Cộng hưởng âm dương
trong Trăng mùa hạ
của Nguyễn Đức Phú Thọ
Trăng mùa hạ
Cho N.
Dưới
ánh trăng mùa hạ
Em
soi bầu ngực vào gương, nước sông chảy theo đêm lênh
láng, hương cau trôi ngần ngật trước thềm
Mẹ bảo: Nhúm cau như nhúm ngực, trai làng chẳng biết cau thơm
Cha lên phố mẹ mòn trông tháng ngày đằng đẵng…
Dưới ánh trăng mùa hạ
Đom đóm về thắp lửa ven sông, hoa dâm bụt thắp đèn lồng trước cửa
Đêm đồng nội thắp một cơn mưa nhỏ
Những gái quê tắm mùa hạ chưa chồng
Đuổi theo trăng
Trăng tan vào mênh mông…
Nhan đề bài thơ như một điểm nhấn đầy sức gợi. Trăng Sài Gòn khác gì trăng Hà
Nội? Trăng trời tây khác gì trăng phương đông? Trăng trong đêm thề nguyền giữa
Romeo và Juliet khác gì trăng trong đêm hẹn ước giao tình Kim Trọng - Thúy
Kiều?… Khác, khác rất nhiều, và nhờ sự khác biệt đó mà mỗi ánh trăng vẫn sống
bằng những thứ ánh sáng khác nhau. Song ở đây, ba tiếng giản dị Trăng mùa hạ
lại khiến không ít ngời bối rối. Trăng mùa hạ là trăng vào mùa hạ hay là trăng
và mùa hạ? Nếu là trăng vào mùa hạ thì có trăng vào mùa thu, mùa đông và mùa
xuân nữa. Chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy sự khác biệt giữa ánh trăng mùa hè
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Dưới trăng quyên đã gọi hè / Đầu tường lửa lựu
lập lòe đâm bông và trái trăng thu chín mõm mòm trong thơ nữ sĩ họ Hồ. Sự sai
khác ấy không chỉ là độ vênh của cảm xúc cá tính mà nó xuất phát từ sự vận động
của con tạo xoay vần: xuân xanh, hạ trắng, thu vàng. đông tím... Còn nếu được
hiểu là trăng và mùa hạ thì ở đây đồng hiện tức thời hai thực thể như sự sắp
xếp ngẫu nhiên của tạo hóa trong vũ trụ này. Cách nói của Nguyễn Đức Phú Thọ có
sự mơ hồ, sự xuống cấp về mặt cấu trúc ngữ pháp nhưng đồng thời là sự lên ngôi
của thi tính. Phải chăng đó chính là cái được rất nhiều mơ mộng khi bớt đi một
chút rõ ràng như cách nói của Hoài Thanh?
Những mơ mộng ban đầu ấy đã tịnh tiến người đọc tiệm cận tới những chân trời
mới. Bài thơ là hai khổ nho nhỏ (gần như hai câu được vắt dòng nhiều lần), đều
kết thúc bằng dấu ba chấm (…) đầy tâm trạng, và đều được bắt đầu từ cụm Dưới
ánh trăng mùa hạ như là không gian chung đầy diễm ảo, thơ mộng cho sự xuất
hiện, giao hòa những mặt, những thực thể đối lập mà thống nhất trong vũ trụ vẹn
toàn.
Ở câu thơ thứ nhất:
Dưới ánh trăng mùa hạ
Em soi bầu ngực vào gương, nước sông chảy theo đêm lênh
láng, hương cau trôi ngần ngật trước thềm
Mẹ bảo: Nhúm cau như nhúm ngực, trai làng chẳng biết cau thơm
Cha lên phố mẹ mòn trông tháng ngày đằng đẵng…
Dường như có sự đồng nhất giữa Ánh trăng, Em - bầu ngực và Mẹ. Đó như một mô
hình tam vị nhất thể trong văn hóa phương Đông. Trăng trong tâm thức cộng đồng
Việt nói riêng là bản nguyên âm (chị Hằng Nga), trăng được ví với mẹ. Trăng
hiện diện trong tâm thức đa thần giáo là bản nguyên âm của vũ trụ và của con
người. Bộ ngực - vú là trung tâm của tái sinh và bao khắc khoải, là phần quan
trọng bậc nhất của bản nguyên nữ (Chevalier), là tặng phẩm kỳ diệu nhất của
tình mẫu tử. Giá trị kép của bản nguyên nữ là ở trạng thái vừa là trinh nữ, vừa
là người mẹ (như mẹ đồng trinh Maria). Cho nên Trăng, Em và Mẹ chỉ là sự phóng
chiếu lẫn nhau từ biểu tượng văn hóa đến các biểu hiện sinh động; đồng thời nó
ứng với từng giai đoạn khác nhau trong bản chất của một thực thể, một thân phận
mà Nguyễn Đức Phú Thọ đã tiên cảm một cách mơ hồ ở tính bao dung các hệ lụy của
thiên tính nữ: lặng lẽ nhận thức, tự khám phá (soi bầu ngực vào gương), lặng lẽ
hiến dâng (nước sông chảy theo đêm lênh láng), lặng lẽ chịu đựng, lặng lẽ tủi
hờn (trai làng chẳng biết cau thơm), lặng lẽ đợi chờ, lặng lẽ đau khổ, lặng lẽ
thủy chung, lặng lẽ yêu thương, lặng lẽ vị tha… (mẹ mỏi mòn trông tháng ngày
đằng đẵng). Đó là những phẩm chất tạo nên số phận và thiên chức của bản nguyên
nữ mà nhân vật trữ tình đã thấu hiểu trong nhịp điệu trầm buồn của người Mẹ khi
nhìn lại đời mình, như một tiếng thở dài, như sự xót xa cho thân phận:
Mẹ
bảo: Nhúm cau như nhúm ngực, trai làng chẳng biết cau thơm
Cha lên phố mẹ mòn trông tháng ngày đằng đẵng…
Tác giả Trăng mùa hạ đã làm sống dậy những giá trị văn hóa đã được kết tinh từ
xa xưa. Ca dao đã từng có câu:
Vú
em chum chúm chụm cau
Cho anh sờ cái có đau anh đền.
Và từ trong vô thức, thơ Hoàng
Cầm đã vọng về nhiều mộng mơ nguyên thủy:
Ngủ
lại giấc mơ dang dở
Chũm cau căng đứt mạch tằm
Yếm may ba ngày mẹ vá lại
Khuya nghe buồng động bóng trăng rằm.
Nhưng đây là sự tái sinh đầy sáng tạo ở sự đổi chiều các vế so sánh (ca dao và
thơ Hoàng Cầm ví ngực như chũm cau, còn Nguyễn Đức Phú Thọ lại làm điều ngược
lại: nhúm cau như nhúm ngực). Và giá trị của câu thơ không còn ở sự so sánh
nữa, mà để nói điều kín đáo hơn, khó nói hơn: trách móc mà nghẹn ngào, xót xa
không chỉ cho mình mà còn cho người. Ở đây, tác giả không chỉ nói được quy luật
tâm lý con người, (đa số có tâm lý chuộng ngoại, ham thích điều mới lạ, có mới
nới cũ - tục ngữ) chạm đến tận vỉa tầng văn hóa mà còn kết tinh được sự nghiệt
ngã của đời người, của trò đùa số phận. Tất cả chỉ vì sự thờ ơ, hờ hững, lạnh
lùng, vô cảm: trai làng chẳng biết cau thơm nên mới có chuyện cha lên phố và mẹ
héo hon đợi chờ…
Nếu câu thơ thứ nhất âm khí tràn ngập, dồn ứ, bản nguyên nữ miên viễn qua không
gian, thời gian trở thành tượng đài về thiên tính nữ, nữ tính vĩnh hằng thì câu
thơ thứ hai đã phá tan sự thuần nhất đó bằng sự xuất hiện đầy ánh sáng và màu
sắc của bản nguyên dương:
Dưới
ánh trăng mùa hạ
Đom đóm về thắp lửa ven sông, hoa dâm bụt thắp đèn lồng trước cửa
Đêm đồng nội, thắp một cơn mưa nhỏ
Những gái quê tắm mùa hạ chưa chồng
Đuổi theo trăng
Trăng tan vào mênh mông…
Ở câu thơ thứ nhất, có sự hiện diện của bản nguyên dương nhưng đó là sự hiện
diện “vắng mặt” (trai làng chẳng biết, cha lên phố…), cũng chính vì vậy mà làm
tăng thêm một nghịch đảo bản nguyên dương, thì ở câu thơ thứ hai, có sự trở về
của bản nguyên dương như là sự trở về với bản thể. Đó cũng chính là sự trao trả
cho bản nguyên âm sự sống và tình yêu. Trong sự thiếu thốn đến kiệt cùng gần
như chạm đến sự tiệm thoái, sự khao khát héo hắt suối khô dòng lệ (Tản Đà) thì
bản nguyên dương xuất hiện đột ngột tác động mạnh mẽ đến bản nguyên âm như một
phản ứng nhiệt hạch:
Đom
đóm về thắp lửa ven sông, hoa dâm bụt thắp đèn lồng trước cửa
Đêm đồng nội thắp một cơn mưa nhỏ
Ta chỉ cần làm một phép đối chiếu giản dị với câu thơ thứ nhất thì ta sẽ nhận
thấy sự chuyển đổi một cách mạnh mẽ, sâu sắc của gam màu, của thi hứng và cả
nhịp điệu vận động của hình tượng:
Sự thay đổi của động từ:
câu thơ thứ nhất: soi - chảy
lênh láng - trôi ngần ngật
câu thơ thứ hai: thắp… - thắp
…- thắp…
Động từ thắp gợi sự chủ động,
sự chủ đích, được lặp lại ba lần, đối lập với những động từ vô định, trôi nổi
vô biên của chủ thể nữ tính ở câu thứ nhất. Những từ láy lênh láng, ngần ngật
đa nghĩa, đa thanh bởi sự gia tăng trường nghĩa khi có sự tham gia của thủ pháp
nhân hóa, khiến ta thương cảm và tê buốt bởi sự bao dung và hiến dâng hết mình
của bản nguyên nữ.
Những gam màu nóng mạnh và những thực thể biểu tượng của bản nguyên dương: lửa
- hoa dâm bụt - đèn lồng, đều thống nhất ở sự nồng nàn, ấm nóng đến nôn nao, mà
nguyên mẫu của nó là lửa. Đây là dạng lửa xuyên thấu (thắp). Theo Kinh dịch lửa
ứng với phương Nam, màu đỏ, mùa hè, trái tim. Và thật là hữu lý, khi G.
Bachelard cho rằng, tình yêu là giải thích khoa học đầu tiên về sự tái tạo
khách quan của lửa. Sự xuất hiện trọn vẹn của bản nguyên dương hé lộ một thời
kỳ thiên đường sắp sửa.
Và, nếu những từ láy lênh láng, ngần ngật diễn tả sự lan tràn, vô định và bất
biến theo hướng nằm ngang của chiều âm thì động từ thắp và những thực thể đi
kèm đều diễn tả hướng vận động theo chiều thẳng đứng của bản nguyên dương. Hình
ảnh thắp một cơn mưa nhỏ tưởng như trái với logic của hiện thực, bởi mưa có
nguồn gốc từ đất nhưng định mệnh thuộc về trời, nhưng kỳ thực, hình ảnh thơ lại
đạt đến đỉnh cao sự diệu vợi, khi nó xuất hiện trong trường liên tưởng tinh tế:
trong đêm đồng nội huyền ảo, diễm lệ thì sự sống và tình yêu tái sinh. Tự câu
thơ xui khiến ta hiểu theo nhiều ý nghĩa khác nhau, đó là hệ quả trực tiếp của
kiểu “giải phóng cú pháp”:
Đêm đồng nội, thắp một cơn
mưa nhỏ
Câu thơ trùng ngôn có vẻ vi phạm phương châm về lượng: đã là gái lại còn chưa
chồng. Từ gái trinh nguyên đến chưa chồng dự báo một quá trình mới trong chiều
diễn tiến của thời gian, nhưng ở đây, em vẫn là gái muôn đời (Đinh Hùng), là
đồng trinh trắng trong thuần khiết, là khởi thủy và khởi thủy là đàn bà (Đỗ Lai
Thúy).
Gái và chưa chồng đồng thời lại là hai bờ vĩnh cửu của sự thuần khiết.
Giữa hai bờ đó là sự hiển lộ của chiếc cầu vồng ảo diệu: tắm mùa hạ. Có
thể nói, trên khắp thế giới, tắm là nghi thức đầu tiên trong các nghi thức ghi
nhận những bước ngoặt của cuộc đời con người: sinh ra, bắt đầu có khả năng sinh
sản và chết đi. Ở đây, những gái quê hớn hở xuân thì như vậy thì chưa thể là
viễn tượng sở khởi của sự sinh ra hay mất đi mà chỉ có thể là sự đánh dấu bước
sang thời kỳ nguyệt hoa, hoa nguyệt của đời người thanh nữ, như cách nói có
phần táo bạo của Hồ Xuân Hương: Này của Xuân Hương đã quyệt rồi (Mời trầu).
Khát khao thầm kín mà mãnh liệt của người thiếu nữ được nói bằng hình ảnh ẩn
dụ: tắm mùa hạ vừa nên thơ vừa đa nghĩa, giảm đi sự trơ trẽn và làm tăng yếu tố
nữ tính.
Từ cái nhìn cả thẹn của Kyto giáo, cho rằng tắm là lẽ trái ngược với tiết hạnh,
đặc biệt là tắm nước nóng thì làm tăng khoái cảm xác thịt nên cần phải loại bỏ.
Ngược lại, từ cuộc sống nhiều tục lụy, tác giả Trăng mùa hạ đã thông tuệ được
niềm hoan lạc giao hòa của mùa ấm nóng tin yêu. Từ đây, ta trở lại nhan đề bài
thơ như một dự phóng tiềm tàng của những lối thơ mở ngỏ hun hút khôn cùng.
Trăng mùa hạ bao hàm những bản nguyên đối lập mà thống nhất như một thể bất
biến trong sự cộng thông âm dương, trong âm có dương và trong dương có âm:
Đuổi theo trăng
Trăng tan vào mênh mông…
Sự giao hòa tuyệt diệu, tan loãng vào mênh mông ấy là mộng thiên đường của
những mùa hẹn chín giao tình, mùa của những bung nở đắm say trong cõi hồng
hoang hương ấm.
Bài thơ được cấu trúc như một trò chơi, trò chơi của ngôn ngữ và trò chơi của
những biểu tượng và ý nghĩa của trò chơi ấy được tạo sinh chủ yếu dựa trên trục
kết hợp ngẫu nhiên nhưng đạt đến chiều kích những ám gợi những biểu tượng văn
hóa. Cái xộc xệch, mơ màng của Trăng mùa hạ đã nói được và nói một cách rất nên
thơ cái quy luật vĩnh hằng của vũ trụ và con người - sự cộng thông âm dương.
Nguyễn Thị Tuyết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét