Nhạc Mới hay là Tân
Nhạc hay là Nhạc Cải Cách là một loại nhạc xuất hiện vào khoảng
năm 1928. Ðó là một thể nhạc lấy nhạc ngữ Tây phương làm nền tảng (thang âm thất
cung do-ré-mi-fa-sol-la-si-do, hòa âm phối khí, nhạc khí Tây phương vv…). Lịch sử
tân nhạc Việt Nam có thể chia thành năm giai đoạn:
Giai đoạn tượng hình
(1928-1937)
Giai đoạn thành lập
(1938-1945)
Giai đoạn kháng Pháp
(1946-1954)
Giai đoạn đất nước chia đôi
(1954-1975)
Giai đoạn di tản (từ 1975 trở
đi)
1) Giai đoạn tượng hình
(1928-1937)
Nói cho đúng thì sự phát xuất
đầu tiên của âm nhạc cải cách khởi xướng từ loại nhạc đàn tài tử
trong Nam với những nhạc phẩm mới của thầy ký Trần Quang Quờn khoảng trước thế
chiến thứ nhứt (1914-1918)
Nghệ sĩ cải lương tiền phong
Tư Chơi (tên thật là Huỳnh Thủ Trung) đã sáng tác một số bài hát ta theo điệu
tây như “Tiếng nhạn trong sương“, “Hòa duyên“, đồng thời viết bài Việt cho một
số bài Tây thịnh hành thời đó như “Marinella” (trong vở tuồng Phũ Phàng).
Một số bản nhạc Pháp được dịch ra lời Việt như “Pouet Pouet ” (trong tuồng Tiếng
Nói Trái Tim), “Tango mystérieux ” (trong tuồng Ðóa Hoa Rừng), “La
Madelon ” (trong tuồng Giọt Lệ Chung Tình), vv..
Nghệ sĩ Bảy Nhiêu có sáng
tác bài “Hoài Tình” trở thành một bản rất được ưa chuộng . Năm 1930, đảng cộng
sản Ðông Dương được thành lập và bài ca của Ðình Như “Cùng Nhau Ði Hồng Binh”
được sáng tác trong tù và đi liền với phong trào kháng Pháp.
Có một số bản nhạc được viết
ra trước thế chiến thứ hai như « Bẽ Bàng » (1935), « Nghệ Sĩ
Hành Khúc » (1936) của Lê Yên, « Bóng Ai Qua Thềm » (1937)của
Văn Chung, « Xuân Năm Xưa »(1936) của Lê Thương , « Biệt
Ly » (1939) của Doãn Mẫn, vv…
Vào khoảng năm 1937, phong
trào “ái Tino” lên rất cao tại Việt Nam. Trên làn sóng điện, trong rạp hát, tại
các vũ trường, nơi tư nhân đâu đâu cũng nghe những âm điệu du dương của nhạc sĩ
Vincent Scotto qua giọng hát êm ả của Tino Rossi.
Phong trào chuyển theo hướng
làm thay đổi sở thích của giới trẻ. Trước mối nguy vọng Pháp và trong tinh thần
bảo vệ nghệ thuật của dân tộc, một số nhạc sĩ Việt Nam ra tay sáng tác nh”ng bản
tân nhạc đầu tiên. Ðó là vào năm 1938. Ở miền Bắc lúc ấy có Thẩm Oánh (định cư
tại Hoa kỳ và từ trần năm 1996) , Dương Thiệu Tước (từ trần năm 1998 tại Việt
Nam) , Trần Quang Ngọc, Lê Thương (từ trần năm 1996 tại Việt Nam). Trong Nam
thì có Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Ðăng Hinh. Tháng 3, 1938, nhạc
sĩ Nguyễn Văn Tuyên được chánh phủ bảo hộ Pháp gởi ra Hà Nội để thuyết trình về
âm nhạc cải cách hầu tạo một phong trào mới.
Vào tháng 9, 1938, báo Ngày
Nay đã góp công vào phong trào phổ biến nhạc mới bằng cách đăng những bài tân
nhạc đầu tiên. Từ năm 1938 tới 1942 báo Ngày Nay đã đăng “Bông Cúc Vàng“, “Kiếp
Hoa” của Nguyễn Văn Tuyên, “Bình Minh”, “Ðàn Xuân “của Nguyễn Xuân Khoát,
“Khúc Yêu Ðương” của Thẩm Oánh, “Bản Ðàn Xuân” của Lê Thương, “Ðám Mây Rừng ”
của Phạm Ðăng Hinh, “Ðường Trường” của Trần Quang Ngọc.Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy
có đăng bản “Con Thuyền Không Bến ” của Ðặng Thế Phong.
Các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương
Thiệu Tước, Trần Dư, Vũ Khánh, Phạm Văn Nhượng cùng nhau thành lập nhóm
MYOSOTIS. Trong nhóm này có hai xu hướng:
sáng tác nhạc mới nhưng có
âm hưởng nhạc dân tộc do Thẩm Oánh chủ trương.
sáng tác hoàn toàn theo nhạc
ngữ Tây phương do Dương Thiệu Tước cầm đầu.
Ít lâu sau, một nhóm khác gồm
vài nhạc sĩ trẻ đầy nhiệt quyết thành lập nhóm TRICEA gồm Văn Chung, Lê Yên,
Dzoãn Mẫn. Nhóm này chịu ảnh hưởng nhạc Trung Quốc lúc đầu, về sau phảng phất
âm hưởng Âu châu và phải rả sớm. Nhóm Ðồng Vọng ở Hải Phòng có các nhạc sĩ
Hoàng Quý, Văn Cao, Canh Thân. Nhóm Ðồng Vọng do Hoàng Quý điều khiển ra đời
chuyên về nhạc hướng đạo lúc đầu và sau đó tích cực đóng góp trong việc phổ biến
nhạc mới.
Lê Thương lúc đó giảng dạy tại
trường trung học Lê Lợi. Một số tráng sinh hướng đạo có nh”ng tên đi vào lịch sử
âm nhạc Việt Nam như Canh Thân, Phạm Ngữ, Hoàng Quý đã sáng tác những bài nhạc
đáng kể như “Nhớ Quê Hương” (Phạm Ngữ), và “Chùa Hương” (Hoàng Quý).
Tỉnh Nam Ðịnh chứng kiến sự
chào đơì của hai bài “Ðêm Thu” và “Con Thuyền Không Bến” của nhạc sĩ đoản mệnh
Ðặng Thế Phong.
Hai bài nhạc Nhựt “Hà Nhựt
Quân Tái Lai ” (Bao giờ anh trở lại ) và “Shina No Yoru ” (Ðêm Trung
Hoa) trích trong phim “Ðêm Trung Hoa” (Nuit de Chine) đã gợi hứng cho nhạc sĩ
Việt Nam thời bấy giờ sáng tác nhạc Việt, tạo thành phong trào “Người Việt hát
nhạc Việt “.
1939: thế chiến thứ hai bùng
nổ tại Âu Châu. Nh”ng bài “Việt Nam Bất Diệt” của Hoàng Gia Linh, “Trên Sông Bạch
Ðằng” của Hoàng Quý, “Tiếng Gọi Sinh Viên” của Lưu Hữu Phước đã làm sống dậy
tinh thần yêu nước của tuổi trẻ.
Tân nhạc trong hoàn cảnh đất
nước lúc bấy giờ đã đóng một vai trò đáng kể và từ đó phát triển rất mạnh.
Phong trào tân nhạc đã được đưa lên cao tột đỉnh với Tổng Hội Sinh Viên trong
giai đoạn lịch sử 1943-1945. Nhạc sĩ đi liền với Tổng Hội Sinh Viên không ai
khác hơn là Lưu Hữu Phước. Những bài hát làm ra đúng thời, đúng lúc và vẫn còn
sống mãi trong tim đa số người Việt ngày hôm nay (nhứt là những ngươì vào tuổi
ngũ tuần trở đi). Những ai đã sống trong thời kháng chiến chống Pháp vẫn còn nhớ
những bài gợi lên những giai đoạn lịch sử Việt Nam như “Ải Chi Lăng“, “Bạch Ðằng
Giang“, “Hội Nghị Diên Hồng“, hay những bài khích động thanh niên như “Tiếng Gọi
Sinh Viên” (đổi thành Tiếng Gọi Thanh Niên, và cũng là bài quốc ca của thơì Ngô
Ðình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu). “Lên Ðàng” hay với thiếu nữ như “Thiếu Nữ Việt
Nam“, hay những bài gắn liền với lịch sử như “Kinh Cầu Nguyện“, “Hồn Tử Sĩ”
(bài mà trong bất cứ chương trình đấu tranh của người Việt di tản vẫn còn dùng
để tưởng nhớ các chiến sĩ tử trận) . Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước là người đầu tiên
sáng tác nhạc ca kịch trong kịch thơ “Tục Lụy” của Khái Hưng và Thế Lữ và tiểu
ca kịch “Con Thỏ Ngọc“. Nguyễn Ðình Thi sáng tác bài “Diệt Phát Xít” thúc đẩy dân
chúng nổi lên chống Nhựt Bổn.
Lúc bấy giờ ở tại Sài Gòn,
chỉ lẻ tẻ vài hội hoạt động về nhạc cải cách. Hội Nam Kỳ Ðức Trí Thể dục mời bà
nhạc sĩ dương cầm Louise Nguyễn Văn Tỵ (tên thật là Thái Thị Lang) trình diễn
piano với những bài do bà sáng tác. Nhạc sĩ quá cố Võ Ðức Thu trình bày nhạc phẩm
“Việt Nam Tân Ðiệu“. Từ Bắc tới Nam, nhạc sĩ tân nhạc bắt đầu mọc lên như nấm.
Trong giai đoạn 1944-1945,
nhiều bài bạn tôn giáo như “A Di Ðà Phật” của Thẩm Oánh được hát nhân ngày
khánh thành trùng tu chùa quan sứ Hà Nội vào cuối năm 1942 hay bài “Sám Hối” và
nhiều ca khúc khác của Nguyễn Hữu Ba và Văn Giảng sáng tác tại Huế. Nhạc đoàn
Lê Bão Tịnh gồm các nhạc sĩ Hùng Lân, Hải Linh, Tâm Bảo, Thiên Phụng đã sáng
tác tập Cung Thánh gồm hàng trăm bài Thánh ca Thiên chúa giáo (1944-1945).
Giai đoạn 1945-1946 đánh dấu
cuộc chiến tranh bùng nổ tại Việt Nam vừa sau trận thế chiến thứ hai. Các nhạc
sĩ lo sáng tác nhạc chiến đấu như Văn Cao với “Tiến Quân Ca” (trở thành Quốc Ca
của chế độ cộng sản miền Bắc từ năm 1945, và được dùng làm Quốc Ca của Việt Nam
Xã hội chủ nghĩa từ năm 1976 sau khi thống nhứt đất nước), “Chiến Sĩ Việt Nam“,
như Ðỗ Nhuận với “Nhớ Chiến Khu “, như Phạm Duy với “Chiến Sĩ Vô Danh “,
“Xuất Quân “, như Lưu Hữu Phước với “Ðoàn Quân Ma “, như Phan Huỳnh
Ðiểu với “Giải Phóng Quân “, như Thẩm Oánh với “Việt Nam Phục Quốc “. Song
song vơí những sáng tác chiến đấu, tình cảm vẫn còn rung động trong nguồn hứng
qua các bài “Thiên Thai ” (Văn Cao), “Ðêm Ðông ” (Nguyễn Văn Thương),
“Xuân và Tuổi Trẻ ” (La Hối), “Mùa Ðông Binh Sĩ ” (Phan Huỳnh Ðiểu),
“Dạ Khúc ” (Nguyễn Mỹ Ca), “Ðêm Tàn Bến Ngự ” (Dương Thiệu Tước),
” Cây Ðàn Bỏ Quên ” (Phạm Duy), “Mơ Hoa ” (Hoàng Giác), “Cô Lái
Ðò” (Thẩm Oánh), “Suối Mơ ” (Văn Cao), “Hẹn Một Ngày Về ” (Lê Hữu Mục),
“Ði Chơi Chùa Hương ” (Trần Văn Khê/Nguyễn Nhược Pháp).
Các nhạc sĩ đã dùng nhạc để
diễn tả những bài thơ lãng mạn của Đoàn Phú Tứ (« Màu Thời Gian » nhạc
Nguyễn Xuân Khoát), của Lưu Trọng Lư ( « Tiếng Thu » nhạc Phạm Duy),
của Nguyễn Bính (« Cô Lái Đò » nhạc Nguyễn Đình Phúc) . Các đề tài
lãng mạn của Tự Lực Văn Đoàn tạo nguồn hứng cho một vài nhạc phẩm như « Bướm
Hoa » của Nguyễn Văn Thương , hay « Cô Hái Hoa » của Hoàng Giác
.
Nhạc nhà thờ với nhạc sĩ Hùng
Lân (tù trần năm 1986 tại Việt Nam), nhạc quân đội với Đinh Ngọc Liên khởi xướng
trong giai đoạn sơ khai này .
Trước năm 1945, nhạc dành
cho trẻ em rất hiếm. Hoàng Quý có viết một số bài vì ông là huynh trưởng của
đoàn hướng đạo Hải Phòng . Phạm Văn Xung đã đưa nhiều bản nhạc trẻ em Tây
phương với lời Việt vào phong trào hướng đạo. Một số rất ít nhạc phẩm của Nguyễn
Xuân Khoát như « Con Voi », « Thằng Bờm », hay của Lê
Thương như « Thằng Cuội » được xem như là những ca khúc trẻ em đầu
tiên của Việt Nam . Sau 1945, Phong Nhã là người đầu tiên thật sự viết ca khúc
cho trẻ em như « Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn thiếu nhi nhi đồng», «Kim
Đồng», «Nhanh Bước Nhanh Nhi Đồng », vv…
Giai đoạn kháng Pháp
(1946-1954) bắt đầu từ tháng 12, 1946 đã chứng kiến sự chào đời của một số nhạc
khúc tranh đấu mãnh liệt. Ða số các nhạc sĩ đã rời cuộc sống xa hoa của thủ đô
và các thành phố để tự nguyện dấn thân vào cuộc kháng chiến toàn quốc. Từ đó,
âm nhạc Việt Nam bước vào một giai đoạn mới. Tại vùng bị chiếm, âm nhạc vẫn tiếp
tục theo chiều hướng nhạc tr” tình, lãng mạn, hay nhạc nói lên những hình ảnh
dân tộc Việt, phong cảnh Việt. Có thể kể một số bài bản điển hình như “Người Hà
Nội ” (Nguyễn Ðình Thi), “Làng Tôi ” (Văn Chung), “Quê Em ” (Nguyễn Ðức
Toàn), “Rạng Ðông ” (Hùng Lân), “Tình Ca” (Phạm Duy), “Bà Mẹ Quê” (Phạm
Duy), “Vợ Chồng Quê ” (Phạm Duy), “Em Bé Quê” (Phạm Duy), “Ngày Trở Về ”
(Phạm Duy), “Mơ Khúc Tương Phùng ” (Văn Phụng), “Ai Về Sông Tương “(Thông
Ðạt), “Tiếng Thời Gian ” (Lâm Tuyền), “Hòn Vọng Phu 1,2,3 ” (Lê
Thương), “Hòa Bình 48 ” (Lê Thương), “Liên Hiệp Quốc ” (Lê Thương), “Chúc
Tết ” (Lê Thương), “Tiếng Thùy Dương ” (Lê Thương), vv….
Với thể hành khúc, ca khúc
chiến đấu, âm điệu hùng tráng lúc đầu dựa theo các điệu diễn binh của Pháp, rồi
dần dần hấp thụ và chuyển biến thành những hành khúc mang màu sắc dân tộc. Qua
những nhạc khúc đi sâu vào lòng dân tộc thời bấy giờ như “Du kích Sông Thao“, “Chiến
Thắng Ðiện Biên ” của Ðỗ Nhuận, “Sông Lô” của Văn Cao, “Tiểu Ðoàn 307 ”
của Nguyễn Hữu Trí, “Bộ Ðội Về Làng” của Lê Yên, “Quê Tôi Giải Phóng ” của
Văn Chung. “Hò Kéo Pháo” của Hoàng Vân, nhạc đấu tranh đã thành công trong việc
kết hợp ngôn ngữ âm nhạc Tây phương và âm điệu dân tộc dựa trên thang âm ngũ
cung. Bác và đảng cũng là một đề tài mới mẻ đã sinh ra một bài như “Ca Ngợi Hồ
Chủ Tịch” của Văn Cao, “Biết Ơn Cụ Hồ” của Lưu Bách Thụ, và “Chào Mừng Ðảng Lao
Ðộng Việt nam ” của Lưu Hữu Phước, vv….
Trong giai đoạn này , tại
Pháp trong những năm 1949 tới năm 1951, hãng dĩa ORIA đã thu mấy chục dĩa nhựa
78 vòng tiếng hát của các ca sĩ Hải Minh (biệt hiệu của giáo sư Trần Văn Khê),
Bích Thuận, Hoàng Lan, Văn Lý (tức nhạc sĩ Nguyễn Văn Thông) những ca khúc của
Lưu Hữu Phước (« Hội nghị Diên Hồng »), Phạm Duy (« Chiến sĩ vô
danh »), Lê Thương (« Tiếng Thùy Dương », « Hòa Bình
48 »), Võ Ðức Thu (« Quyết Tiến »), Nguyễn Hữu Ba ( « Lửa Rừng
Ðêm »), Đan Trường (« Trách Người Đi ») vv…
Giai đoạn thứ nhì của lịch sử
tân nhạc khởi sự từ sau hiệp định Genève (1954) cho tới lúc mất Saigon (30
tháng 4, 1975).
4)Giai đoạn đất nước chia
đôi (1954-74)
Hiệp định Genève được ký vào
tháng 7,1954. Ðất nước Việt Nam bị chia đôi. Vĩ tuyến 17 được tạm dùng làm ranh
giới cắt đôi xứ Việt Nam. Miền Bắc với chế độ xã hội chủ nghĩa, và miền Nam với
chế độ dân chủ cộng hòa.
Nhạc mới tại miền Bắc
Với đường lối cộng sản, với
sự ảnh hưởng âm nhạc của Trung Quốc và Nga sô ngày càng sâu đậm theo tỷ số ngày
càng cao của các nhà soạn nhạc được gởi đi du học ở các nước cộng sản. Bốn chủ
đề được khuyến khích để phát triển:
1.Hồ chí Minh . Tên của Hồ Chí Minh được dùng làm nguồn hứng cho một
số sáng tác như ” Việt Bắc nhớ Bác Hồ” (Phạm Tuyên), “Hồ Chí Minh Ðẹp Nhất Tên
Người ” (Trần Kiết Tường), “Ðôi Dép Bác ” (Văn An), ” Nhớ Ơn Hồ
Chí Minh” (Tô Vũ), “Lời Ca Dâng Bác ” (Trọng Loan), “Trồng Cây Lại Nhớ Ðến
Người” (Ðỗ Nhuận), vv….
Phong cảnh và tâm hồn Việt
Namcũng gợi cho một số nhạc sĩ viết những nhạc phẩm như “Quảng Bình Quê Ta Ơi”
(Hoàng Vân), “Vàm Cỏ Ðông ” (Trương Quang Lực), “Tây Nguyên Bất Khuất”
(Văn Ký), “Bài Ca Hà Nội ” (Vũ Thành), “Trường Sơn Ðông, Trường Sơn Tây”
(Hoàng Hiệp), “Một Khúc Tâm Tình Của Người Hà Tĩnh ” (Nguyễn Văn Tý), “Những
Cô Gái Ðồng Bằng Sông Cửu Long” (Huỳnh Thơ), « Cô Gái Sài Gòn Đi Tải
Đạn » (Lư Nhất Vũ), « Tiếng Về Sài Gòn » (Huỳnh Minh Siêng),
« Sài Gòn Quật Khởi » (Hồ Bắc), « Hướng Về Hà Nội » (Hồ
Bắc), vv…
Dân tộc thiểu sốlà một đề
tài mơí cho những sáng tác như “Tiếng Ðàn Tà Lư” (Huy Thục), “Cô Gái Cầm Ðàn
Lên Ðỉnh Núi” (Văn Ký), “Bản Mèo Ðổi Mới” (Trịnh Lai), “Em Là Hoa Pơ Lang” (ÐứcMinh),
“Bóng Cây Kơ Nia” (Phan Huỳnh Ðiểu).
Giai đoạn kháng Mỹ, Giải
phóng miền Nam(1965-1975)là một động cơ thúc đẩy những nhà sáng tác âm nhạc sản
xuất những bản nhạc như “Anh Vẫn Hành Quân” (Huy Du), “Chào Anh Giải Phóng Quân”
(Hoàng Vân), “Lời Anh Vọng Mãi Ngàn Năm – Nguyễn Văn Trỗi ” (Vũ Thành), “Bài
Ca Năm Tấn” (Nguyễn Văn Tý), “Lá Thư Hậu Phương” (Phạm Tuyên), “Trai Anh Hùng,
Gái Ðảm Ðang” (Ðỗ Nhuận), “Bài Ca May Áo” (Xuân Hồng), “Hành Khúc Giải Phóng”
(Lưu Nguyễn Long Hưng tức Lưu Hữu Phước), “Giải Phóng Miền Nam” (Huỳnh Minh
Siêng , một biệt hiệu khác của Lưu Hữu Phước). Bài “Giải Phóng Miền Nam” được
dùng làm quốc ca của Mặt trận giải phóng từ năm 1960 tới năm 1975.
Sau khi “giải phóng ” miền
Nam ngày 30 tháng 4,1975, một số bản nhạc được chào đời : “Tiếng Hát Thành Phố
Mang Tên Người” (Cao Việt Bách), “Bài Ca Thống Nhứt” (Võ Văn Di), “Ðất Nước Trọn
Niềm Vui” (Hoàng Hà), “Bài Ca Xây Dựng” (Hoàng Vân), vv….. Ngoài bốn chủ đề
trên, các nhạc sĩ miền Bắc cũng có sáng tác cho những nhạc khí cổ truyền qua những
nhạc phẩm như : “Vì Miền Nam” cho độc huyền và dàn nhạc giao hưởng của Huy Thục, “Vững
Một Niềm Tin” cho đàn nguyệt của Xuân Bá, “Vũ Khúc Tây Nguyên” cho đàn độc huyền
của Ðỗ Nhuận, “Hội Mùa” cho sáo của Ðinh Thìn, “Tình Quê Hương” cho đàn nhị của
Thao Giang, “Kể Chuyện Quê Hương” cho đàn tỳ bà của Mai Phương, “Bình Minh Trên
Reo Cao” cho đàn tranh của Phương Bảo. Đa số những sáng tác cho nhạc khí cổ
truyền đều do chính tác giả trình diễn như các nhạc sĩ Đức Tùy, Ngọc Phan ,
Đinh Thình với sáo trúc, Mai Phương với đàn tỳ bà, Hồ Khắc Chí với đàn bầu, Kim
Oanh với đàn trưng, klôngput, Phương Bảo với đàn tranh, Thao Giang, Thế Dân.
Riêng về đàn bầu có khá nhiều nhạc sĩ sáng tác đóng góp như Huy Thục,
Hoàng Đạm, Hoàng Vân, Đức Nhuận, Huy Du, Đinh Long, Xuân Khải, Khắc Chí, Văn Thắng
, Xuân Tứ, Hồng Thái, Quốc Lộc được các nhạc sĩ trình diễn sau đây độc tấu :
Mạnh Thắng, Đức Nhuận, Đoàn Anh Tuấn, Nguyễn Tiến, Khắc Chí, Nguyễn Chương,
Thanh Tâm, Xuân Ba, Ngọc Hướng.
Sau khi hiệp định Giôneo (Accord de Genève) ký xong, nhiều đoàn ca múa chuyên nghiệp của các quốc gia
Liên Xô và Đông Âu tới Hà nội trình diễn với những màn hợp xướng làm cho các nhạc
sĩ Việt Nam thời đó quan tâm tới việc soạn ca khúc nhiều bè . Những sáng tác đầu
tiên vào năm 1955 như « Hò Đẵn Gỗ » (Đỗ Nhuận), « Sóng Cửa Tùng »
(Doãn Nho), « Chiến Sĩ Biên Phòng » (Huy Thục), cũng như trong năm
1956 và 1957 với « Ta Đã Lớn », « Hò Kiến Thiết »
(Nguyễn Xuân Khoát), « Tiếng Chim » (Lưu Cầu), « Tiếng Hát Người
Chiến Sĩ Biên Thùy » (Tô Hải , 1958), vv…
Từ 1960 tới 1975, song song
với lớp nhạc sĩ đi đầu như Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác, sau đó tới
Doãn Nho, Tô Hải, Lưu Cầu, Vân Đông, Hoàng Hà, Hồ Bắc, Huy Thục, La Thăng, một
số nhạc sĩ trẻ (Trọng Bằng, Cao Việt Bách, Đỗ Dũng, Hoàng Bội, Thế Bảo) chú ý tới
soạn vừa cho hát và nhạc khí xuất hiện và đẩy mạnh phong trào sáng tác hợp xướng
ở miền Bắc .
Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát thể
nghiệm vở thanh xướng kịch (một loại trường ca) đầu tiên « Vượt Sông Cái »
vào năm 1955, và Đàm Linh viết vở « Nguyễn Văn Trỗi » theo lời thơ của
Chu Điền vào năm 1965.
Ảnh hưởng nhạc cổ điển Tây
phương được thể hiện trong những bài hát dân ca, những giao hưởng khúc, những
“opera” (kịch hát) với phương pháp phối âm phối khí theo nhạc ngữ Tây phương do
các nhạc sĩ được gởi đi tu nghiệp ở các viện âm nhạc các quốc gia cộng sản.
Nguyễn Ðình Tân, Ðàm Linh, Nguyễn Văn Nam, Trọng Bằng, Ðỗ Nhuận, Văn Ký đều du
học ở Nga Sô, Hoàng Việt ở Bảo Gia Lợi, Nguyễn Văn Thương ở Ðông Ðức, Hoàng
Ðàm, Hoàng Vân ở Trung Quốc, Nguyễn Tài Tuệ ở Bắc Hàn. Những kịch hát (opera)
Việt hóa được thành hình như “A Sao” và “Người Tạc Tượng” của Ðỗ Nhuận, “Bên Bờ
Krong Pa” của Nhật Lai, “Bông Sen” của Lưu Hữu Phước và Nguyên Vũ, “Quê Hương”
của Hoàng Việt.
Một xu hướng mới được phát
hiện sau khi đất nước bị chia đôi, đó là thể loại sáng tác bài ca không lời theo
cấu trúc cổ điển Tây phương dùng cho dàn nhạc hơn là hát . Các nhạc sĩ Lưu Cầu
(« Quê Hương »), Nguyễn Văn Thương, Chu Minh (« Bài Ca Không Lời »),
Tô Vũ (« Trăng Cung Hồ »), Hồng Đăng , Văn Ký, Lê Lôi, Huy Du
(« Miền Nam Quê Hương Ta Ơi »), Ca Lê Thuần (12 préludes không tiêu đề),
Minh Khang (10 préludes), Hoàng Dương (« Giai Điệu Quê Hương »),
Hoàng Cương , Sơn Ngọc Hoàng , vv… Rồi các loại khác nhưvũ khúc chú trọng
đến các vũ điệu các sắc tộc miền núi như các tác phẩm «Vũ Khúc Tây Nguyên»
(Hoàng Đạm), «Tây Nguyên Vui Chiến Thắng» (Nguyễn Văn Thương),
«Rừng Xuân Tây Nguyên» (Vĩnh Cát), «Vũ Khúc Hơ Rê»
(Hoàng Dương), «Vũ Khúc Tây Bắc» (Trọng Bằng), vv…
Các loại khác như Scherzo («Lý Ngựa Ô» của Nguyễn Tuấn), Ru Con («Hát Ru cho
piano» của Nguyễn Đình Tấn), Sérénade ( «Chiều Quê Hương»
cho piano và violon của Nguyễn Thị Nhung), Fantaisie («Fantaisie
số 1» của Quang Hải), Rhapsodie («Bài Ca Chim Ưng»
của Đàm Linh), Sonate («Người Về Đem Tới Ngày Vui» của Trọng
Bằng), Symphonie (Giao hưởng khúc) («Quê Hương» của
Hoàng Việt) được sự hưởng ứng của nhiều nhạc sĩ .
Một loại hình khác là Ca kịch
nhỏ (operette như «Tục Lụy» của Lưu Hữu Phước), kịch hát nói
(« Căn Nhà Màu Hồng Ngọc » của Hoàng Vân) và điện ảnh Tác giả đầu
tiên của nhạc phim ảnh là Nguyễn Đình Phúc (phim «Chung Một Dòng Sông», «Lửa
Trung Tuyến») đã tạo nên một trường phái viết nhạc phim. Các nhạc sĩ
khác như Trọng Bằng (« Cù Chính Lan», «Biển Lửa »), Hồng
Đăng (« Hà Nội Mùa Chim Làm Tổ ») , Hoàng Vân ( « Con Chim Vành
Khuyên »), Đàm Linh ( « Đường Về Quê Mẹ »), Trọng Đài ( « Canh
Bạc »), Đặng Hữu Phúc (« Tướng Về Hưu ») tiếp nối và phát triển
mạnh mẽ nhạc phim ở Việt Nam .
Nhạc mới tại miền Nam
Song song với sự phát triển
nhạc tại miền Bắc, luồng sóng người Bắc di cư vào miền Nam sau hiệp định Genève
đã mang theo rất nhiều nhạc sĩ , và văn nghệ sĩ. Trong một chiều hướng tự do,
các nhạc sĩ đã cùng nhau thi đua sáng tác qua nh”ng khuynh hướng và chủ đề mà
tôi tạm chia thành bốn giai đoạn:
Nhạc tình tự dân tộc
(1954-63)
Nhạc tình cảm lãng mạn
(1963-1975)
Nhạc phản chiến xuống đường
(1966-1975)
Du ca và nhạc trẻ
(1968-1975)
1.Nhạc tình tự dân tộc
(1954-1963)
Trong giai đoạn đầu này, miền
Nam trở thành đệ nhất cộng hòa dươí thời cố tổng thống Ngô Ðình Diệm. Những bài
hát bộc lộ, thể hiện hình ảnh dân tộc, đất nước, cũng như đơì lính chiến được
dùng làm đề tài để sáng tác. “Con đường cái quan” (Phạm Duy), “Mẹ Việt Nam“, và
“Tâm Ca” của Phạm Duy là những thiên trường ca nói lên cái đẹp của quê hương.
Nhiều nhạc sĩ khác đã đóng góp rất nhiều như Lam Phương với “Khúc Ca Ngày Mùa“,
“Chiều Hành Quân“, như Lê Trọng Nguyễn với “Nắng Chiều“, như Lê Trạch Lựu với “Em
Tôi“, như Trần Văn Trạch với “Chiến Xa Việt Nam“, “Xổ Số Kiến Thiết Quốc Gia“,
“Chiếc Xe Lửa Mùng Năm“, như Nguyễn Văn Ðông với “Chiều Mưa Biên Giới“, “Mấy Dặm
Sơn Khê“, như Mạnh Bích với « Thôn Trăng », như Huỳnh Anh với “Mưa Rừng“,
như Hoàng Thi Thơ với “Gạo Trắng Trăng Thanh“, “Tìm Anh”, như Trịnh Hưng với «Lối
Về Xóm Nhỏ», «Tôi Yêu ».
Ðệ nhị cộng hòa bắt đầu
tháng 11,1963 sau khi Ngô Ðình Diệm bị giết. Tình và Lính là
hai chủ đề quan trọng nhứt. Ðời lính được nói tới nhiều qua một số nhạc phẩm: “Lính
Nghĩ Gì ?(Hoài Linh), “Tình Anh Lính Chiến ” (Lam Phương), “Lính Trận Mưa
Xa” (Bằng Giang và Anh Châu), “Anh Tiền Tuyến, Em Hậu Phương” (Minh Kỳ), “Phiên
Gác Ðêm Xuân” (Nguyễn Văn Ðông), “Trên Vùng Bốn Chiến Thuật” (Trúc Phương), “Người
Ở Lại Charlie” (Trần Thiện Thanh), “Người Yêu Của Lính” (Anh Chương ), “Em Yêu
Người Lính Chiến” (Thu Hồ), “Ngày Phép Của Lính” (Thanh Sơn), “Vì Yêu Anh Là
Lính” (Y Vân), “Tình Lính” (Y Vân), “Lính Mà Anh” (Anh Thy), “Người Lính
Chung Tình” (Khánh Băng), “Hai Người Lính Tâm Sự” (Thanh Sơn), “13 Tuổi Lính”
(Lê Dinh-Minh Kỳ), “Ngày Tròn Tuổi Lính” (Lê Dinh-Dạ Cầm). Cho tới năm 1969, một
số nhạc phẩm sau đây đã được rất đông người Việt miền Nam ưa thích và vẫn còn gợi
lại trong lòng những người lìa xa đất nước ngày hôm nay. Như những tình khúc và
các bài không tên nhứt là “Bài Không Tên Thứ Nhứt“, “Bài Không Tên Số 2” của Vũ
Thành An, “Mộng Dưới Hoa” (Phạm Ðình Chương-Ðinh Hùng), “Nửa Hồn Thương Ðau”
(Phạm Ðình Chương-Cung Tiến-Thanh Tâm Tuyền), “Sang Ngang” (Ðỗ Lễ), “Giọt Mưa
Trên Lá “(Phạm Duy), “Kỷ Vật Cho Em” (Phạm Duy) , “Nghìn Trùng Xa Cách”
(Phạm Duy), “Nửa Ðêm Ngoài Phố” (Trúc Phương), “Lệ Ðá” (Hà Huyền Chi- Trần Trịnh),
“Thôi ” (Y Vân), “Căn Nhà Ngoại Ô” (Anh Bằng – T.H.), “Thương Quá Việt
Nam” (Phạm Thế Mỹ), “Nỗi Lòng ” (Nguyễn Văn Khánh), “Kiếp Nghèo” (Lam
Phương), “Khi Ðã Yêu” (Phượng Linh), “Tình Yêu Ðã Mất ” (Phạm Mạnh Cương),
“100 phần 100” (Ngọc Sơn -Tuấn Hải), vv…. Khi bước sang 1970 cho tới khi Saigon
bị thất thủ vào ngày 30 tháng 4, 1975, nhạc sĩ trẻ đã gây một tiếng vang lớn
trong làng tân nhạc Việt Nam. Trần Thiện Thanh (cũng là ca sĩ Nhật Trường, sang
định cư tại Hoa kỳ , 1993) là nhạc sĩ tiêu biểu cho giai đoạn tân nhạc thời này
(1970-75). Những nhạc khúc của anh như “Mùa Ðông Của Anh“, “Người Yêu Tôi Khóc“,
“Anh Không Chết Ðâu Em“, “Người Ở Lại Charlie“, tả lại nỗi đau khổ của người
lính , người tình ở tiền tuyến cũng như nỗi lo lắng của người sống hay chết sau
chiến tranh. Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận những ca khúc khác cũng
đánh dấu vai trò của nó trong giai đoạn này. Phạm Duy với “Mùa Thu Chết“, “Em
Hiền Như Ma Soeur” , Nguyễn Ánh 9 với “Không“, « Buồn Ơi, Chào Mi »,
Châu Kỳ với “Tôi Viết Nhạc Buồn“, Vũ Chương-Dạ Cầm với “Lần Ðầu Cũng Là Lần Cuối“,
Lê Dinh với “Nếu Mai Này“, Lê Mộng Bảo với “Ve Sầu“, Vũ Thành An với “Ðừng Yêu
Tôi“, Khánh Băng vơí “Nếu Một Ngày“, Mai Bích Dung với “Cho Người Tình Nhớ” ,
Hoàng Thi Thơ với “Một Lần Cuối“, Tùng Giang và Nam Lộc với “Anh Ðã Quên Mùa
Thu“, Ngân Giang với “Vỗ Ta Mừng Rạng Ðông“, vv…. Cũng trong giai đoạn này (1963-1975)
Phạm Duy là nhạc sĩ sáng tác nhiều nhạc phẩm nhất ở Việt Nam, và đa số các bản
nhạc đều được ưa thích. Phạm Duy đã sáng tác trên 700 bài và nhiều tập nhạc về
một chủ đề như “Bé Ca“, “Tục Ca”, “Tâm Phẫn Ca”, “Ðạo Ca”, “Bình Ca”. Hoàng
Thi Thơ là một trong một số ít nhạc sĩ đã thành công ở nhiều lĩnh vực khác
nhau. Nhạc mang nhiều dân tộc tính như “Gạo Trắng Trăng Thanh“, “Rước Tình Về Với
Quê Hương“, nhạc quê hương như “Trơì Quê Hương Ta Xanh“, “Mặt Trời Lại Sáng Quê
Hương“, nhạc hùng mạnh như “Những Người Không Biết Quay Lùi“, “Quân Thù Nào“,
nhạc tình cảm như “Ðường Xưa Lối Cũ “, “Tà Áo Cưới“, “Chuyện Tình Người
Trinh Nữ Tên Thi“. Hoàng Thi Thơ còn soạn một số nhạc cảnh như “Xe Phở Việt Nam“,
“Lão Hành Khất Mù Ðộc Ðáo“, hay những trường ca như “Trường Ca Một Ngày Trọng Ðại“,
“Trường Ca Màu Hồng Sử Xanh“, cũng như viết nhạc cho một số vũ điệu dân tộc ít
người như múa xòe , múa sập, múa kơ ho, và những kịch hát như “Ả Ðào Say“, “Cô
Gái Ðiên“. Lam Phương là nhạc sĩ miền Nam đã sáng tác mấy trăm nhạc phẩm và một
số đã đi sâu vào lòng dân miền Nam vì giai điệu phản ảnh dân nhạc. Có thể kể
như “Khúc Ca Ngày Mùa”, “Chuyến Ðò Vĩ Tuyến”, “Chiều Hành Quân”, “Kiếp Nghèo”,
“Ðoàn Người Lữ Thứ” “Tình Anh Lính Chiến”, “Nhạc Rừng Khuya”, “Trăng Thanh
Bình”, “Ngày Tạm Biệt”, vv… Trần Văn Trạch, một thiên tài của Việt Nam, giữ một
ngôi vị độc tôn về nhạc hài hước trong lịch sử tân nhạc Việt Nam và đã đóng góp
một số nhạc phẩm như “Tai Nạn TêLêPhôn”, “Cái Ðồng Hồ”, “Chiếc Xe Lửa Mùng
Năm”. Bài “Xổ Số Kiến Thiết Quốc Gia” của Trần Văn Trạch đã được sáng tác vào
năm 1955 và đã nổi tiếng khắp miền Nam Việt Nam trong vòng 20 năm (tới năm
1975), một bài hát mà hầu như mọi người Việt Nam miền Nam đều đã được nghe vì
là bài hát được trình bày mỗi tuần trước khi xổ số tại Saigon. Nhạc châm biếm
xã hội đã được thể hiện qua ban tam ca AVT với những bản nhạc chịu nhiều ảnh hưởng
của Chèo như “Trấn Thủ Lưu Ðồn”, “Bán Nước”, “Ba Bà Ði Bán Lợn Xề”, vv….
Hiện tượng Trịnh Công Sơn
tiêu biểu cho phong trào nhạc phản chiến tại miền Nam. Bắt đầu vào khoảng năm
1966, những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn với một nhạc ngữ mới lạ dựa vào dân ca
Mỹ, Ái nhĩ lan, hay loại nhạc thể (modal music) của thời Trung Cổ bên Âu châu,
đã chinh phục thế hệ trẻ qua giọng hát của Khánh Ly. Trịnh Công Sơn đã đánh
trúng tâm lý của giới trẻ, một giới trẻ ngao ngán cuộc chiến, chỉ khao khát hòa
bình. Năm 1968, Trịnh Công Sơn đã tung ra tập nhạc “Kinh Việt Nam” sau Tết Mậu
Thân và đã kêu gào mọi người nên dừng tay giết nhau.
“Dân ta tàn phế 20 năm. Nước
mắt và máu đã làm thành nh”ng con suối lớn chảy mòn tiềm lực sáng tạo. Ðã mươì
năm nay, anh em ta săn đuổi nhau bằng hận thù giả tạo. Xin hãy dừng tay để mọi
căn nhà Việt Nam co’ thể mở rộng chờ đón một sớm mai hòa bình “ .
“Cánh Ðồng Hòa Bình”, “Ðồng
Dao Hòa Bình”, “Nối Vòng Tay Lớn” của Trịnh Công Sơn đã được vang dậy
trong các buổi hát phản chiến. Tập nhạc “Ta Phải Thấy Mặt Trời ” (1969) Trịnh
Công Sơn gieo tiếp những hạt giống chống chiến tranh tại miền Nam một cách mãnh
liệt. Sự thành công của “Những Tình Khúc” (1967) của Trịnh Công Sơn với các bản
“Nhìn Những Mũa Thu Ði”, “Mưa Hồng”, “Diễm Xưa”, “Nắng Thủy Tinh”, “Còn Tuổi
Nào Cho Em”, “Tôi Ru Em Ngủ”, “Tình Sầu”, “Tình Xa”, “Ru Em”, “Ru Ta Ngậm
Ngùi”, “Biển Nhớ”, “Hạ Trắng “, “Cát Bụi”, “Như Cánh Vạc Bay” đã tạo một chỗ đứng
vững vàng trong làng tân nhạc Việt Nam. Từ đó mới nẩy sinh những bài hát kêu gọi
hòa bình trong “Hãy Nói Giùm Tôi” trong “Ca Khúc Da Vàng“. Trịnh Công Sơn là nhạc
sĩ nổi nhất trong vòng 10 năm chót của đệ nhị Cộng Hòa Việt Nam (1966-1975) với
hàng trăm bản nhạc nói lên tình yêu, đau khổ bởi chiến tranh, kêu gọi hòa bình.
Những chủ đề đó đã được thể hiện qua các tập “Ca Khúc Thần Thoại Quê Hương” ,
“Ca Khúc Da Vàng”.
Song song với nhạc phẩm phản
chiến của Trịnh Công Sơn, vào lúc sau Tết Mậu Thân 1968, mầm móng chóng đối
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ở Saigon bắt đầu nẩy nở ở tại các trường đại học
văn khoa Saigon với Miên Ðức Thắng (tên thật là Nguyễn Văn Thắng), tác giả của
những nhạc phẩm “Hát Từ Ðồng Hoang“, “Lớn Mãi Không Ngừng“. Phong trào học sinh
và sinh viên xuống đường dưới sự lèo lái của Huỳnh Tấn Mẫm, chủ tịch Tổng Hội
Sinh Viên Saigon lúc đó đã tạo thành một luồng gió mới đối với nền tân nhạc Việt.
“Hát Cho Ðồng Bào Ta Nghe” ra đời giữa ngọn lửa đấu tranh của các thành thị miền
Nam. “Hát Cùng Ðồng Bào Ta” , tập nhạc xuống đường thứ hai xuất bản vào năm
1971 đã đưa tiếng hát từ những công trường, bến tàu, những phường xóm lao động
đến các học đường. Những bài hát xuống đường được giới sinh viên học sinh hát
nhiều nhất lúc đó là “Sức Mạnh Nhân Dân »(Trương Quốc Khánh), “Tình Nghĩa
Bắc Nam” (Nguyễn Văn Sanh), “Ðường Ta Ði Niềm Tin Lớn Mạnh” (Nguyễn Văn Sanh),
“Phương Ðông Ðã Dậy Nắng Hồng” (Nguyễn La Nghi), “Qui Nhơn Ngời Ngời Biển Lửa” (thơ
Trần Nhật Nam, nhạc Ðoàn Ðình Quang), “Hát Trên Ðường Ðường Tranh Ðấu” (Ðoàn
Công Nhân), “Người Cha Bến Tàu” (ý thơ Võ Thiệu Quang, nhạc Trần Long Ẩn), “Không
Ai Ngăn Nỗi Lời Ca” (La Hữu Vang), “Dậy Mà Ði” (Nguyễn Xuân Tấn). Tôn Thất Lập
đã đóng góp nhiêù bản nhạc đi liền với phong trào sinh viên xuống đường như “Những
Ngày Ðại Hội Ðấu Tranh“, viết trong đại hội kỳ 2 tại đại học Vạn Hạnh, “Lúa Reo
Trên Khắp Ðồng Bằng“, “Từ Sông Hương đến Sông Hát“, “Chúng Ta Ðã Ðứng Dậy“,
vv….. Phạm Thế Mỹ, một nhạc sĩ của đại học Vạn Hạnh đã viết “Hoa Vẫn Nở Trên Ðường
Quê Hương “, “Những Người Không Chết “, “Thương Quá Việt Nam”, “Bông Hồng
Cài Áo” (qua y’ thơ của Thích Nhật Hạnh).
Du ca và phong trào nhạc trẻ
(1968-1975)
Phong trào du ca Việt Nam được
thành lập năm 1966 tại Saigon cùng một lúc với phong trào làm công tác xã hội của
thanh niên , sinh viên và học sinh; hai sáng lập viên của phong trào là các anh
Nguyễn Quyết Thắng và Ðinh Gia Lập. Phong trào được bộ Quốc Gia giáo dục và
thanh niên Việt Nam Cộng Hòa công nhận chính thức và cấp giấy phép hoạt động
trên toàn quốc kể từ ngày 24 tháng giêng năm 1969.
Du ca là một đoàn thể hoạt động
về văn nghệ phục vụ cộng đồng. Văn nghệ cộng đồng là hình thức văn nghệ trong
đó cả người nghe lẫn người hát đều cộng tác với nhau, mục đích tác động tinh thần
và cảm hóa ngươì nghe hơn là ru ngủ, để tất cả cùng ý thức và phục vụ cho cộng
đồng, xứ sở . Người hát du ca trao đổi những khả năng chuyên môn qua sinh hoạt
tập thể. Du ca viên gây tinh thần cộng đồng trong phạm vi khả năng của mình.
Người du ca noí với mọi người bằng những lời tai nghe mắt thấy qua âm thanh tiếng
nhạc, hoạt cảnh , hay vũ khúc, vv.. Những lọai nhạc du ca gồm có: thanh niên
ca, thiếu niên ca, sinh hoạt ca, dân ca, sử ca, nhận thức ca, và những bài ca
tình người. Phong trào du ca do anh Hoàng Ngọc Tuệ làm chủ tịch đến năm 1967
thì anh Ðỗ Ngọc Yến lên thay thế. Các huynh trưởng hướng dẫn cũng như cố vấn
như Nguyễn Ðức Quang, Trầm Tử Thiêng, Phạm Duy, Lê Ðình Ðiểu, Ngô Mạnh Thu, Hà
Tường Cát, Trần Văn Ngô, Trần Ðại Lộc, Nguyễn Thanh, Nguyễn Khả Lộc, Phan Huy Ðạt,
Tống Hoằng và Phương Oanh. Phong trào cũng quy tụ khá nhiều nhạc sĩ tên tuổi
cũng như huấn luyện viên và các cây viết trẻ gồm có: Nguyễn Ðức Quang, Ngô Mạnh
Thu, Trầm Tử Thiêng, Phạm Duy, Nguyễn Thanh, Anh Việt Thu, Giang Châu, Nguyễn Hữu
Nghĩa, Phan Ni Tấn, và Nguyễn Quyết Thắng. Những tuyển tập nhạc du ca đã phát
hành như: tuyển tập du ca 1, du ca 2, du ca 3, “Những Bài Ca Khai Phá”, “Ta Ði
Trên Dòng Lịch Sử” , “Những Ðiều Trông Thấy”, “Sinh Hoạt Ca”, “Những Khuôn Mặt
Du Ca”, “Hát Cho Những Người Sống Sót”.
Phong trào du ca Việt Nam
trước 1975 có tác dụng mạnh đối với các giới trẻ qua các toán ca diễn đó đây,
trong học đường, ngoài sân cỏ, trên sân khấu, trong các đoàn thể bạn, hướng đạo,
hay thanh sinh công (thanh niên, sinh viên, công nhân). Những ca khúc sinh hoạt
của du ca là thức ăn nuôi dưỡng các đoàn thể để sinh hoạt. Du ca ra đời đúng
lúc mọi người đang đòi hỏi một nền văn nghệ sống động, thức tỉnh và mới lạ, và
cũng bởi niềm tỉnh thức đó, đâu đâu ta cũng nghe nh”ng bài hát quen thuộc. Thí
dụ như bài “Việt Nam , Việt Nam ” (Phạm Duy), “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ ”
(Nguyễn Ðức Quang), “Hát Từ Tim, Hát Bằng Hơi Thở” (Nguyễn Quyết Thắng), “Anh Sẽ
Về” (Nguyễn Hữu Nghĩa, thơ Kinh Kha), “Xin Chọn Nơi Này Làm Quê Hương”
(Nguyễn Ðức Quang), vv….
Phạm Duy cũng có đóng góp
trong phong trào du ca với một số bài bản như “Sức Mấy Mà Buồn”, “Thôi Bỏ Ði
Tám”. Tất cả những ca khúc trong phong trào du ca đều có mục đích kêu gọi thanh
niên hãy tự hào, tin tưởng và hy vọng nơi tương lai. Dù khó khăn, dù gian nan,
dù sao đi n”a, người dân Việt Nam nên chấp nhận Việt Nam là quê hương ngàn đời.
Niềm hy vọng nhỏ nhoi chỉ lóe lên và chưa được bừng sáng thì 30tháng 4, 1975 đã
đưa hàng trăm nghìn người ra đi trên đường di tản.
Nhạc trẻ là một hiện tượng
âm nhạc xuất hiện tiên khởi vào đầu thập niên 60. Nhạc kích động Âu Mỹ bắt đầu
xâm nhập thị trường miền Nam vào cuối năm 1959. Giới trẻ, con của các thương
gia và giới trưởng giả theo học chương trình Pháp thường nghe các loại nhạc
kích động của Mỹ và Pháp. Phải đợi tới khoảng 1963-65, phong trào nghe nhạc
kích động tây phương bành trướng mạnh qua các buổi tổ chức khiêu vũ tại gia.
Các danh ca của Mỹ như Paul Anka, Elvis Presley, The Platters, của Anh quốc nhu
Cliff Richard, The Shadows, The Beatles, The Rolling Stones, của Pháp như
Johnny Halliday, Sylvie Vartan, Françoise Hardy, Christophe, Dalida, vv…. là thần
tượng của giới thanh niên nam nữ dưới 18 tuổi.
Những ban nhạc trẻ kích động
mang những trên như C.B.C., The Dreamers, The Uptight, The Blue Jets, The
Spotlights (sau đổi thành Strawberry Four với Tùng Giang, Ðức Huy, Tuấn Ngọc và
Billy Shane – cả 4 người này hiện nay ở Mỹ và Billy Shane đã qua đời năm 1998).
Một số ca sĩ Việt thích kèm theo tên ngoại quốc bên cạnh tên Việt như Elvis
Phương (hiện ở Hoa Kỳ), Pauline Ngọc (không còn hát n”a và hiện sống bên Ðức),
Prosper Thắng (sống ở Pháp và từ trần năm 1998), Julie Quang (hiện sống ở Mỹ),
Carol Kim ( sống ở Mỹ),vv.. Họ nổi danh với các bản nhạc ngoại quốc hát bằng lời
Pháp và Anh. Những hộp đêm Mỹ ngày càng nhiều từ 1968 trở đi càng khuyến khích
số người hát nhạc Mỹ nhiều hơn nữa. Trước sự bành trướng mạnh mẽ của nhạc ngoại
quốc nổi tiếng, Phạm Duy, Quốc Dũng, Nam Lộc, Tùng Giang, Trường Hải, vv… chuyển
sang đặt lời Việt cho nhạc ngoại quốc.
Phải đợi tới năm 1971 mơí thấy
xuất hiện đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại sân Hoa Lư do Trường Kỳ
(hiện ở Montreal, Canada), Tùng Giang (ở California, Hoa Kỳ), và Nam Lộc ( làm
việc cho một cơ quan thiện nguyện USCC ở Los Angeles, Cali) đảm trách. Sự thành
công của đại hội nhạc trẻ đầu tiên ở Saigon đã đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ qua
những năm kế tiếp (1971 tại trường trung học Taberd với hơn 10.000 người nghe,
và 1974 , năm chót trước khi mất Saigon tại vườn sở thú với trên 20.000 khán giả).
Những bản nhạc ngoại quốc
như “The House of the Rising Sun”, “Reviens la Nuit”, “Tous les Garçons et les
Filles”, “Capri, c’est fini”, “Bang Bang” , “Besame Mucho”, “Only You”, “My
Prayer”, “Be Bop Be Lu La”, “Love Story”, “Yesterday”, “Michelle”, etc… là những
bài vẫn còn được “ăn khách” trong cộng đồng người Viẹt ở hải ngoại hiện nay. Loại
nhạc trẻ không đóng góp gì vào gia tài của nền tân nhạc Việt Nam hay chỉ là loại
nhạc bắt chước theo người Tây phương, không có gì là sáng tạo cả. Ðó là loại nhạc
cuồng loạn, ru hồn thế hệ trẻ trong khung cảnh chiến tranh để cho họ tạm quên cảnh
tương tàn của đất nước qua những bước nhảy tango, twist, be-bop, valse,
pasodoble, rumba, cha cha cha, vv.. Một giai đoạn bị Mỹ hóa giữa thơì kỳ náo loạn.
Giai đoạn thứ ba của lịch sử
tân nhạc Việt Nam kể từ khi hàng triệu người Việt bỏ xứ ra đi trên đường tạm
dung sau ngày 30 tháng 4,1975 cho tới đầu thiên niên kỷ thứ ba
5.Nhạc di tản từ 30 tháng 4,
1975 .
30 năm lặng lẽ trôi qua.30 năm
đầy biến chuyển trong lịch sử thế giới nói chung và trong lịch sử Việt Nam nói
riêng. Chỉ riêng về ngành âm nhạc Việt Nam, nhất là ở hải ngoại, số lượng bài bản
tân nhạc , những ca khúc đã thay đổi nhiều đề tài, đã tăng số lượng theo một mức
độ ngoài sức tưởng tượng của loài người. Những năm đầu của thời di tản cho thấy
những băng nhựa đủ loại, từ các cuốn băng sao lại băng cũ thời trước 75, đến
các băng được sản xuất tại Âu Mỹ do hàng chục trung tâm băng nhạc. Ðến năm 1988
mở màn cho giai đoạn dĩa laser loại compact disc. Chỉ trong vòng 5 năm
(1988-1993) hàng nghìn dĩa laser tràn lan khắp nơi. Loại dĩa laser video phát
triển từ 1992 lúc phong trào hát Karaoke khởi xướng mạnh tại Hoa Kỳ và Canada.
Nhiều quán cà phê và quán phở, tiệm ăn ở Bắc Mỹ phải trang bị máy karaoke và
luôn cả tư nhân cũng thích hát Karaoke vào cuối tuần trong những cuộc họp bạn tại
gia. Gần đây hơn, các loại dĩa CDV, và DVD thay thế loại laserdisc làm bành trướng
mạnh phong trào Karaoke tại tư gia. Video về tân nhạc cũng rất thịnh hành. Hàng
mấy chục trung tâm băng nhạc xuất hiện tại Âu Mỹ và các ca sĩ tự lập các trung
tâm sản xuất riêng. Trong phạm vi nhạc di tản, tôi chỉ đề cập tới tân nhạc Việt
Nam ở hải ngoại. Tân nhạc Việt Nam ở hải ngoại (1975-2005) Giai đoạn di tản qua
25 năm cho thấy sức mạnh vô cùng mãnh liệt của ngươì Việt trong lĩnh vực sáng
tác. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người làm văn nghệ lúc nào cũng hăng
say tìm nguồn hứng qua những sáng tác âm nhạc. Một số nhạc sĩ ra đi trong đợt
di tản đầu tiên gồm có Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Nam Lộc, Song Ngọc,
Tô Huyền Vân, Huỳnh Anh. Năm giai đoạn thể hiện lịch sử tiến triển của tân nhạc
hải ngoại:
Ðất nước vừa bị mất, quê
hương phải lìa xa. Saigon vừa bị đổi tên. Niềm thất vọng tràn trề dâng cao
trong lòng tất cả người dân Việt phải bỏ xứ ra đi trong uất hận, căm tức, tủi
nhục. Toán người di tản ra đi đầu tiên đã đến Mỹ vào gi”a mùa xuân năm 1975. Phải
đợi tới cuối thu 1975, một số nhạc sĩ có tên tuổi ở Saigon đã ra đi trong đợt đầu
và trong số đó có Nam Lộc. Nam Lộc là người đã viết một bản nhạc vào cuối năm
1975 và là bài thành công nhứt trong giai đoạn đầu của di tản (1975-1980). Ðó
là bài “Saigon Ơi ! Vĩnh Biệt “. Saigon , thành phố của bao kỷ niệm,
của nhớ nhung, của hàng triệu con tim bi. rung động mỗi khi hai chữ Saigon được
nhắc đến, là đề tài cho một số nhạc phẩm như “Saigon Ơi! Vĩnh Biệt !” (Nam Lộc
, 1975), “Saigon Ơi ! Thôi Ðã Hết” (Nam Lộc , 1976), “Saigon, Bây giờ
Buồn Không Em ?” (Song Ngọc, 1976), “Ðêm Qua Mơ Thấy Saigon” (Hoàng Thi Thơ,
1976), “Saigon Niềm Nhớ Không Tên” (Nguyễn Ðình Toàn, 1977), “Khi Xa Saigon” (Lê
Uyên Phương, 1980), “Bài Cuối Cho Saigon” (Song Ngọc, 1981), “Saigon Áo Xanh
Nón Lá ” (Anh Bằng – Vũ Kiện, 1981), “Trả lại Saigon Cho Tôi” , “Saigon Ra
Ðường” (thơ Duyên Anh, nhạc Vũ Trung Hiền, 1982), “Saigon Năm Xưa “(Trần
Quang Hải, 1985).
Ngày 9 tháng 5, 1976 tại Los
Angeles, California, lễ kỷ niệm một năm xa xứ đã được một số nghệ sĩ Việt tổ chức
một chương trình đại nhạc hội đầu tiên giống như ở Saigon cùng lúc với sự chào
đời cuốn băng thực hiện lần đầu tại hải ngoại do n” ca sĩ Thanh Thúy hát với tựa
cuốn băng Thanh Thúy 1: Saigon ơi! Vĩnh biệt đánh dấu một biến chuyển
mấu chốt trong lĩnh vực tân nhạc di tản và sản xuất băng nhạc tại hải ngoại.
Ở Âu châu tại Paris, phải đợi
tới tháng 9,1976 mới thấy sự bùng nổ của chương trình nhạc hội qua sự cố gắng của
Lê Lai (đài VOA) từ Hoa Thịnh Ðốn sang Paris để tổ chức 4 buổi trình diễn tân
nhạc, dân ca và ngâm thơ với Khánh Ly, Hoàng Oanh và sự cộng tác của nhạc sĩ Trần
Quang Hải . Sự thành công của chương trình thi ca nhạc di tản đầu tiên đã khơi
mào cho chương trình thi ca vũ nhạc kịch của đoàn Hoàng Thi Thơ từ Mỹ sang Pháp
và Thụy Sĩ trình diễn vào cuối tháng 10, 1976.
Các trung tâm băng nhạc lần
lần xuất hiện ở Mỹ và Pháp. Từ 1988 bắt đầu chuyển mình sang phong trào làm dĩa
laser. Cả chục nghìn dĩa CD đã được tung ra trên thị trường băng nhạc Việt Nam
từ 1987. Nhạc sĩ Phạm Duy là người đầu tiên đưa nhạc Việt vào dĩa CD do Phạm
Duy Cường soạn hòa âm và sản xuất với tựa đề “Nhạc Tình Phạm Duy” vào cuối
năm 1987. Vào đầu tháng 2, 1988, tại Paris, nhà sản xuất dĩa hát Pháp
Playasound đã tung ra thị trường quốc tế dĩa laser đầu tiên về nhạc cổ truyền
Việt Nam với Trần Quang Hải và Bạch Yến qua dĩa “Rêves et Réalités/Trần
Quang Hải et Bạch Yến” (Giấc Mơ và Sự Thật).
Băng vidéo trở thành một món
ăn tinh thần cần thiết cho cộng đồng người Việt hải ngoại. Trung tâm Thúy Nga
trở nên một nơi phát hành các chương trình ca nhạc hay nhất từ 1989 trở đi với
sự tuyển chọn ca sĩ, phối hợp vơí kỹ thuật thu hình do một cơ quan chuyên nghiệp
Pháp đảm nhận. Phong trào Karaoke lan tràn vào giới nhạc Việt từ 1990.
Nhạc tranh đấu và kháng chiến
Sau ba năm im hơi
1975-1978), sống ẩn dật tại Miami (Florida) bên Mỹ trong khi chờ đợi các con
(ban nhạc The Dreamers) còn kẹt lại ở Saigon (sau đó toàn ban nhạc The Dreamers
đã được sang Mỹ và hiện định cư tại Midway City, California), trong khi ca sĩ
Duy Quang đã nhờ Julie Quang (bây giờ chỉ mang tên Julie thôi sau khi chia tay
với Duy Quang) để sang Pháp vào cuối năm 1978, Phạm Duy, người sáng tác nhạc
nhiều nhất ở Việt Nam, lại xuất hiện lộ diện qua quyển nhạc “Hát Trên Ðường Tạm
Dung” (1978). Bản “Tôi Ði Trên Ðường Tạm Dung” và bản “Nguyên Vẹn Hình Hài” của
Phạm Duy đã là ngọn đuốc đốt cháy tạo nguồn hứng sáng tác cho một số nhạc sĩ trẻ
để tung ra những nhạc phẩm tả nỗi uất ức oán hờn căm thù đi liền với phong trào
phục quốc kháng chiến cùng lúc với sự xuất hiện của Võ Ðại Tôn và Hoàng Cơ
Minh. Nguyệt Ánh , một hiện tượng mới trong làng tân nhạc từ 1980 bắt đầu sáng
tác nhiều nhạc phẩm phục quốc qua những cuốn băng như “Em nhớ màu cờ”, “Dưới Cờ
Phục Quốc”, vv… Tên Nguyệt Ánh đi liền với giai đoạn phục quốc, kháng chiến.
Việt Dzũng, một nhạc sĩ trẻ,
hăng say kháng chiến, nói lên tiếng nói căm hờn qua các bản nhạc đầy ý chí
trong hai cuốn băng “Lưu Vong Khúc” và “Kinh Tỵ Nạn” (1981). Trần Quang Hải và
Bạch Yến đã sáng tác một số nhạc phẩm đấu tranh , điển hình nhất là “Thương Nhớ
Quê Hương” (1978), “Cầu Mong Cho Mau Hòa Bình” (1978), và “Em Về Giữ Lửa” ( phổ
thơ của Minh Ðức Hoài Trinh, 1978) Chí nguyện đoàn hải ngoại phục quốc Việt
Nam, với mục đích yểm trợ “chiến dịch người về” đã xuất bản hai cuốn băng “Hát
Cho Những Người Về ” (1981), và “Rực Lửa Trời Ðông” (1983) gồm những
ca khúc nung nấu tinh thần kháng chiến ở hải ngoại và quốc nội. Nhiều chủ đề được
tung ra qua một số băng nhạc sản xuất từ 1976-80 như “Tháng Tư Buồn”, “Sài Gòn
Vĩnh Biệt Tình Ta”, “Ngày Quốc Hận 30 tháng 4, 75″, “Người Di Tản Buồn”, “Hát
Cho Người Tìm Tự Do”, “Quê Hương Bỏ Lại”, vv…
Nhạc tả lại cảnh lao tù Việt
Nam
Năm 1981, Phạm Duy sáng tác
20 bài lấy tựa là “Ngục Ca” qua lời thơ của ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện trong tập
thơ “Tiếng Vọng Từ Ðáy Vực” . Hà Thúc Sinh sáng tác trong thời gian học tập cải
tạo ở Việt Nam . Sau khi vượt biển , được định cư tại Mỹ, đã xuất bản tập nhạc
“Tiếng Hát Tủi Nhục” (1982). Châu Ðình An, một nhạc sĩ trẻ , đã đóng góp qua tập
nhạc “Những Lời Ca Thép ” (1982). Phạm Duy, Lê Uyên Phương, Nguyệt Ánh, Việt
Dzũng, Nguyễn Ðức Quang ở Mỹ, Nguyễn Hữu Nghĩa, Phan Ni Tấn, Vy Hùng ở Canada,
Trần Quang Hải, Duyên Anh, Ngô Càn Chiếu ở Pháp, Nguyễn Quyết Thắng ở Hòa Lan,
Nguyễn Ðình Ngoạn ở Ðức, Phạm Quang Ngọc, Cung Ðàn Nguyễn Sỹ Nam, Hoàng Ngọc Tuấn
ở Úc châu đã viết nhiều bài ca tranh đấu cũng như những ca khúc phù hợp với
phong trào phục quốc.
Sự phục sinh của nhạc tiền
chiến
Từ năm 1982 trở đi, hiện tượng
phục sinh nhạc tiền chiến được phát triển rộng rãi. Những ca sĩ đua nhau sản xuất
băng nhạc hát lại những bài hát tiền chiến hay những bài trước 1975. Bạch Yến,
Khánh Ly, Lệ Thu, Thanh Thúy, Kim Anh, Minh Hiếu, Thanh Tuyền, Hương Lan,
Julie, Huyền Châu, Bích Thuận, Phương Dung, Kim Loan, Duy Quang, Elvis Phương,
Thanh Mai, vv…. trong những năm 1983-85 đã phát hành trên 100 cuốn băng nhạc
làm sống lại những bài ca tiền chiến như để gợi lại biết bao kỷ niệm của thời
quá khứ. Chủ đề phục quốc, kháng chiến nhường bước cho chủ đề tình yêu và kỷ niệm
quê hương sau 10 năm lưu vong. Một số nhạc sĩ như Lam Phương, Ðức Huy, Phan
Kiên, Duy Quang, Ngô Minh Khánh, Trần Quang Hải, Duyên Anh trong khoảng thời
gian 1982-85 đã sáng tác rất nhiêù nhạc phẩm ca ngợi tình yêu đôi lứa. “Yêu
Em Dài Lâu” (Ðức Huy), “Ru Ðơì Phù Ảo” (Duyên Anh, 1984), “Anh Cần Em” (Trần
Quang Hải -Lương Ngọc Châu, 1982). Giai đoạn này đánh dấu một chiều hướng mới
trong làng nhạc Việt với sự viết lời ngoại quốc (Pháp và Anh) trên nhạc Việt do
nhạc sĩ Trần Quang Hải đề xướng và mang nhạc Việt do nhạc sĩ Việt sáng tác vào
thị trường quốc tế.
Phong trào phổ thơ được bành
trướng, cũng như sự tái sinh phong trào du ca vơí Nguyễn Ðức Quang, Nguyễn Hữu
Nghĩa và Phan Ni Tấn. Nguyễn Quyết Thắng ở Hòa Lan đã đẩy mạnh phong trào du ca
với sự thực hiện một trang nhà Du Ca với đầy đủ hình ảnh các sáng lập viên, bài
hát và sinh hoạt ở hải ngoại .(http://home.wanadoo.nl/duca )
Phong trào Hưng Ca gồm các
nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa, Hà Thúc Sinh, Nguyệt Ánh, Việt Dzũng, Châu Đình An,
Huỳnh Công Ánh, Trần Lãng Minh, Phan Ni Tấn, Khúc Lan, được chánh thức ra đời tại
San Jose vào ngày 7 tháng 9, năm 1985 với tôn chỉ là dùng văn nghệ sân khấu và
thanh niên để giữ vững niềm tin cách mạng dân tộc chống chủ nghĩa và bạo quyền
cộng sản. Hai tập nhạc được phát hành: “Hưng Ca 1: Lên Ðường “(1985),
và “Hưng Ca 2: Hẹn Em Sài Gòn” (1986).
Vấn đề thích nhạc ngoại quốc
đã có từ thập niên 60 tại Việt Nam. Ba mươi năm trôi qua ở hải ngoại, giờ đây
phong trào thích nhạc ngoại quốc (giống loại nhạc trẻ thời thập niên 70 ở
Saigon) lại bành trướng mạnh và được giới trẻ lớn lên ở hải ngoại hưởng ứng nồng
nhiệt. Từ chỗ ưa thích nhạc ngoại quốc đã tạo ra phong trào xuất bản nhạc khiêu
vũ và sự phát hiện nhiều vũ trường ở các nơi có đông người Việt sinh sống. Một
số mầm non ca sĩ trẻ như Linda Trang Ðài, Cinda Thúy, Sơn Tuyền, Thúy Vi, Thái
Hiền, Phương Thúy, Lucia Kim Chi, Tryzzie Phương Trinh, Tuệ Châu, Tuấn Anh ở Mỹ,
Ngọc Huệ (sang định cư ở Mỹ từ năm 1991), Bảo Khánh, Quỳnh Lân ở Úc châu cùng với
Công Thành và Lynn (sang định cư ở Hoa kỳ từ năm 1987). Về sau có Don Hồ (nổi
tiếng nhứt trong năm 1992), Dalena (nữ ca sĩ Mỹ chuyên hát tiếng Việt, nổi tiếng
nhứt trong hai năm 1991 và 1992),Trịnh Nam Sơn, Thái Tài, Ý Nhi, Ý Lan, Sher’e
Thu Thủy, Phi Khanh, Như Mai, Kenny, Mỹ Huyền, Ngọc Bích, Thanh Hà, Quỳnh Như,
Mạnh Ðình, Phi Nhung, Thanh Trúc, vv… mang lại cho nền nhạc trẻ một luồng gió mới
và tạo nhiều sống động.
Từ chỗ ưa thích nhạc ngoại
quốc đi tới nhạc song ngữ rất gần. Một số nhạc sĩ Việt như Phạm Duy, gần đây
hơn có Khúc Lan, Ngọc Huệ, tất cả đều ở Mỹ và dịch lời ca Mỹ và Pháp ra bằng tiếng
Việt và các ca sĩ trẻ hát nửa Việt nửa Anh hay Pháp và tạo thành một phong trào
nhạc song ngữ từ năm 1987 trở đi. Trong thơì gian 10 năm chót của thế kỷ 20, Phạm
Duy đã phổ nhạc thơ Hoàng Cầm, phát hành quyển “Ngàn Lời Ca” (1987). Năm
1991, Phạm Duy thực hiện một loạt ca khúc “Bầy Chim Lìa Xứ“, và phần giao hưởng
cho “Con Ðường Cái Quan“. Sau cùng ông soạn nhạc phổ thơ “Truyện Kiều” và sẽ
hoàn thành trong một thời gian gần đây. Trong vài năm chót đây (từ 1988), một số
ca sĩ tân nhạc sống dưới chế độ cộng sản đã thoát ra hải ngoại và xin tỵ nạn
như Họa Mi ( Pháp, 1988), Ái Vân (Ðức, 1990, và sau đó định cư tại Hoa Kỳ), Anh
Khoa (Hung Gia Lợi, 1988), Thái Châu (Gia nã đại, 1990), Bích Liên (Ðức, 1992),
Duy Khánh (Hoa Kỳ, 1991), Duy Trác (Hoa Kỳ, 1992), Nhật Trường (Hoa Kỳ, 1993)
đã mang lại cho nhạc Việt ở hải ngoại một luồng gió mới , nhứt là trong ngành
phát hành băng nhạc và băng vidéo.
Một số nữ nhạc sĩ nổi danh ở
hải ngoại qua nhiều sáng tác như Nguyệt Ánh, Khúc Lan, Linh Phương, Lê Tín
Hương, mdtt ở Hoa kỳ, Bảo Trâm ở Canada, Trang Thanh Trúc, Mộng Trang ở Pháp,
Bích Hà, Quách Nam Dung ở Úc châu. Nhạc sĩ Vô Thường (từ trần năm 2003 tại Hoa
kỳ) tạo một chỗ đứng riêng biệt với tiếng đàn Tây ban cầm tay trái qua hàng
trăm CD tự xuất bản tại Hoa Kỳ . Các nhạc sĩ nghiệp dư như bác sĩ Phạm Anh Dũng
(Hoa Kỳ), bác sĩ Nguyên Bích (Hoa Kỳ), Phạm Quang Tuấn (Úc châu) có viết nhạc ,
và nhiều hội viên của hai hội Nhạc Việt (nhacviet@yahoo.com )
và Em Ca Hát (emcahat@yahoo.com) , cũng như nhạc sĩ Võ Tá Hân đã phổ nhạc cho
trên 200 bài thơ và thực hiện trên 22 CD với toàn nhạc của anh. Nhạc thiền đạo
được phát triển từ năm 1996 vơí hai hiện tượng đáng kể: thiền sư Lương Sĩ Hằng
và Vô Thượng Sư Thanh Hải và một số nhạc phổ thơ của hai vị này.
Nhạc cận đại Việt Nam theo
chiều hướng Tây phương cũng được phát triển trong giới nhạc Việt . Nhạc sĩ Nguyễn
Mạnh Cường chưa đầy 30 tuổi khi sáng tác bài « Phụng Vũ » đã đoạt giải
thưởng ở đại hội quốc tế âm nhạc gia trẻ Á châu và Thái Bình Dương tại
Wellington (Tân Tây Lan) năm 1984. Nhạc sĩ Hoàng Ngọc Tuấn rời Việt Nam năm
1983 định cư tại Úc châu đã học dân tộc nhạc học và hiện giảng dạy nhạc đương đại
tại trường đại học University of New South Wales và mỹ học tại University of
Sydney .. Tác giả của nhiều nhạc phẩm đương đại phối hợp nhạc ngữ Việt, Á và Úc
, Âu qua nhiều dĩa CD xuất bản tại Úc . Nhạc sĩ Lê Tuấn Hùng (sinh năm 1962 đậu
tiến sĩ dân tộc nhạc học tại trường đại học Monash University (Melbourne, Úc
châu) và chú trọng nhiều tới sáng tác nhạc đương đại giữ nhạc Việt và nhạc Tây
phương cùng với sự cộng tác của vỡ là nữ nhạc sĩ Đặng Kim Hiền (huy chương vàng
đàn tranh và dân ca ở Việt Nam trước khi sang định cư tại Úc năm 1990) với nhiều
dĩa CD phát hành tại Úc .
Tại Hoa Kỳ , nhạc sĩ Cung Tiến
(sinh năm 1938) tiếp tục sáng tác nhạc đương đại. Nhạc tấu khúc « Chinh
phụ ngâm » (1987) , soạn cho 21 nhạc khí, đã được trình diễn lần đầu vào
ngày 27 tháng 3, 1988 tại San Jose với dàn nhạc thính phòng San Jose, đã được
giải thưởng Văn Học nghệ thuật quốc khánh 1988. Hội viên của hội nhạc sĩ sáng
tác ở Minneapolis (Minnesota, Hoa Kỳ), Cung Tiến đã trình làng một sáng tác nhạc
đương đại « Lơ thơ tơ liễu buông mành » dựa trên một điệu dân ca Quan
họ (2003). Nhạc sĩ Phan Quang Phục ( sinh năm 1962) sang Hoa Kỳ năm 1982, đậu
tiến sĩ âm nhạc tại trường đại học Michigan (Hoa kỳ), dạy sáng tác tại trường đại
học Cleveland State University (1993-1996) và sau đó tại trường đại học
University of Illinois. Được giải thưởng Prix de Rome năm 1997, một giải thưởng
cao quý nhứt trong lĩnh vực âm nhạc . Phan Quang Phục, được xem như là một
trong 6 nhạc sĩ trẻ giỏi nhứt xứ Mỹ về nhạc đương đại, đã sáng tác rất nhiều và
các nhạc phẩm được trình diễn khắp năm châu .
Xứ Pháp đã đào tạo một số nhạc
sĩ Việt Nam có một chỗ đứng quan trọng trong làng nhạc hiện đại . Nguyễn Văn Tường
(1929-1996), người Việt đầu tiên học nhạc điện thanh (musique
électro-acoustique) đã viết những nhạc phẩm phối hợp hai tư tưởng Âu Á như bài
« Cộng Tồn » (1968) (Co-existence), « Về Nguồn » (1975) sử
dụng máy móc điện tử và nhạc cổ truyền Việt Nam . Nguyễn Thiên Đạo (sinh năm
1939) , học trò Việt duy nhứt của nhạc sư Olivier Messiaen đã sử dụng nhạc ngữ
cận đại tây phương trong một số nhạc phẩm như « Thành Đồng Tổ Quốc »,
« Khóc Tố Như », vở kịch opéra « Mỵ Châu Trọng Thủy ». Tôn
Thất Tiết (sinh năm 1933) học nhạc ở Pháp từ năm 1958 và khởi sự sáng tác năm
1964. Ông đã sáng tác trên 50 nhạc phẩm đa số mang tên Việt như « Tứ
đại cảnh » (1968), « Hy Vọng » (1971), « Ngũ Hành »
(1973), « Chu Kỳ 1 tới 5 » (1976-1983, « Kiếm Ai » (1978),
« Tranh » (1980). Ông nhận rất nhiều giải thưởng quốc tế, và ông viết
nhạc phim cho những phim « Mùi Đu Đủ Xanh », « Xích Lô »
của nhà đạo diễn trẻ tuổi Trần Anh Hùng. Trương Tăng (1936-1989) học nhạc ở nhiều
trường nhạc tại Paris, sáng tác nhiều nhạc phẩm như « Fujiyama » (thơ
giao hưởng), « Dạ Hương » (kịch hát dựa trên một truyện cổ tích Việt
Nam), « Mẹ ». Anh đã sáng tác nhiều tiểu khúc cho đàn tranh, đàn bầu.
Được giải thưởng của ông hoàng Rainier của Monaco cho một giao hưởng khúc với
100 nhạc khí . Trương Tăng chuyển sang nhạc điện toán (musique assistée par
ordinateur) và học tại trung tâm IRCAM , Paris . Trần Quang Hải đóng góp nhiều
trong lĩnh vực nhạc đương đại. Cộng tác với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tường trong phần
trình diễn đàn môi, đàn tranh, hát đồng song thanh và muỗng trong nhạc phẩm
« Về Nguồn » (1975), cũng như đã cộng tác với Misha Lobko để hoàn
thành bản « Shaman » (1982) trong đó nhạc jazz, điện tử, nhạc cổ truyền,
nhạc tùy hứng đều được sử dụng. Trần Quang Hải đã trình bày nhạc phẩm « Trở
Về Nguồn Cội » với đàn tranh và nhạc điện tử tại đại học nhạc Á châu ở tỉnh
Etampes (Pháp) năm 1988. Sự khám phá kỹ thuật hát đồng song thanh nghĩa là hát
hai âm thanh khác nhau cùng một lúc từ trong cổ họng (chant diphonique / chant
de gorge – overtone singing / throat singing) phát xuất từ Mông Cổ, Tuva đã
giúp cho Trần Quang Hải từ năm 1974 sáng tác nhiều nhạc phẩm mới trong nhạc điện
thanh (musique électro-acoustique), nhạc tùy hứng (musique improvisée –
improvized music), nhạc thế giới (musique du monde – world music), nhạc thiền
(musique méditative – music for meditation), nhạc điều trị học (musicothérapie
– music therapy).
Nhạc tại Việt Nam sau 1975
Tân nhạc từ năm 1975 trở đi
đã thay đổi đề tài. Nhạc đã xoay từ chiến tranh tới hòa bình, từ đất nước bị
chia đôi tới thống nhất với một cuộc sống mới, từ nhạc bị gò ép trong lối viết
nhạc Nga sô và Trung quốc tới sự giao lưu văn hóa phóng túng với thế giới .
Trong vòng gần 30 năm (1975-2004) mức sản xuất ở Việt Nam đã tiến rất xa và rất
mau .
Đất nước được thống nhất, đề
tài xoay về phong cảnh đẹp của Việt Nam. Lính trong vai trò kiến thiết , trong
hòa bình. Tình yêu đôi lứa được phát triển mạnh.
Trong xứ Việt Nam có hai chiều
hướng về nhạc : nhạc nhẹ chú trọng về giải trí, hay nói một cách khác là
tân nhạc , và nhạc nặng tức là loại nhạc giao hưởng, nhạc trình diễn trong
khung cảnh của viện quốc gia âm nhạc viết cho kịch, vũ và điện ảnh .
*Nhạc nhẹ
Loại nhạc nhẹ dính liền với
nhạc thời trang, nhạc trẻ khơi nguồn từ các nguồn nhạc dân gian, nhạc ngoại quốc
kích động . Nó được phát hiện theo hai khuynh hướng .
1.khuynh hướng dùng ngôn ngữ
âm nhạc cổ điển Âu châu do nhạc sĩ Thanh Tùng (« Mưa
Ngâu », « Giọt Nắng Bên Thềm ») đề xướng qua đề tài tình
yêu . Có rất nhiều nhạc sĩ trẻ đi theo khuynh hướng này với những tìm tòi và
sáng tạo khác nhau như Nguyễn Đình Bảng (« Cơn Mưa Em Bất Chợt »),
Từ Huy (« Những Lời Em Hát »), Phú Quang (« Em
Ơi, Hà Nội Phố »), Duy Thái , Nguyễn Ngọc Thiện ( « Như
Khúc Tình Ca »), Dương Thụ (« Tiếng Sóng Biển »),
Đặng Hữu Phúc (« Ru Con Mùa Đông »), Phạm Trọng Cầu
(« Tiếng Hát Cho Em »).
2.khuynh hướng thứ nhì
chuyên về âm nhạc dân tộc cổ truyền . Ban nhạc nhẹ của nhà hát Tuổi Trẻ do
Đỗ Hồng Quân phụ trách đã đưa các nhạc khí dân tộc, cũng như cách phối âm phối
khí, trình diễn, sáng tác theo chiều hướng nhạc dân gian. Các nhạc sĩ Nguyễn Cường « Đừng
Sánh Em Với Mặt Trời », « Một Nét Ca Trù Mùa Xuân »),
Trần Tiến (« Tùy Hứng Ngựa Ô », « Tiếng Trống
Baranưng ») , Phó Đức Phương (« Nha Trang Thu »),
Trương Ngọc Ninh sáng tác theo chiều hướng này .
Nhạc tại Việt Nam sau 1975
Trong xứ Việt Nam có hai chiều hướng về nhạc: nhạc nhẹ chú trọng về giải trí,
hay nói một cách khác là tân nhạc, và nhạc nặng tức là loại nhạc giao hưởng, nhạc
trình diễn trong khung cảnh của viện quốc gia âm nhạc. Loại nhạc nhẹ dính liền
với nhạc thời trang, nhạc trẻ khơi nguồn từ các nguồn nhạc dân gian, nhạc ngoại
quốc kích động. Nó được phát hiện theo hai khuynh hướng:
khuynh hướng dùng ngôn ngữ
âm nhạc cổ điển Âu châu do nhạc sĩ Thanh Tùng đề xướng qua đề tài tình yêu. Có
rất nhiều nhạc sĩ trẻ đi theo khuynh hướng này với những tìm tòi và sáng tạo
khác nhau như Nguyễn Ðình Bảng, Từ Huy, Phú Quang, Duy Thái, Nguyễn Ngọc Thiện,
Dương Thụ.
khuynh hướng thứ nhì chuyên
về âm nhạc dân tộc cổ truyền . Ban nhạc nhẹ của nhà hát Tuổi Trẻ do Ðỗ Hồng
Quân phụ trách đã đưa các nhạc khí dân tộc, cũng như cách phối âm phối khí,
trình diễn, sáng tác theo chiều hướng nhạc dân gian. Các nhạc sĩ Nguyễn Cường,
Trần Tiến, Phó Ðức Phương, Trương Ngọc Ninh sáng tác theo chiều hướng này.
Một số nhạc sĩ thuộc thế hệ
trước như Hoàng Vân, Huy Du, Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Phan Huỳnh Điểu, Nguyền Đức
Toàn, Phạm Tuyên, Tân Huyền, Hồng Đăng, Văn Ký, Vũ Thanh, Nguyễn Văn Tý cũng
sáng tác những nhạc phẩm được phổ biến rộng rãi trong quần chúng .
Ca khúc quần chúng gồm có mọi
thể loại : hành khúc (« Khúc Quân Hành Trên Bán Đảo » của Cát Vận,
« Hành Quân Lên Tây Bắc » của An Thuyên ; trữ tình (« Dáng
Đứng Bến Tre » của Nguyễn Văn Tý , « Điệp Khúc Tình Yêu » của Trần
Tiến, « Em Ơi , Hà Nội Phố » của Phú Quang phổ thơ Phan Vũ .
Nhóm « Những Người Bạn »
gồm 8 nhạc sĩ : Trịnh Công Sơn (từ trần năm 2001), Trần Long Ẩn , Tôn Thất
Lập, Từ Huy, Nguyễn Ngọc Thiện, Thanh Tùng, Nguyễn Văn Hiên, và Vũ Hoàng được
chào đời tại Sài Gòn vào ngày 8 tháng 3, năm 1992 sau khi Trịnh Công Sơn sang
Pháp gặp nhóm nghệ sĩ phố (artists on the road / artists de rue). Tên « Những
Người Bạn » do Trịnh Công Sơn đề nghị với mục đích là sáng tác và trình
bày sáng tác mới cho bạn và công chúng nghe . Mỗi tháng, nhóm đều có họp và mỗi
người phải giới thiệu ít nhất là một sáng tác mới của mình và nghe lời phê bình
của an hem . Nhóm « Những Người Bạn » sẵn sàng đi giới thiệu những
tác phẩm mới và làm thành băng nhạc, vidéo với sự phụ giúp của những ca sĩ nổi
tiêng như Lệ Thu (sang định cư tại Pháp), Lê Tuấn, Ngọc Sơn, Thế Sơn, Thu Hà, Yến
Linh. Trong buổi đầu tiên của nhóm này, Trịnh Công Sơn đã trình bày nhạc phẩm mới
nhứt tên là « Con Mắt Còn Lại » (ý thơ Bùi Giáng). Thanh Tùng
viết một ca khúc « Lối Cũ Ta Về » trong hoài niệm về người vợ
đã mất . Trần Long Ẩn viết tặng mẹ. Hiện tượng này xảy ra vì các ca khúc mới
sau 1975 không còn người nghe . Dân chúng ưa nhạc « sến », nhạc
« vàng » hay nhạc trướ 75. Các ca khúc trữ tình trước 75 xua đuổi các
loại nhạc đấu tranh ca tụng Bác và Đảng, và luôn cả nhạc mới sau 75.
Từ năm 1990 trở đi, phong
trào tổ chứ hát vinh danh các nhạc sĩ lão thành như Nguyễn Văn Thương, Lê
Thương , Hoàng Giác, Tô Vũ, Nguyễn Văn Tý hay các nhạc sĩ trẻ hơn như Trịnh
Công Sơn được tổ chức tại Hà Nội và Sài Gòn và những ca khúc tiền chiến được
hát trở lại .
Nhạc sĩ Phạm Tuyên đã chuyển
hướng sáng tác qua nhạc trẻ em (nhạc đồng dao) được nhiều thành công qua hàng
trăm ca khúc mới . Một số nhạc sĩ trẻ như Phú Quang, Thanh Tùng, Trần Tiến,
Nguyễn Cường, Phạm Minh Tuấn, Tôn Thất Lập, Thế Hiền, Nguyễn Văn Hiên, Dương Thụ,
Từ Huy, Ngọc Đại , vv… viết nhiều bài nhạc mới rất được ưa chuộng. Đề tài mới
hướng về tình yêu chứ không còn ca tụng Đảng nữa .
Nhiều nhạc sĩ trẻ tiếp nối
các nhạc sĩ đàn anh tạo một thế hệ mới trong địa hạt sáng tác . Có thể kể Nguyễn
Hiệp (1947), Thế Hải (1947), Văn Thành Nho (1949), Nguyễn Phú Quang (1949), Trần
Quang Lộc (1949), Vũ Ngọc Giao (1951), Linh Giang, Trần Thiết Hùng (1951, Quang
Minh (1953), Quang Lộc (1954), Châu Đăng Khoa (1955), Vũ Hoàng (1956), Võ Công
Ánh (1957), Nguyễn Hải (1958), Trương Ngọc Ánh (1959).
Các ca sĩ trẻ nổi tiếng hiện
nay càng ngày càng nhiều như Lê Dung (từ trần năm 2001), Ánh Tuyết, Thanh Lam,
Hồng Nhung, Hồng Hạnh, Cẩm Vân, Cẩm Ly, Phương Thanh, Lam Trường, Đan Trường ,
Quang Linh, Bảo Yến, Khắc Dũng, Thanh Long, Mỹ Linh, Tam Ca Áo Trắng, Bằng Kiều
(sang định cư ở Hoa Kỳ, thành hôn với nữ ca sĩ Trizzy Phương Trinh), Trang
Nhung, Hồ Lệ Thu, Nguyên Vũ, Hiền Thục, Trần Thu Hà (định cư tại Hoa kỳ), Tạ
Minh Tâm, Quang Thọ… Nhạc trẻ, nhạc ngoại quốc thuộc đủ loại pop, hip hop,
house, rave, rap, jazz, thịnh hành trở lại với nhiều tụ điểm hát ngoài trời rộng
lớn tại Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn cũ)
Năm 2002 đánh dấu sự phát hiện
hai nhạc sĩ trẻ Quốc An và Nguyễn Nhất Huy với bản nhạc « Hát Với
Dòng Sông ». Một nhạc sĩ trẻ khác Tiến Luân chuyên về nhạc có âm hưởng dân
tộc nổi lên với bài « Quê Em Mùa Nước Lũ ». Nhạc sĩ Quang Đạt (sinh
năm 1976), giảng viên Nhạc Viện TPHCM và trường âm nhạc Yamaha và là người soạn
hòa âm cho rất nhiều ca khúc thịnh hành nhất trong năm 2002 như « Cây Đàn
Sinh Viên », « Hát Với Dòng Sông », « Hát Cho Người Ở Lại »,
« Tình Phiêu Lãng », « Lời Mẹ Ru ». Các ca sĩ thuộc thế
hệ thế kỷ 21 như Mỹ Tâm, Nguyễn Phi Hùng , Thanh Thảo, nhóm MTV, Minh Quân,
Nhóm Ty My Ty, Việt Quang, Ưng Hoàng Phúc, Lâm Chí Khanh, Ngô Thành Vân, Mỹ Lệ,
vv….
Thị trường băng dĩa, CD, VCD
và ngay cả DVD bành trướng mạnh mẽ từ năm 2000. Hàng chục đại hội liên hoan tân
nhạc được đài truyền hình , đài phát thanh, báo chí tổ chức khắp nơi trên toàn
xứ tạo cơ hội cho những ca sĩ trẻ có điều kiện thăng tiến. Hội nhạc sĩ Việt Nam
thành lập năm 1957 đã quy tụ hàng trăm nhạc sĩ và trở thành hội viên của hiệp hội
các nhà soạn nhạc Châu Á ( ACL – Asian Composers League) từ năm 2000. Trung tâm
bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam được thành lập vào năm 2002 bảo vệ những
nhạc phẩm Việt Nam ở Việt Nam và ngoại quốc .
Từ năm 2001, một số ca sĩ trẻ
trong nước chạy ra xứ ngoài (Trần Thu Hà, Bằng Kiều qua hôn nhân, Thu Phương,
MC Huy, Bảo Yến, Nhã Phương), một số ca sĩ bị mắc bịnh «siêu sao»,
đa số chạy theo kiểu hát nhép (tạo nên những «búp bê biết hát»),
fan ảo (phát sinh fan club), hát nhạc chưa được phép, một số ca sĩ tranh
nhau ca khúc mua độc quyền, làm xáo trộn đời sống âm nhạc trẻ ở Việt Nam.
Một số nhạc sĩ tìm lợi tức
thương mại qua việc đặt lời Việt cho nhạc ngoại, chìm đắm trong nhạc lai, nhạc
nhái, đạo nhạc (chấn động nhất trong năm 2004), đạo thơ.
Việc viết lời Việt trên nhạc
ngoại không phải là chuyện mới mẻ. Trước đó đã có các bản « Đồng Xanh »
( từ « Greenfield »), « Cha Yêu » (từ « Papa »),
và rất nhiều ca khúc song ngữ được lưu hành ở miền Nam trước 75. Vấn đề chuyển
ngữ bị lạm phát vì yếu tố thương mại. Những ca khúc thời trang của Tây phương
hay Á châu được chuyển ngữ một cách hấp tấp, vội vàng, đôi khi trở nên ngây
ngô, ngớ ngẩn, không còn ý nghĩa nguyên bản như trong ca khúc « Yêu Nhau
Đi » (từ « Tragedy »), « Ôi Tình Yêu », « Mắt Bồ
Câu » (từ nhạc Thái)
Những bài hát nổi tiếng của
các « diva » lừng danh thế giới như Whitney Houston, Celine Dion,
Mariah Carey, Toni Braxton đã được các ca sĩ Việt Nam chọn và bắt chước sao cho
thật giống nguyên bản, tạo thành một phong trào nhạc nhái . Điển hình nhất là nữ
ca sĩ Hồng Nhung với « Everything I Do », « Beauty and Beast »
(do Brandy hát nguyên bản), Thanh Lam với « Unbreak My Heart »,
« I Will Always Love You » (do Toni Braxton hát), Hồng Hạnh nổi tiếng
với bài « I Wanna Dance With Somebody » (do Whitney Houston
trình bày).
Sự ra đời của chương
trình Làn Sóng Xanh (LSX) của đài Tiếng Nói Nhân Dân TPHCM, chương
trình VTV Bài Hát Tôi Yêu và Mai Vàng cho thấy những bản nhạc
ngoại đa số đứng đầu bảng xếp hạng ca khúc được yêu thích nhứt . Vì lý do đó,
các ca sĩ đua nhau hát nhạc ngoại để có tên trên danh sách ca khúc của ba
chương trình kể trên . Ca khúc thuần túy Việt Nam hay có âm hưởng dân ca dần dần
bị chìm trong quên lãng và không được giới trẻ để ý tới . Hiện tượng « nhạc
sĩ thị trường » được chào đời để đáp ứng thị hiếu quần chúng trẻ .
Hiện tượng trong làng nhạc
trẻ ở Việt Nam từ năm 2003 là « liveshow » đã đưa nữ ca sĩ Mỹ Tâm lên
hàng đầu các ca sĩ nổi tiếng trong năm 2003 và 2004 .
Năm 2004, nhạc ngoại lời Việt
chiếm 30% số ca khúc phổ biến trong băng dĩa nhạc theo thống kê của phòng ca
múa nhạc sở VHTT TPHCM . Trên sân khấu biểu diễn, số ca khúc nhạc ngoại lời Viẹt
chiếm gần 50 % . Những quyết định, kiểm điểm, phê bính, trừng phạt được đưa ra
qua các quyết định mới trong quy chế 47 về tổ chức biểu diễn để mong mang lại
trật tữ và tạo điều kiện cho việc hồi sinh nhạc trẻ thuần túy Việt Nam
Nhạc Jazz được nhập vào thị
trường nhạc Việt từ khi Việt Nam mở cửa và chấp nhận « đổi mới »
(perestroika) vào cuối thập niên 80. Nhạc sĩ kèn saxophone Quyên Văn Minh đã
gây dựng phong trào nghe nhạc Jazz từ đầu thập niên 90 với sự thành lập Hanoi
Jazz Club . Tại Sài Gòn (TPHCM bây giờ) có một số quán có nhạc Jazz như Dragon
Bar, Yoko Cafe, Bob Jazz va Wild Horse . Qua 4 liên hoan nhạc Jazz Châu Âu từ
năm 2001, không khí thích nhạc Jazz được bừng sôi trong giới yêu nhạc jazz còn
trong giai đoạn phôi thai tại Việt Nam , nhưng hy vọng sẽ được phát triển mạnh
trong tương lai .
Nhạc thiếu nhi
Từ năm 1976, sau khi Việt
Nam được thống nhất, ca khúc thiếu nhi được sáng tác mạnh hơn với sự đóng góp của
nhiều nhạc sĩ đàn anh như Nguyễn Xuân Khoát, Lưu Hữu Phước , Phong Nhã (« Bài
Ca Sum Hợp »), Phan Huỳnh Điểu (« Ngày Vui Mới »), Phạm Tuyên
(« Hát Dưới Trời Thu Hà Nội », tập nhạc thiếu nhi « Chú Voi Con Ở
Bản Đôn »), Hoàng Vân, Hồ Bắc, Xuân Giao (« Giấc Mơ Em Bé »),
Hoàng Hà (« Chú Bộ Đội ») , Hoàng Long ( « Từ Rừng Xanh Cháu Về
Thăm Lăng Bác » sáng tác chung với Hoàng Lân), Hoàng Hà ( « Con Mèo
Ra Bờ Sông »), Vũ Thanh (« Em Đi Trong Tươi Xanh »), Huy
Trân (« Bầu Trời Này, Mặt Đất Này » thơ Diệp Minh Tuyên ), Minh Châu
(« Dàn Đồng Ca Mùa Hạ »), Hàn Ngọc Bích (« Mùa Xuân Và Tuổi Hoa »),
vv… Các nhạc sĩ trẻ của thế hệ đang lên như Cao Minh Khanh (« Mùa
Xuân Và Tình Bạn »), Trần Ngọc (« Em Như Chim Câu Trắng »), Đỗ
Trí Dũng (« Các Đám Mây Sẽ Kể »), Vũ Trọng Tường (« Mùa Thu Ngày
Khai Trường »), vv… cũng như các nhạc sĩ nổi tiếng như Trịnh Công
Sơn (« Em Là Hoa Hồng Nhỏ »), Phạm Trọng Cầu (« Nhịp Cầu
Tre »), Trương Quang Lục ( « Màu Mực Tím »), Nguyễn Văn
Hiên (« Thêm Một Tuổi Hồng »), Nguyễn Ngọc Thiện ( « Cô Bé Dỗi Hờn »),
Phạm Đăng Khương (« Con Đường Đến Trường »), Vũ Hoàng (« Hoa
Điểm 10 »), vv…viết nhiều bài hát cho trẻ em . Nhiều trung tâm văn hóa thiếu
nhi Hà Nội, TPHCM, Quảng Nam, Đà Nẵng , Cần Thơ tạo điều kiện cho trẻ em hát với
nhau. Đại hội liên hoan nhạc trẻ em được tổ chức hàng năm khắp nơi . Cuộc hội
thảo « Âm nhạc thiếu nhi » do ban âm nhạc thiếu nhi – hội nhạc sĩ Việt
Nam tổ chức năm 1985 đánh dấu sự lưu ý của giới nhạc sĩ đối với giới trẻ em.
Băng nhạc cassette audio và video, hay băng karaoke giúp cho trẻ em thích hát
nhạc của lứa tuổi của chúng .
Sau 1975, phong trào cải tiến
nhạc khí cổ truyền và sáng tác bài bản mới lên tới cao độ. Những công trình cải
tiến nhạc khí đáng được để ý như cải tiến đàn tính của dân tộc Tày,
Thái, hệ thống mõ ống, mõ cá của Tạ Thâm, đàn trưng của Đỗ
Lộc, Bá Phổ, sáo mèo của Lương Kim Vinh, sáo trúc của Đinh
Thìn, đàn bầu của Phan Chí Thanh, Xuân Hoạch, k’ni của Quốc
Hùng, dinh pah cũa Nay Knia Sơn, đàn tranh của Phương Bảo,
Nguyễn Vĩnh Bảo. Ngoài ra, một số nhạc sĩ đã chế ra những cây đàn hoàn toàn mới
như nhạc sĩ Phạm Lý (Tp.HCM) chế tạo mới bộ đàn lý gồm 4 cây. Nhạc sĩ
Lê Thái Sơn (Hà Tây) với cây đàn p’rông (một dạng piano làm bằng tre,
nứa). Những trường hợp này được xem như là sự sáng chế nhạc cụ.
Các nhạc phẩm được lưu truyền
trong dân chúng gồm có : « Trở Về Tây Nguyên » (Đỗ Lộc) cho đàn
trưng và dàn nhạc dân tộc, « Khát Vọng Ba Dan » (Nguyễn Cường)
cho đàn đinh pah của dân tộc Ê Đê và dàn nhạc, « Thúy Kiều » (Văn Thắng)
cho đàn tỳ bà và tốp nhạc dây (2 viôlông, 1 viôla, 1 xenlô), « Biển Quê
Hương » (Trần Quý) cho đàn bầu và dàn nhạc giao hưởng, tổ khúc « Rừng
Đêm Trăng » (Phú Quang) viết cho 5 loại sáo cải tiến píthiu, pípặp, sáo
H’Mông, pítầmlay, pítốp) của một số sắc tộc Tây Bắc cùng dàn nhạc nhẹ Tây
phương với trống mõ dân tộc . Nhạc cụ gõ rất được các nhạc sĩ dùng trong nhiều
sáng tác đương đại như « Tiếng Pháo Giao Thừa » (Nguyễn Xuân
Khoát), « Trống Cười Cưới Chồng » (Đỗ Nhuận), « Âm Vang Điện
Biên » (Huy Thục) .
Ca kịch, nhạc kịch, vũ kịch,
nhạc điện ảnh
Những loại ca kịch (kịch hát
mới –comédie musicale ), và nhạc kịch (opéra) chỉ được phát triển thực sự từ
1985 trở đi. Vở kịch hát « Thạch Sanh Lý Thông » (Đức Minh) đã tạo
thành công qua lần trình diễn đầu tiên năm 1985 tại Hải Phòng. Đề tài được lấy
từ các truyện cổ tích như « Nàng Công Chúa Lên Rừng » (Văn Thành
Nho), « Chuyện Tình Nàng Tiên Du » (Phó Đức Phương), hay đề tài trong
đời sống hàng ngày như « Lửa Tình Trên Cát Trắng » (Vũ Ngọc
Quang) , « Yêu Trước Phật Đài » (Trọng Đài), hoặc liên hệ tới văn học
xứ người như « Tình Yêu Và Danh Dự » (Vũ Ngọc Quang) dựa trên Le Cid
của Pierre Corneille thuộc xứ Pháp .
Nhạc kịch (opéra) theo kiểu
opéra tây phương phải kể đến hai vở tạo tiếng vang nhiều nhứt sau 1975. Đó là vở
« Nguyễn Trãi » (Đỗ Nhuận) được trình diễn lần đầu nhân dịp kỷ niệm
600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, và vở « Tình Yêu Của Em » (Tiếng
Hát Xanh) (Nguyễn Đình Tấn) diễn lần đầu năm 1981 nói lên số phận của một số
người trong cuộc chiến tranh cách mạng dành lại độc lập, tự do cho Việt Nam .
Vũ kịch (ballet) là một loại
hình đã có trước 1975, dựa trên các vũ điệu sắc tộc Việt Nam nhưng chưa có hoàn
chỉnh . Tổ khúc thơ múa « Giai điệu Niềm Tin » (biên đạo
múa : Đoàn Long, nhạc của Hoàng Việt với nhạc phẩm « Giao Hưởng
số 1 ») và thơ múa « Hồ Gươm » với Hoàng Đình Quý biên đạo múa,
và nhạc của Cao Việt Bách . Từ năm 1990 trở đi, vũ kịch tái sinh và nẩy nở khắp
nơi . Vở kịch múa « Ngọc Trai Đỏ » (Ca Lê Thuần) được ra mắt tại nhà
hát lớn TPHCM nhân dịp kỷ niệm 300 năm thành lập thành phố Sài Gòn . Đa số
đề tài vũ kịch đều hướng về các sắc tộc ở Việt Nam như « Hành Trình Đến
Cõi Then » (múa do Lê Khình, nhạc của Phó Đức Phương), « Sự Tích Chiếc
Khèn Bè » múa do Đoàn Long, nhạc của Vũ Duy Cường), « Huyền Sử Chiêng
Cồng » (múa do Đoàn Long, nhạc của Đặng Nguyễn), « Huyền Thoại
Trường Sơn » (múa do Bằng Thịnh, nhạc của Ngô Quốc Tính .
Nhạc kịch nói chỉ là nhạc đệm,
nhạc nền (musique de fond) cho vở kịch. Loại này ít được phát triển. Một số nhạc
sĩ đã thử thách qua một số kịch nói . Chẳng hạn như « Âm Mưu Và Hậu Quả »
(Đàm Linh), « Hẹn Ngày Trở Lại » (Trọng Bằng), « Quyền Được
Hạnh Phúc » (Hoàng Vân), « Cuộc Gặp Gỡ Muộn Màng » (Doãn
Nho), « Ăn Mày Hạnh Phúc » (Huy Thục), « Chị Nhàn »
(Tô Hải), « Đứng Gác Dưới Đèn Nêông » (Trần Ngọc Xương), « Nguồn
Sáng Trong Đời » (Phó Đức Phương), và những nhạc sĩ khác như Ca Lê Thuần,
Quang Hải, Phú Quang, Phạm Minh Tuấn, An Thuyên, Ngô Quốc Tính, vv…
Nhạc điện ảnh còn ở trong
tình trạng sơ khai trong giai đoạn chiến tranh (1954-75) với chủ đề chiến
tranh, giải phóng đất nước. Nhạc phim chuyên về nhạc hùng. Cuốn phim đầu tiên
có nhạc loại giao hưởng của Nguyễn Đình Phúc được soạn nghiêm túc là « Chung
Một Dòng Sông ». Sau đó có thêm nhạc sĩ khác như Hoàng Vân, Trọng Bằng,
Hoàng Hiệp, Y Vân, Phạm Trọng Cầu, Trịnh Công Sơn, Phạm Minh Tuấn, vv…
Nhạc sĩ Hồng Đăng viết cho
trên 70 phim đủ loại « Kén Rể », « Hà Nội Mùa Chim Làm Tổ »,
« Đời Hát Trong », « Hạt Muối Của Biển », vv… Trọng Bằng,
tốt nghiệp ở Nga Sô, viết nhạc loại giao hưởng cho các phim « Cù Chính Lan », « Hoàng
Hoa Thám », « Ngôi Sao Tren Biển », vv… Đàm Linh tạo sự chú ý
qua nhạc của phim « Trận Chiến Đấu Tiếp Diễn », « Đường Về Quê Mẹ »,
« Đứa Con Người Hàng Xóm », vv… với cách sử dụng nhạc khí Tây phương,
hay hòa hợp Tây phương và Việt Nam . Hoàng Vân viết nhạc phim chuyên về nhạc
giao hưởng cho cả trăm cuốn phim trong đó có phim được giải thưởng như « Con
Chim Vành Khuyên », «Biển Gọi», «Em Bé Hà Nội». Đặng
Hữu Phúc khởi sự viết nhạc cuốn phim « Anh Và Em » từ năm 1986
và liên tiếp nhiều phim khác như «Tướng Về Hưu», «Người
Đàn Bà Bị Săn Đuổi», vv… Gần đây Đặng Hữu Phúc sử dụng máy vi tính để viết
nhạc phim. Trọng Đài viết nhạc phim từ 1989 như «Canh Bạc» ,
«Số Phận Của Một Tình Yêu», «Quạ Và Công» (phim hoạt
họa). Đỗ Hồng Quân đã chiếm nhiều giải thưởng âm nhạc của liên hoan phim toàn
quốc lần 8 (1987) với phim «Thằng Bờm», liên hoan phim toàn quốc lần
9 (1990) với phim «Đêm Hội Long Trì», liên hoan phim toàn quốc lần
10 (1993) với phim «Cờ Lau».
Trong thời gian 10 năm đầu
(1975-1985) nhạc giao hưởng theo ngôn ngữ Tây phương cổ điển gặp khó khăn trong
việc phổ biến. Nhưng sau đó, giới yêu nhạc cổ điển đông hơn, và nhiều nhạc phẩm
được chào đời qua tài năng của các nhà soạn nhạc được huấn luyện tại Âm nhạc viện
Hà Nội hay ở các âm nhạc viện Âu châu và Nga sô .
Đỗ Hồng Quân (« Chủ Đề
Và Biến Tấu » cho dương cầm, « Rápxôđi Việt Nam »), Đặng Hữu
Phúc (« Xô Nát Phúc Điệu » cho dương cầm), Nguyễn Văn Quý (« Xô
Nát số 4 cho viôlông và pianô »), Nguyễn Cường (« Tứ tấu dây 94 »),
Thụy Loan (« Khúc Trữ Tình » – Romance), Phúc Linh (« Ngẫu Hứng »
cho ôboa, bátxông, và pianô), Xuân Tứ (« Bài Ca Chung Thủy ») mở
màn cho những nhạc phẩm lớn theo chiều hướng nhạc cổ điển Tây phương đương đại
.
Nhạc giao hưởng thu hút một
số nhạc sĩ như Doãn Nho (thơ giao hưởng « Thánh Gióng »), Nguyễn Thị
Nhung (thơ giao hưởng « Khát Vọng »), Trần Trọng Hùng ( « Giao
hưởng cho đàn dây và gõ »), Đàm Linh (giao hưởng « Không Đề »)
, Nguyễn Đình Bảng (balát giao hưởng « Thị Kính Thị Mầu »), Trọng Bằng
(« Người Về Đem Tới Ngày Vui »), Trần Ngọc Xương (« Trăm Sông Đổ
Về Biển Lớn »), Lê Khiêm Hoàn (tổ khúc giao hưởng « Hội Được Mùa »),
Đặng Văn Bông (‘Mẹ Và Đất Nước », Trần Trọng Hùng (« Trở Về Với Điện
Biên »).
Loại hình hòa tấu (concerto)
cho nhạc cụ và dàn nhạc không thấy trong nhạc Việt Nam cho tới năm 1985. Một số
nhạc phẩm dùng nhạc khí cổ truyền dân tộc cho phần độc tấu (Quang Hải với nhạc
phẩm « Hòa Tấu Số 1 » chủ đề 1 cho đàn tranh và dàn nhạc « Quê
Tôi Giải Phóng ») . Điển hình là các nhạc sĩ Ca Lê Thuần (« Hòa Tấu
Nhỏ Cho Pianô Và Dàn Nhạc ») Phạm Minh Tuấn (« Bất Khuất »), Trọng
Đại (« Hòa Tấu Cho Dàn Nhạc »), Đỗ Hồng Quân (« Hòa Tấu Cho
Viôlông Và Dàn Nhạc »). Chủ đề để sáng tạo nhạc giao hưởng, hòa tấu dựa
trên làn điệu dân ca, thang âm điệu thức nhạc dân tộc. Trong sự phát triển các
nhạc phẩm, đa số các nhà soạn nhạc chú tâm về các bè theo chiều ngang . Nhưng
cũng có một vài nhà soạn nhạc trẻ như Vũ Nhật Tân (« Ký Ức ») tạo
sự gặp gỡ các âm theo chiều dọc .
Giá trị âm nhạc Việt Nam
trong giai đoạn lịch sử bi thảm, khó khăn mà chúng ta hiện nay đang trải qua, sẽ
được chấp nhận, hay bị đào thải là do nơi sự cố gắng của mỗi cá nhân, mỗi nghệ
sĩ. Khi chúng ta tự hào nhạc của tổ tiên và hãnh diện khi học hỏi cũng như lúc
trình diễn, tìm đủ mọi cách để vun bồi, phát triển và truyền lại cho đám hậu
sinh theo một đường lối tốt đẹp, phản ảnh dân tộc tính thì trong tương lai, nhạc
Việt sẽ được nẩy nở ngày càng đẹp hơn, giàu hơn, phong phú hơn để tạo một chỗ đứng
vững mạnh trong vườn nhạc Á châu. Chính dân tộc Việt Nam sẽ quyết định sự sống
còn của nền âm nhạc Việt trong tương lai .
Sách tham khảo
ĐÀO Trọng Từ , 1979 :
« La Renaissance de la musique vietnamienne », Essais sur la musique
viêtnamienne, Editions en langues étrangères : 146-221, Hanoi, Vietnam .
GIBBS, Jason, 1996 :
« Nhạc Tiền Chiến : The Origins of Vietnamese Popular Song »,
bài tham luận ở hội nghị của Society for Ethnomusicology, Northern Carolina,
Hoa kỳ (8 trang)
GIBBS, Jason, 1997 :
« Reform and Tradition in Early Vietnamese Popular Song », Nhạc Việt
6: 5-33, Kent , Ohio , Hoa Kỳ
HOÀNG Hiệp, CA Lê Thuần,
XUÂN Hồng , LƯU Hữu Phước, QUANG Hải, NGUYỄN Lang, PHAN Huỳnh Điểu, TRÍ Thanh,
TRỊNH Công Sơn, TRẦN Trọng, ĐĂNG Đàn, TÔ Hải, 1986: Âm Nhạc ở thành phố Hồ Chí
Minh , nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh, 180 trang, TP HCM, Việt Nam
HỒ Trường An, 1998: Theo
Chân Những Tiếng Hát, 385 trang, tổ hợp xuất bản miền Đông, Arlington ,
Virginia , Hoa Kỳ .
HỒ Trường An , 2000: Theo
Chân Những Tiếng Hát, 380 trang, tổ hợp xuất bản miền Đông, Arlington ,
Virginia , Hoa Kỳ
LÊ Hoàng Anh, 2000 : Trò
Chuyện Với Nghệ Sĩ , nhà xuất bản Thanh Niên, 965 trang, TP HCM, Việt Nam
LÊ Hoàng Long, 1996: Chuyện
Tình Các Nhạc Sĩ Tiền Chiến, Văn Hóa Thông Tin (nxb), 202 trang, Hà Nội, Việt
Nam
PHẠM Duy,: Hồi ký 1: Thời
Thơ Ấu, Vào Đời, 149 trang, Midway City , Calif. Hoa Kỳ
PHẠM Duy,: Hồi ký 2: Thời
Cách Mạng Kháng Chiến, 128 trang, Midway City, Calif , Hoa kỳ
PHẠM Duy,: Hồi ký 3: Thời
Phân Chia Quốc Cộng, 164 trang, Midmay City, Calif , Hoa Kỳ
PHẠM Duy,: Hồi ký 4: Thời
Lưu Vong, 176 trang, Midway City , Calif , Hoa Kỳ
REYES, Adelaida, 1999: Songs
of the Caged, Songs of the Frê/ Music and the Refugê Experience, Temple
University Press (nxb), 218 trang, Philadelphia, Hoa Kỳ
TRẦN Cường, 1996: Âm Nhạc /
Tác Giả Và Tác Phẩm, Giáo dục âm nhạc phổ thông, tập 1, Nhà xuất bản âm nhạc,
347 trang, Hà Nội, Việt Nam
TRẦN Quang Hải, 1987: “La
Musique et les réfugiés», La Revue Musicale (nxb) 402-403-404:
125-133, Paris, Pháp .
TRẦN Quang Hải, 1989:
Âm Nhạc Việt Nam Biên Khảo, Bắc Đẩu (nxb), 361 trang, Paris, Pháp .
TRẦN Quang Hải, 2001, 2002,
2003: Tổng Kết Nhạc Việt Hải Ngoại, trang nhà www.vietnhac.org, Minneapolis,
Minnesota, Hoa Kỳ
TRẦN Quang Hải, 2001:
«Vietnamese Music in Exile since 1975 and Musical Life in Vietnam since
Perestroika”, The World of Music 2-3: 103-112, University of Bamberg, Đức (có
thể xem trang nhà www.honque.com,
New Jersey, Hoa Kỳ hay www.vietnhac.org,
Minneapolis, Hoa Kỳ)
TRƯỜNG Kỳ, 1995: Tuyển Tập
Nghệ Sĩ 1 , tác giả xuất bản, 300 trang, Montreal , Canada
TRƯỜNG Kỳ, 1997: Tuyển Tập
Nghệ Sĩ 2 , tác giả xuất bản, 320 trang, Montreal , Canada
TRƯỜNG Kỳ, 1999: Tuyển Tập
Nghệ Sĩ 3 , tác giả xuất bản, 367 trang, Montreal , Canada
TRƯỜNG Kỳ, 2000: Tuyển Tập
Nghệ Sĩ 4 , tác giả xuất bản, 368 trang, Montreal , Canada
TRƯỜNG Kỳ, 2001: Tuyển Tập
Nghệ Sĩ 5 , tác giả xuất bản, 378 trang, Montreal , Canada
TRƯỜNG Kỳ, 2002: Tuyển Tập
Nghệ Sĩ 6 , tác giả xuất bản, 384 trang, Montreal , Canada
TRƯỜNG Kỳ, 2002 : Một Thời
Nhạc Trẻ, tác giả xuất bản, 384 trang, Montreal , Canada
TÚ Ngọc, NGUYỄN Thị Nhung,
VŨ Tự Lân, NGUYỄN Ngọc Oánh, THÁI Phiến: 2000: Âm Nhạc Mới Việt Nam / Tiến
Trình Và Thành Tựu, Viện Âm Nhạc (nxb), 1000 trang, Hà Nội, Việt Nam
VŨ Tự Lân, 2001: Những Tác Động
Của Giao Lưu Văn Hóa Quốc Tế Đối Với Sự Hình Thành – Phát Triển Âm Nhạc Chuyên
Nghiệp Mới Việt Nam, Hội Nhạc Sĩ Việt Nam (nxb), 92 trang, Hà Nội, Việt Nam .
Báo Chí
Sóng Nhạc, nguyệt san,
chuyên về sinh hoạt tân nhạc Việt Nam ở quốc nội, địa chỉ: 81 Trần Quốc Tuhảo,
Q3, TPHCM, Việt Nam . điện thư: ngvanhien@hcmeuco.edu.vn
Văn Hóa Nghệ Thuật,
nguyệt san, chuyên về nghiên cứ nhạc dân tộc, tân nhạc và nhạc cổ điển Tây
phương ỡ Việt Nam; địa chỉ: 32 Hào Nam, Đống Đa, Việt Nam. điện thư :tcvhnt@hn.vnn.vn
Âm Nhạc và Thời Đại,
nguyệt san, chuyên về đủ mọi khí cạnh âm nhạc Việt Nam tại quốc nội. Cơ quan
ngôn luận của Hội Nhạc sĩ Việt Nam; địa chỉ : 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội, Việt
Nam. ĐT: (84-4) 94 35 384.
Trang nhà www.tranquanghai.org và http://tranquanghai.phapviet.com
Hai trang nhà này của Trần
Quang Hải có một bài viết về tân nhạc Việt Nam bằng 3 thứ tiếng (Việt / Pháp/
Anh)
www.vnstyle.vdc.com.vn/vim:
khánh thành năm 2002, trang nhà này của Viện Âm Nhạc Hà Nội giới thiệu sinh hoạt
của Viện qua tin tức, bài vở, sách, dĩa CD, VCD về nhạcViệt Nam bằng hai thứ
tiếng (Việt/ Anh)
www.vov.org.vn: những bài ca không
quên, ca khúc trữ tình, nhạc không lời, chương trình ca nhạc, ca nhạc thiếu nhi
.
www.vietscape.com: nhạc trẻ, tân nhạc,
phỏng vấn ca nhạc sĩ Việt Nam hải ngoại
www.saigonbao.com/amnhac/Amnhac2.htm:
những trang nhà về nhạc Việt và điện ảnh Việt Nam ở hải ngoại
http://www.vnunited.org/audio: rất
nhiều bài tân nhạc Việt Nam do các ca sĩ trình bày (MP3)
http://www.vncentral.com/news/vanhoa:
tin tức về tân nhạc Việt Nam
http://www.angelfire.com/ut/ttran4/VN.html:
các ca sĩ Việt Nam, tân nhạc, nhạc vàng
www.vietet.com: tin tức nhạc trẻ Việt
Nam ở Hoa kỳ, tiểu sử các ca sĩ và địa chỉ
www.vietnhac.org: trang nhà do sinh
viên ở Minneapolis thực hiện có trên 100 tiểu sử nhạc sĩ hải ngoại, tiểu sử các
nhạc sĩ qua đời, và gần 200 bài viết về nhạc Việt Nam đủ loại .
www.honque.com: báo mạng lưới với nhiều
bài viết về nhạc Việt Nam , phỏng vấn nhiều nhạc sĩ Việt Nam hải ngoại, và có
thể nghe và xem video nhạc Việt sáng tác ở hải ngoại
www.talawas.org: báo mạng lưới ỡ Đức với
một số bài về nhạc Việt Nam, phỏng vấn nhạc sĩ Việt Nam hải ngoại
www.tienve.org: báo mạng lưới ở Úc châu
với nhiều bài viết và nhạc phẩm về nhạc Việt Nam .
http://vietsciences.free.fr: báo
mạng lưới ở Pháp có một chương trình dành cho nhạc Việt Nam
http://home.wanadoo.nl/duca:
lịch sử du ca, du ca viên, và nghe nhạc du ca
www.emviet.com/pvh: trang nhà chào đời
năm 2002 ở Úc châu, giới thiệu những sáng tác của nhạc sĩ Phan Văn Hưng và những
ca khúc khác cùng một số dân ca Việt Nam
http://home.vicnet.net.au/~aaf/us.htm:
trang nhà của đôi nhạc sĩ Lê Tuấn Hùng và Đặng Kim Hiền ớ Úc châu, gồm có những
sáng tác nhạc hiện đại của Lê Tuấn Hùng và những bài viết về nhạc Việt Nam www.geocities.com/emcahat: nơi sinh
hoạt của giới yêu nhạc tài tử và bán chuyên nghiệp ở hải ngoại
www.vota.com/nhac: trang nhà của nhạc
sĩ Võ Tá Hân với tất cả sáng tác của anh và có thể nghe những CD gồm trên 200
nhạc phẩm đã được phát hành .
http://perso.club-internet.fr/nmchau:
rất nhiều sáng tác của các nhạc sĩ của nhóm Nhạc Việt và của nhóm The Silicon
Band ở Pháp .
http://www.multimania.com/nghethuat:
với nhiều bài nói về tân nhạc và âm nhạc Việt nói chung do nhạc sĩ Lê Dinh chủ
trương. Báo Nghệ Thuật được xuất bản tại Montreal, Canada.
www.giaidieu.net: diễn đàn trao đổi
nhạc Việt, tin tức nhạc trẻ Việt Nam, tiểu sử nhạc sĩ và ca sĩ sống tại Việt
Nam.
www.giaidieuxanh.com.vn: tất cả
tin tức nhạc ở Việt Nam từ nhạc cổ truyền dân tộc đến nhạc Pop Việt/Tây
phương, nhạc cổ điển Tây phương và nhạc hiện đại thế giới.
Trần Quang Hải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét