Nuôi cò để bắt ruồi
Cò là loài chim hoang dã, sống thành đàn, có khi mỗi đàn Cò
lên đến bảy trăm con. Ở nước ta vùng miền nào cũng có những đàn Cò sinh sống,
nhất là vùng ruộng đồng, sông nước hoặc những vùng đầm lầy nước lợ. Chúng là
vua của loài săn bắt tôm tép và những loại cá nhỏ thường trú ngụ ở những nơi nước
đọng.
Làng Hà Liên quê tôi, nằm ở vùng đầm Nha Phu, nơi cuối nguồn
con sông Dinh đổ ra đầm, thế nên vùng đầm quanh năm là nước chè hai – làng tôi
gọi là nước lợ. Quanh làng biết cơ man nào là cồn cát, những con lạch ăn sâu
vào đất liền tạo nên những cồn cát tách rời nhau. Làng tôi đặt cho mỗi cồn một
tên riêng như : cồn Ngao, cồn Giữa, cồn Định, cồn Ong, cồn Mắm, cồn Bần, cồn
Bơi, cồn Cỏ, cồn Thiều, bực Mẹo, bến Giá, vũng Già… chỉ cần nói đến cái tên cồn
sát nào, thì người dân quê tôi sẽ biết địa điểm nó ở đâu ngay. Có một thời những
cồn trên là sân chim, đầy những đàn Cò. Những năm sau đó, cồn cát quanh làng bị
phá hoại trầm trọng, đàn Cò bỗng dưng bỏ đi hết! Gần đây rừng đước, mắm, bần,
sú, giá, vẹc quanh làng được trồng lại dần thì đàn Cò cũng tìm về. Nhìn đàn Cò
đến vài trăm con nhởn nhơ tìm mồi trên cồn vừa cạn, lòng người ở quê ai cũng thấy
nôn nao!
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con…”
(Ca dao)
Câu ca dao ấy, dân quê ta làng nào cũng thuộc, ấy là thân phận
của mỗi cuộc đời riêng, họ mượn hình tượng con Cò để mà giải tỏa nỗi lòng trong
những giây phút đắng cay. Đó là nghĩa bóng, chứ còn nghĩa đen thì nhiều vùng,
người ta ăn thịt Cò không phải là ít. Chẳng cứ chỉ phải xáo măng thôi đâu, họ
còn làm nhiều món mà mới chỉ nghe tên thôi thì cũng đã phát thèm!
Dân làng tôi không bao giờ ăn thịt Cò, vì cho rằng thịt Cò
tanh, khó ăn lắm! Thật ra ngoài chuyện thịt Cò tanh, người dân lang tôi vốn
xem con Cò là loài chim thân thiết với con người. Ở quê tôi, người ta nuôi Cò
trong nhà, nuôi Cò chỉ để bắt ruồi.
Để có được một con Cò thuần tính chịu sống chung với con người,
cũng kỳ công không phải là ít. Đầu tiên là đi bắt Cò, rồi chọn loại Cò để nuôi.
Bắt Cò làm sao cho Cò không bị thương tật và cũng đừng làm cho Cò sợ hãi thái
quá thì mới dễ thuần hóa. Thông thường, cứ buổi chiều vào lúc chạng vạng, đàn
Cò tìm nơi để ngủ. Cò chỉ thích tìm những cây cao, có tán rộng để ngủ, nhất là
loại cây Mắm, gốc to bằng thân mình người lớn, tán rộng đến vài mươi mét.
Dân làng tôi có cách bắt Cò riêng của mình. Ban ngày, người
đi bắt Cò phải quan sát trước cho kỹ, đợi đến tối mịt thì mới ra tay hành sự.
Trước hết, người đi bắt Cò phải mặc quần áo màu tối sẫm, tốt nhất là màu đen để
hòa vào cùng đêm tối, trên tay cầm theo một cái bao gai và thế là lên xuồng, nhẹ
nhàng bơi đến nơi cây có đàn Cò đang ngủ... Cặp xuồng vào gốc cây, nhẹ nhàng buộc
dây xuồng vào gốc, rồi từ từ trèo dần lên tới gần ngọn, và người bắt Cò phải
quan sát thật kỹ, sau đó nhè nhẹ đưa tay lên tóm gọn đôi chân chú Cò, kéo xuống
cho vào bao gai, túm đầu bao lại, cứ thế bắt hết con này, đến con khác…
Đâu phải con Cò nào cũng thuần dưỡng được. Những loại Cò chân
chì, mỏ chì, là giống chim chiếm số lượng lớn nhất trong mỗi đàn Cò, nhưng loại
này thì lại không thể thuần hóa được , nên mỗi lần đi bắt Cò mà tìm cho được một
chú Cò chân vàng, mỏ vàng thì cũng thỏa rồi… Bởi trời tối như bưng, ai mà chọn
lựa cho được !
Cò chân vàng, mỏ vàng là giống Cò dễ thuần dưỡng, chỉ cần thời
gian một tuần lễ là thuần được nó. Để bắt đầu thuần hóa, người ta cắt ngắn mấy
sợi lông dài nơi đầu cánh, chỉ cắt một bên thôi để nó mất cân bằng không thể
bay được.
Lấy sợi dây dài cột vào một chân của Cò, còn đầu dây kia thì buộc vào chân bàn, hoặc nơi cột nhà, thế là suốt ngày chú Cò chỉ lẩn quẩn ở một chỗ. Ở trong nhà như thế vài ngày là chú Cò quen dần với con người. Lúc này người nuôi Cò lại lấy chiếc vỉ tre đập chết ruồi để “làm quà” cho Cò. Mới đầu Cò còn nhút nhát, nhưng đói quá thì cũng phải ăn, ăn vài ba ngày nữa thì bỗng đâm ra ghiền… Khi Cò đã ghiền “mồi ruồi” rồi thì người nuôi phải xiết bớt khẩu phần ăn của chúng lại. Khẩu phần ăn không đủ thì Cò lại phải tự tìm lấy mà ăn, thế là Cò phải đi săn ruồi ! Phải nói, Cò mà bắt ruồi là số một, cứ mỗi nhát mổ của nó là một con ruồi, không trật vào đâu.
Lấy sợi dây dài cột vào một chân của Cò, còn đầu dây kia thì buộc vào chân bàn, hoặc nơi cột nhà, thế là suốt ngày chú Cò chỉ lẩn quẩn ở một chỗ. Ở trong nhà như thế vài ngày là chú Cò quen dần với con người. Lúc này người nuôi Cò lại lấy chiếc vỉ tre đập chết ruồi để “làm quà” cho Cò. Mới đầu Cò còn nhút nhát, nhưng đói quá thì cũng phải ăn, ăn vài ba ngày nữa thì bỗng đâm ra ghiền… Khi Cò đã ghiền “mồi ruồi” rồi thì người nuôi phải xiết bớt khẩu phần ăn của chúng lại. Khẩu phần ăn không đủ thì Cò lại phải tự tìm lấy mà ăn, thế là Cò phải đi săn ruồi ! Phải nói, Cò mà bắt ruồi là số một, cứ mỗi nhát mổ của nó là một con ruồi, không trật vào đâu.
Khoảng một tuần lễ là Cò đã luyện xong nghề bắt ruồi. Bây giờ
người ta không buộc Cò vào một chỗ nữa mà thả nó ra tự do. Nhưng Cò quả là con
vật tình nghĩa, nó không bay đi mà vẫn sống với con người. Lâu lâu Cò lại nhớ
ruộng đồng, đầm vịnh, bay đi kiếm mồi, xong thì lại tìm về.
Dân làng tôi rất quí loài Cò, không một ai săn bắt hay làm tổn
hại đến nó.Vì vậy mà đàn Cò cũng trở nên thân thiện, gần gũi với con người.
Cánh Cò đã đi vào ca dao, đi vào âm nhạc, đi vào hội họa, đi vào văn học từ
ngàn xưa cho đến tận hôm nay. Với tôi, cánh Cò còn là những kỷ niệm khó quên về
vùng Hà Liên yêu dấu, trong đó những kỷ niệm về nuôi Cò để…bắt ruồi …
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét