Chưa biết nói đã biết cười
Cười như thượng thặng vẹn mười
Như Lai
Hồn như Di Lặc dẻo dai
Cười không biết chán chường
ai ai người
Quả nhiên nó đúng là người
Mà sao nó khác hẳn người
chúng ta
Quả nhiên nó rất là già
Mà sao nó bảo nó là trẻ thơ
Trẻ thơ nào có bao giờ
Biết làm thơ để phượng thờ
tình yêu?
Bùi Giáng là thế, vẫn tà tà
cách điệu tiếu lâm, riễu cợt hài hước cho “vui thôi mà” chớ có chi
đâu mà trầm trọng, nặng nề phê phán đúng sai, trúng trật, dở hay phải không?
Thì ra là vậy, trên con đường miên man sáng tạo, trên ngõ về vô sở trú phong
quang, thi sĩ thung dung trỗi nhịp cung đàn hoan ca, hòa âm cùng cung bậc Bất
nhị như thị như nhiên. Với tinh thần vô sở cầu, vô sở chấp, vô sở đắc, lặng lẽ
buông bỏ, cho và cho hết những gì mà thiên hạ đang đấu tranh, giành giật chiếm
hữu lẫn nhau, thi nhân tự nguyện sống nghèo nàn hàn sĩ, làm kẻ ăn mày, một tên
cuồng sĩ lang thang suốt đời hát bản độc hành ca qua ngày tháng ngao du làm rớt
hột phiêu bồng giữa mênh mông thông lộ vô cùng bất tận, ngờm ngợp
gió ngàn trăng.
Văn hào Mỹ vĩ đại Henry
Miller nói: “Từ chút ít sách vở tôi đã đọc, tôi nghiệm ra rằng, những người
lặn lội sâu nhất trong cuộc đời, những người nhồi nặn cuộc đời, những người
chính là cuộc đời đều ăn ít, ngủ ít, sở hữu ít hay không có gì cả. Họ không có
bất kỳ một ảo tưởng nào về bổn phận, hoặc nối dõi tông đường hay duy trì quốc
gia. Họ chỉ quan tâm tới chân lý và chân lý mà thôi. Họ chỉ chấp nhận một hình
thức hoạt động là sáng tạo. Không một người nào có thể chỉ huy công việc họ, bởi
vì họ tự nguyện cho tất cả. Họ cho không, bởi vì đó là cách duy nhất để
cho.” 4/
Nhận định trên của Henry
Miller rất đúng với trường hợp Bùi Giáng biết bao. Một thi nhân đã tận hiến cho
cuộc sống bằng tất cả tinh thành chân thiết nhất, bằng con đường nghệ thuật thi
ca.
Nhà thơ Bùi Giáng đã sống trọn
vẹn một cuộc đời hạnh phúc viên mãn theo ý nghĩa đạo Phật. Suốt bình sinh cuộc
sống, thi sĩ là hình ảnh quá cùng đẹp trong cái nhìn của thiên hạ mọi người, nhất
là giới tăng sĩ Phật giáo và giới văn nghệ sĩ, ai ai cũng nhìn ông với niềm ưu
ái, quý mến đầy ngưỡng mộ. Ngưỡng mộ sự tự do tự tại, thung dung thoát tục,
không dính bụi trần mà “hòa cùng ánh sáng, trộn cùng cát bụi”của thi nhân. Bồng tênh tiêu sái, rong chơi suốt một đời thơ giữa phố thị phù hoa như một
hài nhi tóc bạc thơ ngây, nhảy múa hồn nhiên hát ca vi vu vi vút.
Cuộc đời Bùi Giáng vô cùng
thi vị, một cuộc đời hoàn toàn sống vì nghệ thuật, dâng hiến tất cả cho nghệ
thuật thuần túy, chỉ biết sống hết mình cho thi ca và đệ nhất hy hữu nàng thơ
tuyệt cùng chơn mỹ:
Em đi hồn nhớ nhung gì
Anh ngồi nhớ cái nhu mì lẻ
loi
Trời cho rất mực rạch ròi
Vào trong thục nữ ra ngoài
thuyền quyên
Của em toàn thể uy quyền
Của em toàn diện thần tiên dịu
dàng
Tư tưởng trong thơ Bùi Giáng
mang một ý nghĩa bùng vỡ khai phóng, đầy ắp hào quang sáng tạo. Tư tưởng nhập
cuộc chịu chơi vào cõi tồn lưu mà vẫn thanh thản thong dong, không dính mắc,
không ràng buộc, không chấp chặt của thi nhân thật chẳng khác gì thái độ vô
tâm, vô niệm, vô sự của những bậc thiền sư. Nhà thơ thõng tay vào chợ, tung
hoành ngang dọc, nhảy múa quay cuồng đủ thể điệu quàng xiên mà vẫn sáng suốt
thông tuệ như như.
Tư tưởng phá chấp triệt để của
Thiền tông được thi nhân thể hiện suốt bình sinh cuộc sống bằng chính bản thân
mình, như ngụ ngầm khai thị một điều gì vi diệu mà mỗi một người trong chúng ta
phải tự lãnh hội, tự thấu hiểu ra mà thôi.
Sở dĩ con người đau khổ là
vì cố chấp, chấp ngã, chấp pháp, chấp đủ thử lu bù nên cứ mãi khổ đau trầm thống
triền miên. Muốn thoát khỏi vòng trầm luân khổ não đó, chỉ còn một cách là hãy
trở về lại chính mình, nhận biết cái bản tâm nguyên sơ, sống với thực tại đang
là ngay trong từng hơi thở luôn luôn mới lạ và mới lạ.
Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách nhận
xét về thi sĩ : “Bùi Giáng cũng như một người điên, cỡ Tế Điên. Cũng như Tế
Điên, hình như ông đến cõi đời này để dạo chơi, để đùa rỡn và cũng để giáo hóa
cho con người thấy tất cả đều chỉ là trò ảo giác của sắc thân, của chữ nghĩa, của
tư tưởng, chúng đều là chuyện đáng để đùa rỡn.”5/. Rỡn đùa điên khùng
chơi theo thể điệu Tiếu ngạo giang hồ Kim Dung tung chưởng vô chiêu, hay khùng
điên nhảy múa ca hát, tràn đầy yêu thương tuyệt mỹ như nghệ sĩ Nijinsky: “Tôi
là Thượng đế trong con người. Tôi cảm những gì Christ đã cảm. Tôi giống như đức
Phật, tôi là đức Như Lai Phật giáo và là tất cả mọi Thượng đế thiên hình vạn trạng.
Tôi quen biết tất cả những vị đó và đã gặp gỡ tất cả những vị đó. Tôi giả vờ
làm thằng điên một cách cố ý vì những mục đích riêng tư của tôi. Tôi biết
rằng, nếu mọi người nghĩ rằng tôi là một thằng điên vô tội thì họ sẽ không sợ
tôi. Tôi không thích thiên hạ nghĩ rằng tôi là một thằng điên nguy hiểm. Tôi là
một thằng điên yêu thương nhân loại. Cơn bệnh điên của tôi là tình thương của
tôi đối với nhân loại.”2/.
Thật vậy, quả nhiên đúng là
như thế, phải không hỡi đại thi sĩ Bùi Giáng ? Cơn bệnh điên của thi sĩ là
vì quá thương yêu nhân loại đó thôi. Yêu thương quá độ mà thành ra điên, mà bày
ra đủ trò khiêu vũ ngôn ngữ, hý lộng ngữ ngôn một cách thượng thừa như đùa như
rỡn trào tuôn. Ừ thì như thị, như thế, như thế, cứ mở ra những cuộc rỡn đùa
chơi hay đại hòa điệu chơi giữa cõi người ta, vì tất cả mọi sự trên thế gian
này đều chỉ là trò chơi, trò đùa huyễn mộng. Sống là chơi, chết là chơi, điên rồ
là chơi, tỉnh táo là chơi, uống rượu khề khà là chơi, mê gái là chơi, làm thơ
làm thẩn là chơi, làm văn nghệ là chơi, làm cuồng sĩ túy lúy ca là chơi, làm
thiền sư tự do tự tại là chơi, làm bất cứ việc gì cũng là trò chơi, trò đùa du
hý tam muội mà thôi:
Mỗi người có một cách chơi
Em vui với gió tôi ngồi nhìn
trăng
Em đi năm tháng thường hằng
Tôi nằm nhớ mãi hàm răng em
cười
Mở tờ giấy mới ra chơi
Hình như giấy cũng vui cười
với em
Bài thơ do đó lem nhem
Lúc vui lúc khổ như em đó mà
Còn tôi vui khổ thật là
Đảo điên rất mực tiên nga giật
mình
Trăm năm khó đổi tính tình
Cũng không có thể làm thinh
muôn đời
Thôi thì cứ nói cho vui
Nghìn năm chỉ có một đời
muôn năm
Làm sao quên được giọng cười ‘‘vui
thôi mà’’ của thi nhân ? Giọng cười ấy vẫn còn đồng vọng khắp nơi
trên mặt đất. Bất cứ ở đâu, nếu ai còn cảm được thi ca và phiêu lãng đều nói về
Bùi Giáng với niềm rỡn tếu, bông đùa một cách vui vẻ thân mật, gần gũi như là
anh em chí cốt ruột rà vậy. Đa số mọi người đều thấy đấy là một Bồ tát nghệ sĩ
đi về mặt đất trần gian chuyển hóa con người ta nên buông xả cái tâm chấp thủ, dính
mắc vào danh lợi, để sống thanh thản an nhiên với niềm tự do tự tại vô ngại. Bồ
tát nghệ sĩ là người không những tự giải thoát chính mình ra khỏi mọi mắc dính
buộc ràng mà còn khôn khéo tìm cách khơi mở tuệ giác nơi những kẻ khác bằng
phương tiện nghệ thuật, ngay giữa bây giờ và chính ở đây thôi.
Ngày tháng vẫn luân lưu trôi
chảy mãi, nói về Bùi Giáng thì bất tuyệt và giọng cười vô sự cũng mở ra bất tuyệt
như Ma Ha Ca Diếp niêm hoa vi tiếu trên đỉnh Linh Sơn rờn mây trắng từ nghìn
xưa cho mãi đến bây giờ:
Niêm hoa vi tiếu luống từng
Xuân phong bài động thơ mừng
vụt dâng
Người thi sĩ thượng thừa đã
về đã tới nơi chốn quê nhà, đã qui hồi cố quận, nằm ngắm trăng đón gió cùng mây
về hòa điệu khúc cung cầm vô thủy vô chung:
Tâm tình mấy nẻo mông lung
Ta nằm cố quận muôn trùng
người đi
Kỳ tuyệt cõi thi ca Bùi
Giáng, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng sự sự vô ngại, lý sự viên dung của pháp giới
Hoa Nghiêm. Tư tưởng đó được thi sĩ tiêu dung, tiêu hóa và sáng tạo thành một
nguồn thơ độc đáo vô song. Hồn thơ như ngọn lửa thiêng ngời tỏa ánh hào quang,
cháy bừng lên rực rỡ huy hoàng làm ấm áp khắp mặt đất trần gian, chan chứa nồng
nàn trong cõi người ta tha thiết thiên thu.
Giữa thiên thu vạn đại, ngưới
viết xin kính tặng thi sĩ vài bài thơ để nhớ mãi những ngày tháng ở phố thị Sài
Gòn cùng thi sĩ ngao du đủ thể điệu phiêu bồng:
SAY THƠ
Nhập cuộc chơi sớm chiều lêu
lổng
Không dừng chân trú lại nơi
đâu
Sinh nhằm quẻ Lữ trong Kinh
Dịch
Nên rong rêu như
bèo nổi qua cầu
Cầu sinh tử cứ trôi và chảy
Suối hồ sông biển cả mênh
mông
Rạt rào vô hạn cùng Bùi
Giáng
Giữa phù hoa nhảy múa phiêu
bồng
Sài Gòn trút cơn mưa
nguồn xuống
Gội cho đời bớt sa mạc khô
khan
Trung Niên Thi Sĩ hề nâng cốc
Rượu thi ca tư tưởng uống
tràn
Quán vĩa hè dăm ba cuồng sĩ
Túy lúy ca hòa cát bụi này
Ngày tháng ngao dumù lảo đảo
Phố phường say trời đất cũng
say
THI SĨ BÙI GIÁNG
Không chỗ trú chẳng bến bờ
Vẫn bầu rượu với túi thơ dặm
dài
Ngút mùa cuồng sĩ lai rai
Nghêu ngao vô sự hát bài Hoa
Nghiêm
Có gì đâu phải đi tìm
Ba nghìn thế giới trong tim
của mình
Tà tà giữa cuộc phiêu linh
Một hôm bất chợt thấy hình
bóng xưa
Nên về cà rỡn bông đùa
Múa ca diệu dụng cùng mưa nắng
cười
Miền hoan hỷ địa rong chơi
Khơi nguồn sáng tạo mở trời
đất ra.
1/ Tạp chí Tư Tưởng số 5. Đại
học Vạn Hạnh, Sài Gòn 1969
2/ Phạm Công Thiện. Một đêm
siêu hình với Hàn Mặc Tử, Trần Thi xuất bản, Hoa Kỳ 2009
3/ Tuệ Sỹ. Huyền thoại Duy
Ma Cật. Phương Đông xuất bản, 2007
4/ Nguyễn Hữu Hiệu. Con đường
sáng tạo. Hồng Hà xuất bản, Sài Gòn 1973
5/ Nguyễn Tường Bách. Mùi
hương trầm. Trẻ xuất bản, 2001
Thơ văn Bùi Giáng trích trong các tác phẩm: Mưa nguồn, Lá hoa cồn, Sa mạc phát tiết,
Sa mạc trường ca, Rong rêu, Như sương, Đêm ngắm trăng, Mùa màng tháng tư, Ký ức,
Trúc mai, Mười hai con mắt, Rớt hột phiêu bồng, Bèo mây bờ bến. Thơ vô tận vui,
Tuyết băng vô tận xứ, Thúy Vân, Mùa xuân trong thi ca, Tư tưởng hiện đại, Lời cố
quận, Lễ hội tháng ba, Ngày tháng ngao du.
Tâm Nhiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét