Trò chuyện với dòng sông
Ngày đó, cứ đến đầu tháng bảy là ông nội lại đi ra đi vào lên
kế hoạch để về quê. Xa xôi gì đâu, nhưng mỗi năm cụ cũng chỉ được con cháu đưa
về độ một hai lần vì lí do sức khỏe. Cuộc gì không về, chứ rằm tháng bảy không
về là cụ bứt rứt không yên lòng được.
Quê tôi bên dòng sông La, Đất Yên Hồ rộng rãi và khoáng đạt
đã nuôi nấng cả dòng họ bằng cái nghề thợ rèn đêm đêm đỏ lửa, nghề kéo che nấu
mật, nghề đãi hến ven sông...tất cả cái nổi vất vả nhọc nhằn dậy mùi thơm thảo
đó đã hun đúc lại mà làm nên hình người dân Yên Hồ: có cái thật thà của đất, có
cái đằm sâu dân dã của mật và có cái mượt mà ngọt ngào của dòng La tuôn chảy để
dù có đi đến đâu, khắp bốn phương trời...cái lẽ tự nhiên làm nên cốt cách đó vẫn
không thể nào thay đổi.
Trong những chuyến về quê suốt cả những năm tuổi thơ, tôi nhớ
nhất dòng sông La hiền hòa chảy qua con đê trước ngõ. Muốn ra sông chỉ việc
băng qua con đường đê cao ngút cỏ may là đến. Chân cứ bước rướn từng bước, hít
căng lồng ngực khí trời, ánh nắng chan hòa nhuộm ướt mồ hôi lưng áo , khi bắt đầu
thở dồn hơi rồi là ra được với dòng sông. Lúc đó, mọi cảm giác mệt như tan biến,
trong lòng chỉ là một cảm giác mênh mông diệu vợi của nước và cỏ. Thủa đó tôi cứ
tự hỏi mình rằng: trên dòng sông này, có bao nhiêu nguồn nước ở các con sông
con suối nhỏ, băng qua bao nhiêu vực sâu, ngóc ngách khe đá, thác đổ ở sông
Ngàn Sâu hay sông Ngàn Phố đổ về, hợp nhau ở Tam Soa mà trở thành sông La lừng
lững. Chỉ biết rằng chỗ đó là khúc quanh của dòng sông, chỗ đó là con sông mà
tôi thường muốn đến.
Lần giở lại sách Đại Nam nhất thống chí có viết rằng: Sông
La có hai nguồn: Một nguồn từ động Thâm Nguyên (tức Ngàn Sâu) ở núi Khai Trương
(tức núi Giăng Màn) châu Quy Hợp tỉnh Hà Tĩnh (đạo Hà Tĩnh xứ Nghệ xưa), chảy về
Đông đến xã Chu Lễ, hợp với sông Tiêm, đến xã Bào Khê gặp sông Trúc, qua sông Cửu
Khúc đến xã Vụ Quang thì hội với sông Ác (tức sông Ngàn Trươi), dến xã Đỗ Xá
thì gặp sông Ngàn Phố. Nguồn kia là sông La Hà bắt đầu từ ngọn Cốt Đột núi
Giăng Màn, chảy về phía Đông gọi là sông Ngàn Phố đến Đỗ Xá hợp với sông La.
Sông La chảy đến xã Bùi Xá thì chia ra một nhánh chảy vào sông Minh, chảy tiếp
về Đông đến xã Tường Xá thì đổ vào sông Lam.
Có phải vì Sông La là khúc quanh của dòng sông, là nơi ngơi
nghỉ của những con sông sau khi vượt qua bao núi non thác ghềnh, bao nóng nảy
thét gào mà trở nên hiền hòa, thoai thoải. Hay tại con sông ngắn nên đất trời
bao dung, hòa hợp hay không mà nước ở đây trong xanh nhất, phong cảnh ở đây được
xem là đẹp nhất ở xứ Nghệ. Bởi thế, Sông La đã đi vào lịch sử quê hương và dân
tộc, là nguồn cảm hứng cho các thế hệ văn nhân tài tử. Cũng đúng thôi, từ hai
bên bờ tả ngạn sông La này là những xóm làng trù phú, phong cảnh hữu tình, con
sông này hàng năm có đến 6000 triệu mét khối nước đổ qua đầy cùng hàng trăm vạn
tấn phù sa tạo nên một vùng châu thổ phì nhiêu nhất nhì xứ nghệ, quanh năm một
màu xanh mát mắt ở đôi bờ lại có lịch sử hàng ngàn năm, bao danh nhân kiệt xuất
đã ra đời làm rạng danh non nước: Nguyễn Biểu, Bùi Dương Lịch, Phan Đình Phùng,
Trần Phú...thì hà cớ gì không làm nên huyền thoại.
Tôi đứng cùng ông tôi trong buổi chiều cả gió trên bờ đê một
ngày cuối thu xao xác may vàng. Ông nhìn sang núi Tùng Lĩnh duyên dáng, tròn trịa
như con gái mà nhẹ nhàng buông một tiếng thở dài mãn nguyện. Tôi hồ nghi rằng,
có lẽ trong suốt những năm tháng li quê của mình, người trong kí ức đẹp đẽ tuổi
thơ của người đã có những lần chăn trâu cắt cỏ trên ngút ngàn thông xanh Tùng
Lĩnh quanh năm một màu xanh. Màu xanh của cây hòa lẫn màu xanh của trời, của nước
sông La
Chuyện về quãng đời hoạt động của ông tôi đối với tôi cứ như
một huyền tích. Những kiến thức, những chuyện kể về quê hương, về chiến trường
của ông cứ ám ảnh mãi trong giấc mơ con trẻ của tôi. Tôi xa mẹ từ bé, kí ức về
những khúc hát ru thường là từ ông. Cứ mỗi lần kê đầu trên đùi ông, nghe ông
hát ngâm những khúc hát ru về quê hương , tôi hình dung con sông La quê tôi
xanh mướt ngô khoai đầy bãi vào những ngày rộ mùa, hay cái đói ngặt nghèo những
mùa mưa lũ và cảnh các em con chú tôi ở ngoài đê ngồi trên chạn dỡ ngói nhìn
dòng sông cuồn cuộn nước.
Tôi về Đức Thọ. Thế hệ thứ 3 của dòng họ Trần Đăng tha hương.
Đó là một buổi sáng tinh sương cuối hè dìu dịu. Ba tôi dắt tôi đi dọc con đê từ
ngã tư Trổ, theo đường đê để trở về nhà. Tôi vượt qua bao cây số đường dài, hít
hà căng lồng ngực mùi sen đã bắt đầu tàn rữa rồi co chân chạy miết trên bờ đê lấp
lánh sương buổi sáng. Trước mặt tôi là dòng sông, dòng sông La xanh biếc trong
kí ức của tôi ngày nào bây giờ đang ở trước mặt tôi lờ đờ sương. Gương mặt sông
dậy muộn, ngái ngủ lững lờ trong màn mây nắng sớm. Tôi bất chợt buông một tiếng
thở dài xuống dòng sông rộng dài một nỗi yêu thương, thiết tha đến không thể tả.
Và lúc ấy tôi nhận ra một chân lí không thể nào khác được, Con sông La đã ở
trong tôi trọn vẹn tự kiếp nào.
Ông tôi nặng nợ với quê rất nhiều, sinh ra và lớn lên nhưng
không được trưởng thành từ đó. Khi trở về quê thì cũng chỉ vội vội vàng vàng mỗi
năm hai kì giỗ tổ: rằm tháng giêng và rằm tháng bảy. Tôi biết trong ông mang
nhiều nỗi niềm mà bất cứ kẻ li hương nào cũng nghĩ về quê với những niềm thiết
tha không thể tỏ. Tôi sống với ông từ bé, hiểu ông từ những tiếng thở dài. Những
chuyện to nhở lớn bé ông đều kể hết cho tôi, kể không chỉ để chia sẻ nỗi niềm
mà ông hướng về tôi như một sự xâu chuỗi một ước mơ, một khát vọng mà ông thường
ấp ủ. Tôi biết, mình mang nặng những ẩn ức khó nói của một tấm lòng, một trái
tim thiết tha yêu quê hương đến mãnh liệt của ông.
Không như những đứa cháu khác, mỗi câu chuyện hằng đêm ông kể
với tôi đều mang đậm những kiến thức văn hóa vùng miền. Ông muốn tôi giữ lại những
gì còn vẹn nguyên về một miền quê trong ông thủa trước. Nói về quê hương hai
bên bờ tả ngạn Sông La, nói về những làng nghề thủ công truyền thống: Nghề thợ
rèn ở Trung Lương, nghề mộc ở Thái Yên, đóng thuyền cào hến ở Trường Xuân, nghề
dệt lụa ở Đông Thái... Nơi đây cũng là kho tàng văn hóa dân gian đồ sộ và phong
phú. Câu hò, điệu ví không bao giờ ngưng nghỉ trên dòng sông La.
Và trong kí ức của tôi tự bao giờ, quê hương là ông tôi, là
dòng sông, là những gì mà ông tôi đã kể từ ngày tôi còn thơ bé.
Sông thì vẫn mải miết trôi không ngơi nghỉ...
Tôi thì đã lớn lên...
Không biết bao nhiêu lần trở về ngồi lại trên bờ đê nhưng tôi
vẫn không thể nào tìm lại được cái cảm giác vỡ òa như lần đầu tiên gặp gỡ. Dòng
sông trong tôi không còn vẻ lừ đừ ngái ngủ trẻ con mà vương vấn một nét buồn trầm
mặc mơ hồ. Nhiều khi tự vấn với lòng mình, hay tại mình đã nghĩ, đã suy đã khác
trước để dòng sông không còn trẻ thơ như trước nữa. Dòng sông La vẫn chảy, thao
thiết và vấn vít. Hai bên bờ vẫn xanh biếc nương ngô nhưng trộn lẫn trong tôi vẫn
là những cảm giác vui buồn không thể tả...thế nghĩa là từ đây, tôi đa mang ôm cả
dòng sông vào lòng...liệu rằng đó có là duyên kiếp chi không giữa tôi với dòng
sông La tha thiết?
Tôi lớn lên, mang trong mình niềm tự hào của người con gái
sông La mỗi khi ai hỏi về quê hương bản quán. Lại thao thao câu ca rằng: Muốn
ăn cơm nếp độ chà. Muốn lấy vợ đẹp thì ra Yên Hồ. Đấy " đặc sản" quê
tôi chỉ là hai thứ Cơm nếp độ chà và gái Yên Hồ mà thành có tiếng. Theo nhà
nghiên cứu Lê Trần Sửu thì cái đẹp của gái Yên Hồ xem ra nổi trội hơn về phần
phẩm hạnh hơn cả nhan sắc. ông viết thế này: gái Yên Hồ đẹp không chỉ ở làn da
trắng trẻo do ở trong phòng the dệt vải mà chính là ca ngợi tài năng, lòng
chung thủy của các cô gái Yên Hồ. Thường làng nào có nghề dệt vải con gái cũng
thường trắng trẻo, điệu đà, khuê các hơn các nơi khác. Cũng đúng thôi, nơi đây
làng dệt cũng là trung tâm của phường hát ví. Nếu ai đã từng biết " ví phường
vải" thì mới hiểu hết rằng: môn nghệ thuật này không chỉ đơn thuần là là
âm nhạc mà còn là cuộc đấu trí giữa trai tài gái sắc. Cho nên con gái làng dệt
Xứ Nghệ không chỉ đẹp về nhan sắc mà còn đẹp cả về trí tuệ lẫn lời ăn tiếng
nói.
Nói là để kể thế thôi, kể về những chuyện xửa chuyện xưa đã
trở thành huyền tích. Yên Hồ là đất đồng bằng ven sông, phù sa màu mỡ, nếp
thơm, cơm dẻo, đậu bùi thì có gì là lạ. Song người đời không dễ gì cứ tự nhiên
mà khen chê mà đúc kết thành câu ca dao để đời đến thế. Chuyện xưa kể lại rằng:
có người con gái họ Đoàn xinh đẹp được Lê Ninh- một cậu ấm con nhà gia thế bên
Trung Lễ yêu thầm. Song do cậu ấm này đã yên bề gia thất nên nàng từ chối.
Nhưng khi Lê Ninh khởi nghĩa cần Vương, thì cô gái Yên Hồ lại tự nguyện đi theo
giúp sức. Năm 1885, do rừng thiêng nước độc, Lê Ninh bạo bệnh rồi qua đời. Cô
gái họ Đoàn kia đưa ông về Phù Long chôn cất rồi quay về sông La ở vậy không lấy
chồng nữa...
Tôi đã kể với Hàn về một dòng sông như thế. Kể một cách rành
mạch và rõ ràng lẫn yêu thương những gì mà ông tôi đã kể...trên một bờ biển mùa
đông lộng gió. Tự nhiên thôi, tôi muốn kể cho Hàn nghe những gì đã trở thành
máu thịt trong tôi. Cả dòng sông cũng thế, dòng sông với những thăng trầm dâu bể,
với những đêm đêm làng hến Trường Xuân miệt mài đỏ lửa đãi hến dưới ánh trăng
vàng. Với những cô gái làng dệt Đông Thái xuống sông kín nước, giặt lụa hay tiếng
đục tiếng đẽo mơ hồ của làng mộc Thái Yên như từ thủa sơ khai...và những người
tha hương ly quê không trở về, cứ đau đáu nhớ quê vào những ngày hội làng, những
ngày mưa bão.
Ông tôi có lần làm tôi rơi nước mắt khi ốm chỉ thèm ăn một củ
khoai, củ lạc ngâm nước lụt. Cái loại khoai không bới hết từ mùa năm ngâm mãi
trong nước có mùi thum thủm úng. Đến mùa mưa, nước ngấm, đất cày lên mới bật củ.
Khoai lộn với bùn lấm láp đã nuôi ông suốt cả những năm tháng đói nghèo.
Giờ đến anh. Anh ngồi im nghe câu chuyện tôi kể rồi thẽ thọt
bằng cái giọng Tràng An nhái lại trọ trẹ tiếng Nghệ tôi mà nói rằng: Một nửa
con người anh là người Đức Thọ. Anh nói anh đã từng vùng vẫy trên sông La, đã từng
chạy từng bước sải dài trên trên bờ đê lộng gió. Đó là quê mẹ anh. Từ ngày mẹ mất,
anh đã không trở lại.
Tôi đã vô tình gợi lại một niềm nhung nhớ trong anh. Không biết
có phải là lỗi lầm không nhưng nó cũng làm tôi day dứt mãi. Cũng có thể, tôi đã
đem đến cho anh một chút hương vị quê nhà mà anh đã cố tình dấu kín cái cảm xúc
chân thật của chính mình mà sợ mình bắt gặp.
Có người hò hẹn tôi cùng trở về sông La. Rồi lại nói thèm ăn
hến chợ Trường Xuân Ấy vậy mà không thể. Đã đến rằm tháng bảy- mùa của những
người biệt li hồi nhớ mà người vẫn không trở về. Bận quá, công việc cuốn người
ta đi một cách mải miết. Tự nhiên tôi đâm lo, liệu rằng những giá trị vật chất
đó nó có cuốn đi luôn cả những kí ức ngọt ngào... nơi mà mỗi khi buồn, mỗi khi
cô đơn người ta lại tìm về với nó?
Tháng bảy ta, Hoa cỏ may dọc bờ đê La giang cháy cả một vạt
vàng rười rượi. Nhấp đôi chân trần xuống dòng nước đó. May thay, may lắm thay
đã có lần ngày xưa theo bạn ra sông, tôi đã được vục đầu vào dòng nước để biết
răng là trong răng là đục của dân mình. Có lẽ đó là lần đâu tiên và cũng là lần
duy nhất tôi được tắm trên dòng sông dềnh dàng nước mà không hề cảm thấy xa lạ
hay sợ hãi...
Rằm tháng bảy này tôi về quê. Một mình đứng bên bờ sông La
trong bóng hoàng hôn của buổi chiều tà mà thấy lòng rười rượi những cảm xúc
không thể nào gợi tả. Lòng thẩn thơ nhìn, hình như bên bờ bên kia đã lở thêm một
quãng mà bên này không thấy bồi thêm, hay trong tôi có một nỗi buồn nào xa xăm
hiện hữu nặng nề của một mối tình cách trở. Tôi tự an ủi mình rằng: biết đâu nỗi
buồn của mình đang mang đây sẽ mang lại sự yên lành và hạnh phúc cho người khác
thì nó đầu phải là vô nghĩa.?
Trời đã bắt đầu chiều thật chiều rồi. Đâu đó, tiếng mõ cốc cốc
vang đều và tiếng chuông thi thoảng thỉnh lên một hồi dài như đưa ta trở về một
cõi tịnh độ vô thường nào đó. Tôi nhớ anh. Nhớ đôi mắt ngỡ ngàng đến ngạc nhiên
khi tôi nói mình là người Đức Thọ. Giống như từ xa xăm, anh vỡ vạc nỗi nhớ quê
hương trong giọng nói trọ trẹ nặng nề của tôi không thể nào trộn lẫn. anh tìm lại
được trong tôi cả quê hương lặng lẽ rời xa khi mẹ anh qua đời mà anh không trở
lại, sợ gặp hình bóng mẹ ở quê mà nhớ đến nao lòng.
Chần chừ mãi rồi cũng phải đi. Tôi bứt vội bó cỏ may cuối mùa
lặng lẽ thả xuống dòng sông La dềnh dàng nước. Kì lạ thay, tôi thoảng nghe thấy
mùi hoa huệ đượm nồng, mùi khói sương bảng lảng trong bóng chiều chực xuống.
Mùa này, nước sông La bắt đầu lạnh rồi. Mặt sông tím đầm đã
mang nhiều hơi nước...
Trần Quỳnh Nga
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét