I.
KHÁI QUÁT
Văn hóa là nền tảng tinh thần của
mỗi con người, là động lực mà cũng đồng thời là mục tiêu trong chiến lược phát
triển kinh tế, văn hóa - xã hội của một dân tộc. Văn hóa mà chúng ta đang xây dựng
là một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đó là lòng yêu nước
nồng nàn tiến bộ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chọn lọc những tinh hoa của
dân tộc đồng thời bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống tích lũy hàng
nghìn năm, qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Làng là nơi cộng đồng dân cư
hình thành thông qua lao động sản xuất, đấu tranh sinh tồn và không ngừng phát
triển. Làng là cội nguồn, là nơi chôn nhau cắt rốn, là những hình ảnh thân quen
mãi mãi không bao giờ phai mờ trong tâm trí của mỗi con người, nơi có lũy tre
xanh, cây đa bến nước, sân đình. Làng là nơi hình thành tồn tại thiết
chế văn hóa, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn.
Văn hóa làng là nét truyền
thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, trải qua bao đời nay, những thuần phong mỹ
tục của văn hóa làng được tổ tiên chúng ta gìn giữ, bảo tồn, phát huy và xây dựng.
Hơn bao giờ hết truyền thống đó đã và đang được nhà nước ta quan tâm vun đắp bằng
cuộc vận động sẵn sàng xây dựng “làng văn hóa” hiện nay.
Làng Vĩnh Xương thuộc xã Điền
Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế là một trong những làng của
huyện Phong Điền được thành lập sớm ở xứ Thuận Hóa, theo sách “Thiên nam
dư hạ tập” của triều Lê có ghi: “trong đời Hồng Đức lập bản đồ, Thuận hóa
Thừa Tuyên có 2 phủ, 8 huyện, 4 châu. Tổng Vĩnh Xương có 7 xã 3 thôn, các xã là
Vĩnh Xương, Hương Triền, Văn Lô, Siêu Loại, Kế Môn, Đại Lộc, Trung Toàn. Các
thôn là: Chính Lộc, Đường Long, Hòa Viện”.
Như vậy tên làng (xã) và tổng
Vĩnh Xương có trước năm Hồng Đức Quý Mão (1483) đời vua Lê Thánh Tông.
Thế kỉ thứ XVI, làng Vĩnh
Xương có tên gọi là Vĩnh Áng, là một trong 65 làng (xã) thuộc huyện Kim Trà, phủ
Triệu Phong xứ Thuận hóa. Thời các Chúa Nguyễn, làng Vĩnh Áng đổi tên thành
làng Vĩnh Thọ. Thời vua Minh Mạng (1820 – 1840) tên làng Vĩnh Thọ đổi thành
làng Vĩnh Xương cho tới nay. Minh Mạng năm thứ 16 (1835) thành lập huyện Phong
Điền, huyện chia làm 5 tổng, trong đó tổng Vĩnh Xương bao gồm các làng (xã)
vùng Ngũ điền, huyện Phong Điền ngày nay.
Là một làng thuần nông, từ
thời các Chúa Nguyễn, tại làng Vĩnh Xương đã có nhiều kho thóc của nhà nước, chứa
thóc tô ruộng và thóc mua bằng tiền sai dư. Ngoài nghề nông, làng Vĩnh Xương còn
có nghề làm giấy bằng cây vỏ gió. Giấy gió sản xuất thành hình vuông
là một mặt hàng có giá trị thời bấy giờ (theo sách Phủ biên tạp lục của
Lê Quí Đôn, NXB KHXH Hà Nội 1964 trang 260 và trang 357).
Làng Vĩnh Xương vốn có truyền
thống văn hiến lâu đời, làng có Văn Thánh, Võ Thánh để thờ tự các bậc tiền bối
có công với dân với nước, đồng thời khuyến khích con dân trong làng vì nghĩa lớn,
truyền thống hiếu học sẵn sàng xả thân vì nước. Ông Trần Lưu Huệ (Trần Gia Thiện) thi
hương khoa Đinh Mão (1867) đổ cử nhân làm quan tới chức Tổng đốc Binh phủ Nghệ
An, quyền Bắc kỳ kinh lược sử, Thư hiệp đại học sỹ, Tổng đốc Hà tiên. Cùng nhiều
vị khác có công lao to lớn với dân với nước.
Suốt dặm dài lịch sử, dân
làng Vĩnh Xương đã để lại cho thế hệ mai sau truyền thống cao đẹp, đó là: lòng
yêu nước nồng nàn, tính cần cù sáng tạo, tinh thần hiếu học, đoàn kết thương
yêu trong tình làng nghĩa xóm. Vinh dự thay xã Điền Môn trong đó có làng Vĩnh
Xương đã được nhà nước phong tặng danh hiệu cao quí: xã "anh hùng lực lượng
vũ trang nhân dân."
Từ ngày thống nhất đất nước,
truyền thống nhân văn ở làng phát triển sâu sắc hơn, đời sống vật chất và tinh
thần không ngừng được cải thiện và nâng cao, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng,
bộ mặt nông thôn ngày càng được đổi mới, tinh thần hướng về cội nguồn, tôn tạo
nét bản sắc văn hóa dân tộc được dân làng quan tâm chú ý. Bởi vậy trong qui ước
xây dựng làng văn hóa gồm 8 chương, 32 điều nói về những điều khoản chung và những
qui định cụ thể nói về sản xuất, bảo vệ sản xuất, xóa đói giảm nghèo, về cảnh
quan môi trường, giữ gìn sức khỏe và bảo vệ các di sản văn hóa, các quy định
trong quan hệ ứng xử và sinh hoạt hàng ngày, về hoạt động cưới tang, lễ hội, giải
trí…toàn thể tộc trưởng đồng nhất kí tên. Bởi vậy muốn là một làng văn hóa mẫu
mực, thiết nghĩ cần phải hội đủ những yếu tố sau:
1. Có đời sống kinh tế ổn định
và từng bước phát triển.
2. Có đời sống văn hóa tinh
thần lành mạnh phong phú.
3. Có môi trường cảnh quan
xanh- sạch- đẹp.
4. Thực hiện tốt chủ trương
chính sách pháp luật của nhà nước.
II.
VÀI NÉT VỀ VĂN HÓA LÀNG XÃ
1. Có một phong cách sống rất
Vĩnh Xương:
«Sống trong đời sống,
cần có một tấm lòng, để làm gì em biết không?...để gió cuốn đi». (Để
gió cuốn đi của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn). Thật vậy, dân làng Vĩnh
Xương là vậy, cuộc đời sau những năm tháng bươn chải để chống chọi lại cuộc sống
đầy gian nan, thử thách. Để rồi khi ra đi để lại vỏn vẹn có một chữ «tình». Sống
trong đời này chúng ta cần có 1 tấm lòng, dù tấm lòng ấy chẳng là cái gì, dù chỉ
cho gió cuốn đi. Nội dung bài ca này sao mà sâu sắc, mặn mà đến
thế, hơn nữa lại rất đúng với chữ tình của Vĩnh Xương như vậy.
Chữ tình ở đây có
rất nhiều khía cạnh, có thể là tình nghĩa, tình thương, tình anh em, vợ chồng,
tình bạn bè, tình tri kỷ hay đơn giản chỉ là chữ tình giữa con người nơi đây với
một người xa lạ mới gặp. Người làng Vĩnh Xương sống giản dị lắm. Ngày xưa, ăn
cũng không dám ăn, mặc cũng không dám mặc, dù có tiền cũng không dám cao sang
vì sợ mọi người nhìn mình với ánh mắt khác. Thời nay đời sống tuy có phát triển
nhưng vẫn thanh đạm như ngày nào. Những người có tuổi chỉ có vỏn vẹn từ 3 đến 5
bộ đồ. Những vị giản dị trong bộ sưu tập cũng chỉ vỏn vẹn chưa quá 3
bộ. Tầng lớp thanh niên trai tráng ăn mặc cũng chẳng màu sắc hoa hòe cho lắm
(theo nghĩa bóng), chẳng phải đua đòi như bao chàng trai, cô gái thời hiện đại
(ở đây không nói có hợp thời trang hay không?). Xưa nay vẫn một phong cách
ấy « Đói vẫn sạch, rách vẫn thơm »
Dân nơi đây có cái lạ, dù
đói cấp mấy cũng không lấy của ai một đồng. Vấn đề trộm cắp không bao giờ là vấn
đề cấp thiết đòi hỏi phải đưa ra hội đồng làng, người dân thật thà,
chất phát đến lạ lùng. Vả lại không có chuyện gì là riêng tư cả (biểu hiện
là một việc xảy ra ở đầu làng chỉ 5 phút sau cả làng đã biết rõ tường tận). Ở
đây không phải người làng nhiều chuyện mà do hệ thống thông tin từ người này
sang người khác phát triển khá mạnh.
Không biết tiềm lực kinh tế
trong gia đình có mạnh hay không nhưng khi đi ra ngoài áo quần luôn luôn chỉnh
tề đàng hoàng, đẹp đẽ. Biểu hiện rõ nhất vào các dịp lễ tết, hội hè hay đám cưới :
Các Cụ trưởng lão luôn áo dài, khăn đóng. Các Chú, các Bác lúc nào cũng cà-vạt,
veston. Các Dì, các O, các Mợ là những bộ áo dài đứng đắn, nết na. Thanh niên
trai tráng, thiếu nữ thường mặc những bộ đồ kín đáo nhưng không kém phần đường
hoàng lộng lẫy. Bởi lẽ hơn ai hết dân làng Vĩnh Xương hiểu rõ câu
châm ngôn «quen xem dạ, lạ xem áo quần ».
Cách
tiếp khách trò chuyện một cũng niềm nở, vui tươi, không có khoảng cách giữa chủ
và khách. Mời ăn cơm thì mời cho kì được, nếu khách bận thì hẹn hôm
sau. Nếu khách qua đêm chủ bố trí đàng hoàng, chỗ ngủ phải «hậu
hĩnh», sẵn sàng nhường lại chăn, gối cho khách, khách đến thăm giống như
người trong nhà, như tri kỉ. Khách và chủ ở đây tuy 2 mà là 1 từ lâu rồi.
Trong nhà, nói
năng đàng hoàng, tử tế, có gia tông, giọng nói nhẹ nhàng, có trước có sau.
Cha mẹ răng dạy con cái thấu lý đạt tình. Mẹ chồng nàng dâu không bao giờ có hiềm
khích cùng yêu thương nhau và vượt qua khó khăn gian khổ. Con cái luôn luôn hiếu
kính với cha mẹ. Anh em yêu thương hòa thuận đúng trên đúng dưới. Mỗi lần có việc
kỵ giỗ, việc họ, các thành viên trong gia đình họ tộc quây quần bên nhau quanh
mâm cỗ và nói chuyện vui vầy. Nhưng từng bậc được sắp xếp rõ ràng: trưởng lão
- khách quý - các bác - các chú - các o dượng – cậu dì - thanh niên rồi đến các
cháu nhỏ.
Đám cưới được tổ chức trong
2 ngày, nhưng thành phần ban tổ chức phải vào cuộc trước đó từ rất lâu. Chúng
tôi chủ yếu tự phục vụ là chính, nhà trai, nhà gái có thể tổ chức cùng ngày hoặc
nhà gái trước nhà trai 1 ngày để tiện cho việc rước dâu. Ngày xưa làng tôi có tục
ở rễ, đây là quá trình xét lựa nếu không muốn nói là tuyệt đối kĩ càng của nhà
gái. Người con trai phải sang giúp việc nhà «đằng ấy» có thể là vỡ đất,
gieo mạ, cấy lúa, gặt hái, cày bừa, làm nhà hay chí ít là giúp các công việc vặt
trong nhà của gia đình đó.
Ngày phụ (ngày đầu của đám
cưới): các thành viên trong nội tộc, hàng xóm thân thích được mời đến dự. Họ phải
dựng rạp, dọn dẹp, trang trí. Vào ngày này những nhà có điều kiện thường mổ heo
dọn tiệc, chuẩn bị các đồ lặt vặt và mồi nhắm cho văn nghệ về đêm. Ngày chính:
là ngày tốt trong năm hợp với tuổi của đôi trai gái chọn ngày chính để rước
dâu. Sau sự thỏa thuận giữa hai gia đình về ngày và giờ rước dâu. Nếu cô dâu là
người trong làng thì họ nhà trai sắp xếp trước khoảng 1 tiếng đồng hồ đến nhà
gái xin rước dâu làm thủ tục rước dâu, rồi đưa dâu về làm lễ bái gia tiên và tổ
chức tiệc mừng.
Từ bao đời nay vẫn vậy, việc
lo cho người quá cố vẫn là nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi người dân trong làng.
Khi một người nằm xuống. Tất cả người thân trong gia đình đều được tập hợp lại
đông đủ, bà con làng xóm, họ hàng cùng tới dựng rạp, dựng lều để phục vụ tang lễ.
cùng nhau an ủi những người thân trong gia đình người quá cố. Tang lễ có thể
kéo dài từ 2 – 3 ngày hoặc 5 ngày thậm chí có thể lâu hơn tùy theo ngày tốt xấu
có phù hợp.
Thủ tục thăm viếng cũng
không rườm rà cho lắm, thêm nữa làng Vĩnh Xương có nguyên một ban nhạc đờn ca
tài tử phục vụ cho tất cả dân làng khi có việc (ông Trần Viễn thời trước và ông
Công Khiển, ông Nước ngày nay). Thành phần thăm viếng rất đa dạng : không chỉ
bà con, làng xóm thân thuộc mà là cả làng đi viếng, không kể người ấy là ai, địa
vị sang hèn như thế nào. Số tiền viếng thăm tuy không nhiều nhưng đó
là cả tấm lòng, một sự đùm bọc lớn lao để cùng nhau vượt qua khó khăn. Chắc
đây là cái lạ tiếp theo của làng tôi.
Việc
chôn cất có nhiều cách khác nhau. Có thể là «họ đưa» nếu tộc họ dân
đông, có thể là xóm đưa, phe đưa, thôn đưa hoặc lớn hơn là làng đưa (rất ít).
Trong những năm trở lại đây, hầu hết những đám tang ở làng tôi đều dùng đồ chay
không còn mổ heo, mổ gà, vịt như ngày xưa nữa. Bởi có sự tham gia của khuôn hội
(Niệm Phật đường Vĩnh Xương) nên chúng tôi đã xích lại gần hơn với những giáo
lí của nhà Phật.
Qua những điểm vừa nêu trên
phần nào đã hiện rõ tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, sống theo nguyên tắc,
chuẩn mực, phóng khoán trong sinh hoạt của con người Vĩnh Xương…Bàn về phong
cách sống và phong thái văn hóa, làng Vĩnh Xương chắc còn nhiều, nhưng chí ít
đó là những điểm nổi bật.
2. Truyền thống hiếu học,
chí tiến thủ:
Hiền tài là nguyên khí quốc
gia, câu nói của Thân Nhân Trung trải hơn mấy chục thập niên mà vẫn còn nguyên
giá trị. Với sự phát triển liên tục của chế độ phong kiến Việt Nam trải dài hơn
10 thế kỉ, ngay từ đời Lý Nhân Tông đã tổ chức khoa thi đầu tiên vào năm Ất Mão
(1075),và cho đến khoa thi cuối cùng vào năm Kỉ Mùi (1919) đã để lại cho chúng
ta một di sản đồ sộ về tầng lớp trí thức, khoa cử, đó là các ông Trạng, ông Cống,
ông Nghè, cụ Phó…,
Chỉ tính riêng triều Nguyễn
(1802 – 1945), triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam đã tổ chức được
39 khoa thi Hội và thi Đình lấy đỗ 557 người, (không lấy trạng nguyên). Dưới
thời Lý, mỗi khoa thi cách nhau 12 năm, đến năm Kỉ hợi cách nhau 7 năm, đến đời
Lê Thái Tông năm Ất Mão (1435) còn lại 6 năm. Đến năm Quang Thuận thứ 7 (1466)
rút còn 3 năm, kéo dài đến thời Nguyễn. Có 3 kì thi nối tiếp nhau:
thi Hương , thi Hội và thi Đình. (từ thời Trần Thuận Tông đã có quy định:mùa
thu năm nay thi Hương, mùa xuân năm sau thi Hội).
Thi Hương là kì thi của một
tỉnh hay nhiều tỉnh cùng chung một trường thi, thời Lê có 9 trường, thời Nguyễn
có 7 trường: Nghệ An, Thanh Hóa, Thái Nguyên, Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Hiếu
Nam. Năm 1812 Gia Long đặt thêm 2 trường: Quảng Đức (Thừa Thiên, Quảng Bình, Quảng
Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,Khánh Hòa, Gia Định) và trường
thi Thăng Long . Đến năm 1831 Minh Mệnh cho đặt lại 2 trường phía Bắc đó là trường
thi Hà Nội và Nam Định.
Thí sinh trúng tuyển trong
kì thi hương gồm 2 loại:
- Loại 1: Cống Sĩ hoặc
Hương Cống: những người này sẽ được dự thi Hội.
- Loại 2: Sinh Đồ: không được
dự thi Hội
Người đỗ đầu thi Hương được
gọi là Giải Nguyên. Đến thời Minh Mạng (1820 - 1840) cho đổi Hương cống
thành Cử nhân và Sinh đồ thành Tú tài. Thi Hương gồm có 4
kì, mỗi kì cách nhau từ 7 đến 10 ngày, do đó thường kéo dài từ 1 tháng đến 1
tháng rưỡi cho mỗi đợt thi.
Sau khi đỗ cử nhân các vị
tân khoa trở về quê hương hoặc được giới thiệu vào học trường Quốc Tử Giám để 1
hoặc 2 năm sau dự kì thi Hội, những người này cũng có thể về làm quan chờ dịp
thi Hội, thi Đình.
Thi Hội và thi Đình: là
2 kì thi để đánh giá tài năng cao nhất nên được gọi là Đại tỉ hay Đại khoa. Đợt
thi này bao gồm 2 giai đoạn: thí sinh sau khi vượt qua 4 kì thi Hội sẽ được vào
thi Đình còn gọi là Điện thí (tại sân vua), do Vua trực tiếp hỏi bài để xếp hạng
Tiến Sĩ ở các kì thi Hội.
Do danh hiệu khoa thi mỗi thời
một khác nên tên gọi học vị người đỗ đạt Đại khoa cũng khác nhau: Thái học
sinh đời Trần, Tiến sĩ đời Lê Thánh Tông (1442). Tiến sĩ gồm có
3 bậc: Nhất giáp (Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa), Nhị giáp (Hoàng giáp),
Tam giáp (Đồng Tiến sĩ). Thời Nguyễn không chọn Trạng Nguyên nhưng định
thêm Phó Bảng.
Trải qua gần 500 năm lập
làng lấy xã hiệu, làng Vĩnh Xương cũng là nơi sinh ra nhiều bậc khoa cử. Ngay
từ khoa thi Hương năm 1841 đã có cụ Nguyễn Gia Thiện đỗ cử nhân, đến năm 1846
có cụ Nguyễn Gia Tú, năm 1848 có cụ Nguyễn Thế Toàn, năm 1864 có cụ Nguyễn Ý,
năm 1867 cụ Trần Gia Thiện (Lưu Huệ), năm 1876 có cụ Trần Gia Hưu và cuối cùng
năm 1878 có cụ Trần Gia Thụy.
Khi nói về Vĩnh Xương thì
nơi đây không phải là đất không sinh tài, nhưng chỉ chưa sinh ra những bậc vĩ
nhân mà thôi. Trải hơn 140 năm triều Nguyễn (1802 - 1945) Vĩnh Xương có tới
7 ông Cử (cử nhân): trong đó có người đã làm tới chức Tổng đốc, Đông Các Đại học
sĩ.
1. Nguyễn Gia Thiện (trước gọi
là Tường): Thi Hương khoa Tân Sửu Thiệu Trị thứ nhất (1841) tại trường
Thừa Thiên, làm quan tới chức Lang trung.
2. Nguyễn Gia Tú: Thi
Hương khoa Bính Ngọ, Thiệu Trị thứ 6 (1846), tại trường Thừa Thiên.
3. Nguyễn Thế Toàn: Thi
Hương khoa Mậu thân, Tự Đức thứ 2 (1848) tại trường Thừa Thiên.
4. Nguyễn Ý: Thi Hương
khoa Giáp Tý, Tự Đức thứ 17 (1864) tại trường Thừa Thiên. Làm tới chức Hành
Tẩu Nội Các.
5. Trần Gia Thiện (sau đổi
là Lưu Huệ): Thi Hương khoa Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867)
tại trường Thừa Thiên. Làm quan trải qua các chức: Tổng đốc Bình
Phú, Tổng đốc Nghệ An, Quyền Bắc kì Kinh lược sứ, Thư hiệp Đại Học Sĩ, Tổng đốc
Hà Yên.
6. Trần Gia Hưu (sau đổi là Tĩnh): Thi
Hương khoa Bính Tý, Tự Đức 29 (1876) tại trường Thừa Thiên. Làm Biện lý Bộ
Công.
7. Nguyễn Gia Thụy: Thi
Hương khoa Mậu Dần, Tự Đức thứ 31 (1878) tại trường Thừa Thiên, làm Tả lý Bộ
Binh.
Trải qua thời gian chiến
tranh loạn lạc, nhất là kể từ khi thực dân, đế quốc đặt ách cai trị, chế độ
khoa cử theo thể chế phong kiến dần bị tàn lụi. Ngay trong hoàn cảnh đó vẫn thấy
xuất hiện những gương mặt ưu tú trong học tập thi cử, thành công trong giáo dục,hướng
tới chân - thiện - mỹ đó là:
- Cố thượng tọa Thích
Thiện Bảo (Trần Đình Huệ) phát tu từ chùa Tây Thiên – Thừa Thiên Huế. Tu tập
và xây dựng ngôi chùa Đại Giác ở Đại Lào, Bảo Lộc, Lâm Đồng.
- Hòa
Thượng Thích Chơn Như (Khai Sơn chùa Đông Lâm và chùa Báo Ân - Huế). Hòa
thượng xuất thân trong một gia đình khoa bảng, thế danh Nguyễn Tấn Thuyên, sinh
năm Đinh Hợi, 1889, tại làng Vĩnh Xương, quận Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên. Mùa
hạ năm Mậu Tý, 1948, Hòa thượng thị tịch lúc 3 giờ ngày 04 tháng 05, trụ thế 59
năm, với 38 Hạ lạp, thuộc đời 42, phái thiền Lâm Tế. Bảo tháp của
Ngài hiện được tôn trí tại đồi thông chùa Từ Hiếu, Huế.
Tiếp đến là GS. TS Nguyễn
Hoàng Phương cánh chim đầu đàn cùa khoa học tâm linh Việt Nam, ông đã
thành công trên đỉnh cao của khoa học toán lý, ông sinh ngày
27/03/1927, mất ngày 24/03/2004. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là đội viên
Đội biệt động dân quân, sau đó là đội viên Đội Thanh niên tuyên truyền xung
phong Quảng Nam - Đà Nẵng. Ông có tư chất rất dũng cảm, thông minh, và lãng mạn,
mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, nhưng hành trang của ông luôn đầy đủ ba thứ
đó là: cây súng, cây sáo và cuốn sách Toán. Từ sau năm 1954 ông dạy Đại học
Sư phạm Hà Nội, và sau đó là Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Tự
nhiên). Ông được đề bạt Chủ nhiệm Khoa Vật lý, là thầy của hầu hết những
thế hệ nhà vật lý của Việt Nam sau này.
Thứ ba là PGS-TS Trần
Lưu Vân Hiền , người con gái trưởng của ông Trần Lưu Hân ( đời thứ 15 họ
Trần Đình Vĩnh Xương ) . Ông Trần Lưu Hân là kĩ sư vô tuyến điện , trước năm
1945 ông là Hiệu trưởng trường tư thục Chu Văn An do ông thành lập. PGS-TS Trần
Lưu Vân Hiền là mẹ của GS Ngô Bảo Châu , bà là học sinh giỏi văn những
năm 1963-1964 , kỹ sư hóa , tiến sĩ dược học . Bà công tác ở Viện Y học cổ truyền
Trung ương . Từ một nhóm cán bộ làm công tác nghiên cứu ; bà cùng cộng sự xây dựng
và trở thành người lãnh đạo Phòng thí nghiệm nghiên cứu Đông y . PGS-TS Trần
Lưu Vân Hiền chủ trì thực hiện thành công và được đánh giá cao nhiều dự án, đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ y tế và hướng dẫn nhiều nghiên cứu
sinh bảo vệ thành công luân án tiến sĩ.
Ngoài ra còn có nhiều danh
nhân khác đã thành công trên con đường khoa học ngày nay như PGS. TS
y học Nguyễn Văn Tập….và điều đáng mừng là số lượng các em học sinh thi đỗ Cao
học, Đại học – Cao đẳng trong thời gian gần đây rất đông, đó chính là biểu hiện
của truyền thống hiếu học chí tiến thủ của người dân nơi đây.
3.
Đa dạng trong ngôn từ, hòa đồng trong đời sống:
Văn
hóa trong một khía cạnh được hiểu là sinh hoạt. Tức văn hóa là tổng
thể những hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần do con người tạo nên trong
quá trình hoạt động của mình. Nó có thể là một nền văn hóa phát triển cao, tạo
ra một nền văn minh. Có thể là một vùng văn hóa, đặc trưng cho một vùng – miền
nhất định, là một sắc thái văn hóa, đặc trưng cho từng dân tộc.Nó có thể là một
nét văn hóa, đặc trưng cho khía cạnh văn hóa nhỏ hơn. Cũng có thể là một điểm
văn hóa hay một phong cách sống, một phong thái văn hóa đặc trưng cho mỗi miền
nhỏ hay mỗi một làng xã.
Ngôn
từ cũng là mặt biểu hiện của văn hóa, cho nên Vĩnh Xương cũng có từ
điển riêng. Chẳng hạn như khi người Vĩnh Xương nói “bà lơn” thì phải
hiểu đó là (cà giỡn), bổ (té), bợ khu (nịnh nọt), bụ nậy (vú to), khu đại chang
(mông rất to), cấy chờn (cái giường), khôn can chi mô (không hề gì đâu), cấy
dôn (vợ chồng), chùm hum (khom lưng), côi-đưới (trên dưới), đập chắc
(đánh lộn) hay lộ khu (lỗ đít), trốt cúi (đầu gối), một chắc (một mình), nót lốn
(nuốt không cần nhai), v.v và v.v…
KẾT LUẬN
Trải qua hơn 5 thế kỉ hình
thành và phát triển, Vĩnh Xương đã tạo ra cho mình một nét văn hóa riêng trong
cái đa dạng của văn hóa Việt. Khi tìm về văn hóa làng xã chúng ta thấy những điểm
tương đồng với văn hóa dân tộc, có những thứ mà chúng ta có thể thấy được trong
cái chung của người Việt, tuy nhiên do điều kiện tự nhiên, lịch sử xã hội khác
nhau đã tạo nên những nét sai khác trong văn hóa từng vùng miền, từng bộ phận
làng xã. Điều này chứng minh tính đúng đắn trong nhận định, văn hóa Việt Nam “thống
nhất trong đa dạng”.
NGUYỄN THÚY - PHẠM NHÂN ĐỨC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét