“Sinh ở đâu mà ai cũng anh hùng/ Tất cả trả lời
sinh bên một dòng sông” (Bế Kiến Quốc). Lần đầu tiên tôi đến với Hà Giang, đến
với Chi Hội Nhà văn Sông Chảy (gồm các nhà văn sinh sống và sáng tác trên địa
bàn bốn tỉnh miền núi Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang và Hà Giang).
Có người thì đã gặp và quen biết như Pờ Sảo
Mìn, Ngọc Bái, Vũ Xuân Tửu, Đoàn Hữu Nam, Nguyễn Trần Bé, Tống Ngọc Hân; có người
thì “văn kiến kỳ thanh bất kiến kỳ hình” như Trịnh Thanh Phong, Chu Thị Minh Huệ
và nhiều người khác. Tôi chỉ mong “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”. Trong phạm
vi đọc của mình, tôi nghiêng quan tâm đến văn xuôi, đặc biệt truyện ngắn. Trong
bài viết nhỏ này tôi chỉ muốn nói đến bốn cây bút truyện ngắn của Chi hội
Nhà văn Sông Chảy: Vũ Xuân Tửu, Nguyễn Trần Bé, Tống Ngọc Hân và Chu Thị Minh
Huệ. Mặc dầu có người trong số họ viết tiểu thuyết, thậm chí viết khỏe như Vũ
Xuân Tửu, nhưng rốt cục nếu cần chọn tác phẩm để thi thố, để trích dẫn, để minh
họa, để lập luận, để gọi ra “”đặc sản” của một vùng văn học thì vẫn chỉ có thể
tuyển chọn truyện ngắn mà thôi. Xin được thưa trước với Quý vị là, trong nghề
văn đôi khi cái ngẫu hứng chi phối chúng ta rất mạnh. Vì thế mà đọc ai, viết gì
cũng có khi cũng rất ngẫu nhiên, thậm chí tùy thuộc vào việc có hay không có
sách trong tay. Nói như cổ nhân là đôi khi “lực bất tòng tâm”. Tôi chỉ viết những
gì tôi đọc được của nhà văn, dẫu còn ít, nhưng là trực tiếp. Không gì bằng trực
quan sinh động. Đó là nguyên tắc phê bình văn chương của tôi.
Nhà
văn Vũ Xuân Tửu là cây bút đa năng, viết thơ, trường ca, ký, truyện
ngắn, tiểu thuyết. Nhưng riêng với tôi, thì trước sau Vũ Xuân Tửu là cây bút
truyện ngắn có duyên. Đến nay anh đã sở hữu 6 tập truyện ngắn, nhưng có lẽ ấn
tượng nhất với độc giả là tập Chuyện ở bản Piát (Nxb Văn nghệ, TP.
HCM, 2007). Một cuốn sách mỏng thôi, chỉ in có 5 truyện ngắn tham dự và đoạt Giải
Nhất Cuộc thi truyện ngắn (2005-2006) của Tạp chí VNQĐ. Truyện ngắn Vũ Xuân Tửu
thường không hướng đến những “khoảnh khắc”, những “lát cắt” đời sống như cách
hiểu thông thường về thể loại “nhỏ” này. Nhà văn thường cô đặc, dồn nén chất liệu
vào trong một khuôn khổ chữ có hạn. Nhưng sức nổ rất lớn. Truyện ngắn của Vũ
Xuân Tửu không dài, ít khi vượt ngưỡng 20 trang, nhưng có cái “mầm mống” của tiểu
thuyết (trái lại, tiểu thuyết thường rất ngắn, thậm chí “siêu ngắn” như Hình
bóng đàn bà chỉ ngót dăm chục trang khổ nhỏ). Tôi chỉ xin dẫn một ví dụ:
truyện Người sông nước. Truyện này ông “nghiền ngẫm” trong vòng bốn năm trời
(2001-2005). Hơn 1000 ngày cho ra đời một truyện ngắn vỏn vẹn vài chục trang.
Cho nên một nhà văn tài danh thế giới đã nói một ý rất hay: Tôi không có đủ thời
gian để viết truyện ngắn. Vừa rồi tôi biết có một kỷ lục viết tiểu thuyết thuộc
về Đỗ Bích Thúy, hoàn thành Chúa đất (2015), dài hơn 200 trang chỉ
trong vòng có…15 ngày. Mở đầu truyện ngắn Chuyện sông nước là một câu
văn ngắn chỉ có 5 chữ “Nhà tôi ở bên sông”. Người kể chuyện kể ở ngôi thứ nhất
(xưng “tôi”) hứa hẹn nhiều điều bất ngờ. Kể chuyện thời niên thiếu chỉ có 12
dòng. Rồi chuyển “gam” rất nhanh “Lớn lên tôi đi làm chân sào”. Rồi cứ thế thời
gian tuyến tính được “đi tắt đón đầu”. Câu chuyện diễn tiến nhanh “Ba năm sau.
Tôi và cánh chân sào âm thầm sang cát cho bà chủ”. Thời gian của câu chuyện tựa
như bóng câu qua cửa sổ “Thấm thoắt thế mà…”. Vùng sơn cước không hiện lên
trong truyện ngắn Vũ Xuân Tửu với những hoa thơm cỏ lạ, với những câu chuyện đường
rừng lãng đãng, với vẻ đẹp hoang dã của những “cô em xóm núi”, với thiên nhiên
nguyên thủy trong lành…Tất cả hiện lên trong dáng vẻ trần trụi, sắc cạnh, thô
rám. Nhưng lại rất giàu chất thơ. Tôi gọi đó là “chất thơ của văn xuôi”. Văn Vũ
Xuân Tửu là một lối văn có nhịp điệu khẩn trương nhưng không vội vàng, mạnh mẽ
nhưng không bạo liệt, trầm lắng nhưng không cô tịch nên phù hợp với kiểu độc giả
thích sống nhanh, nhưng đồng thời cũng hợp với những ai thích sống chậm. Vũ
Xuân Tửu có ý thức chăm chút câu văn. Đọc truyện ngắn và tiểu thuyết, độc giả
thường chú ý đến “chuyện”, đã đành. Nhưng độc giả vẫn quan tâm đặc biệt đến
“văn”, vẫn rất thích sự ngời sáng lên, lấp lánh hơn của câu chữ. Đó mới chính
là cái nhã thú văn chương đích thực, lâu bền. Nhà văn Sương Nguyệt Minh khi đọc Người
sông nước đã khen: “Tràn đầy lãng mạn, câu chuyện tình nhuốm màu huyền ảo,
văn đẹp đến độ lung linh”. Nhà văn Khuất Quang Thụy thì nhấn mạnh: “Văn hay đạt
đến độ hàm súc”.
Gần đây tôi thấy nhà văn Vũ Xuân Tửu hay viết tản văn, thời luận văn chương.
Tôi đã đọc được một số tiểu thuyết của nhà văn tặng. Nhưng trong tôi cứ thắc thỏm
một điều, nay muốn chia sẻ với nhà văn mà tôi quan tâm theo dõi nhiều năm nay
“hãy cứ viết truyện ngắn, tại sao không?!”.
Tôi
gặp nhà văn Nguyễn Trần Bé lần đầu tiên, cách nay mấy năm, tại lớp Thẩm
bình và sáng tác truyện ngắn do Khoa Viết văn - Báo chí (Trường Đại học Văn hóa
Hà Nội tổ chức). Kỳ đó anh nộp mấy truyện ngắn mới viết cho Ban Tổ chức lớp.
Trưởng Khoa Văn Giá có đưa tôi đọc và nhận xét. Trong số những cái anh nộp cho
BTC, tôi và các thành viên khác rất thích truyện Ném áo (sau này in
báo anh đổi nhan đề). Tôi cứ tiếc cho sự thay đổi này. Vì thực tế cho thấy,
nhan đề Ném áo gợi hơn, khái quát hơn, đặc trưng hơn. Năm 2013, Nguyễn
Trần Bé lại khăn gói xuống Hà Nội dự lớp học của Trung tâm Bồi dưỡng viết văn
Nguyễn Du (Hội NVVN). Lần gặp gỡ đó anh tặng tôi tập truyện ngắn thứ tư Cõi
nhân dị biệt. Gần hơn do chỗ được mời tham gia BGK Cuộc thi tiểu thuyết lần
thứ tư (2011-2015) của Hội NVVN, tôi lại có cơ hội đọc tiểu thuyết dự thi của
anh - Thạch trụ huyết - sau này nhận giải C. Năm 2015, Nguyễn Trần Bé
có được một “cú đúp văn chương” - Nhận giải thưởng tiểu thuyết và vinh dự trở
thành Hội viên Hội NVVN. Riêng tôi - có thể là rất chủ quan - lại vẫn thấy Nguyễn
Trần Bé sẽ ghi dấu ấn trên văn đàn đậm hơn với truyện ngắn. Vì sao? Tôi xin
trích xuất từ truyện ngắn của Nguyễn Trần Bé để độc giả có thể đồng tình với nhận
định trên: “Bây giờ tôi xin kể cho bạn đọc nghe về những con người thuộc cõi “dị
biệt” này (…). Chỉ biết rằng những con người rất đáng được viết thành truyện mặc
dù họ chẳng bao giờ quan tâm đến điều đó. Ông giáo già, vị “Tiên sinh” của làng
tôi có lần bảo “Cậu là nhà văn, chuyên viết truyện ngắn, sao có chuyện hay như
vậy về nhóm cõi nhân dị biệt mà lại dửng dưng?” (Cõi nhân dị biệt). Cái câu đầu
cửa miệng ông già nói ra, mặc nhiên không phải là lời của một người khác, mà
chính là nhà văn “ướm mình” vào nhân vật mà nói. Đúng thế chăng? Tôi nghĩ, Nguyễn
Trần Bé thích hợp với cái nhìn “vừa khoảng” - nghĩa là gọn ghẽ, không quá hoành
tráng. Truyện ngắn của Nguyễn Trần Bé rất gọn ghẽ, rất hoạt. Ví dụ như Lá
chết, chỉ có khoảng 1000 chữ. Ngắn gọn là vì tác giả tìm được cái tình huống rất
đặc biệt để làm bật lên vấn đề - liệu con người ta có dám sống chết cho tình
yêu? Hay “thủy chung nay chỉ là lời nói suông”? Cái anh chàng người Kinh có cái
tên rất hay, liên quan đến đá (Thạch Nhi), yêu cô gái người Mông xinh đẹp, có
cái tên Vàng Thủy Tiên. Nhưng họ nhà gái không chấp nhận nếu Thạch Nhi không ở
rể. Vì bị ngăn cấm mà đôi trai gái quyết “quyên sinh theo phong tục”. Họ hái lá
ngón để thực hiện. Nhưng vấn đề là ai chết trước? Cuối cùng thì Vàng Thủy Tiên
chết trước. Nhưng cô đã ăn lá moi chua để thử lòng người tình. Sau
khi tưởng người tình đã chết, Thạch Nhi đã lộ chân tướng “Không. Mình không thể
chết! Không việc gì phải chết một cách vô ích như thế. Chỉ những người dại dột,
mụ mị thì mới chọn cái chết như thế này thôi. Thủy Tiên ơi, hãy tha lỗi cho
anh. Anh không dám chết cùng em đâu. Anh không bao giờ nghĩ mình sẽ ăn lá
ngón để chết. Mình không lấy được nhau thì lấy người khác chứ việc gì phải chết,
đúng không em?”. Lúc Thạch Nhi rời cửa hang thì bỗng nghe tiếng cười khanh
khách của Thủy Tiên: “Tôi biết ngay mà. Anh làm gì dám chết vì tình yêu! (…).
Những cái lá tôi ăn lúc nãy chỉ là lá moi chua thôi. Nhưng được nghe
những lời anh nói vừa rồi, tôi cũng thấy nhẹ lòng. Thôi, ta về!”. Tôi cứ thích
Nguyễn Trần Bé viết những truyện ngắn giàu tính chất ngụ ngôn như thế. Có thể ý
kiến của tôi làm nhà văn Nguyễn Trần Bé phật lòng. Vì sao nhà phê bình lại chỉ
định rằng tôi chỉ có thể viết hay truyện ngắn? Tôi vừa được giải thưởng tiểu
thuyết đấy thôi? Đúng là vừa được giải thưởng tiểu thuyết. Nhưng tôi muốn nói đến
cái “tạng văn” của nhà văn. Ai đó nói chí lí, thể loại chọn nhà văn chứ
nhà văn không chọn được thể loại. Tôi nghĩ, nhận định này có thể là sát hợp
với Nguyễn Trần Bé.
Nhà
văn Tống Ngọc Hân đang nổi lên như một cây bút nữ viết truyện ngắn có
nội lực và triển vọng. Tính đến nay chị đã sở hữu 6 tập truyện ngắn, hai tiểu
thuyết hấp dẫn đầy ắp chất trinh thám (Âm binh và lá ngón, Huyết ngọc). Tôi đã
đọc gần như hết các truyện ngắn của Tống Ngọc Hân. Mỗi lần đọc được một truyện
nào in báo của chị tôi đều nhắn tin chia sẻ, chúc mừng. Có lần tôi nói vui với
đồng nghiệp: Hai cây bút nữ họ Tống (Tống Ngọc Hân ở Lào Cai và Tống Phú Sa ở
Hà Tĩnh) đều nằm trong “tầm ngắm” và sự “đeo bám” của tôi về chuyên môn. Một lần
nhà văn Nguyên An viết Bạn đã đọc Tống Ngọc Hân rồi chứ? để giới thiệu
tập truyện ngắn Đêm không bóng tối của chị (do nhà xuất bản Hà Nội ấn
hành). Tôi chia sẻ với đồng nghiệp khi ông viết: “Truyện của Tống Ngọc Hân đầy ứ,
đầy tràn những nỗi đời (…). Người từng trải thì chắc là không sống một chiều được”.
Tôi cứ nhình dung đây là người viết mà cuộc đời nhiều quăng quật hơn ai hết
trong cùng trang lứa. Nên nhiều trải nghiệm. Phần đắng đót nhiều hơn phần ưu
ái. Ít được cuộc đời chiều chuộng nên tìm đến văn chương để tự an ủi mình. Nỗi
buồn nhiều hơn niềm vui nhưng thấy không hề rơi vào bi lụy. Nhưng sớm an nhiên,
tự tại. Tức là nhiều nỗ lực vượt lên cảnh ngộ và số phận. Bây giờ mà gặp thì thấy
chị cứ bình thản như không. Ngòi bút cứ ào ạt tuôn chảy. Đôi lúc tôi cứ vân vi
mà nghĩ, Tống Ngọc Hân bươn chải mưu sinh như thế, lấy đâu thời gian để viết?
Không hiểu chị viết vào lúc nào? Trong bài viết của nhà văn Nguyên An mà tôi vừa
dẫn ra ở trên, có nói đến “giọng điệu” của Tống Ngọc Hân. Đúng rồi! Với một cây
bút mới xuất hiện trên văn đàn, nếu đem đến một giọng mới, thì đó là dấu hiện
đáng mừng. Không gì đáng buồn hơn người đó lập tức bị lẫn vào đám đông người viết
xuất hiện ồ ạt bởi họ cứ thế bước ào vào văn chương, chưa bao giờ dễ dàng như
bây giờ. Giọng của Tống Ngọc Hân có sắc thái nào vậy? Đọc kỹ những truyện kiểu
như Đêm không bóng tối, theo tôi, sẽ nghiệm ra được giọng điệu của Tống Ngọc
Hân. Để độc giả hình dung rõ hơn cái chất giọng của ngòi bút nữ này tôi xin nhắc
lại một ý của nhà văn Nguyên An để chúng ta cùng suy ngẫm: “Đôi khi ta như
không rõ những chuyện trong truyện ngắn của chị là ở thời nào nữa”. Có nghĩa là
những câu chuyện được nhà văn kể ra là ở đây, là ở kia; là lúc này hoặc lúc
khác; là với anh hoặc với tôi,…đều đúng cả. Nghĩa là nhà văn thường “ướm mình”
vào nhân vật mà kể chuyện. Nên đa số trường hợp là thành thực. Cái giọng
nhẩn nha, không đi đâu mà vội (kiểu như người ta nói “Hà Nội không vội được
đâu”) khiến đôi khi độc giả có thể sốt ruột dẫu cho đang đọc truyện ngắn, cái
giọng giãi bày mưu cầu một sự chia sẻ, rất rõ trong văn Tống Ngọc Hân, kiểu
như: “Người ta bảo giàu con út khó con út, nàng thấy cái giàu không đến lượt
nàng, nhất là từ khi chồng nàng bị bạo bệnh rồi qua đời”. Người con gái có tên
là “nàng” đã gồng mình lên để nâng đỡ mẹ chồng khi bà bị mắc bệnh hoang tưởng,
đêm đêm không ngủ và đập phá bất cứ thứ gì. Con cái cật ruột trong nhà đều lẩn
tránh trách nhiệm. Chỉ có “nàng” nhận đón mẹ chồng về buồn vui, sướng khổ có
nhau. Có cảm giác như Tống Ngọc Hân chỉ kể chuyện mình: “Nàng biết, mẹ sẽ không
bao giờ còn cơ hội trở về những nơi mẹ đã ra đi. Trọng trách đã đặt lên
vai nàng, nàng sẽ phải gánh, nàng đâu còn chồng để dọa ly hôn, nàng đâu còn có
cửa hàng để ôm gối ra ngủ.
Sẽ còn chỉ có mình nàng đối diện với căn bệnh hoang tưởng trầm trọng của mẹ thôi. Người đàn bà sinh ra nàng nghẹn ngào trong nước mắt vì xót thương con gái”. Nhân vật “nàng” trong truyện có cái phẩm tính tận hiến như chính tác giả vậy. Tôi có cái cảm giác ấy khi đọc văn Tống Ngọc Hân: “Nàng ôm chặt lấy mẹ từ phía sau. Hình như ngoài cơn run sợ vì những bóng ma, cơ thể mẹ còn một cơn run rẩy khác. Rất lạ, rất đỗi nhẹ nhàng, ấm áp mà nàng thấy vô cùng hạnh phúc khi được đón nhận”. Đúng thế chăng? Tống Ngọc Hân tuy còn trẻ nhưng đã đủ thăng trầm để viết về những kiếp người, về những nỗi đoạn trường, về những bể dâu đời người, về những sự đời nước mắt soi gương. Chị viết như thể đã ở cung bậc nửa đời ngoảnh lại, nửa đời nhìn lại. Ai đó nói quá đi người này dường như không có tuổi thơ. Tôi thấy đúng!
Sẽ còn chỉ có mình nàng đối diện với căn bệnh hoang tưởng trầm trọng của mẹ thôi. Người đàn bà sinh ra nàng nghẹn ngào trong nước mắt vì xót thương con gái”. Nhân vật “nàng” trong truyện có cái phẩm tính tận hiến như chính tác giả vậy. Tôi có cái cảm giác ấy khi đọc văn Tống Ngọc Hân: “Nàng ôm chặt lấy mẹ từ phía sau. Hình như ngoài cơn run sợ vì những bóng ma, cơ thể mẹ còn một cơn run rẩy khác. Rất lạ, rất đỗi nhẹ nhàng, ấm áp mà nàng thấy vô cùng hạnh phúc khi được đón nhận”. Đúng thế chăng? Tống Ngọc Hân tuy còn trẻ nhưng đã đủ thăng trầm để viết về những kiếp người, về những nỗi đoạn trường, về những bể dâu đời người, về những sự đời nước mắt soi gương. Chị viết như thể đã ở cung bậc nửa đời ngoảnh lại, nửa đời nhìn lại. Ai đó nói quá đi người này dường như không có tuổi thơ. Tôi thấy đúng!
Nhà
văn Chu Thị Minh Huệ nổi lên sau Cuộc thi truyện ngắn 2011-2012 của tuần
báo Văn nghệ, với Giải Ba. Tập truyện ngắn Bông dẻ đẫm sương (2013)
đã định vị tên tuổi của cây bút nữ này. Hà Giang có thêm một nhà văn. Làng truyện
ngắn có thêm một tác giả khiến độc giả kỳ vọng, để thấy văn chương không lâm
nguy. Để thấy văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn, chính là “mặt tiền” của văn
chương đổi mới. Để thế hệ 8x đông đảo thêm đội ngũ. Trong đợt kết nạp hội viên
mới của Hội NVVN năm 2015, có ba nhân vật nữ tôi rất quan tâm là Chu Thị Minh
Huệ, Phạm Phú Uyên Châu (tức Meggie Phạm) và Nguyễn Thị Kim Hòa. Một lần nữa
thêm bằng chứng để nói về một “nền văn chương mang gương mặt nữ”. Nhưng nếu
Meggie Phạm điệu đàng, gần với lối văn của Tự lực văn đoàn xa ngái, với 5 tập
truyện dài bán rất chạy, nếu Nguyễn Thị Kim Hòa chỉn chu, cẩn trọng và tinh tế
thì Chu Thị Minh Huệ, theo tôi, lại rất phóng khoáng, hào hiệp, mạnh mẽ, đôi
khi như là “dương tính”, kiểu như Hồng Trần. Văn của Chu Thị Minh Huệ
giàu cảm hứng đương đại. Mạnh mẽ, gai góc, đi đến tận cùng. Không sao! Nó thuộc
về “tạng văn”. Cái gọi là “dương tính” trong văn chương nữ thì độc giả đã thấm
thía từ các cây bút văn xuôi trẻ như Đỗ Hoàng Diệu, Thủy Anna,…Nhân vật nữ
trong truyện ngắn Chu Thị Minh Huệ thường lắm “thân phận”, ít ai suôn sẻ, mà
thường thăng trầm, bĩ cực. Có thái lai nhưng phải trả giá, qua một “khổ nạn
đích lịch trình”. Văn Chu Thị Minh Huệ là lối văn có tốc độ, đầy ắp sự kiện, có
thể do ảnh hường của “báo” chăng? Trong số những tên tuổi nữ viết truyện ngắn gần
đây được dư luận chú ý có Tống Ngọc Hân (Lào Cai), Tống Phú Sa (Hà Tĩnh), Chu
Thị Thu Hằng (Hà Nội), Cao Nguyệt Nguyên (Quảng Ninh), Nguyễn Thị Kim Hòa (Ninh
Thuận), Vũ Thanh Lịch (Ninh Bình)…Chu Thị Minh Huệ (Hà Giang) có một phong vị
riêng. Tôi gọi đó là phong vị của hạt dẻ. Chẳng biết có đẫm sương rồi mới lên
hương thơm hay không, nhưng vị bùi, ngọt thì đã rõ.
Hà Nội, 7/2016
BÙI VIỆT THẮNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét