Khoa học về cái phức tạp
Việc phát hiện ra các hiện
tượng hỗn độn hay các fractal, đã tạo ra một “khoa học mới”, khoa học về các hệ
thống phức tạp, và nhìn trước rằng đó sẽ là khoa học của thế kỷ 21. Thế giới tự
nhiên và xã hội hiện ra trước mắt ta phức tạp hơn rất nhiều những gì mà “khoa học”
đã hình dung trước đó, đầy những hỗn tạp thiên nhiên và cát bụi trần thế, và
hình như chính trong những hỗn tạp và cát bụi đó mà con người tìm ra được vẻ đẹp
chân thực của cuộc sống và lẽ sống cao quí của mình. Rồi sau những cảm nhận ban
đầu như vậy, người ta đã nghiêm túc nghĩ đến việc phải xây dựng một khoa học mới,
khoa học về cái phức tạp, hay về các hệ thống phức tạp, để làm cơ sở chung cho
những nhận thức mới của mình.
Cứ như vậy, niềm tin của chúng ta vào cái đúng
đắn gần như tuyệt đối của các “chân lý khoa học”, cái hay cái đẹp chuẩn mực của
các tri thức khoa học cứ được bồi đắp dần ngày càng thêm vững chắc trong nhận
thức của ta cho đến thế kỷ 20 vừa qua. Rồi cuối cùng cũng đã đến lúc, ở nơi này
hay nơi khác, từ địa hạt này sang địa hạt khác, ta chợt bừng thức dậy mà nhận
ra rằng cuộc đời này, thế giới này hình như có nhiều thứ không ngoan ngoãn tuân
theo những điều răn dạy của cái “khoa học” mà ta hằng tin tưởng đó. Khoa học
quả là cao sang thật, thuần khiết thật, nhưng đi mãi với khoa học vào đời sống
và tự nhiên, dần dần ta cũng nhận ra, như lời triết gia A.N.Whitehead, “tự
nhiên không đến với ta sạch sẽ như ta nghĩ về nó”, và khoa học, trong tinh thần
qui giản của cơ giới luận, với việc làm sạch tự nhiên đó đã “hất đổ cả đứa bé
cùng với chậu nước tắm”. Ta trở lại đối mặt với một tự nhiên và cuộc đời như nó
vốn có, đầy cát bụi trần gian, lô nhô khúc khuỷu, gãy vỡ quanh co, chứ đâu có thẳng
băng, tròn trịa như các hình vẽ của khoa học hình thức. Ta nhận ra điều đó cả
từ trong chính bản thân phần cốt lõi tri thức của khoa học, cả từ những lĩnh
vực ứng dụng khoa học đang có nhiều hứa hẹn thành công. Lấy thí dụ trong kinh
tế học. Để có được những mô hình toán học với các thuộc tính đẹp đẽ như cân
bằng, ổn định, từ rất lâu ta đã giả thiết là trong kinh tế thị trường có sự
thống trị của luật về tỷ suất lợi nhuận giảm dần (law of diminishing returns),
dù rằng từ cuối thế kỷ 19 và đặc biệt sang đầu thế kỷ 20 có những nhà kinh tế
học như A.A.Young đã đề xuất việc đưa vào nghiên cứu trong kinh tế học cả luật
đối nghịch về tỷ suất lợi nhuận tăng dần (increasing returns) nhưng đã bị từ
chối vì một lẽ đơn giản là nếu làm vậy thì có nguy cơ “lật nhào kinh tế học
hiện đại”! Chỉ đến vài thập niên cuối của thế kỷ 20, với sự kiên trì thuyết
phục của một số nhà kinh tế học trẻ như B.Arthur, P.Romer, và với những bằng
chứng hiển nhiên từ nền kinh tế tri thức công nghệ cao, luật tỷ suất lợi nhuận
tăng dần mới tìm được chỗ đứng của mình trong kinh tế học. Thừa nhận luật tỷ
suất lợi nhuận tăng dần cũng có nghĩa là thừa nhận trong các hệ thống kinh tế
không chỉ có cân bằng, ổn định, mà còn có thể có cả những trồi sụt thất thường,
những hỗn độn và bất trắc.Khoa học hiện đại vốn được phát triển từ kỷ
nguyên Khai sáng (Enlightenment) ở thế kỷ 17, khởi đầu bởi những phát minh của
Kepler, Galilei và Newton về các định luật của vận động vật chất và bởi sự thúc
đẩy mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp. Với những phát minh đó, lần đầu
tiên con người tìm được một cách nhận thức thế giới bằng “phương pháp khoa học”
mà không cần dựa vào một sức mạnh thần thánh nào hay phải viện đến những liên
cảm huyền bí nào giữa trí tuệ con người với một tinh thần hay linh hồn của tự
nhiên. Và cũng do đó, “khoa học” đã được phát triển trước hết và mạnh mẽ ở các
lĩnh vực nghiên cứu tự nhiên như cơ học, vật lý học, thiên văn học, v.v... Các
“phương pháp khoa học” được phát triển và hoàn thiện dần bởi tư duy cơ giới
Newton và Descartes, tất định luận Laplace, ..., và được hỗ trợ đắc lực bởi các
công cụ sắc bén là giải tích toán học (cũng được phát minh bởi Newton và
Leibniz) và phép suy luận của logích hình thức.
Khoa học quả là cao sang thật, thuần khiết thật, nhưng đi mãi
với khoa học vào đời sống và tự nhiên, dần dần ta cũng nhận ra, như lời triết
gia A.N.Whitehead, “tự nhiên không đến với ta sạch sẽ như ta nghĩ về nó”, và
khoa học, trong tinh thần qui giản của cơ giới luận, với việc làm sạch tự nhiên
đó đã “hất đổ cả đứa bé cùng với chậu nước tắm”.
May mắn thay, phương pháp khoa
học đó đã cung cấp cho con người các mô hình toán học định lượng phù hợp với
thực tế vật lý với một độ chính xác mà E.Weigner coi là “phi lý” đến không
tưởng tượng nổi!), cho nên những tri thức mà khoa học sản sinh ra được con
người xem như là chân lý, những “chân lý khách quan” về thế giới tự nhiên. Để
thích hợp với khả năng của tư duy cơ giới và các phương pháp phân tích, các mô
hình toán học được lựa chọn để sử dụng thường là các mô hình tuyến tính
(linear), hoặc được qui giản về các mô hình tuyến tính. Đó cũng là lý do mà
người ta cũng thường gọi phép tư duy khoa học theo tinh thần kể trên là tư duy
cơ giới, tư duy tuyến tính. Từ cuối thế kỷ 19 sang thế kỷ 20 các quan điểm và
phương pháp khoa học cũng đã dần dần được ứng dụng vào việc nghiên cứu trong
các lĩnh vực của sự sống, rồi của kinh tế xã hội, và cả của văn học, thi ca,
nghệ thuật,..., với niềm tin rằng “có những luật tự nhiên thống trị xã hội loài
người tương tự như đã thống trị thế giới vật lý”. Kinh tế học là một lĩnh vực
được “khoa học hoá” khá sớm và liên tục, và nhiều lý thuyết khoa học về kinh tế
đã có ảnh hưởng đậm nét lên sự phát triển kinh tế và xã hội loài người trong
suốt thế kỷ vừa qua. Nhiều học thuyết về xã hội, về nhân văn, để có sức hấp dẫn
và thuyết phục nhiều hơn cũng cố gắng phát triển theo tinh thần “khoa học” và
mang thêm một tính từ “khoa học” vào tên gọi của mình, chẳng hạn, học thuyết về
chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Marx-Lenine được gọi là chủ nghĩa xã hội khoa
học. Một tri thức được xem là một chân lý khách quan nếu nó được suy ra từ các
phương pháp khoa học, những thuộc tính như cân bằng, ổn định, đối xứng, hài
hoà, tiên đoán được, v.v..., là những thuộc tính của các đối tượng tất định,
tuyến tính do khoa học nghiên cứu, được xem như những chuẩn mực của cái hay,
cái đẹp trong cuộc sống, thậm chí cả trong văn chương, thi ca, nghệ thuật.
Nước ta đang ở
trong giai đoạn đầu của sự phát triển “công nghiệp hoá và hiện đại hoá”. Trong
mọi lĩnh vực, ta đang cố phấn đấu để nhanh chóng được “hiện đại hoá”. Nhưng ta
cũng đang sống trong thời đại mà thế giới đang biến chuyển từ thời hiện đại
sang một thời mà người ta gọi là “hậu hiện đại”. Tôi nghĩ rằng, về nhiều mặt của
cuộc sống ta cũng không đứng ngoài ảnh hưởng của những ý tưởng “hậu hiện đại”
đang có khả năng được toàn cầu hoá trong sự phát triển thế giới hiện nay. Và
trong môi trường đó, hằng ngày ta sẽ gặp những vấn đề mà nhận thức của ta đòi hỏi
được lý giải theo những khung mẫu tư duy của “khoa học mới”. Vì vậy,
từ các lĩnh vực kinh tế, xã hội cho đến các lĩnh vực văn hoá, văn chương nghệ
thuật, việc tham gia nghiên cứu “khoa học mới” để tìm kiếm cho nhận
thức của mình con đường đi thích hợp có lẽ cũng không phải là điều quá sớm.
Việc phát hiện ra các hiện tượng hỗn độn hay các
fractal, như lời của tác giả J.Gleich, đã tạo ra một “khoa học mới”, khoa học
về các hệ thống phức tạp, và nhìn trước rằng đó sẽ là khoa học của thế kỷ 21.
Diễn biến của tình hình trong mấy chục năm qua đã bước đầu chứng thực điều
khẳng định đó. Trước hết, từ tất cả các lĩnh vực nghiên cứu tự nhiên và kinh tế
xã hội, người ta đều thừa nhận rằng các hệ thống thực tế mà chúng ta cần tìm
hiểu đều là các hệ thống phức tạp, nói chung là không tất định và không tuyến
tính, có những hành vi hay động thái phát triển không đều đặn, trơn tru, khó mà
tiên đoán được, v.v... Thế giới tự nhiên và xã hội hiện ra trước mắt ta phức
tạp hơn rất nhiều những gì mà “khoa học” đã hình dung trước đó, đầy những hỗn
tạp thiên nhiên và cát bụi trần thế, và hình như chính trong những hỗn tạp và
cát bụi đó mà con người tìm ra được vẻ đẹp chân thực của cuộc sống và lẽ sống
cao quí của mình.Hỗn độn và bất trắc, nghe lạ tai nhưng ngẫm cho
kỹ hoá ra lại là chuyện thường ngày! Nhưng, hỗn độn từ đâu sinh ra vậy? Câu hỏi
oái oăm này, đến lượt mình, may thay lại do chính cái phần lõi của tri thức
khoa học tìm được câu trả lời. Vào thập niên 1970, bằng cách mô phỏng trên máy
tính điện tử quĩ đạo nghiệm của một hệ phương trình vi phân mô tả bài toán dự
báo thời tiết, E.Lorenz đã phát hiện quĩ đạo đó không hội tụ về một điểm cân
bằng nào cả mà ngày càng vươn ra xa, toả ra như hai cánh bướm khổng lồ, một
hình ảnh đẹp của cái mà về sau thường được gọi là “hiệu ứng cánh bướm” diễn tả
mối “phụ thuộc nhạy cảm vào điều kiện ban đầu”, một vẫy nhẹ như cánh bướm ở Bắc
Kinh có thể gây nên một trận cuồng phong bão tố ở châu Mỹ! Qua nhiều thực
nghiệm mô phỏng khác nữa với các mô hình trong sinh thái học, trong kinh tế,
v.v...người ta nhận thấy rằng nhiều hành vi đi đến hỗn độn (chaos) tương tự như
vậy đều có thể phát sinh từ trong động lực học của các hệ thống được mô tả bởi
các phương trình vi phân hoặc sai phân tất định tương đối đơn giản, với điều
kiện là trong các phương trình đó phải có những phương trình phi tuyến
(non-linear)! Như vậy là, cái hỗn độn, cái mất trật tự không nhất thiết phải
tìm nguyên nhân ở đâu bên ngoài hệ thống, mà có thể phát sinh ngay từ bên trong
hệ thống, các hệ thống tuân theo những luật tất định, miễn là có các yếu tố phi
tuyến. Mà, trong tự nhiên và cuộc sống thực, nếu ta không cố tình đơn giản hoá,
cố gò ép các quan hệ thực vào trong khuôn mẫu tuyến tính, thì thực ra đại đa số
các quan hệ trong thực tế đều là phi tuyến! Từ đường biên của chiếc lá, vành
ngoài của cánh hoa, cho đến mặt nước hồ lô nhô, bờ biển dài khúc khuỷu,...đâu
có thẳng băng, phẳng lỳ, trơn tru như những đường thẳng, những mặt phẳng, mặt
cầu mà ta từng được học? Vào những thập niên 60, 70 của thế kỷ 20, nhà toán học
B. Mandelbrot đã phát minh ra một thứ hình học của các fractal, tức là của các
hình hình học gãy vỡ, có thể chia ra nhiều cấp độ, mỗi phần ở cấp độ dưới lại
“đồng dạng” với phần ở cấp độ trên và với toàn thể, những hình kỳ lạ, điểm mà
không là điểm, đường mà không là đường, mặt mà không là mặt,..., và được nhiều
người tuyên bố rằng đó mới thực là hình học của tự nhiên; các fractal có là các
hình hình học của tự nhiên hay không thì ta còn có thì giờ để xem xét, nhưng ít
nhất thì ngay sau khi ra đời không lâu, chúng đã là các hình hình học gắn bó
mật thiết với các đối tượng của lý thuyết hỗn độn (chaos theory), các tập hút
hỗn độn, các vùng hút hỗn độn, các biên giới giữa các vùng hút hỗn độn được
chứng tỏ đều là các fractal. Và vì vậy, từ mấy chục năm nay, fractal cùng với
chaos (hỗn độn) đã thường đi liền với nhau trong các ứng dụng của “khoa học
mới” vào các vấn đề của kinh tế học cũng như của văn học, nghệ thuật. Tuy
nhiên, cũng cần nói rằng các ứng dụng đó cũng chỉ có thể xem là những bước khởi
đầu, và vì là chỉ mới ở những bước khởi đầu nên có rất nhiều những ý kiến khác
nhau, chưa có được sự đồng thuận chung. Ứng dụng fractal và chaos vào kinh tế
học hay văn học cũng mới tập trung vào những vấn đề như khảo sát tính chất
fractal của các tập dữ liệu mô tả sự trồi sụt thất thường về giá cả giao dịch
của các thị trường chứng khoán, hay của các bản phân tích chuỗi thời gian về sự
lên xuống dao động của các âm thanh nhịp điệu khi đọc một văn bản thơ ca,...;
những nghiên cứu như vậy nhằm tìm hiểu các “trật tự” ẩn náu trong hoặc được
phát sinh từ các cấu trúc hỗn độn của các hệ thống kinh tế hay các văn bản văn
học.
Rồi sau những cảm nhận ban đầu như vậy, người ta
đã nghiêm túc nghĩ đến việc phải xây dựng một khoa học mới, khoa học về cái
phức tạp, hay về các hệ thống phức tạp, để làm cơ sở chung cho những nhận thức
mới của mình. Đối tượng nghiên cứu của khoa học mới này là cái phức tạp, các hệ
thống phức tạp, tức các hệ thống bao gồm nhiều thành phần bộ phận, mỗi bộ phận
cũng là một hệ thống có thể có hành vi phức tạp, không tuyến tính, các bộ phận
tương tác với nhau bởi nhiều mối quan hệ đa dạng, v.v... Hành vi của các hệ
thống như vậy hiển nhiên là rất phức tạp, có hỗn độn, có trật tự, và có những
chuyển hoá giữa hỗn độn và trật tự. Không có mô hình lý thuyết chung cho những
hệ thống như vậy, mà tuỳ theo từng lĩnh vực nghiên cứu ta có thể xây dựng những
mô hình riêng; vì đối tượng là hết sức đa dạng nên cũng không thể có một số
phương pháp hình thức chung cho việc nghiên cứu, ta có thể vẫn sử dụng các
“phương pháp khoa học” cũ (như phân tích định lượng và suy luận logíc) cho việc
nghiên cứu ở một số bài toán cụ thể có tính địa phương và cục bộ, còn nói
chung, nhất là với những bài toán thuộc về toàn thể của toàn hệ thống thì cần
vận dụng cả những suy luận định tính, những cảm nhận trực tiếp bằng trực cảm
trí tuệ thông qua các giác quan của người nghiên cứu. Để trợ giúp cho những suy
luận và cảm nhận như vậy thì với công cụ mạnh là máy tính điện tử hiện nay, các
phương pháp có hiệu quả nhất là mô hình hoá và mô phỏng bằng đồ hoạ máy tính.
Với những quan điểm và phương pháp nghiên cứu
như trình bày sơ lược ở trên, “khoa học mới” về phức tạp có nội dung là nghiên
cứu các hiện tượng và hành vi của các hệ thống phức tạp trong nhiều lĩnh vực
khác nhau mà những chủ đề chung là các vấn đề về liên kết, ảnh hưởng của tính
phi tuyến đến các hành vi hỗn độn và phức tạp, hành vi của hệ thống trong các
trạng thái hỗn độn, phi cân bằng, “ở bên bờ hỗn độn” (at the edge of chaos),
những khả năng tự tổ chức của hệ thống, và nói chung, khả năng hợp trội
(emergence) của hệ thống trong các trạng thái xa cân bằng, ở bên bờ hỗn độn, để
tạo lập nên những trật tự mới, sáng tạo những thuộc tính mới của hệ thống - khả
năng hợp trội được xem là chìa khoá để tìm hiểu bản chất của sáng tạo trong quá
trình tiến hoá của mọi hệ thống, từ các hệ thống trong sinh học, sinh thái học,
cho đến các hệ thống kinh tế, xã hội, trong hoạt động của các hệ thần kinh, các
hệ cảm thụ và nhận thức của con người. Khoa học mới ra đời chưa lâu, ảnh hưởng
của nó trong các lĩnh vực nhận thức nông sâu còn nhiều khác nhau, nhưng ta có
thể tin rằng ảnh hưởng đó chắc chắn sẽ được phát triển sâu rộng một cách nhanh
chóng trong thế kỷ 21, thế kỷ mà ta đang sống.
Đối với các lĩnh vực nghiên cứu về xã hội và nhân văn, những ý tưởng cơ bản của
“khoa học mới” tỏ ra rất thích hợp. Kinh tế học trong thời gian gần đây, với sự
chấp nhận luật “tỷ suất lợi nhuận tăng dần” và các hệ quả của nó, đã được chứng
tỏ là rất phù hợp với thực tế phát triển của nền kinh tế tri thức công nghệ cao
trong tiến trình toàn cầu hoá. Trong các nghiên cứu về xã hội và chính trị, các
ý tưởng về tiến hoá bằng hợp trội đang góp phần tích cực trong việc giải thích
nhiều hiện tượng thực tế, hợp trội trong tình trạng ở bên bờ hỗn độn chủ yếu
được tiến hành bằng sự thích nghi, mà bản chất của hoạt đông thích nghi là khả
năng học, học để hiểu mình, học để hiểu người, hiểu đối tượng, và do đó sẽ tìm
được khả năng đồng tiến hoá trong hợp trội để tạo nên trật tự mới. Trong văn
học nghệ thuật, “khoa học mới” đang góp phần cung cấp những ý tưởng mới, những
“khung mẫu” mới cho các khuynh hướng “hậu hiện đại” cổ vũ cho những “tiểu tự
sự”, những chuyện cục bộ, ngẫu nhiên, tình cờ và nhất thời,... hơn là những
“đại tự sự”, những chuyện có lớp lang bài bản, những chân lý phổ quát, bền vững
và lâu dài. Trong mọi lĩnh vực của nhận thức, “khoa học mới” sẽ không cung cấp
cho ta một cái lõi tri thức vạn năng để áp dụng được vào mọi lĩnh vực riêng, mà
chỉ gợi cho ta một số ý niệm và cách thức để từ đó mỗi lĩnh vực sẽ tự tìm cho
mình những tri thức mà mình tự xem là cần có để ứng dụng trong các tình huống
cụ thể của mình.
Phan Đình Diệu
Nguồn:Tạp chí Tia Sáng 2009
Theo http://www.chungta.com/
Phức tạp hay đơn giản?
Huy Minh
Huy Minh
Mỗi thực thể sống là xem một hệ
thống phức tạp và có thể nói mỗi thực thể sống là một chiếc máy tính sinh học,
hết sức tinh vi và thông minh cũng như máy tính của chúng ta sử dụng ngày nay
đều có 2 phần: phần cứng và phần mềm (Hardware và Software). Phần mềm điều
khiển mọi hoạt động của phần cứng và các cơ chế trao đổi, lưu trữ, xử lý thông
tin. Có điều chúng ta phải luôn nhớ rằng, thực thể sống là sản phẩm của tự
nhiên, trải qua quá trình tiến hoá hàng nghìn, hàng triệu năm nên hiển nhiên
phải rất hoàn hảo, tinh vi hơn, tối ưu hơn nhiều lần chiếc PC của chúng ta -
sản phẩm do con người sáng tạo ra khoảng 30 năm lại đây.
Đối với một hệ thống sự hoạt động và cả vòng đời sẽ được điều khiển bởi các hàm, các biến, các hằng và các luật định trước. Phần mềm điều khiển mọi hoạt động trong cơ thể chúng ta chắc cũng na ná như vậy. Lúc được thụ thai, chúng ta chỉ là 1 tế bào do trứng của người mẹ kết hợp với tinh trùng của người cha, vậy mà trong cái tế bào đó, 1 chương trình phần mềm được kích hoạt để điều khiển mọi quá trình phức tạp, tinh vi diễn ra sau đó: sự phân chia, nhân đôi, sự sao chép, lặp lại, sự tạo thành các bộ phận của cơ thể và cả “phần hồn, ý thức” trong cái sinh linh bé nhỏ được diễn ra một cách tuần tự theo sự “lập trình” trước đó.
Trở lại vấn đề Fractal, khái niệm gắn với nó là Đệ quy, sự sao chép, sự lặp lại. Chẳng hạn trong một cái cây cành cây cũng mang hình dáng như một cây; Trong cây Phả hệ, một nhánh, một chi sẽ phát triển theo thời gian thành một Phả hệ con; hoặc trong tổ chức xã hội các Bộ, ngành,..là các nhánh của Cây Chính phủ…. Có rất nhiều ví dụ minh hoạ tính chất đệ quy, nhiều đến mức Sigmund Freud đã phát biểu “mọi quan hệ đều là cha con” (Totem và Taboo). Trong toán học, người ta mô tả Fractal bằng các hàm đệ quy – hàm gọi đến chính nó Fn(x) = Fn-1(x) + C, khi cho chạy (vẽ) các hàm này trên máy tính sẽ được nhiều hình vẽ rất thú vị như GS Phan Đình Diệu đã nói “.. các hình hình học gãy vỡ, có thể chia ra nhiều cấp độ, mỗi phần ở cấp độ dưới lại “đồng dạng” với phần ở cấp độ trên và với toàn thể, những hình kỳ lạ, điểm mà không là điểm, đường mà không là đường, mặt mà không là mặt,.. “
Có điều ở đây là: mặc dù hàm đệ quy rất đơn giản nhưng lại cho ra những hình vẽ rất kỳ lạ, đẹp mắt đến kỳ ảo! (bạn đọc có thể dùng Google search Fractal để tìm vô số các hình ảnh đó.
Vấn đề ứng dụng của Fractal trong cuộc sống, bởi tính chất sao lặp được áp dụng triệt để trong việc tạo ra một hệ thống phức tạp vì vậy chúng ta cũng áp dụng cách sao lặp để làm đơn giản một hệ thống. Chẳng hạn, với công việc điều hành một Chính phủ rõ ràng là hết sức phức tạp, nhưng người ta đã chia Chính phủ ra làm các Bộ, trong Bộ lại chia ra các Cục, Vụ, Viện,.. Phòng, Ban rồi đến từng người, mỗi bộ phận có trách nhiệm, quyền hạn nhất định. Một hệ thống tốt, tối ưu là các bộ phận được phân định rõ ràng về chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và đảm bảo cho toàn hệ thống chạy trơn tru. Cây Chính phủ sẽ hoạt động trơn tru nếu cả hệ thống vận hành nhịp nhàng, không rối, không chậm, đảm bảo hiệu quả. Sự hoạt động nhịp nhàng không thể thiếu hệ thống thông tin, các luồng thông tin, thần kinh trao đổi trên dưới, dọc ngang giữa các phần tử của hệ thống. Ở đây, lại cho chúng ta một hình ảnh về sự trao đổi chất trong một cái cây tự nhiên. Chúng ta phải học cách tổ chức của cái cây trong tự nhiên để hệ thống của Chính phủ không bị rối, và hoạt động hướng tới sự tối ưu, tự hoàn thiện. Phần mềm tin học nếu được tổ chức dạng Cây với tính đệ quy Fractal sẽ giúp chúng ta thực hiện được điều đó: chuyển hệ thống phức tạp thành những hệ thống con, đơn giản hơn.
Một ví dụ khác, về hệ thống quản lý dân số. Nước ta có khoảng 86 triệu người, cơ sở dữ liệu của 86 triệu là rất lớn, nếu tập trung dữ liệu cả nước để nhập vào máy tính sẽ là công việc khổng lồ.
Tuy nhiên, nếu chia hệ thống dân số ra thành 63 tỉnh, thành phố, mỗi tỉnh, thành lại chia ra quân huyện (khoảng 650 quận, huyện), mỗi quận huyện là 1 trung tâm nhập liệu để nhập số liệu của gần 11.000 xã, phường thì quy mô của hệ thống sẽ nhỏ đi rất nhanh. Từ 86 triệu sẽ chỉ còn 10.000-100.000 người tại xã, phường. Khi đó, hệ thống quản lý dân số vẫn là một hệ thống chung nhưng sẽ bao gồm các hệ thống con (650 hoặc 11.000) vẫn hoạt động một cách nhịp nhàng, trơn tru.
Tóm lại, Fractal như là một sự gợi ý (cố tình) của Thiên nhiên, của Tạo Hoá mà chúng ta có thể vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo trong đời sống để Fractal trở thành sự kỳ bí ngọt ngào. Rất mong được giới thiệu những ứng dụng của Fractal với tác giả và những ai quan tâm.
Đối với một hệ thống sự hoạt động và cả vòng đời sẽ được điều khiển bởi các hàm, các biến, các hằng và các luật định trước. Phần mềm điều khiển mọi hoạt động trong cơ thể chúng ta chắc cũng na ná như vậy. Lúc được thụ thai, chúng ta chỉ là 1 tế bào do trứng của người mẹ kết hợp với tinh trùng của người cha, vậy mà trong cái tế bào đó, 1 chương trình phần mềm được kích hoạt để điều khiển mọi quá trình phức tạp, tinh vi diễn ra sau đó: sự phân chia, nhân đôi, sự sao chép, lặp lại, sự tạo thành các bộ phận của cơ thể và cả “phần hồn, ý thức” trong cái sinh linh bé nhỏ được diễn ra một cách tuần tự theo sự “lập trình” trước đó.
Trở lại vấn đề Fractal, khái niệm gắn với nó là Đệ quy, sự sao chép, sự lặp lại. Chẳng hạn trong một cái cây cành cây cũng mang hình dáng như một cây; Trong cây Phả hệ, một nhánh, một chi sẽ phát triển theo thời gian thành một Phả hệ con; hoặc trong tổ chức xã hội các Bộ, ngành,..là các nhánh của Cây Chính phủ…. Có rất nhiều ví dụ minh hoạ tính chất đệ quy, nhiều đến mức Sigmund Freud đã phát biểu “mọi quan hệ đều là cha con” (Totem và Taboo). Trong toán học, người ta mô tả Fractal bằng các hàm đệ quy – hàm gọi đến chính nó Fn(x) = Fn-1(x) + C, khi cho chạy (vẽ) các hàm này trên máy tính sẽ được nhiều hình vẽ rất thú vị như GS Phan Đình Diệu đã nói “.. các hình hình học gãy vỡ, có thể chia ra nhiều cấp độ, mỗi phần ở cấp độ dưới lại “đồng dạng” với phần ở cấp độ trên và với toàn thể, những hình kỳ lạ, điểm mà không là điểm, đường mà không là đường, mặt mà không là mặt,.. “
Có điều ở đây là: mặc dù hàm đệ quy rất đơn giản nhưng lại cho ra những hình vẽ rất kỳ lạ, đẹp mắt đến kỳ ảo! (bạn đọc có thể dùng Google search Fractal để tìm vô số các hình ảnh đó.
Vấn đề ứng dụng của Fractal trong cuộc sống, bởi tính chất sao lặp được áp dụng triệt để trong việc tạo ra một hệ thống phức tạp vì vậy chúng ta cũng áp dụng cách sao lặp để làm đơn giản một hệ thống. Chẳng hạn, với công việc điều hành một Chính phủ rõ ràng là hết sức phức tạp, nhưng người ta đã chia Chính phủ ra làm các Bộ, trong Bộ lại chia ra các Cục, Vụ, Viện,.. Phòng, Ban rồi đến từng người, mỗi bộ phận có trách nhiệm, quyền hạn nhất định. Một hệ thống tốt, tối ưu là các bộ phận được phân định rõ ràng về chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh và đảm bảo cho toàn hệ thống chạy trơn tru. Cây Chính phủ sẽ hoạt động trơn tru nếu cả hệ thống vận hành nhịp nhàng, không rối, không chậm, đảm bảo hiệu quả. Sự hoạt động nhịp nhàng không thể thiếu hệ thống thông tin, các luồng thông tin, thần kinh trao đổi trên dưới, dọc ngang giữa các phần tử của hệ thống. Ở đây, lại cho chúng ta một hình ảnh về sự trao đổi chất trong một cái cây tự nhiên. Chúng ta phải học cách tổ chức của cái cây trong tự nhiên để hệ thống của Chính phủ không bị rối, và hoạt động hướng tới sự tối ưu, tự hoàn thiện. Phần mềm tin học nếu được tổ chức dạng Cây với tính đệ quy Fractal sẽ giúp chúng ta thực hiện được điều đó: chuyển hệ thống phức tạp thành những hệ thống con, đơn giản hơn.
Một ví dụ khác, về hệ thống quản lý dân số. Nước ta có khoảng 86 triệu người, cơ sở dữ liệu của 86 triệu là rất lớn, nếu tập trung dữ liệu cả nước để nhập vào máy tính sẽ là công việc khổng lồ.
Tuy nhiên, nếu chia hệ thống dân số ra thành 63 tỉnh, thành phố, mỗi tỉnh, thành lại chia ra quân huyện (khoảng 650 quận, huyện), mỗi quận huyện là 1 trung tâm nhập liệu để nhập số liệu của gần 11.000 xã, phường thì quy mô của hệ thống sẽ nhỏ đi rất nhanh. Từ 86 triệu sẽ chỉ còn 10.000-100.000 người tại xã, phường. Khi đó, hệ thống quản lý dân số vẫn là một hệ thống chung nhưng sẽ bao gồm các hệ thống con (650 hoặc 11.000) vẫn hoạt động một cách nhịp nhàng, trơn tru.
Tóm lại, Fractal như là một sự gợi ý (cố tình) của Thiên nhiên, của Tạo Hoá mà chúng ta có thể vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo trong đời sống để Fractal trở thành sự kỳ bí ngọt ngào. Rất mong được giới thiệu những ứng dụng của Fractal với tác giả và những ai quan tâm.
Về quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu
hướng giảm dần Thứ tư, Bùi Quốc
Lộc
Trong bài, Gs Phan Đình Diệu có đề
cập đến quy luật tỷ suất lợi nhuận lợi giảm dần, và đưa ra một ý kiến khác -
quy luật tỷ suất lợi nhuận tăng dần. Theo tác giả, đã có "những bằng chứng
hiển nhiên từ nền kinh tế tri thức công nghệ cao" để củng cố cho ý kiến
thứ hai.
Nói chung, trong bất kỳ ngành khoa học nào, mọi "quy luật" do các nhà khoa học phát kiến ra thì đều là những giả thiết, và cần thực tiễn kiểm nghiệm. Quy luật kinh tế trên đây cũng vậy.
Quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần cùng với sự phát triển của nền sản xuất đã được các nhà kinh tế học nhận thấy từ lâu. Và trước cả các nhà kinh tế thì các doanh nhân cũng cảm nhận thấy điều đó - bằng chứng là ta luôn nghe thấy họ than là làm ăn ngày một khó khăn, lời lãi ngày một mỏng.
Trong tác phẩm "Tư bản" Marx đã đưa ra lý giải vì sao lại có cái quy luật đó, và luôn nhấn mạnh rằng quy luật đó chỉ thể hiện mình như một xu hướng. Nghĩa là có những lúc, những nơi mà tỷ suất lợi nhuận không giảm mà còn tăng. Có những yếu tố khiến tỷ suất lợi nhuận giảm dần; đồng thời lại có những yếu tố kìm hãm quá trình đó. Thậm chí, có những yếu tố cùng một lúc gây ra hai tác động trái ngược nhau: vừa khiến tỷ suất lợi nhuận giảm đi, vừa kìm hãm quá trình đó. Chỉ khi nào xem xét nền kinh tế một cách tổng thể, trong một quãng thời gian dài, thì mới thấy rõ cái xu hướng đó.
Lý luận của Marx có thể vắn tắt như sau: lợi nhuận là từ giá trị thặng dư, mà giá trị thặng dư là do tư bản khả biến tạo ra. Nền sản xuất càng phát triển thì tỷ lệ chi phí cho máy móc, công nghệ, tức tư bản bất biến, càng cao, và cho tư bản khả biến càng thấp. Vì thế tuy tỷ suất giá trị thặng dư có khả năng tăng, nhưng tỷ suất lợi nhuận lại giảm dần.
Lý luận là thế, nhưng vẫn cần thực tế kiểm nghiệm. Thực tế của nền sản xuất ở các nước tư bản phát triển nhất xem ra đang chứng tỏ quy luật đó vẫn có giá trị.
Khi những người đề xuất quy luật tỷ suất lợi nhuận tăng dần, và lấy nền kinh tế tri thức công nghệ cao làm bằng chứng, thì dường như họ đã lấy những trường hợp cá biệt của nền kinh tế, mà không xem xét nền kinh tế một cách tổng thể. Quả đúng là trong các ngành sản xuất thì ngành CNTT, công nghệ cao có tỷ suất lợi nhuận khá cao so với tỷ suất chung. Nhưng nếu nhìn toàn bộ nền kinh tế thì chưa chắc đã thế.
Một khảo sát sơ lược từ báo cáo kinh doanh của một số doanh nghiệp hàng đầu như Siemens, Adidas, GM... cho thấy mấy năm trước khi khủng hoảng nổ ra tỷ suất lợi nhuận trung bình chỉ vào khoảng 10%/năm.
Nếu như lấy tổng số lợi nhuận của tất cả các DN Mỹ chẳng hạn, chia cho tổng số vốn đầu tư của chúng, ta sẽ có con số tỷ suất lợi nhuận trung bình. Người viết không có số liệu này, nhưng có một cách khác để phỏng đoán. Đó là dựa trên lãi suất trung bình.
Ta biết, nếu lợi nhuận trung bình là khoảng 10% thì DN chỉ chịu đi vay với lãi suất 4-5% thôi. Không ai đi vay lãi suất 10% nếu lợi nhuận kỳ vọng là 10% (đây là nhìn tổng thể nền kinh tế, chứ không phải từng DN cá biệt). Như thế, dựa trên lãi suất trung bình của một nước có thể suy đoán ra tỷ suất lợi nhuận trung bình của nền kinh tế ở nước đó là bao nhiêu.
Suốt mấy chục năm gần đây, lãi suất ở các nước phát triển nhất xem ra có xu hướng giảm dần, chứng tỏ tỷ suất lợi nhuận trung bình ở đó cũng có xu hướng giảm dần. Trước khủng hoảng, lãi suất trung bình chỉ vào khoảng 4-6% (ở Nhật còn thấp hơn nữa), phản ánh hợp lý tỷ suất lợi nhuận chung khoảng 10 - 12%. Lãi suất giảm chứng tỏ lợi nhuận từ kinh doanh đang giảm đi.
Thực ra, khu vực CNTT, công nghệ cao chỉ chiếm một tỷ trọng không lớn trong nền kinh tế, và ngay chính trong khu vực đó thì cũng chỉ có một số lượng nhỏ các DN có được lợi nhuận siêu ngạch cao hơn tỷ suất lợi nhuận chung; còn đa số các DN còn lại thì lợi nhuận cũng không cao đến thế. Điều này chẳng phải bây giờ mới diễn ra, mà từ lâu đã luôn luôn như thế, nghĩa là luôn có một số lĩnh vực nhất định nào đó, một số DN nhất định nào đó, đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ suất lợi nhuận chung. Nhưng người ta rất hay lấy những Yahoo với Microsoft ra làm ví dụ cho cái gọi là “nền kinh tế tri thức”, mà quên rằng cần xem xét toàn bộ nền kinh tế một cách tổng thể.
Nói chung, nhìn một cách tổng thể, chưa thấy có gì chứng tỏ rằng tỷ suất lợi nhuận đang có xu hướng tăng. Làm ăn ở Việt Nam bây giờ có tỷ suất lợi nhuận chung cao hơn nhiều so với ở Mỹ là minh chứng. Nhưng rồi tỷ suất đó cũng có xu hướng giảm dần, cùng với quá trình hiện đại hóa, sử dụng ngày càng nhiều máy móc thay thế cho lao động sống - theo như lý luận của Marx. Thực tiễn sẽ sớm cho chúng ta biết mức độ đúng đắn của nhận định đó áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam.
Nói chung, trong bất kỳ ngành khoa học nào, mọi "quy luật" do các nhà khoa học phát kiến ra thì đều là những giả thiết, và cần thực tiễn kiểm nghiệm. Quy luật kinh tế trên đây cũng vậy.
Quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần cùng với sự phát triển của nền sản xuất đã được các nhà kinh tế học nhận thấy từ lâu. Và trước cả các nhà kinh tế thì các doanh nhân cũng cảm nhận thấy điều đó - bằng chứng là ta luôn nghe thấy họ than là làm ăn ngày một khó khăn, lời lãi ngày một mỏng.
Trong tác phẩm "Tư bản" Marx đã đưa ra lý giải vì sao lại có cái quy luật đó, và luôn nhấn mạnh rằng quy luật đó chỉ thể hiện mình như một xu hướng. Nghĩa là có những lúc, những nơi mà tỷ suất lợi nhuận không giảm mà còn tăng. Có những yếu tố khiến tỷ suất lợi nhuận giảm dần; đồng thời lại có những yếu tố kìm hãm quá trình đó. Thậm chí, có những yếu tố cùng một lúc gây ra hai tác động trái ngược nhau: vừa khiến tỷ suất lợi nhuận giảm đi, vừa kìm hãm quá trình đó. Chỉ khi nào xem xét nền kinh tế một cách tổng thể, trong một quãng thời gian dài, thì mới thấy rõ cái xu hướng đó.
Lý luận của Marx có thể vắn tắt như sau: lợi nhuận là từ giá trị thặng dư, mà giá trị thặng dư là do tư bản khả biến tạo ra. Nền sản xuất càng phát triển thì tỷ lệ chi phí cho máy móc, công nghệ, tức tư bản bất biến, càng cao, và cho tư bản khả biến càng thấp. Vì thế tuy tỷ suất giá trị thặng dư có khả năng tăng, nhưng tỷ suất lợi nhuận lại giảm dần.
Lý luận là thế, nhưng vẫn cần thực tế kiểm nghiệm. Thực tế của nền sản xuất ở các nước tư bản phát triển nhất xem ra đang chứng tỏ quy luật đó vẫn có giá trị.
Khi những người đề xuất quy luật tỷ suất lợi nhuận tăng dần, và lấy nền kinh tế tri thức công nghệ cao làm bằng chứng, thì dường như họ đã lấy những trường hợp cá biệt của nền kinh tế, mà không xem xét nền kinh tế một cách tổng thể. Quả đúng là trong các ngành sản xuất thì ngành CNTT, công nghệ cao có tỷ suất lợi nhuận khá cao so với tỷ suất chung. Nhưng nếu nhìn toàn bộ nền kinh tế thì chưa chắc đã thế.
Một khảo sát sơ lược từ báo cáo kinh doanh của một số doanh nghiệp hàng đầu như Siemens, Adidas, GM... cho thấy mấy năm trước khi khủng hoảng nổ ra tỷ suất lợi nhuận trung bình chỉ vào khoảng 10%/năm.
Nếu như lấy tổng số lợi nhuận của tất cả các DN Mỹ chẳng hạn, chia cho tổng số vốn đầu tư của chúng, ta sẽ có con số tỷ suất lợi nhuận trung bình. Người viết không có số liệu này, nhưng có một cách khác để phỏng đoán. Đó là dựa trên lãi suất trung bình.
Ta biết, nếu lợi nhuận trung bình là khoảng 10% thì DN chỉ chịu đi vay với lãi suất 4-5% thôi. Không ai đi vay lãi suất 10% nếu lợi nhuận kỳ vọng là 10% (đây là nhìn tổng thể nền kinh tế, chứ không phải từng DN cá biệt). Như thế, dựa trên lãi suất trung bình của một nước có thể suy đoán ra tỷ suất lợi nhuận trung bình của nền kinh tế ở nước đó là bao nhiêu.
Suốt mấy chục năm gần đây, lãi suất ở các nước phát triển nhất xem ra có xu hướng giảm dần, chứng tỏ tỷ suất lợi nhuận trung bình ở đó cũng có xu hướng giảm dần. Trước khủng hoảng, lãi suất trung bình chỉ vào khoảng 4-6% (ở Nhật còn thấp hơn nữa), phản ánh hợp lý tỷ suất lợi nhuận chung khoảng 10 - 12%. Lãi suất giảm chứng tỏ lợi nhuận từ kinh doanh đang giảm đi.
Thực ra, khu vực CNTT, công nghệ cao chỉ chiếm một tỷ trọng không lớn trong nền kinh tế, và ngay chính trong khu vực đó thì cũng chỉ có một số lượng nhỏ các DN có được lợi nhuận siêu ngạch cao hơn tỷ suất lợi nhuận chung; còn đa số các DN còn lại thì lợi nhuận cũng không cao đến thế. Điều này chẳng phải bây giờ mới diễn ra, mà từ lâu đã luôn luôn như thế, nghĩa là luôn có một số lĩnh vực nhất định nào đó, một số DN nhất định nào đó, đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ suất lợi nhuận chung. Nhưng người ta rất hay lấy những Yahoo với Microsoft ra làm ví dụ cho cái gọi là “nền kinh tế tri thức”, mà quên rằng cần xem xét toàn bộ nền kinh tế một cách tổng thể.
Nói chung, nhìn một cách tổng thể, chưa thấy có gì chứng tỏ rằng tỷ suất lợi nhuận đang có xu hướng tăng. Làm ăn ở Việt Nam bây giờ có tỷ suất lợi nhuận chung cao hơn nhiều so với ở Mỹ là minh chứng. Nhưng rồi tỷ suất đó cũng có xu hướng giảm dần, cùng với quá trình hiện đại hóa, sử dụng ngày càng nhiều máy móc thay thế cho lao động sống - theo như lý luận của Marx. Thực tiễn sẽ sớm cho chúng ta biết mức độ đúng đắn của nhận định đó áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét