Đi tìm nhành hoa
thạch thảo
Mùa thu chết - Hoàng Anh Thư
Những người có chút máu văn
nghệ một lúc nào đó nổi hứng, thường buột miệng hát đôi câu vu vơ. Những câu
hát nằm trong bộ nhớ có khi chỉ là một đoạn của bài hát. Khúc đầu, khúc giữa,
khúc đuôi, khúc nào cũng được, tự nhiên bật ra như radio bắt được tần số dò
đài, những bài hát cóp nhặt trên dòng đời một cách có ý hay vô tình nghe đâu đó
thỉnh thoảng được hát nho nhỏ như thế..
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch
thảo?
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi…
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi…
Đó là câu hát tôi thường
nghêu ngao nhất, có lẽ vì không gian đượm buồn nhè nhẹ của lời bài hát, mà cũng
vì trong câu hát có tên một loài hoa gây ấn tượng vì vẻ huyền hoặc của nó.
Có lẽ với người Tây phương,
người ta biết ngay hoa thạch thảo là hoa gì, một cái gì thấy được, ngắt được,thậm
chí ngữi được mùi hoa ngát hương của nó. Trừ những người đã đi Tây và có quan
tâm tìm hiểu thì còn có thể biết chứ phần nhiều người Việt chúng ta thật ra đọc
thì đọc, hát thì hát chứ chẳng biết hoa thạch thảo là hoa gì, mặt mũi vóc dáng
ra sao?!
Bài viết này không bàn luận
gì về bài thơ L’ Adieu mà Búi Giáng đã dịch và Phạm Duy đã phổ nhạc, tôi chỉ muốn
nhân câu chuyện liên quan đến bài thơ để đi tìm ra một cành hoa đúng thật là một
cành hoa thạch thảo đặt lên mộ của Léopoldine tiếc thương người bạc mệnh.
Léopoldine là con gái cưng của
Victor Hugo, đại văn hào Pháp (1802-1885). Léopoldine đã chết đuối cùng chồng
trong một vụ lật thuyền trên sông Seine vào trưa ngày 4/9/1843, khi cô chưa đầy
20 tuổi và đang mang thai 4 tháng. Hugo chỉ biết tin con mất khi ông vô tình đọc
một tờ báo ở quán cà phê nọ. Mộ Léopoldine được chôn gần nơi bà qua đời trên bờ
sông Seine đoạn chảy qua Villequier gần cảng Havre, cạnh khu bờ biển Normandi.
Apollinaire làm bài thơ L’Adieu sau khi đi thăm mộ Léopoldine con gái của
Victor Hugo vào ngày 16 tháng 9 năm 1913.
L’Adieu
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
Lời vĩnh biệt (dịch)
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…
Bùi Giáng (1925-1998) dịch
(“Ði vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigon, Việt Nam.1969)
(“Ði vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigon, Việt Nam.1969)
Cũng dựa trên ý thơ của bài
thơ nói trên, năm 1965, Phạm Duy viết bài “Mùa thu chết” mở đầu bằng 2 câu:
“Ta ngắt đi một cụm hoa thạch
thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Bùi Giáng thì dịch “ hái
nhành lá” còn Phạm Duy thì viết “ ngắt cụm hoa”. Đây là khởi đầu của những suy
diễn sai lầm của nhiều người viết về hoa thạch thảo.
Ngắt cụm hoa trong lời
nhạc của Phạm Duy gợi hình ảnh một “cây thân thảo”, hình ảnh người ngắt cụm hoa
là hình ảnh một người cúi xuống một bụi hoa .
Hái nhành lá cây trong
câu thơ dịch của Bùi Giáng gợi hình ành một cây “hoa thân mộc” cao vừa tầm
hái.
1. Những cây không phải là
Hoa Thạch Thảo nhưng bị ngộ nhận:
Việc ngộ nhận hoa thạch thảo
của người đọc bài thơ dịch và và lời bài hát nầy có nguyên do từ tên gọi tiếng
Việt, một sự đồng hóa, lồng ghép khiên cưởng của chữ nghĩa do tên gọi giống
nhau.
a. Ngoài Bắc, người ta gọi Cúc
cánh mối (vì hoa mỏng nhẹ như cánh mối) làthạch thảo, cúc thạch thảo nên
nhiều người cứ thản nhiên coi cây hoa thạch thảo trong bài thơ nói trên là cây
cúc cánh mối .
Cây có nguồn từ châu Âu,
châu Á. Cúc cánh mối là cây thân thảo, sống nhiều năm nhờ có thân rễ mọc bò dưới
đất. Thân cao 15 – 50 cm, đơn hay phân nhánh ít ở ngọn. Lá dài, thuôn hình giáo
tù, hơi có lông mịn, nguyên, các lá ở thân không có cuống. Cụm hoa hình đầu đơn
độc ở ngọn các nhánh. Vòng hoa đều dài, cánh môi thuôn hẹp, thẳng màu lam tím.
Các hoa ở ngoài hình lưỡi, màu lam tím, dài 1 cm. Hoa giữa hình ống hẹp màu
vàng, xếp sát nhau. Hoa thường màu tím nhạt. Quả bế có mào lông mịn màu vàng.
Cúc cánh mối, tên Aster
amellus L, hay còn gọi là cúc thạch thảo, là một loài thuộc chi Cúc
sao (Aster) thuộc về Họ Cúc (Asteraceae). Tên tiếng AnhEuropean Michaelmas
Daisy, tiếng Pháp Oeil de Christ.
Như vậy, có thể nói
ngay Cúc cánh mối không phải là cây hoa thạch thảo. Sự nhầm lẫn bắt nguồn từ việc
trùng tên theo cách gọi của người miền Bắc Việt nam mà thôi.
Rất nhiều bài viết trên mạng
internet về hoa thạch thảo kể một câu chuyện tình lãng mạn của đôi thanh niên
nam nữ có tên hẳn hoi. Có thể đó là một câu chuyện bịa như hầu hết truyền thuyết,
cố ý tạo một câu chuyện đầy kịch tính rồi gán ghép vào xuất xứ tên gọi một loài
hoa. “Ami và Edible thường hay cùng nhau vào rừng. Ami hái nấm còn Edible săn
thú. Rồi, Edible vươn người ra vách đá dựng hái hoa thạch thảo cho Ami. Edible
sẩy chân rơi xuống vực chỉ kịp nói xin đừng quên tôi”, (kèm theo bài viết là
hình chụp Cúc cánh mối để minh họa) .
Bắt đầu từ đây, những bài viết
đó kéo thêm những ngộ nhận tiếp theo “Ban đầu họ đặt tên cho nó là Forget
me not, sau nhiều năm và được trồng ở nhiều nước nó lại có những cái tên khác
nhau như Muguet De Mai (Pháp), Thạch Thảo (Việt Nam)…”
b. Chính hoa 5 cánh tiếng Việt
gọi là Hoa Lưu Ly mới là hoa Forget me not
Trong một số ngôn ngữ, tên của
hoa lưu ly được gọi là hoa “xin đừng quên tôi“. Tên tiếng Anh “Forget me not”
được mượn từ tên tiếng Pháp là “Ne m’oubliez pas” và được dùng lần đầu
tiên vào khoảng năm 1532.
Myosotis alpestris
Có khoảng 50 loài lưu ly
trong chi này, và chúng khác biệt nhau một cách đáng kể. Tuy nhiên, một lượng lớn
các loài có chung các đặc điểm được miêu tả như hoa màu lam tím nhỏ (đường kính
1 cm) với 5 cánh hoa mọc dày dặc trên các thân cây bò lan um tùm, ra hoa vào
mùa xuân. Các loại màu sắc khác của hoa cũng không phải là bất thường trong chi
này, với các dạng màu hồng hay trắng vẫn có thể tồn tại. Chúng hay được trồng
trong vườn và các giống trồng thường có hoa với màu sắc hỗn tạp.
Các loài lưu ly có thể là
cây một năm hoặc cây lâu năm. Hệ thống bộ rễ của chúng nói chung là rễ chùm. Hạt
của chúng được tìm thấy trong các quả dạng quả đậu nhỏ, hình tulip dọc theo
thân tới hoa. Quả đậu bám vào quần áo khi va chạm phải chúng và cuối cùng rơi
xuống đất, giải phóng các hạt nhỏ để chúng có thể nảy mầm ở mọi nơi.
Họ (familia):
|
Boraginaceae
|
Phânhọ (subfamilia):
|
Boraginoideae
|
Chi (genus):
|
Myosotis
|
Đây chỉ là sự gán ghép tên gọi.
Dựa vào lời của người bạn trai nói với bạn gái khi rơi xuống vực trong câu chuyện
thương tâm nói trên để cho rằng hoa thạch thảo còn có tên gọi là forget me not
là một sai lầm ấu trỉ.
c. Thêm một loài hoa được
kéo vào đây để tung hỏa mù làm người đọc không biết đâu mà lần là Muguet
De Mai (Pháp).
Hoa này có tên là Hoa
Linh Lan, trong tiếng Anh còn được gọi là Our Lady’s tears (Nước mắt
của Mẹ). Các tên gọi khác trong tiếng Anh là May Lily (huệ tháng Năm), May
Bells (hoa chuông tháng Năm), Lily Constancy (huệ chung thủy), Ladder-to-Heaven
(thang tới thiên đường), Male Lily.
Theo truyền thống, hoa linh
lan được bán tại Pháp trên các đường phố vào ngày 1 tháng 5. Kể từ năm 1982,
hoa linh lan là quốc hoa của Phần Lan.
Bộ (ordo):
|
Asparagales
|
Họ ( familia):
|
Ruscaceae
|
Chi (genus):
|
Convallaria
|
Loài (species):
|
C. majalis
|
Linh lan hay lan
chuông (danh pháp khoa học: Convallaria majalis, L, là loài duy
nhất trong chi Convallaria thuộc một họ thực vật có hoa là họ Ruscaceae. Nó có
nguồn gốc trong khu vực ôn đới mát của Bắc bán cầu tại châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ.
Nó là một loài cây thân thảo sống lâu năm có khả năng tạo thành các cụm dày dặc
nhờ loang rộng theo các rễ ngầm dưới mặt đất gọi là thân rễ. Các thân rễ này tạo
ra rất nhiều chồi mỗi mùa xuân. Thân cây cao tới 15–30 cm, với hai lá dài 10–25
cm và cành hoa bao gồm 5-15 hoa trên đỉnh ngọn thân cây. Hoa có màu trắng (ít
khi hồng), hình chuông, đường kính 5–10 mm, có mùi thơm ngọt; nở hoa về cuối
mùa xuân. Quả của nó là loại quả mọng màu đỏ, nhỏ với đường kính 5–7 mm. Nó là
một loại cây cảnh trồng phổ biến trong vườn vì các hoa có mùi thơm của nó.
Kết 1: Cúc cánh mối
(Aster amellus L), forget me not hay còn gọi là hoa lưu ly (Myosotis),Linh lan
hay lan chuông (Convallaria majalis,L), cả 3 loài đều không phải là Cây Hoa Thạch
Thảo.
2. Hoa Thạch Thảo là cây gì?
Guillaume Apollinaire làm
bài thơ L’Adieu sau khi đi thăm mộ Léopoldine con gái của Victor Hugo vào ngày
16 tháng 9 năm 1913. Bài thơ được viết lên một phần là để tưởng nhớ Victor
Hugo, một phần là tiếc thương người bạc mệnh.
Câu đầu:
J’ai cueilli ce brin de
bruyère,
được Bùi Giáng dịch rất sát:
Ta đã hái nhành lá cây thạch
thảo,
Brin de bruyère là nhánh,
cành, nhành cây thạch thảo. Có lẽ Bùi Giáng cũng không biết cây thạch thảo ra
sao, nên cứ bám vô chữ mà dịch cho chắc ăn. Mấy câu dưới ý tứ thoáng hơn nên có
thể dịch thoát cũng được. Còn Phạm Duy phổ nhạc nên lại càng thoáng hơn một
chút nữa. Cành lá hay cụm hoa cũng được, có hoa hay chỉ trơ cành cũng chẳng
sao, thì cứ chữ gì động được đến tầng vi tế rung động của con tim là phổ. Phạm
Duy có biệt tài phổ nhạc, ý nhạc nâng ý thơ, nên những bài thơ ông phổ hầu như
tất cả đều nổi tiếng và đôi khi làm những nhà thơ vô danh cũng nổi tiếng theo.
Điều chính yếu của bài viết
này là tìm ra đúng cây Hoa Thạch Thảo mà Apollinaire đã từng hái nhành hoa và đặt
lên mộ Léopoldine vào ngày cuối thu (16/9).
Cây Hoa thạch thảo có
Tên Hoa: 紅方柏 (hồng
phương bách), 石楠 thạch
nam)
Tên Anh: heather
Tên Pháp: bruyère
Thuộc Họ Đỗ Quyên (Ericaceae)
Tên Anh: heather
Tên Pháp: bruyère
Thuộc Họ Đỗ Quyên (Ericaceae)
Tất cả các loại thạch thảo đều
trong Họ Ericaceae, có một loài hoa thạch thảo duy nhất thuộc Chi Calluna,
ngoài ra là Chi Erica. Dưới đây là một số loài thuộc Chi Erica trong hàng vài
trăm loài khác nhau trên thế giới.
Loài Calluna vulgaris là
loài thạch thảo thật sự (true heather), loài cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông
màu tím, hay hồng nhạt.
Chi Erica gồm nhiều loài
khác nhau từ loài cây nhỏ mọc từng bụi nhỏ hoặc có thể là cây lớn.
– Erica arborea, cây nhỏ ở
vùng Địa Trung Hải có chùm hoa trắng hình chùy, thơm và có rễ cứng như gỗ được
dùng để làm ống điếu hút.
– Erica carnea, là loại cây
hoa nhỏ mùa đông hay mùa xuân, ở Âu châu có hoa hình chuông màu đỏ hay hồng.
Phân bố ở vùng núi Alpes
– E. cinerea: loại thạch thảo
có lá nhỏ, hoa hình chuông màu đỏ tím từ Tây Âu cho đến Đan mạch.
– Erica ciliaris phân bố ở
phía Tây nước Pháp, Anh quốc, bán đảo Ibériquevà Bắc Maroc.
– E. tetralix, bellheather,
cross-leaved heath là loại cây nhỏ lùn có hoa màu hồng ở Tây Âu
– E. vagans hay còn gọi là
Cornish heath là loại thạch thảo mọc cả bụi có hoa màu hồng hay trắng thường thấy
ở cánh đồng hoang tại Cornish và đông nam Ấu châu.
– E. lusitanica mọc rậm rạp
có hoa trắng hồng phân bố ở Tây ban nha và Bồ Đào Nha và ở vùng bán đảo Iberia.
– E. perspicua hay Prince of
Wales heath mọc rất nhiều ở Anh quốc và Nam Phi châu, có hoa màu trắng. Hoa dài
và trông tựa như chùm lông của huy hiệu trên Coat of Arms của Hoàng tử xứ
Wales- Anh Quốc, nên mang tên Prince-of-Wales heath
– Erica mammosa là loại
Erica có nhiều màu nhất từ màu trắng, tím, cam đến màu đỏ. Hoa chuông đặc biệt
dài hơn các loại Erica khác.
Có thể kể thêm một số loài :
Erica australis phân bố ở Bắc
Maroc, Erica ciliaris ở phía Tây nước Pháp, Anh quốc, Erica cinerea, Erica
erigena, Erica mackaiana, Erica manipuliflora, Erica multiflora, Erica
scoparia, Erica sicula, Erica terminalis, Erica tetralix, Erica umbellata.
Những loài này phân bố cùng
khắp nên tôi chỉ để ý đến những loài cư trú ở vùng Normandi là bờ biển phía Tây
của nước Pháp và phân bố rộng rải ở Anh quốc.
Sau khi đã nghiên cứu, phân
loại và loại suy cùng đối chiếu với hình ảnh hoa thạch thảo trong văn chương,
văn bản. Tôi đi đến kết luận:
Kết 2: Loài Calluna
vulgaris là loài thạch thảo thật sự (true heather), loại cây nhỏ, có hoa nhỏ
hình chuông màu tím, hay hồng nhạt chính là Cây Hoa Thạch Thảo mà tôi muốn tìm.
Loài hoa này gốc ở Châu Âu,
nhờ mấy nhà thơ, nhà văn nên nó mới thành hoa kiểng, chứ trước kia thế kỷ 17
-19 nó là hoa dại. Ở miền bắc nước Anh cây hoa thạch thảo này mọc đầy đồng, giống
như cỏ tranh ở Việt Nam. Dân Scotland lấy thân của nó bện lại làm chổi, hoặc lợp
mái, ken vách và nhiều công dụng thực tế khác hơn là làm kiểng. Bây giờ di cư
sang Châu Mỹ nó thành Cô Bé Thị Thành đỏng đảnh ỏ trong các tiệm bán hoa, chứ
ngày xưa nàng gốc nhà quê rặt.
Ai từng đọc qua truyện Ðỉnh
Gió Hú (Wuthering Heights) của Emily Bronte chắc cũng nhớ đến những cánh đồng
hoang (moors) mọc đầy hoa thạch thảo (heather), và tiếng hót líu lo của những
con chim chiền chiện (moor-lark). Hoa thạch thảo là loài hoa mà chính tác giả,
Emily Bronte yêu thích, nàng đã nhiều lần đưa nó vào truyện và thơ của mình.
(1)
Hành trình đi tìm Nhành
Hoa Thạch Thảo khởi đi từ những ngộ nhận về một loài hoa đã đi vào văn thơ
của thế giới và thơ nhạc Việt nam. Người ta thường muốn biết chân dung thật sự
người trần mắt thịt của một Nàng Thơ là như thế nào. Vì thế mới có Ngô Vũ Bích
Diễm của Diễm xưa, có Ngô Vũ Dao Ánh của Thư Tình Gửi Một Người, Minh Đức Hoài
Trinh của Đừng Bỏ Em Một Mình, Khánh Ngọc của Nửa Hồn Thương Đau….
Nhành Hoa Thạch Thảo cũng là
một Nhành Thơ trong tâm hồn của nhiều người Việt.
Chân dung Nàng đã hiển lộ
nhưng nét duyên của Nàng không bao giờ phai mờ.
Ôi ngát hương thời gian mùi
thạch thảo,
Lê Duy Đoàn
Sài gòn, 06/01/2013
Sài gòn, 06/01/2013
Trích:
(1) Một đoạn ngắn trong bài “Hoa tương tư” của Lê Phạm Trung Dung
(1) Một đoạn ngắn trong bài “Hoa tương tư” của Lê Phạm Trung Dung
Hoa Thạch Thảo
và Mùa Thu Chết
Tiếp nối dòng nhạc xưa về
mùa thu, chúng tôi xin giới thiệu “Mùa thu chết” của nhạc sỹ Phạm Duy, một bản
nhạc có giai điệu đẹp và có rất nhều điều thú vị trong ca từ. Được sự cho phép
của tác giả, DongNhacXua.com xin
đăng lại bài viết của bác sỹ Lê Trung Ngân.
Mùa thu chết - Phạm Duy - Julie Quang
HOA THẠCH THẢO VÀ MÙA THU CHẾT
(Nguồn: bài viết của bác sỹ Lê Trung Ngân đăng trên vnweblogs.com ngày 03/07/2010)
(Nguồn: bài viết của bác sỹ Lê Trung Ngân đăng trên vnweblogs.com ngày 03/07/2010)
Mở đầu
Một trong những bản nhạc nói
về mùa thu hay diễn tả mùa thu nổi tiếng ở Việt Nam vào thập niên 70 phải kể đến
bài nhạc Mùa Thu Chết của Nhạc sĩ Phạm Duy. Lời viết trong bản nhạc phỏng theo
một bài thơ ngoại quốc. Trong bản nhạc, ngay câu đầu tiên có nói đến hoa thạch
thảo: “Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo”. Hoa thạch thảo cũng được nói đến
trong rất nhiều bài thơ văn hay nhạc khác từ trong nước đến hải ngoại. Vậy hoa
thạch thảo ở Việt Nam và hoa thạch thảo trong bài thơ L’Adieu của nhà thơ Pháp
gốc Ba Lan Guillaume Apollinaire, mà nhạc sĩ Phạm Duy đã phổ nhạc cũng như
trong bài thơ dịch của nhà thơ Bùi Giáng khác nhau, có tên Latin ra sao và thuộc
họ hay gia đình nào?
Bài viết ngắn này phân biệt
hai loại hoa mang tên thạch thảo, một loại mang tên nguyên thủy ở miền Bắc Việt
Nam và hoa thạch thảo có xuất xứ ở Ấu châu. Những bàn luận về lý do và tình tiết
làm sao bài thơ được ra đời cũng được thu thập và ghi nhận ở đây.
Hoa Thạch thảo (Aster
amellus L) thuộc họ Cúc (Asteraceae). Tại Việt Nam, người miền Nam hay gọi là
Cúc Sao, Cúc Cánh mối, người Bắc gọi là Thạch thảo. Thạch thảo hay mọc thành bụi,
nhiều bông với cánh đơn xoè rộng ra. Hoa Thạch thảo có ba màu chính: tím, hồng,
trắng. Thạch thảo ngày nay được lai tạo thêm thành loại hoa cánh kép. Hoa Thạch
thảo cánh mối cũng như các loại hoa cúc thường nở vào mùaThu, khi mà đa số các
loại hoa khác đã tàn.
Như vậy, hoa Thạch Thảo (hay
cúc Sao, cúc Nhật, cúc Cánh Mối) là 1 tên Việt của loài Aster amellus L. thuộc
họ Cúc (Asteraceae), tên Anh ngữ là Aster và Pháp là Astère. Nhóm Cúc (cả trồng
làm hoa hay mọc hoang) thường được gọi chung là Chrysanthemum/Aster, trong đó
các loài mọc hoang thường có 1 chùm lông ở cuối mỗi hột (khi trái chín) và phát
tán nhờ gió (nên mọc hoang, rải rác vào mùa xuân khi có nắng ấm ở Âu châu, hoa
chỉ sống trong vài tháng!). Các loài cúc trồng thì không phát tán tự nhiên được
vì hột không có lông như Vạn Thọ (marigold), cúc Giấy (zinnia). Có loại được trồng
từ hột, có loại trồng bằng củ; cúc Thạch Thảo (cúc sao/Aster), và nói chung loại
nhiều loại cúc thường trồng từ cây con nhảy chồi (do mọc thành bụi, hoa thường
bất thụ). (Tài liệu tổng hợp từ internet).
Hoa Thạch thảo hay hoa Cúc
Cánh mối
ở Việt Nam (Hình từ internet)
Hoa Thạch Thảo ở Âu Châu
Hoa Thạch thảo Ấu châu là
thuộc cây Bruyère (tiếng Pháp) hay Heather (tiếng Anh) còn gọi là Common Ling
hay Briar.
Từ điển Sinh Học Anh Việt và
Việt Anh, nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật dịch heather là cây thạch nam.
Erica. Trung hoa gọi là Hồng phương bách hay thạch nam. Từ điển phổ thông Pháp
Việt gọi là cây thạch thảo.
Phân loại
Tất cả các loại thạch thảo đều
trong gia đình Ericaceae, có một loại hoa thạch thảo duy nhất thuộc giống
Calluna, ngoài ra là loại Erica. Dưới đây là một số giống Erica hác nhau trong
hàng vài trăm loại khác nhau trên thế giới.
Loại Calluna vulgaris là loại
thạch thảo thật sự (true heather), loại cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu
tím, hay hồng nhạt.
Loại Ericagồm nhiều giống
khác nhau từ giống cây nhỏ mọc từng bụi nhỏ hoặc có thể là cây lớn.
– Erica arborea, treeheath,
briar, brier: cây nhỏ ở vùng Địa Trung Hải có chùm hoa trắng hình chùy, thơm và
có rễ cứng như gỗ được dùng để làm ống điếu hút.

– Giống E. cinerea: loại thạch
thảo có lá nhỏ, hoa hình chuông màu đỏ tím
– Giống E. tetralix,
bellheather, cross-leaved heath là loại cây nhỏ lùn có hoa màu hồng
– Giống E. vagans hay còn gọi
là Cornish heath là loại thạch thảo mọc cả bụi có hoa màu hồng hay trắng thường
thấy ở cánh đồng hoang tại Cornish và đông nam Ấu châu.
– Giống E. lusitanicahay
Portugese heath, Spanish heath mọc rậm rạp ở vùng bán đảo Iberia, có hoa trắng
hồng.
– Giống E. perspicua hay
Prince of Wales heath mọc rất nhiều ở Anh quốc và Nam Phi châu, có hoa màu trắng.
Hoa dài và trông tựa như chùm lông của huy hiệu trên Coat of Arms của Hoàng tử
xứ Wales- Anh Quốc, nên mang tên Prince-of-Wales heath
– Erica mammosalà loại Erica
có nhiều màu nhất từ màu trắng, tím, cam đến màu đỏ. Hoa chuông đặc biệt dài
hơn các loại Erica khác (1)
Calluna vulgaris
Erica
lusitanica
Nếu nói về ý nghĩa của màu
hoa thạch thảo thì thạch thảo trắng tượng trưng cho sự che chở, cho sự mong mỏi.
Thạch thảo mầu hồng tượng trưng cho may mắn, và màu xanh lạt lavender tượng
trưng cho cô đơn, sự hâm mộ thán phục. (2)
Bài thơ L’Adieu
Bài thơ nguyên tác của
Guillaume Apollinaire (1880-1918) như sau.
L’Adieu
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
Bản dịch của Bùi Giáng
Bài thơ năm câu trên đây đã
đuợc nhà thơ Bùi Giáng dịch như sau.
Lời vĩnh biệt
(1)
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó ...
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó ...
Nhưng Bùi Giáng không phải
chỉ dịch một lần. Nhà thơ Bùi Giáng đã khai triển và tiếp tục viết sang bài thứ
hai.

Đã hái nhành kia một buổi nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao
Thu còn sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu chào
Anh nhớ em quên và em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt hoa đà nhị hoán tam.
Và tiếp tục dịch thoát ý
sang bài thứ ba.
(3)
Mùa thu chiết liễu nhớ chăng em?
Đã chết xuân xanh suốt bóng thềm
Đất lạnh qui hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên
Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm mùi vương
Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại
Thạch thượng khuê đầu nguyệt diểu mang.…
Mùa thu chiết liễu nhớ chăng em?
Đã chết xuân xanh suốt bóng thềm
Đất lạnh qui hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên
Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm mùi vương
Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại
Thạch thượng khuê đầu nguyệt diểu mang.…
Bùi Giáng (1925-1998) dịch
(“Đi vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigon, Việt Nam.1969)
(“Đi vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigon, Việt Nam.1969)
Và dưới đây là: Mùa Thu
Chết
Mùa thu chết là tên một bài
hát của Phạm Duy sáng tác năm 1965, phổ từ bài thơ tiếng Pháp L’Adieu của
Guillaume Apollinaire. Bài này rất nổi tiếng trong thập niên 70 tại Sài Gòn, và
gắn liền với tên tuổi ca sĩ Julie (Quang).
“Ta ngắt đi một cụm hoa thạch
thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho!
Em nhớ cho,
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau…
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho!
Em nhớ cho,
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau…
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch
thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.
Vẫn chờ em, vẫn chờ em
Vẫn chờ….
Vẫn chờ… đợi em!”
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.
Vẫn chờ em, vẫn chờ em
Vẫn chờ….
Vẫn chờ… đợi em!”
Vài hàng tiểu sử Guillaume
Apollinaire (28 August 1880-09 November 1918)
Guillaume Apollinaire: tên
thật Wilhelm Albert Vladimir Apollinaris Kostrowitcki, nhà thơ Pháp gốc Ba Lan,
sinh ở Roma, Italy.
Nãm 1887 Wilhelm
Kostrowitzky cùng gia đình mẹ chuyển về Monaco và học ở Monaco, Cannes. Từ nãm
1899 chuyển về sống ở Paris, làm thơ, viết báo với bút hiệu Guillaume
Apollinaire, ông cộng tác với một số tờ báo như La Revue blanche, La Plume và
Le Mercure de France. Năm 1903, ông lập ra các tờ tạp chí của chính mình Le
Festin d”Esope (November 1903-August 1904) và La Revue immoraliste (1905).
Năm 1912 ông cùng bạn bè
thành lập tạp chí “Les soirées de Paris” và làm chủ bút từ năm 1913. Cũng trong
năm này in bài thơ nổi tiếng nhất của ông: Le Pont Mirabeau và trường ca Zone.
Năm 1913 ông phát hành tập thơ Alcools (Rượu), và năm 1914 có xuất bản một số
bài thơ viết theo kiểu tạo hình. Apollinaire mất ngày 9 tháng 11, năm 1918 tại
Paris, Pháp. Mộ ông chôn ở nghĩa trang Père Lachaise ở Paris.
Bàn luận về bài thơ L’Adieu
Apollinaire làm bài thơ
L’Adieu làm sau khi đi thăm mộ con gái của Victor Hugo vào ngày 16 September
1913.
Arnaud Laster, Giáo sư văn
chương tại trường Sorbonne (University of Paris III), trong một bài viết đã đặt
câu hỏi: “Có phải Apollinaire đã viết bài L’Adieu này để tưởng nhớ Victor Hugo
sau khi đi thăm mộ người con gái của Hugo tên là Léopoldine đã chết đuối cùng
chồng ở biển tại tỉnh Villequier vào năm 1843”. Bài này có thể có liên hệ với
bài Demain, dès l’aube và là nguồn cảm xúc để Apollinaire sáng tác bài L’Adieu
chăng? (6)
Trước khi tìm hiểu, cần phải
nhắc đến bài thơ Demain dès l’aube của Victor Hugo
Bài Demain, dès l’aube là
bài thơ Victor Hugo (1802-1885) đã làm vào năm 1847 (đề ngày 03 September 1847)
đề tặng con gái đúng 4 năm sau ngày Léopoldine chết (04 September 1843). Sự mất
mát lớn lao này đã làm Hugo đau khổ suốt một thời gian dài và ông đã không in
thêm tập thơ nào nữa trong mười năm sau cái chết của Léopoldine.
Demain, dès l’aube…
Demain, dès l’aube, à
l’heure où blanchit la campagne,
Je partirai. Vois-tu, je sais que tu m’attends.
J’irai par la forêt, j’irai par la montagne.
Je ne puis demeurer loin de toi plus longtemps.
Je partirai. Vois-tu, je sais que tu m’attends.
J’irai par la forêt, j’irai par la montagne.
Je ne puis demeurer loin de toi plus longtemps.
Je marcherai les yeux fixés
sur mes pensées,
Sans rien voir au dehors, sans entendre aucun bruit,
Seul, inconnu, le dos courbé, les mains croisées,
Triste, et le jour pour moi sera comme la nuit.
Sans rien voir au dehors, sans entendre aucun bruit,
Seul, inconnu, le dos courbé, les mains croisées,
Triste, et le jour pour moi sera comme la nuit.
Je ne regarderai ni l’or du
soir qui tombe,
Ni les voiles au loin descendant vers Harfleur,
Et quand j’arriverai, je mettrai sur ta tombe
Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.
Ni les voiles au loin descendant vers Harfleur,
Et quand j’arriverai, je mettrai sur ta tombe
Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.
Victor Hugo
03 September 1847
(Les Contemplations- cuốn IV.1856)
03 September 1847
(Les Contemplations- cuốn IV.1856)
Ngày Mai, Từ Rạng Đông
Ngày mai, từ rạng đông lúc
trời đồng quê bắt đầu sáng
Cha sẽ đi, Con thấy không cha biết con đang chờ cha
Cha sẽ vượt qua rừng, cha sẽ vượt qua núi.
Cha không thể nào xa cách con lâu dài hơn được nữa
Cha sẽ đi, đôi mắt chãm chú vào suy nghĩ của cha
Chẳng hề màng nhìn chung quanh, không màng nghe một tiếng động
Một mình, không ai biết, lưng còng, hai bàn tay đan nhau
Sầu buồn, và ngày đối với cha cũng tựa như đêm thôi.
Cha sẽ không màng nhìn chiều vàng đang đổ xuống,
Hay những cánh buồm xa đằng phía cảng Harfleur,
Và khi cha đến nơi, cha sẽ đặt trên mộ của con
Một bó hoa có ô-rô xanh cùng thạch thảo đang nở.
(Sóng Việt phỏng dịch nghĩa)
Cha sẽ đi, Con thấy không cha biết con đang chờ cha
Cha sẽ vượt qua rừng, cha sẽ vượt qua núi.
Cha không thể nào xa cách con lâu dài hơn được nữa
Cha sẽ đi, đôi mắt chãm chú vào suy nghĩ của cha
Chẳng hề màng nhìn chung quanh, không màng nghe một tiếng động
Một mình, không ai biết, lưng còng, hai bàn tay đan nhau
Sầu buồn, và ngày đối với cha cũng tựa như đêm thôi.
Cha sẽ không màng nhìn chiều vàng đang đổ xuống,
Hay những cánh buồm xa đằng phía cảng Harfleur,
Và khi cha đến nơi, cha sẽ đặt trên mộ của con
Một bó hoa có ô-rô xanh cùng thạch thảo đang nở.
(Sóng Việt phỏng dịch nghĩa)
Cái chết của Léopoldine ảnh
hưởng mạnh trên Victor Hugo đến độ ông bị ám ảnh vì cô, ông tự hỏi bây giờ
Léopoldine ở đâu sau khi chết. Ông tìm kiếm cô qua khung cửa tối tăm của vĩnh cửu,
và ông cũng tìm kiếm cô ở ngoài cỗ quan tài, với hy vọng cô thấy có một bóng
người đi qua cỗ quan tài đen mà ông tưởng tượng là được đóng lỏng lẻo, người đó
chính là ông đã tìm đến bên cô trong bóng tối thiên thu.
“Dis, qu’as-tu fait pendant
tout ce temps-là ? – Seigneur,
Qu’a-t-elle fait ? – Vois-tu la vie en vos demeures ?
A quelle horloge d’ombre as-tu compté les heures ?
As-tu sans bruit parfois poussé l’autre endormi ?
Et t’es-tu, m’attendant, réveillée à demi ?
T’es-tu, pâle, accoudée à l’obscure fenêtre
De l’infini, cherchant dans l’ombre à reconnaỵtre
Un passant, à travers le noir cercueil mal joint,
Attentive, écoutant si tu n’entendais point
Quelqu’un marcher vers toi dans l’éternité sombre ?
Et t’es-tu recouchée ainsi qu’un mât qui sombre,
En disant : Qu’est-ce donc ? mon père ne vient pas !
Avez-vous tous les deux parlé de moi tout bas ?”
[“A celle qui est restée en France,” 393]
Qu’a-t-elle fait ? – Vois-tu la vie en vos demeures ?
A quelle horloge d’ombre as-tu compté les heures ?
As-tu sans bruit parfois poussé l’autre endormi ?
Et t’es-tu, m’attendant, réveillée à demi ?
T’es-tu, pâle, accoudée à l’obscure fenêtre
De l’infini, cherchant dans l’ombre à reconnaỵtre
Un passant, à travers le noir cercueil mal joint,
Attentive, écoutant si tu n’entendais point
Quelqu’un marcher vers toi dans l’éternité sombre ?
Et t’es-tu recouchée ainsi qu’un mât qui sombre,
En disant : Qu’est-ce donc ? mon père ne vient pas !
Avez-vous tous les deux parlé de moi tout bas ?”
[“A celle qui est restée en France,” 393]
Một đoạn thơ khác ông kể lể
con gái chết là ông mất tất cả, ông đã chôn vùi cả ước mơ, cả hy vọng, cả tình
yêu vào trong nấm mồ mà ông đào trong lồng ngực của ông:
“Qu’ai-je appris? J’ai,
pensif, tout saisi sans rien prendre;
J’ai vu beaucoup de nuit et fait beaucoup de cendre.
Qui sommes-nous? que veut dire ce mot: Toujours?
J’ai tout enseveli, songes, espoirs, amours,
Dans la fosse que j’ai creusée en ma poitrine.
Qui donc a la science? où donc est la doctrine?
Oh ! que ne suis-je encor le rêveur d’autrefois,
Qui s’égarait dans l’herbe, et les prés, et les bois,
Qui marchait souriant, le soir, quand le ciel brille,
Tenant la main petite et blanche de sa fille,
Et qui, joyeux, laissant luire le firmament,
Laissant l’enfant parler, se sentait lentement
Emplir de cet azur et de cette innocence!”
[“A celle qui est restée en France,” 395]
J’ai vu beaucoup de nuit et fait beaucoup de cendre.
Qui sommes-nous? que veut dire ce mot: Toujours?
J’ai tout enseveli, songes, espoirs, amours,
Dans la fosse que j’ai creusée en ma poitrine.
Qui donc a la science? où donc est la doctrine?
Oh ! que ne suis-je encor le rêveur d’autrefois,
Qui s’égarait dans l’herbe, et les prés, et les bois,
Qui marchait souriant, le soir, quand le ciel brille,
Tenant la main petite et blanche de sa fille,
Et qui, joyeux, laissant luire le firmament,
Laissant l’enfant parler, se sentait lentement
Emplir de cet azur et de cette innocence!”
[“A celle qui est restée en France,” 395]
Bộ Les Contemplations gồm 6
cuốn sách. Cuốn số 4 gồm 17 bài thơ làm riêng cho Léopoldine có đề tựa Pauca
meae (vài câu thơ cho con gái tôi). Những bài đầu trong tập 4 ghi ngày làm 3
năm sau ngày con gái ông chết đuối với người chồng mới cưới cỡ 6 tháng. Sự mất
mát Léopoldine là một sự mất mát quá lớn lao, nó ăn sâu vào suy nghĩ của V.
Hugo làm ông suy tưởng về ý nghĩa của đời sống và tìm cách giải đáp bí ẩn của
cái chết cùng thế giới vô hình. Tìm cách giải thích bí ẩn của cái chết có nghĩa
là tìm lại được Léopoldine và giải đáp ðược thắc mắc về cái chết. Tuy Hugo đã
không thành công trong việc nối kết được với thế giới vô hình, nhưng ông có
lòng tin vào Thông linh học/Tâm linh học (Spiritiualism). Hơn mười năm sau cái
chết của Léopoldine , sách đã ghi lại là ông đã tham dự nhiều lần vào ngồi bàn
cầu hồn, và đã có lần người gọi hồn đã gọi được hồn Leopoldine lên gặp ông. Tưởng
cũng nhắc rằng Victor Hugo được Đạo Cao Đài ở Việt Nam tôn sùng như là một
trong ba vị thánh mà họ thờ phụng (Tam Thánh: Sun Yat Sen /Tôn Dật Tiên, Victor
Hugo, và Nguyễn Bỉnh Khiêm). (7)
Bài thơ L’Adieu (và cả bài
Le Pont Mirabeau) của Guillaume Apollinaire đã là đề tài bàn luận và làm tốn
khá nhiều giấy bút cho những ai muốn phân tích và tìm hiểu thơ ông. Lý do vì
Apollinaire làm thơ mà không hề bỏ dấu vào bài, thí dụ như dấu phẩy, dấu chấm,
hay dấu ngoặc đôi (quotation-marks) tại mỗi câu thơ cần bỏ vào trong ngoặc đôi.
Vì thế khi đọc bài thơ không
dấu L’Adieu của ông, hai câu chót làm độc giả phải phân vân không biết đó là do
nhân vật với đại danh từ Je ở câu đầu vẫn tiếp tục nói hay là đó là lời trả lời
của nhân vật thứ hai, được tạm thời bỏ trong ngoặc cho dễ hiểu như sau:
“Odeur du temps brin de
bruyère
Et souviens-toi que je t’attends”
Et souviens-toi que je t’attends”
Nếu như hai câu này đã ở
trong ngoặc đôi thì rõ ràng là câu trả lời của nhân vật thứ hai:
“Mùi hương thời gian nhành
hoa thạch thảo
Và cha nhớ rằng con chờ đợi cha”.
Và cha nhớ rằng con chờ đợi cha”.
(Với lý luận người chết chờ
người còn sống xuống âm phủ với mình chứ người chết làm sao trở lại trần gian
như ông đã than ở câu trên).
Lối làm thơ mang vào trong
ngoặc đôi của Victor Hugo rất quen thuộc vì ông luôn đóng vai người cha hỏi hay
nói rồi trả lời thay cho con như thể chính người con gái nói với ông.
Kết luận
Tóm lại, liệu bài thơ
L’Adieu có thể xem như là do Guillaume Apollinaire cảm tác và tưởng niệm Victor
Hugo một cách gián tiếp sau khi thăm nhà mồ của Léopoldine và đọc bộ sách Les
Contemplations của Victor Hugo không?
Và nếu đúng như thế thì ba
câu đầu của bài thơ L’Adieu có thể hiểu như là Apollinaire đã viết thay lời của
V. Hugo để nói với con gái đã chết, và trong hai câu chót người con gái yêu của
V. Hugo đã trả lời rằng cô mong muốn và chờ gặp lại cha cô ở thế giới vô hình?
Hiểu như thế chúng ta sẽ không còn có thắc mắc cho câu chót trong nguyên tác
“Et souviens-toi que je t’attends” và trong những bản dịch của nhà thơ Bùi
Giáng.
L’Adieu
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
(Guillaume Apollinaire)
Và bài thơ mà Bùi Giáng dịch:
Ta đã hái nhành lá cây thạch
thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó …
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó …
(Bùi Giáng dịch)
Cha đã hái nhành lá cây thạch
thảo
Con nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé con đợi chờ cha đó
Con nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé con đợi chờ cha đó
(Sóng Việt thay đại danh từ)
Hoặc có thể vì Appollinaire
biết rằng V. Hugo tin vào Thông linh học, và Hugo đã có lần được tiếp xúc với
Leopoldine qua bàn cầu hồn, thì chúng ta cũng có thể cho rằng Apollinaire đã viết
thay lời cho V. Hugo nói chờ hồn Leopoldine hiện về thế gian để gặp ông: “Và
con nhớ rằng cha chờ đợi con”:
Odeur du temps brin de
bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
Et souviens-toi que je t’attends
Mùi hương thời gian nhành
cây thạch thảo
Và con nhớ rằng cha chờ đợi con.
(Sóng Việt dịch)
Và con nhớ rằng cha chờ đợi con.
(Sóng Việt dịch)
Cái khó khăn khi dịch một
bài thơ Pháp ngữ sang Việt ngữ là những đại từ nhân xưng. Trong khi Pháp ngữ chỉ
có một số chữ cho ngôi thứ nhất và thứ hai như je, me, tu, te, toi, moi, vous,
nous, thì trong tiếng Việt đại từ nhân xưng rất phong phú; cách dùng những đại
từ nhân xưng này như anh, em, cô, chú, ông, bác, dì, dượng, tôi, con, cháu,
mày, tao, v.v cho người đọc biết sự liên hệ thứ bậc, thái độ và tình cảm của những
người giao tiếp với nhau. Khi dịch thơ nếu không hiểu biết rõ hoàn cảnh và thời
điểm bài thơ được làm nên thì đôi khi sự sai lầm có thể xẩy ra.
Bài thơ L’Adieu mà Bùi Giáng
dịch có thể là do cố ý của Bùi Giáng để tạo thành một bài thơ tình cảm nói về sự
chia lìa của đôi nhân tình dù ông biết bài thơ nguyên tác có ý nghĩa khác
chăng?
Và có thể nhờ do cố ý hay vô
tình dịch như thế (dùng chữ ta, em, thay vì cha, con), mà bài thơ đã là nguồn cảm
hứng cho nhạc sĩ sáng tác bản nhạc Mùa Thu Chết?
Không có Hoa Thạch Thảo thì
làm sao có Lời Vĩnh Biệt,
Không có Lời Vĩnh Biệt thì làm sao có Mùa Thu Chết?
Không có Lời Vĩnh Biệt thì làm sao có Mùa Thu Chết?
Hoa thạch thảo (bruyère) được
nhiều thi sĩ mang vào thơ nhưng có thể nói rằng hoa thạch thảo đã được đời đời
gắn liền với bài thơ Demain, dès l’aube của Victor Hugo và L’Adieu của
Guillaume Apollinaire.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét